Tông Thư Mulieris Dignitatem – Phẩm Giá Của Người Phụ Nữ — Phần II

0
1738


 

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Tông Thư Mulieris Dignitatem

(Phẩm Giá Của Người Phụ Nữ)

Ban hành ngày 15.08.1988

VỀ PHẨM GIÁ VÀ ƠN GỌI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ

 

Bản dịch của LM. Augustino Nguyễn Văn Trinh

(trích từ: Huấn quyền về Đức Maria, NXB Tôn giáo 2007, trang 243-330)

 

 

V. ĐỨC GIÊSU KITÔ

“Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với người phụ nữ”

12. Các lời Tiền Tin Mừng trong sách Sáng Thế giúp chúng ta bước vào bình diện Tin Mừng. Việc cứu độ loài người đã được loan báo trong các lời đó nay trở thành hiện thực nơi con người và sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, nhờ đó chúng ta khám phá được thực tại của ơn cứu độ mang ý nghĩa gì đối với phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ. Ý nghĩa này xuất hiện rõ ràng trong lời và thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, một thái độ đơn thuần, nhưng rất khác thường trong thời đại của Người: một thái độ mang đậm nét sâu xa và sáng tỏ.

Nhiều phụ nữ xuất hiện trên bước đường sứ vụ của Đức Giêsu thành Nazareth, và cuộc gặp gỡ của Người với từng bà là một xác nhận “đời sống mới” theo Tin Mừng mà chúng ta đã nói tới.

Mọi người đều chấp nhận – kể cả những người có lập trường phê phán Tin Mừng Kitô giáo – đối với những người đồng thời, Đức Kitô đã trở thành trạng sư bênh vực phẩm giá đích thực của người phụ nữ và ơn gọi phù hợp với phẩm giá đó. Điều này gây bất ngờ và thán phục, nhưng đôi khi cũng gây cớ vấp phạm: “Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ” (Ga 4,27); vì thái độ này rất lạ lẫm đối với người thời đại. Các môn đệ của Người cũng kinh ngạc. Khi người đàn bà tội lỗi bước vào nhà người Pharisêu để xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu, ông ta nghĩ: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biểt rõ người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7,39). Khi nghe Chúa Giêsu nói: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31), những thính giả tự mãn đã bực tức và “phẫn nộ vì sự thánh thiện”.

Đấng đã nói và hành động như thế, cho thấy rõ Người thấu hiểu các “mầu nhiệm Vương Quốc”. Chính Người “biết có gì trong lòng con người” (Ga 2,25), trong thâm sâu, trong “tâm tư” của họ. Người là chứng nhân kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa về việc con người có nam có nữ, nhờ Người mà được tạo dựng theo hình ảnh và giống Ngài. Người cũng ý thức rõ ràng các hậu quả của tội lỗi, về “mầu nhiệm sự dữ” đang làm xáo trộn hình ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn con người. Việc tranh luận quan trọng về hôn nhân và đặc tính bất khả phân ly của hôn nhân giữa Chúa Giêsu với các thầy “thông luật” mang nhiều ý nghĩa, khi Người viện dẫn về “lúc khởi đầu!”. Vấn nạn được đưa ra về quyền của người đàn ông “có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19,3), nhưng cũng đụng đến quyền của người phụ nữ, đến vị trí đúng đắn của họ trong hôn nhân, đến phẩm giá của họ. Những người đối thoại với Chúa Giêsu dựa theo luật lệ của Môisê đang thịnh hành trong Israel: “Thế sao ông Môisê lại truyền cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt 19,7). Chúa Giêsu trả lời: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môisê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Chúa Giêsu nại đến “thuở ban đầu”, đến việc tạo dựng con người có nam có nữ và vào trật tự của Thiên Chúa đặt nền tảng cho cả hai được tạo dựng theo hình ảnh và giống Ngài. Chính vì thế, khi người đàn ông “lìa cha mẹ mình” mà gắn bó với vợ mình, để cả hai trở thành một xương một thịt, thì lề luật nền tảng này của Thiên Chúa vẫn luôn có giá trị: “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

Luật nền tảng cho “Ethos – Luân lý” này được xác định ngay lúc khởi đầu sáng tạo, giờ đây được Đức Kitô xác nhận, chống lại truyền thống kỳ thị người phụ nữ. Trong truyền thống này, người đàn ông “thống trị” không đếm xỉa gì đến người phụ nữ và phẩm giá của họ, mà “luân lý” của sáng tạo đặt nền tảng cho những liên hệ hỗ tương của hai nhân vị kết hợp trong hôn nhân. “Luân lý” này được lời của Đức Kitô gợi lại và củng cố: đó là “luân lý” của Tin Mừng và của ơn cứu độ.

Các phụ nữ trong Phúc Âm

13. Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy có một số đông phụ nữ thuộc nhiều lứa tuổi và hoàn cảnh khác nhau. Có những phụ nữ bệnh tật, đau đớn trong thân xác, như bà “bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13,11), hay bà mẹ vợ của ông Phêrô “lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30), hay là người đàn bà “bị loạn huyết mười hai năm”, không được phép đụng chạm đến ai, vì sự đụng chạm của bà sẽ làm cho người ta ra ô uế (x. Mc 5,25-34). Mỗi phụ nữ trong số các người này đều được cứu chữa, và bà cuối cùng (bị loạn huyết) chạm đến áo Chúa Giêsu “giữa đám đông” (Mc 5,27) được Người khen ngợi vì lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Con gái của ông Giarô được Chúa Giêsu cho sống lại bằng một lời đầy tình thương: “Này bé, Thầy truyền cho em: trỗi dậy đi!” (Mc 5,41). Còn bà góa thành Naim, vì Chúa Giêsu động lòng thương, đã cho con trai duy nhất của bà được sống lại: “Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Cuối cùng là người đàn bà thành Canaan, một người đàn bà với tình mẫu tử đầy niềm tin, khiêm tốn và quảng đại, đã được Chúa Giêsu công nhận cách đặc biệt: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28). Bà này van xin Chúa cứu chữa cho con gái của bà.

Những người phụ nữ gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận nhiều ân sủng vĩ đại của Người, tháp tùng Người, khi Người cùng với các môn đệ rảo qua các thành phố và các làng mạc để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa; “các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Phúc Âm nêu danh tánh của họ, trong đó có bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Herôđê, bà Susanna và “nhiều bà khác nữa” (x. Lc 8,1-3).

Đôi khi bóng dáng người phụ nữ cũng xuất hiện trong các dụ ngôn được Đức Giêsu thành Nazareth sử dụng để nói về Nước Thiên Chúa cho các thính giả của mình, như dụ ngôn về đồng tiền bị thất lạc (x. Lc 15,8-10), về nắm men (x. Mt 13,32), về các cô thiếu nữ khôn ngoan và khờ dại (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt nhất là trình thuật về đồng tiền kẽm của bà góa nghèo. Trong khi “những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền (…), một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”. Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết (…); còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống” (Lc 21,1-4). Đức Giêsu đặt bà làm gương cho mọi người và bênh đỡ bà, chỉ vì trong hệ thống xã hội và luật lệ vào thời đó, các bà góa không được ai bảo vệ cả (x. Lc 18,1-7).

