HỒNG ÂN TRUNG TÍN VÀ NIỀM VUI KIÊN TRÌ_PHẦN 2 – NHEN NHÚM LÊN NGỌN LỬA NHẬN THỨC

0
2747

BỘ CÁC HỘI DÒNG ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
VÀ CÁC TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ

HỒNG ÂN TRUNG TÍN VÀ NIỀM VUI KIÊN TRÌ

NHŨNG ĐỊNH HƯỚNG

“Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”

                                                               (Ga 15,9)

 Chuyển ngữ: Nữ tu Marie Ange O.C.D.

Hiệu đính: Lm. Giuse Phan Tấn Thành O.P.

ĐAN VIỆN CÁT MINH SAIGON
2022

——————–

Dẫn nhập và Giới thiệu

PHẦN 1 – NGẮM NHÌN VÀ LẮNG NGHE

——————–

PHẦN 2 

NHEN NHÚM LÊN NGỌN LỬA NHẬN THỨC

I. TRUNG TÍN VÀ KIÊN TRÌ

Memoria Dei

  1. Sự trung tín được đo lường theo thời gian, lịch sử và cuộc sống hằng ngày. Nếu trung tín là một nhân đức cốt yếu trong mọi mối tương quan giữa các cá nhân với nhau, thì kiên trì là một nhân đức đặc trưng của thời gian: cả hai nhân đức chất vấn mối tương quan với người khác. Trong thời buổi hiện nay, tan vỡ và không chịu ràng buộc, thì những thực tể này là một thách thức cho mỗi người, và đặc biệt là cho những người Kitô hữu. Nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra sự trung tín của chính mình nếu không khởi đi từ đức trung tín của Đấng tín trung (xc. 1 Tx 5,24) và từ đức tin vào Ngài? Người tín hữu là kẻ liên kết ký ức và hiện tại với nhau: điều này làm cho người ấy có khả năng kiên trì. Thật vậy, sự kiên trì chỉ có thể được giữ vững nhờ vào memoria Dei (tưởng nhớ Thiên Chúa). Theo nghĩa này, người Kitô hữu, nhờ khả năng memoria Dei, có thể nhận biết và nhớ lại hành động của Thiên Chúa. Nó là một ký ức lôi cuốn trái tim, chỗ đứng của tâm trí và ước muốn của con người. Một ký ức luôn luôn được đổi mới về lòng trung tín của Thiên Chúa là điều có thể gợi lên và duy trì lòng trung tín của các tín hữu.

Thiên Chúa là Đấng Trung Tín

  1. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn thường khuyên nhủ chúng ta hãy tưởng nhớ, nhớ đến cảm tình riêng tư của Chúa Kitô, và nói rằng: “Chúng ta có thể nói đến tình yêu hôn nhân của Chúa Kitô và Hội Thánh,” một tình yêu có “ba đặc điểm: trung thành, kiên trì – Ngài không bao giờ mệt mỏi vì yêu thương, và phong nhiêu. […] Trung thành chính là bản chất cốt yếu của tình yêu Chúa Kitô [1].”

Những chủ đề về trung tín và kiên trì là những chủ đề trung tâm trong Lời Chúa. Trung tín, hesed, trên thực tế là một trong những thuộc tính chủ yếu của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng trung tín. Toàn bộ lịch sử cứu độ không là gì hơn ngoài câu chuyện giao ước giữa Thiên Chúa và thụ tạo, giữa Thiên Chúa và dân của Người, Israel, giữa Thiên Chúa và cả nhân loại. Lòng nhân từ và trung tín là tiêu biểu cho bản chất của Thiên Chúa và tất cả những hành động của Ngài dành cho những người được tuyển chọn, nhưng cũng là cho toàn bộ thụ tạo.

Thiên Chúa hứa sẽ không bao giờ phản bội lại giao ước của Ngài, nhưng mãi mãi trung thành. Thiên Chúa vượt lên sự phẫn nộ và mang lấy tội lỗi của nhân loại, để nhờ đó nhân loại có thể một lần nữa trung thành với Ngài trong tự do mà sự tha thứ đã trả lại. Ngôn sứ Hôsê nói về sự trung thành của Thiên Chúa như là hoa trái của tình yêu kiên định của Thiên Chúa dành cho dân Người qua hình ảnh hấp dẫn của đôi hôn nhân: “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình […]. Trong ngày đó, vì dân Ta, Ta sẽ thiết lập một giao ước […]. Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA.” (Hs 2,16 và tt). Sự yếu đuối rõ ràng và liên tục của Israel, vừa với tư cách là một dân tộc vừa với tư cách từng cá nhân, vẫn không làm yếu đi Núi Đá (Đnl 32:4) trung thành của Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh hát: Lòng thành tín Chúa trải bao thế hệ (Tv 119,90).

Đức Kitô, hình ảnh mẫu mực của sự trung tín

  1. Từ đó nảy lên sự đáp trả của con người: một sự trung tín tiên vàn là tin tưởng và tín thác (như được biểu lộ trong cách dịch từ trung tín trong tiếng Hy Lạp, nó sử dụng những thuật ngữ pỉstỉs/pỉsteueỉn [tin tưởng/ tín trung] và những từ cùng gốc), phó thác và bám chặt vào những lời hứa và mệnh lệnh của giao ước. Tất cả đường lốỉ CHÚA đều là yêu thương và thành tín đốỉ vớỉ những kẻ nào gỉữ gỉao ước và lề luật Chúa (Tv 25,10).

Ngay cả khi dân Israel không phải là một ngườỉ tôỉ tớ trung thành, đã đi trệch ra khỏi con đường và lặp đi lặp lại sự bất trung của thế hệ trên sa mạc – một nòỉ ngoan cố phản loạn, nòỉ tâm địa thất thường, dạ bất trung cùng Chúa (