Trong tất cả giáo huấn cũng như thái độ của Đức Giêsu, chúng ta không thấy kỳ thị nào đối với phụ nữ, là điều rất phổ biến trong thời đại Người. Ngược lại, lời nói và hành động của Người đều toát lên sự tôn trọng và đề cao người phụ nữ cách xứng đáng. Người đàn bà còng lưng được Người gọi là “con gái của Abraham” (Lc 13,16) trong khi tước hiệu này (dưới hình thức “con Abraham”) trong toàn bộ Thánh Kinh chỉ dành cho người đàn ông. Trên đường khổ nạn lên Golgotha, Đức Giêsu nói với các người đàn bà: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc tôi làm gì!” (Lc 23,28). Cách nói về người phụ nữ và với người phụ nữ, cũng như cách tiếp xúc với họ biểu lộ một cái gì “hoàn toàn mới” so với phong tục thời đó.

Điều này lại càng nổi bật hơn nơi các phụ nữ bị người đời khinh chê như các bà tội lỗi, đỉ điếm và ngoại tình. Như người đàn bà xứ Samarie được tiếp xúc với Đức Giêsu; Người nói: “Chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Khi bà ta thấy Người thấu rõ những điều sâu kín của cuộc đời mình, đã công nhận Người là Đấng Messias và vội vã công bố cho những người đồng hương biết. Cuộc đối thoại đi trước nhận thức này thuộc về những đoạn đẹp nhất trong Phúc Âm (x. Ga 4,7-27).

Một bà tội lỗi công khai, dù bị mọi người kết án, vẫn bước vào nhà người Pharisêu, để xức dầu thơm vào chân Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với người đàn bà trước vị chủ nhà đang khó chịu vì thái độ này: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (x. Lc 7,37-47).

Cuối cùng là trường hợp nổi bật nhất trong các cuộc tiếp xúc này: người ta đem đến cho Đức Giêsu một người đàn bà bị i bắt tại trận đang phạm tội ngoại tình. Đức Giêsu trả lời cho câu hỏi “Trong sách Luật, ông Môisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chân lý nằm trong câu trả lời này thật mạnh mẽ, đến độ “họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Chỉ còn Đức Giêsu và người đàn bà ở lại. “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” – “Thưa ông, không ai cả!” – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”(Ga 8,3-11).

Các mẩu chuyện trên đây tạo thành một bức tranh tổng hợp thật trong sáng. Đức Kitô là Đấng “biết có gì trong lòng con người”, trong người nam cũng như nơi người nữ. Người biết phẩm giá con người, giá trị của họ trước mặt Thiên Chúa. Người là Đấng Cứu độ, là sự xác nhận cuối cùng của giá trị này. Thái độ của Đức Giêsu đối với các phụ nữ mà Người gặp trên đường phục vụ cứu độ, phản ánh kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng từng người, tuyển chọn và yêu mến họ trong Đức Kitô (x. Ep 1,1-5). Vì thế mỗi người nữ là “thụ tạo độc đáo được Thiên Chúa muốn vì chính họ”. Mỗi người nữ “ngay từ ban đầu” lãnh nhận phẩm giá nhân vị là phụ nữ. Đức Giêsu thành Nazareth xác nhận phẩm giá này, gợi lại, canh tân và tạo phẩm giá này thành nội dung của Tin Mừng và của ơn cứu độ, vì chính điều này mà Người được sai đến trần gian. Chúng ta phải đặt từng lời của Đức Kitô khi tiếp xúc với phụ nữ và từng cử chỉ của Người trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ với cách thức đó chúng ta mới có thể thấy hết ý nghĩa của chúng.

Người đàn bà bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình

14. Đức Giêsu thông cảm hoàn cảnh cụ thể của người phụ nữ, hoàn cảnh bị di sản tội lỗi hành hạ. Di sản này xuất hiện qua các tập tục kỳ thị phụ nữ để tôn vinh người đàn ông; điều này ăn sâu vào người phụ nữ. Dưới cái nhìn này, câu chuyện về người đàn bà “bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8,3-11) mang đặc tính thuyết phục. Vào lúc cuối, Đức Giêsu nói với bà ta: “Từ nay đừng phạm tội nữa”; nhưng trước đó Người gợi lên ý thức tội lỗi nơi những người đàn ông đang tố cáo bà, chỉ muốn ném đá bà cho chết; đồng thời Người cho thấy mình có khả năng nhìn thấu lương tâm và hành động con người. Gần như Đức Giêsu muốn nói với những người tố cáo: người đàn bà này với tất cả tội lỗi của mình có phải là chứng cứ cho sự vi phạm lề luật của các ông, sự bất công của “giới đàn ông”, sự lạm dụng của các ông đó không?

Sự thật này có giá trị cho toàn thể nhân loại. Sự kiện được tường trình trong Phúc Âm thánh Gioan cũng có thể thấy trong vô số hoàn cảnh tương tự như thế trong mọi thời đại. Một người đàn bà bị bỏ rơi một mình, bị trình diện trước công chúng với “tội lỗi” của bà, trong khi đó sau lưng tội của bà còn có một người đàn ông là tội nhân, can dự “tội người khác”, đồng trách nhiệm vào tội lỗi này. Thế mà, tội của ông ta không được mọi người chú ý, được lặng lẽ bỏ qua: hình như ông ta không có trách nhiệm gì với “tội của kẻ khác”! Đôi khi ông lại trở thành nguyên cáo như trong câu chuyện này và dễ dàng quên đi tội lỗi của mình. Biết bao lần người phụ nữ phải bị đền tội theo cách thức đó (có thể trong nhiều trường hợp người phụ nữ cũng can dự vào tội của người đàn ông); nhưng chỉ có bà phải đền tội và trả giá một mình. Đã biết bao lần người phụ nữ bị bỏ rơi với chức vụ làm mẹ của mình; trong khi người đàn ông, cha của đứa bé, không muốn mang lấy trách nhiệm? Bên cạnh không biết bao nhiêu “bà mẹ độc thân” trong xã hội, chúng ta cũng phải nghĩ đến tất cả chị em dưới áp lực nào đó cả về phía người đàn ông phạm tội, phải “bỏ” con của họ trước khi được sinh ra đời. Họ “tự giải thoát cho họ”: nhưng với giá nào đây? Ý kiến thời đại tìm mọi cách để đừng nói đến điều xấu của tội này, nhưng thường lương tâm của người phụ nữ không thể nào quên được, chính bà đã cướp đi mạng sống của con mình, chỉ vì bà không có khả năng bôi xóa “luân lý” đã được khắc ghi từ lúc ban đầu để đón nhận sự sống.

Thái độ của Đức Giêsu trong sự kiện được trình bày trong chương 8 Phúc Âm thánh Gioan (8,3-11) rất có ý nghĩa. Chỉ trong một số ít đoạn, Người tỏ lộ quyền lực của Người – quyền lực của sự thật – đối với lương tâm con người. Đức Giêsu bình thản, trầm lặng và suy tư. Nơi đây cũng như trong cuộc đối thoại với những người Pharisêu (x. Mt 19,3-9) lại không có sự liên hệ giữa ý thức của Người với mầu nhiệm “thuở ban đầu” hay sao? khi con người được tạo dựng có nam có nữ và người phụ nữ được tạo dựng với những điểm đặc thù của phụ nữ cũng như khả năng làm mẹ, được trao phó cho người đàn ông hay sao? Cả người đàn ông cũng được Đấng Sáng Tạo trao phó cho người đàn bà. Họ được trao phó cho nhau như những nhân vị, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Mức độ tình yêu được đánh giá theo mức độ của việc trao phó này, đó là tình yêu hôn nhân: để trở thành việc “hiến thân vô vị lợi” cho nhau, cả hai người phải ý thức về trách nhiệm của việc hiến dâng này. Mức độ tình yêu đã được xác định cho cả hai – người nam và người nữ – ngay từ “ban đầu”. Sau khi phạm nguyên tội, những sức lực đối kháng hoành hành trong người nam cũng như người nữ, theo theo dục vọng có ba mặt, là “mầm mống của tội lỗi”. Những sức lực đối kháng này tác động từ thâm tâm con người. Vì thế, Đức Giêsu đã nói trong Bài Giảng trên núi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Những lời này trực tiếp nói với người đàn ông cho thấy chân lý nền tảng về trách nhiệm của ông ta đối với người phụ nữ: về phẩm giá, chức vụ làm mẹ và ơn gọi của người phụ nữ. Gián tiếp các lời này nói với người phụ nữ. Đức Kitô đã làm hết khả năng của mình, để người phụ nữ – trong phong tục và tương quan xã hội vào thời đó – tìm lại được nhân vị và phẩm giá của họ trong giáo huấn và thái độ của Người. Căn cứ vào ý định của Thiên Chúa về “sự hợp nhất giữa hai người”, phẩm giá này trực tiếp thuộc về người phụ nữ như chủ thể mang trách nhiệm cho chính mình và đồng thời cho người đàn ông như trách nhiệm. Do đó, Đức Kitô kêu gọi trách nhiệm của người đàn ông. Trong bài suy niệm về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ hôm nay, phải quy chiếu về cách đặt vấn đề mà chúng ta đã đọc được trong Phúc Âm.

Phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ – cũng như của người đàn ông – có nguồn gốc vĩnh cửu trong tình yêu Thiên Chúa và gắn chặt vào “sự hợp nhất giữa hai người” trong những điều kiện thời đại của hiện sinh con người. Vì thế mỗi người đàn ông cần phải nhận thức rõ ràng những người phụ nữ được Thiên Chúa trao phó cho mình như chị em trong cùng nhân vị, như hôn thê và vợ, trong tâm tư mình có thể trở thành đối tượng cho việc ngoại tình hay không, những người phụ nữ cùng đồng hiện hữu với mình theo nhiều cách thức trong trần gian có bị trở thành “đối tượng” hay không: đối tượng để hưởng thụ, để bóc lột.

Những người phụ nữ bảo vệ sứ điệp Tin Mừng

15. Hành động và lời nói của Đức Giêsu làm nổi bật tính cách hoạt động của Người, đó là một sự phản kháng chống lại mọi xúc phạm đến phẩm giá người phụ nữ. Vì thế, các người phụ nữ thường tiếp xúc với Đức Kitô khám phá ra những chân lý Người dạy và thực hiện, dù đó là sự thật về tình trạng tội lỗi của các bà. Họ cảm thấy nhờ sự thật này mà mình được giải phóng, được trở về chính mình: họ cảm thấy được yêu với “tình yêu vĩnh cửu”, một tình yêu nổi bật trong Đức Kitô. Trong môi trường hoạt động của Đức Kitô, vị trí xã hội của họ được thay đổi. Họ cảm nhận được Đức Giêsu nói với họ về những vấn đề mà trong thời đại đó người ta ít trao đổi với phụ nữ. Một thí dụ nổi bật về điều này có lẽ là cuộc đối thoại với một bà vùng Samari bên bờ giếng Giacóp ở Sychar. Đức Giêsu biết rõ bà là một kẻ tội lỗi và cũng nói với bà điều này, nhưng Người vẫn nói với bà về những mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa. Người nói với bà về quà tặng vô giá của tình yêu Thiên Chúa, giống như “mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Người nói với bà về Thiên Chúa, Đấng là Thần Khí, và về việc tôn thờ đích thực trong tinh thần và trong chân lý dành cho Thiên Chúa là Cha (x. Ga 4,24). Cuối cùng, Người mạc khải cho bà biết chính Người là Đấng Messias được Thiên Chúa hứa ban cho Israel (x. Ga 4,26).

Đây là biến cố chưa từng xảy ra: một người phụ nữ, lại còn là một kẻ tội lỗi, trở thành “nữ môn đệ” của Đức Kitô; sau khi nhận ra Người, bà loan báo về Đức Kitô cho dân thành Samari và họ đã tin Người (x. Ga 4,39-42). Đây là một biến cố chưa từng xảy ra, nếu như chúng ta so sánh thái độ của các thầy thông luật trong Israel đối xử cách chung với các phụ nữ, trong khi đó cách đối xử của Đức Giêsu thành Nazareth lại là một sự kiện thông thường. Cũng trong liên hệ này nên nhắc đến hai chị em của Lazarô: “Đức Giêsu quý mến cô Matta, cùng hai người em là cô Maria và anh Lazarô” (Ga 11,5). Maria chăm chú nghe Đức Giêsu: nhưng khi thấy Matta tất bậc lo việc phục vụ, Người cho thái độ của Maria là “tốt nhất” (x. Lc 10,38-42). Trong lần gặp gỡ khác – sau khi Lazarô chết – Đức Kitô nói chuyện với Matta; trong cuộc trao đổi này, Chúa đề cập đến những chân lý sâu xa về mạc khải và đưc tin. “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” – “Em chị sẽ sống lại” – “Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Đức Giêsu trả lời: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” – “Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. (Ga 11,21-27). Sau việc tuyên xưng đức tin, Đức Giêsu làm cho Lazarô sống lại. Cuộc đối thoại với Matta là một trong những cuộc đối thoại quan trọng nhất của Phúc Âm.

Đức Kitô nói với các phụ nữ về Thiên Chúa và họ đã hiểu Người: một sự đón nhận của tâm hồn và lý trí, một lời đáp trả của đức tin. Trước lời đáp trả “mang tính nữ giới”, Đức Giêsu cho thấy sự đánh giá cao và kinh ngạc, như trong trường hợp bà Canaan (x. Mt 15,28). Đôi khi Người đem đức tin sống động đầy tình yêu ra làm gương mẫu: Người lấy lời đáp trả xuất phát từ tinh thần và con tim của một phụ nữ làm khởi điểm cho lời rao giảng của mình. Như trường hợp “người đàn bà tội lỗi” trong nhà người Pharisêu, Đức Giêsu lấy hành động cùa bà làm khởi điểm nói lên chân lý về việc tha thứ tội lỗi: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến (tôi) nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47). Trong một lần xức dầu khác, Đức Giêsu bảo vệ người phụ nữ và hành động của chị trước mặt các môn đệ, đặc biệt là Giuđa: “Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho Thầy một việc nghĩa (…). Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy để mai táng Thầy đấy. Thầy bảo thật anh em: khắp thế gian, Tin Mừng này được loan báo ở đâu, người ta cũng kể lại việc cô ấy vừa làm mà nhớ tới cô”(Mt 26,6-13).

Thực vậy, các sách Phúc Âm không những tường thuật điều người phụ nữ thành Betania đã làm trong nhà ông Simon bị bệnh phong, nhưng còn làm nổi bật sự kiện là chỉ có các bà hiện diện dưới chân thập giá trong giây phút thử thách quyết định cuối cùng và trọn vẹn cho sứ vụ Messias của Đức Giêsu thành Nazareth. Trong số các Tông đồ, chỉ có thánh Gioan là người trung thành, còn phụ nữ thì nhiều. Ngoài mẹ của Đức Kitô, “chị của bà thân mẫu, vợ ông Clôphát và bà Maria thành Magdala” (Ga 19,25), còn có “nhiều người phụ nữ nhìn xem từ đàng xa; các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người” (Mt 27,55). Trong thử thách nặng nề về đức tin và sự trung thành, như chúng ta thấy, các người phụ nữ mạnh mẽ hơn các môn đệ, trong giây phút nguy hiểm này tình yêu đã giúp họ chiến thắng sự sợ hãi. Ngay trên con đường thập già cũng có mặt những người phụ nữ “các bà vừa đấm ngực vừa than khóc Người” (Lc 23,27). Trước đó nữa bà vợ ông Philatô đã cảnh cáo chồng mình: “Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, trong chiêm bao, tôi đã khổ nhiều vì ông ấy” (Mt 27,19).

Những chứng nhân đầu tiên của cuộc Phục sinh

16. Ngay khi Đức Kitô khởi đầu sứ vụ, người phụ nữ đã chú tâm đến Người và nhạy cảm với mầu nhiệm của Người, phù hợp với đặc tính nữ giới của họ. Điều này càng thấy rõ nơi mầu nhiệm Vượt qua, không những dưới chân thập giá, nhưng ngay ở buổi sáng ngày Phục sinh. Các bà là những người đầu tiên đến bên mộ. Họ là những người đầu tiên nhìn thấy mộ trống. Họ là những người đầu tiên được nghe những lời loan báo: “Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói” (Mt 28,6). Họ là những người đầu tiên ôm lấy chân Chúa (x. Mt 28,9). Họ là những người đầu tiên được trao trách nhiệm loan báo sự thật này cho các môn đệ (x. Mt 28,1-10; Lc 24,8-11). Phúc Âm thánh Gioan (so với Mc 16,9) làm nổi bật vai trò của bà Maria thành Magdala. Bà là người đầu tiên được gặp Đức Kitô phục sinh. Trước đó bà nhận lầm Người là ông giữ vườn; nhưng nhận ra Người khi Người gọi tên bà. “Đức Giêsu gọi bà: Maria! bà quay lại và nói bằng tiếng Hipri: “Rabbuni!” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em!”. Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà” (Ga 29,16-18).

Vì thế, người ta đã gọi bà là “tông đồ của các Tông đồ” [38]. Trước cả các Tông đồ, bà Maria Magdala là chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô phục sinh và vì thế là người đầu tiên làm chứng cho Người trước mặt các Tông đồ. Theo nghĩa nào đó, biến cố này như đỉnh cao cho những gì đã nói bên trên về việc Đức Kitô đã trao phó mầu nhiệm Thiên Chúa cho các phụ nữ – cũng như cho các ông. Chúng ta có thể nói rằng, lời các tiên tri đã ứng nghiệm: “Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ” (Ge 3,1). Năm mươi ngày sau cuộc phục sinh, những lời này lại được xác nhận nơi phòng Tiệc ly tại Giêrusalem lúc Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, ngự xuống (x. Cv 2,17).

Tất cả những gì nói về thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ bây giờ được xác nhận và soi sáng trong Thánh Thần chân lý triệt để về “sự bình đẳng” của cả hai – đàn ông và đàn bà. Vì cả hai – nam và nữ – đều được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, nên cả hai có cùng khả năng đón nhận quà tặng thần linh và tình yêu trong Thánh Thần. Cả hai đón nhận “việc thăm viếng” mang ơn cứu độ và thánh hiến.

Sự kiện là nam hay nữ không tạo một rào cản nào; như lời Thánh Tông đồ, hoạt động cứu độ và thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong con người cũng không bị giới hạn, vì “không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do… Vì tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28). Sự hợp nhất này loại bỏ mọi sự khác biệt. Chúa Thánh Thần tạo ra sự hợp nhất này trong trật tự siêu nhiên, cũng làm cho “con cái các ngươi thành ngôn sứ” trong cùng một mức độ, kể cả “con gái của các ngươi”. Ngôn sứ dùng lời nói và đời sống của mình để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (x. Cv 2,11) trong khi vẫn bảo vệ chân lý và nét đặc thù của cá nhân là nam hay nữ. Sự “bình đẳng” theo Tin Mừng, sự “bình quyền” giữa nam và nữ trước những kỳ công của Thiên Chúa, như những kỳ công này bộc lộ rõ ràng trong hoạt động và lời nói của Đức Giêsu thành Nazareth, tạo thành nền tảng hiển nhiên nhất cho phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ trong Hội Thánh và trong xã hội. Mỗi ơn gọi đều mang tính chất cá nhân và ngôn sứ sâu xa. Hiểu ơn gọi như thế, nữ tính trong một cá nhân sẽ đạt được chiều kích “các kỳ công của Thiên Chúa” mà người phụ nữ là chủ thể sống động và là chứng nhân không thể thay thế được.

VI. CHỨC VỤ LÀM MẸ – SỰ ĐỒNG TRINH

Hai chiều kích trong ơn gọi của người phụ nữ

17. Bây giờ chúng ta hướng suy niệm về sự đồng trinh và chức làm mẹ, hai chiều kích đặc biệt tạo thành nhân cách nữ giới. Dưới ánh sáng Tin Mừng, hai chiều kích này tìm được ý nghĩa trọn vẹn và giá trị của mình trong Đức Maria, Đấng đã trở thành Mẹ đồng trinh của Con Thiên Chúa. Hai chiều kích của ơn gọi người phụ nữ được liên kết và hợp nhất trong Mẹ cách độc đáo, đến độ chiều kích này không loại bỏ chiều kích kia, ngược lại bổ túc nhau cách tuyệt vời. Trình thuật Truyền tin nơi Phúc Âm thánh Luca cho thấy chính Đức Maria cũng cảm thấy không thể thực hiện được. Khi nghe lời loan báo: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”, Đức Maria liền đáp: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Theo tự nhiên, chức vụ làm mẹ chỉ có thể là kết quả của “việc nhận biết” hỗ tương giữa người đàn ông và người đàn bà qua sự kết hợp trong hôn nhân. Đức Maria quyết tâm giữ đức đồng trinh đã đặt câu hỏi cho vị thiên sứ và nhận được lời giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”; chức vụ làm mẹ của bà không phải là hiệu quả của việc “kết hợp trong hôn nhân”, nhưng là công trình của Chúa Thánh Thần và “quyền năng Đấng Tối Cao” sẽ “rợp bóng” trên mầu nhiệm thụ thai và sinh hạ người Con. Đức Maria xác quyết sự đồng trinh của mình “Tôi không biết người đàn ông nào” (x. Lc 1,34), nhưng đồng thời đã trở thành mẹ. Sự đồng trinh và chức vụ làm mẹ kết hợp cùng một lúc nơi bà. Hai chiều kích không đối nghịch và cũng không ngăn cản nhau. Con người của Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta – đặc biệt là cho mọi người nữ – khám phá làm thế nào hai chiều kích này và hai con đường của ơn gọi người phụ nữ như nhân vị giải thích và bổ túc cho nhau.

Chức làm mẹ

18. Để tham gia vào việc “khám phá” này, một lần nữa chúng ta phải đào sâu chân lý về nhân vị con người mà Công đồng Vaticanô II đã gợi lại cho chúng ta. Con người – nam hay nữ – là thụ tạo duy nhất trên trần gian mà Thiên Chúa tạo dựng cho chính họ. Con người là một nhân vị, một chủ thể tự quyết định cho chính bản thân mình, đồng thời “chỉ thực hiện bản thân mình qua việc hiến thân cách vô vị lợi” [39]. Người ta nói rằng cách diễn tả này, theo nghĩa nào đó là một định nghĩa về nhân vị phù hợp với chân lý căn bản theo Thánh Kinh về việc tạo dựng con người – nam cũng như nữ – theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Đây không phải là một ý nghĩa thuần lý hay một định nghĩa trừu tượng, vì nó đem lại ý nghĩa sự hiện hữu của con người cách căn bản, khi nhấn mạnh đến giá trị của việc tự hiến cá nhân. Quan niệm nhân vị này ngầm chứa “luân lý” được triển khai cách đầy đủ trong các sách Khải Huyền, đặc biệt trong các sách Phúc Âm khi đặt liên hệ với chân lý sáng tạo.

Chân lý về con người khai lối để hiểu sâu xa hơn chức vụ làm mẹ của người phụ nữ. Chức vụ làm mẹ là hiệu quả của sự kết hợp trong hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mà Thánh Kinh gọi là “biết” như ở sách Sáng Thế: “Cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,24); với cách thức đó – về phía người đàn bà – việc “hiến dâng” cách đặc biệt như cách biểu lộ tình yêu hôn nhân, trong đó đôi vợ chồng gắn bó với nhau thật thâm sâu, để trở thành “một thịt”. Việc “biết” theo Thánh Kinh chỉ có thể hiện thực dựa theo chân lý về con người khi quà tặng chính mình cho nhau không do sự ham muốn của người đàn ông để trở thành “chủ” người đàn bà “Hắn sẽ thống trị bà”, cũng không do sự đòi hỏi theo bản năng nơi người đàn bà “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi” (St 3,16).

Việc trao ban con người của mình cho nhau trong hôn nhân được mở rộng ra cho quà tặng là một cuộc sống mới, một con người mới, cũng là con người theo hình ảnh của cha mẹ mình. Ngay từ đầu, chức vụ làm mẹ đã hàm chứa sự sẵn sàng đón nhận một con người mới: đó là vai trò thực sự của người phụ nữ. Trong sự sẵn sàng đón nhận và sinh con, “người phụ nữ hiến dâng chính mình cách vô vị lợi”. Quà tặng của việc sẵn sàng đón nhận và sinh con được liên kết chặt chẽ với sự kết hợp trong hôn nhân, – như đã nói – một giây phút đặc biệt cho việc dâng hiến cho nhau về phía người đàn ông và người đàn bà. Sự đón nhận và sinh hạ một con người mới, theo Thánh Kinh, luôn kèm theo một lời của “người đàn bà” và là “người mẹ”: “Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một người” (St 4,1). Tiếng reo mừng của bà Eva, mẹ chúng sinh, được lập lại mỗi lần có con người mới xuất hiện trên trần gian, biểu lộ niềm vui và ý thức của người phụ nữ, được chia sẻ vào mầu nhiệm thẳm sâu của việc sinh hạ vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa!

Chức làm mẹ của người phụ nữ giữa thời gian thụ thai và sinh hạ là một tiến trình sinh lý và tâm lý, mà ngày nay chúng ta hiểu rõ hơn hôm qua và trở thành đề tài học hỏi đang được đào sâu. Việc phân tích theo khoa học xác nhận cách đầy đủ cấu trúc thể lý của người phụ nữ; cơ thể của phụ nữ được xếp đặt cách tự nhiên để làm mẹ, để thụ thai, mang thai và sinh hạ con cái sau sự kết hợp hôn nhân với người đàn ông. Đồng thời, tất cả đều phù hợp với cấu trúc tâm sinh lý của người phụ nữ. Tất cả những gì các ngành khoa học khác nói về đề tài này đều quan trọng và hữu ích, nếu không hạn hẹp vào cách giải thích thể lý về người phụ nữ và chức vụ làm mẹ. Một hình ảnh “thu ngắn” như thế sẽ đưa đến cách giải thích duy vật quan niệm về con người và vũ trụ. Trong trường hợp như vậy thì thật đau buồn vì người ta đánh mất điều thiết yếu: chức làm mẹ như sự kiện và hiện tượng nhân bản chỉ có thể được giải thích trên nền tảng chân lý về con người mà thôi. Chức làm mẹ liên hệ với cấu trúc cá nhân của nữ giới, với chiều kích cá nhân của việc dâng hiến: “Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một con người” (St 4,1). Đấng Sáng Tạo ban tặng cho cha mẹ một người con. Về phía người phụ nữ, điều này liên kết cách đặc biệt với “việc hiến thân chính mình cách vô vị lợi”. Những lời của Đức Maria trong giây phút Truyền Tin: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, nói lên sự sẵn sàng của người nữ để hiến dâng và đón nhận một sự sống mói.

Trong chức vụ làm mẹ, liên kết với chức vụ làm cha của người đàn ông, phản ánh mầu nhiệm vĩnh cửu trong Thiên Chúa Ba Ngôi về sự sinh hạ (x. Ep 3,14-15). Việc sinh hạ về mặt con người đều do người nam và người nữ cùng chung với nhau. Khi người phụ nữ với tình yêu nói với chồng mình: “Em sẽ tặng anh một đứa con”, lời này có nghĩa: “Đó là đứa con của chúng ta”. Cho dù cả hai trở thành cha mẹ của đứa bé; nhưng chức làm mẹ của người đàn bà góp phần đặc biệt trong chức phụ mẫu chung này, một vai trò có nhiều đòi hỏi nhất. Chức làm cha làm mẹ thuộc về hai người, nhưng thuộc về người phụ nữ nhiều hơn, nhất là trong giai đoạn trước khi sinh. Người phụ nữ phải trực tiếp “trả giá” cho việc chung cùng mang đến một cuộc sống mới, sự trả giá này bắt người đàn bà phải tiêu hao sức lực thể xác lẫn tinh thần. Vì thế người đàn ông phải ý thức đầy đủ về món nợ đặc biệt đối với vợ mình trong chức vụ phụ mẫu của mình. Không một dự án “bình đẳng” giữa người nam và người nữ có giá trị, nếu như người ta không ý thức về trách nhiệm quyết định trong vấn đề này.

Chức làm mẹ mang một sự hiệp thông đặc biệt với mầu nhiệm sự sống, đang phát triển trong dạ mẹ: người mẹ luôn ngạc nhiên trước mầu nhiệm này và “đón nhận” với một bản năng độc đáo những gì đang diễn ra trong chính mình. Trong ánh sáng của “khởi nguyên”, người mẹ đón nhận người con đang mang trong dạ, như một nhân vị và yêu thương nó. Việc tiếp xúc duy nhất này với một con người mới đang hình thành, tạo cho người nữ một thái độ đúng đắn với con người – không những đối với đứa con, nhưng cách chung đối với mọi người – nhờ đó đặc tính của người nữ được nổi bật. Mọi người đều thấy rằng, người nữ có nhiều khả năng tôn trọng con người cụ thể hơn người đàn ông và chức làm mẹ đặt nền tảng để điều này triển khai tốt hơn. Người đàn ông – dù có tham gia vào chức phụ mẫu – luôn đứng “ngoài” tiến trình mang thai và sinh hạ đứa con, vì thế phải học hỏi nơi người mẹ “chức làm cha” của mình. Người ta có thể nói, đây là điều bình thường trong tiến trình phát triển tính phụ mẫu, cho dẫu sau này vẫn tiếp tục phát triển khi đứa con đã được sinh ra, nhất là trong những thời gian đầu. Nói cách chung, việc giáo dục con cái phải là trách nhiệm chung của cha mẹ: sự đóng góp của cha và mẹ. Tuy nhiên chính vai trò của người mẹ mới quyết định cho nhân cách của đứa con.

Chức làm mẹ trong liên hệ với Giao ước

19. Suy niệm của chúng ta quay về với nguyên mẫu của người phụ nữ trong Tiền Tin Mừng. Người “đàn bà” trong vai trò làm mẹ và là người giáo dục đầu tiên của con người (việc giáo dục là chiều kích tinh thần của chức phụ mẫu) có một ưu thế đặc biệt so với người đàn ông. Cho dù, chức làm mẹ, trước tiên về mặt thể lý, tùy thuộc vào người đàn ông, nhưng cũng mang một “dấu ấn” quyết định trên tiến trình hình thành nhân cách của những con trai, con gái mới mẻ của nhân loại. Chức làm mẹ của người phụ nữ trên bình diện thể lý hình như thụ động: tiến trình tạo một cuộc sống mới “diễn ra” trong cơ quan của người nữ, và gắn chặt vào cơ quan này. Đồng thời chức làm mẹ trên bình diện cá nhân và đạo đức làm nổi bật tính sáng tạo đầy ý nghĩa của người phụ nữ, mà nhân cách của con người mới hoàn toàn lệ thuộc vào đó. Trong ý nghĩa này, chức làm mẹ của người phụ nữ cho thấy một tiếng gọi đặc biệt và một thách thức đối với người đàn ông và chức làm cha của ông ta.

Nguyên mẫu của người phụ nữ theo Thánh Kinh đạt được đỉnh cao trong chức là mẹ của Mẹ Thiên Chúa. Những lời trong Tiền Tin Mừng “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà” được xác nhận cách mới mẻ ở đây. Thiên Chúa khai mở một giao ước mới với nhân loại trong Mẹ, vâng, trong tiếng “thưa vâng – Fiat” đầy tình mẫu tử (“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”). Đó chính là giao ước vĩnh cửu và dứt khoát trong Đức Kitô, trong Thịt Máu của Người, trong Thập giá và sự phục sinh của Người. Chính vì giao ước được hoàn tất trong “Thịt và Máu”, nên đã khởi đầu nơi người mẹ. “Con Đấng Tối Cao” chỉ có thể nhờ Mẹ, qua tiếng Fiat thật trinh khiết và đầy tình mẫu tử, mới có thể nói với Chúa Cha: “Chúa đã tạo cho con một thân thể. Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5.7).

Chức làm mẹ của người phụ nữ được Thiên Chúa đưa vào trật tự giao ước được ký kết với nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Và mỗi lần, chức làm mẹ được lập lại trong lịch sử nhân loại, thì luôn luôn nằm trong liên hệ với giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với loài người qua chức làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa.

Thực tại này đã được minh chứng trong lời nói của Đức Giêsu khi trả lời cho người đàn bà giữa đám đông kêu lớn tiếng chúc tụng Người qua chức làm mẹ của Mẹ Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Đức Giêsu trả lời: “Đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Đức Giêsu xác nhận ý nghĩa của chức làm mẹ trong chiều kích thể lý; nhưng đồng thời hướng đến một ý nghĩa sâu xa hơn, nằm trong trật tự tinh thần: đó là dấu chỉ giao ước với Thiên Chúa, Đấng là “thần khí” (x. Ga 4,24). Điều này áp dụng trước tiên cho chức vụ làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa. Theo ánh sáng Tin Mừng, chức làm mẹ của các bà mẹ khác không chỉ do “thịt và máu”: chức vụ này còn biểu lộ việc “lắng nghe Lời Chúa hằng sống” và sự sẵn sàng để “gìn giữ” lời này, đó là “lời của sự sống vĩnh cửu” (x. Ga 6,68). Thực vậy, những người con trai, con gái của nhân loại được, các bà mẹ trần thế sinh ra, cũng được Con Thiên Chúa ban cho quyền “trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Chiều kích giao ước mới trong Máu thánh Đức Kitô thấm thấu vào việc sinh hạ của con người và trở thành thực tại và trách nhiệm “của một sáng tạo mới” (x. 2 Cr 5,17). Từ cái nhìn về lịch sử từng cá nhân, chức làm mẹ là ngưỡng cửa đầu tiên phải vượt qua và cũng là điều kiện cho việc “tỏ lộ các con cái của Thiên Chúa” (x. Rm 8,19).

“Khi sinh con, người đàn bà lo buồn, vì đến giờ của mình, nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thể gian” (Ga 16,21). Các lời của Đức Kitô trong phần thứ nhất gợi lên “những sự đau đớn khi sinh con” thuộc về hậu quả của nguyên tội; đồng thời cho thấy liên hệ giữa chức làm mẹ của người phụ nữ với mầu nhiệm Vượt qua, vì trong mầu nhiệm này cũng có sự đau đớn của người Mẹ dưới chân thập giá – chia sẻ trong đức tin mầu nhiệm run động việc tự hạ của Con mình. “Đó là “kenosis” – sự tự hạ sâu xa nhất của đức tin trong lịch sử nhân loại” [40].

Khi nhìn vào người mẹ mà “một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn” (x. Lc 2,32), chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ đến tất cả phụ nữ trên thế giới đang đau khổ trong thể lý lẫn tinh thần. Trong đau khổ này, tính nhạy cảm sâu xa của người phụ nữ giữ một vai trò quan trọng, dù họ biết kháng cự đau khổ tốt hơn người đàn ông. Không thể nào kể hết mọi thứ đau khổ: chúng ta có thể nghĩ đến sự chăm lo của người mẹ đối với các đứa con, đặc biệt khi chúng đau ốm hay hư hỏng; đối mặt với cái chết của người thân, đến sự cô đơn của các bà mẹ bị con cái trưởng thành quên lãng hay sự cô đơn của các bà góa; đến các đau khổ của những người phụ nữ phải chiến đấu một mình để sống còn, và những phụ nữ phải chịu đựng bất công và bệnh tật hay bị bóc lột. Cuối cùng cũng có những đau khổ lương tâm vì tội lỗi hành hạ phẩm giá con người hay phẩm giá của người mẹ, mà rất khó cứu chữa. Chúng ta phải đứng dưới thập giá của Đức Kitô với tất cả những đau khổ này.

Nhưng các lời của Phúc Âm về người đàn bà âu lo vì đến giờ phải sinh con, cũng làm nổi bật niềm vui. Đó là niềm vui “vì một con người đã sinh ra trong thế gian”. Cả niềm vui này cũng liên hệ đến mầu nhiệm Vượt qua, có nghĩa là niềm vui mà các Tông đồ được chia sẻ vào ngày phục sinh của Đức Kitô: “Bây giờ anh em lo buồn” (lời Đức Giêsu nói một ngày trước cuộc khổ nạn và cái chết của mình), “nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất” (Ga 16,22).

Khiết tịnh và Nước Trời

20. Trong giáo huấn của Đức Kitô, chức làm mẹ được liên kết với sự khiết tịnh, nhưng khác biệt với sự khiết tịnh. Lời căn bản này được Đức Giêsu nói trong tranh luận về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu với người Pharisêu, các môn đệ đã hỏi Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn” (Mt 19,10). Không đi từ ý nghĩa câu “thà đừng” theo cách hiểu của các môn đệ, Đức Kitô lấy ý kiến sai lệch của họ để dạy về giá trị của sự độc thân: Người phân biệt độc thân vì sự thiếu sót tự nhiên, có khi do con người tạo nên, với khiết tịnh vì Nước Trời. Người nói: “Và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời” (Mt 19,11). Ở đây nhắm tới sự khiết tịnh tự do về phía con người, vì chọn định hướng vào ơn gọi cánh chung để được kết hợp với Thiên Chúa. Người còn nói thêm: “Ai hiểu được thì hiểu”, câu này nhằm tất cả những gì Người đã nói lúc khởi đầu cuộc tranh luận về độc thân (x. Mt 19,11). Vì thế độc thân vì Nước Trời không những là hiệu quả của một quyết định tự do về phía con người, nhưng còn là một ân sủng đặc biệt về phía Thiên Chúa, Đấng kêu gọi con người để sống độc thân. Nếu việc độc thân là dấu chỉ đặc biệt cho việc Nước Thiên Chúa sẽ đến, thì đồng thời cũng cho thấy đây là sự dấn thân trọn vẹn cho vương quốc cánh chung ngay trong đời sống tại thế với tất cả sức mạnh của thể xác và tinh thần.

Lời của Đức Giêsu là câu trả lời cho vấn nạn của các môn đệ, nhằm trực tiếp vào những người đặt câu hỏi; trong trường hợp này là những người đàn ông. Dù vậy, câu trả lời của Đức Kitô cũng có giá trị cho đàn ông cũng như cho đàn bà. Trong văn mạch, lời này cho thấy lý tưởng Phúc Âm về đức khiết tịnh, một lý tưởng hoàn toàn “mới” so với truyền thống Cựu Ước. Truyền thống này liên kết chặt chẽ với sự mong chờ của dân Israel, đặc biệt với người phụ nữ Do Thái, hy vọng rằng Đấng Messias sẽ đến và là “con của người đàn bà”. Lý tưởng độc thân và khiết tịnh vì sự gần gũi với Thiên Chúa sắp đến, không phải là quá xa lạ với người Do Thái, nhất là trong thời trước khi Đức Giêsu xuất hiện. Thế nhưng sự độc thân vì Nước Trời, tức là sự khiết tịnh, là một điều mới không cần tranh cải, liên kết chặt chẽ với việc Thiên Chúa nhập thể.

Từ khi Đức Kitô đến, sự mong chờ của dân Thiên Chúa hướng về vương quốc cánh chung sắp đến; chính Đức Kitô sẽ dẫn “dân Israel mới” vào vương quốc này. Cần phải có một ý thức đức tin mới cho định hướng và thay đổi này. Đức Kitô nhấn mạnh hai lần: “Ai hiểu được thì hiểu” – “Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu” (Mt 19,11.12). Đức Maria là người đầu tiên có được ý thức mới này khi hỏi thiên thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Dù “đã đính hôn với một người tên là Giuse”, Đức Maria quyết định giữ đức khiết tịnh; chức làm mẹ đang được thực hiện trong lòng mình, hoàn toàn do “quyền năng Đấng Tối Cao” và là hiệu quả của việc Chúa Thánh Thần bao phủ trên Mẹ (x. Lc 1,35). Chức làm mẹ thần linh là câu trả lời thật bất ngờ cho việc mong chờ nhân bản của các phụ nữ trong dân Israel: chức làm mẹ đến với Đức Maria như ân huệ của chính Thiên Chúa. Ân huệ này là khởi điểm và nguyên mẫu của một sự mong chờ mới mẻ của mọi người trong chiều kích giao ước vĩnh cửu, trong chiều kích của lời hứa mới mẻ và dứt khoát của Thiên Chúa: đó là dấu chứng của hy vọng cánh chung.

Dựa trên Tin Mừng, ý nghĩa của sự khiết tịnh được khai triển và đào sâu như ơn gọi của người phụ nữ, trong đó phẩm giá của họ được xác nhận theo hình ảnh của Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Tin Mừng đề ra lý tưởng về việc thánh hiến con người, điều này mang ý nghĩa một sự thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa dựa trên lối sống theo các lời khuyên Tin Mừng, đặc biệt với đức khiết tịnh, sự vâng phục và khó nghèo. Chính Đức Giêsu Kitô là sự nhập thể tuyệt hảo của lối sống này. Ai muốn bước theo Người cách triệt để, phải chọn lối sống theo các lời khuyên này. Các lời khuyên này khác với các giới răn và cho người Kitô hữu thấy con đường triệt để của Tin Mừng. Ngay lúc ban đầu của Kitô giáo, nhiều người – đàn ông lẫn đàn bà – đã chọn con đường này, vì lý tưởng Tin Mừng mời gọi mọi người, không phân biệt giới tính.

Trong mạch văn rộng lớn hơn, sự khiết tịnh phải được xem là con đường cho người phụ nữ, một con đường hiện thực chính cá nhân mình là phụ nữ khác hơn trong hôn nhân. Để hiểu con đường này, chúng ta phải trở về với tư tưởng nền tảng của nhân học Kitô giáo. Người phụ nữ xác định thực sự mình là nhân vị trong sự khiết tịnh đã được tự do lựa chọn, như một hữu thể được Đấng Sáng Tạo ngay từ ban đầu đã muốn cho chính Ngài [41] và đồng thời họ thực hiện giá trị cá nhân là nữ giới của mình, khi “hiến dâng vô vị lợi” cho Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải trong Đức Kitô, và khi “dâng hiến” cho Đức Kitô, Đấng Cứu độ loài người và cũng là Hôn Phu của mọi tâm hồn: đó là một việc “hiến dâng” mang tính chất hôn nhân. Chúng ta không thể nào hiểu cách đúng đắn, việc thánh hiến người phụ nữ trong sự khiết tịnh, nếu không đặt liên hệ đến tình yêu hôn nhân: chỉ trong tình yêu như thế con người mới có thể “hiến dâng” cho một người khác [42]. Ngoài ra, cũng phải hiểu cách tương tự như thế với việc thánh hiến người nam trong sự độc thân linh mục hay trong bậc tu trì.

Nền tảng tự nhiên hướng về hôn nhân của nữ giới được hiểu như lời đáp trả cho sự khiết tịnh. Người phụ nữ “ngay từ đầu” đã được mời gọi để được yêu và yêu; trong ơn gọi sống khiết tịnh, người mà họ gặp gỡ đầu tiên chính là Đức Kitô, Đấng yêu thương họ “cho đến cùng” qua việc hiến dâng chính bản thân mình và người phụ nữ đáp trả quà tặng này bằng việc hiến dâng trọn cuộc sống mình cách vô vị lợi. Họ hiến dâng mình cho vị Hôn Phu thần linh; và việc hiến thân cá nhân hướng đến việc kết hợp mang đặc tính thiêng liêng: dưới tác động của Thánh Thần, họ trở thành “một tinh thần” với Đức Kitô, vị Hôn Phu của họ (x. 1 Cr 6,17).

Đó là lý tưởng Phúc Âm về sự khiết tịnh, qua đó phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ được hiện thực cách đặc biệt. Tính triệt để của Tin Mừng biểu lộ trong sự độc thân được hiểu như là bỏ tất cả để bước theo Đức Kitô (x. Mt 19,17). Người ta không thể so sánh điều này với việc sống độc thân hay của những người không muốn lập gia đình, vì sự khiết tịnh không hạn hẹp trong một sự “phủ nhận”, nhưng còn bao gồm một tiếng “vâng” sâu xa trong chiều kích hôn nhân: việc hiến dâng bản thân để yêu một cách trọn vẹn, không chia sẻ.

Chức làm mẹ thiêng liêng

21. Theo nghĩa Tin Mừng, sự khiết tịnh bao gồm việc từ bỏ hôn nhân và qua đó từ bỏ luôn chức làm mẹ theo thể lý. Việc từ bỏ cách làm mẹ như vậy đối với tâm hồn người nữ là một hiến dâng lớn lao, sẽ chuẩn bị cho người phụ nữ một kinh nghiệm về chức làm mẹ cách khác: chức làm mẹ “theo tinh thần” (x. Rm 8,4). Sự khiết tịnh không làm mất đi nơi người nữ những đặc tính riêng của mình. Chức làm mẹ tinh thần có rất nhiều hình thức. Các nữ tu sống theo đặc sủng và luật lệ của nhiều Hiệp hội khác nhau có tính tông đồ, chức làm mẹ đó được thể hiện qua việc chăm sóc con người, đặc biệt những người cần giúp đỡ nhất: bệnh nhân, khuyết tật, những người bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già yếu, trẻ em, thanh thiếu niên, tù nhân, và nói chung là những người sống bên lề xã hội. Người nữ tu tìm được Hôn Phu của mình, vừa khác biệt vừa duy nhất trong mọi người và trong từng người, theo như lời Người nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tình yêu hôn nhân luôn sẵn sàng đón nhận những người trong phạm vi hoạt động của mình. Trong hôn nhân, sự sẵn sàng này dù được mở ra cho mọi người, nhưng hệ tại đặc biệt ở tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Trong sự khiết tịnh, thái độ này cũng mở ra cho mọi người, vì họ là đối tượng tình yêu của Đức Kitô, Hôn Phu của mình.

Vì liên hệ với Đức Kitô, Đấng Cứu độ của mọi người và từng người, nên tình yêu hôn nhân đang ngự trị trong tâm hồn người nữ tu, vị hôn thê đồng trinh của Đức Kitô, luôn sẵn sàng mở ra cho mọi người và từng người. Điều này được thể hiện trong các cộng đoàn tu trì có đời sống tông đồ; nhưng thực hiện cách khác biệt trong các cộng đoàn chiêm niệm hay viện tu. Ngoài ra cũng có những hình thức khác của ơn gọi khiết tịnh vì Nước Trời, tỉ như tu hội đời hay cộng đoàn của các người đã được thánh hiến, như trong các phong trào, các nhóm hay hiệp hội; trong những hình thức này, bản chất đích thực của chức làm mẹ thiêng liêng của những người sống đức khiết tịnh cũng được thể hiện dưới những hỉnh thức rất đa dạng. Ở đây không những nhắm đến cách sống cộng đoàn, nhưng cũng có những hình thức riêng tư. Cuối cùng đức khiết tịnh như ơn gọi của người phụ nữ vẫn luôn là ơn gọi của một cá nhân cụ thể và duy nhất. Chức làm mẹ thiêng liêng được sống như ơn gọi mang đậm nét cá nhân.

Từ nền tảng này, chúng ta thấy có sự gần gũi đặc biệt giữa đức khiết tịnh của những người phụ nữ không kết hôn với chức làm mẹ của những người phụ nữ lấy chồng. Sự gần gũi này không những giữa chức làm mẹ với sự khiết tịnh, như chúng ta đã thấy bên trên; mà còn trong ý nghĩa khiết tịnh với hôn nhân, được hiểu như hình thức ơn gọi của người phụ nữ, trong đó bà trở thành mẹ của những đứa con sinh ra từ lòng dạ mình. Điểm xuất phát của sự suy luận thứ hai này là ý nghĩa của việc kết hôn. Trong thực tế, người phụ nữ “kết hôn” qua Bí tích Hôn Phối hay qua việc “kết hôn” cách thiêng liêng với Đức Kitô. Trong trường hợp này hay trường hợp kia cho thấy sự kết hôn là sự “hiến thân vô vị lợi” của người hôn thê cho người hôn phu. Theo cách này, người ta có thể nói rằng, ý nghĩa hôn nhân phản ánh cách linh thiêng trong đức khiết tịnh. Nếu như nói đến chức làm mẹ theo thể lý, thì chức vụ này có thể là chức vụ làm mẹ thiêng liêng chăng, để thích ứng với chân lý trọn vẹn về con người như là một sự thống nhất thể xác và tinh thần? Có nhiều lý do để nhìn vào hai con đường khác nhau này – hai ơn gọi cho đời sống người phụ nữ – khám phá ra một sự bổ sung và một sự thống nhất sâu xa trong bản chất nội tại của con người.

“Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa”

22. Tin Mừng cho thấy và giúp chúng ta suy nghĩ chính chắn về cách hiện hữu này của con người. Tin Mừng giúp đỡ từng con người, nam cũng như nữ, để sống và hiện thực chính bản thân mình. Trong thực tế, có một sự bình đẳng hoàn toàn trong liên hệ với các hồng ân của Chúa Thánh Thần, liên hệ với “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11). Nhưng không phải chỉ có thế. Khi nhìn vào những kỳ công của Thiên Chúa, vị Tông đồ – là một người đàn ông – cảm thấy cần đến điều thuộc về nữ tính để giúp ngài làm nổi bật sự thật về sứ vụ tông đồ của mình. Thánh Phaolô thành Tarsus đã làm như thế khi viết cho giáo đoàn Galat: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi đã quặn đau sinh ra một lần nữa” (Gl 4,19). Trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrinthô, vị Tông đồ nói lên sự ưu tiên của đức khiết tịnh so với hôn nhân, một giáo lý kiên vững của Hội Thánh trong tinh thần của những lời Đức Kitô được Phúc Âm thánh Matthêu nhắc lại (19,10-12), mà không làm lu mờ ý nghĩa chức làm mẹ theo thể lý và theo tinh thần. Để có thể thấy sứ vụ nền tảng của Hội Thánh, thánh Phaolô không tìm được so sánh nào hơn là qui chiếu về chức làm mẹ.

Chúng ta gặp lại âm vang của chân lý này trong Hiến chế tín lý về Hội Thánh. Đức Maria là “hình ảnh” của Hội Thánh [43]. “Thực vậy, trong mầu nhiệm Hội Thánh, chính Hội Thánh cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ (…) Đức Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có (…) Mẹ sinh Con, Người Con mà Thiên Chúa đã đặt làm trưởng tử trong nhiều anh em (Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ” [44]. “Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Đức Maria, và khi trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Hội Thánh vì trung thành lãnh nhận lời Thiên Chúa, nên cũng được làm mẹ: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép rửa, Hội Thánh sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt” [45]. Ở đây nói tới chức làm mẹ thiêng liêng đối với các con trai con gái của nhân loại. Như đã nói, một chức làm mẹ như thế, trở thành “vai trò” của người phụ nữ trong sự khiết tịnh. Hội Thánh cũng là trinh Nữ, vì đã gìn giữ lời hứa trung thành cách toàn vẹn và tinh tuyền đối với Phu Quân [46]. Điều này đã được thực hiện cách trọn hảo nhất nơi Đức Maria. “Noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Hội Thánh bảo tồn cách tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành” [47].

Công đồng xác quyết không thể nào hiểu được mầu nhiệm Hội Thánh, thực tại cũng như sức sống cơ bản của Hội Thánh, nếu không qui chiếu về Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta qui chiếu cách gián tiếp nguyên ảnh theo Thánh Kinh về người Phụ nữ, như được diễn tả rõ ràng ngay “lúc khởi đầu” (x. St 3,15) và trong quá trình từ sáng tạo ngang qua tội lỗi đến ơn cứu độ. Chúng ta thấy rõ có một liên hệ sâu xa giữa những gì thuộc con người và những gì thuộc kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Thánh Kinh minh chứng nếu không có ơn gọi phù hợp với yếu tố “nữ giới”, sẽ không có cách giải thích phù hợp với con người và nhân tính của họ. Cũng tương tự như thế đối với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: nếu muốn hiểu kế hoạch này trong liên hệ lịch sử loài người, chúng ta không thể bỏ qua mầu nhiệm “người nữ” – trinh nữ, người mẹ và người vợ – ra khỏi chiều kích đức tin của chúng ta.

———————————————————

 

Ghi chú

 

38. Raban Maur, De vita beata Mariae Magdalena, XXVII: PL 112,1474.

39. GS số 24.

40. RM số 18.

41. GS số 24.

42. Diễn từ ngày 7 và 14.4.1982: Insegnamenti V, 1.

43. LG số 63.

44. Ibid số 63.

45. Ibid số 64.

46. Ibid số 64.

47. Ibid số 64.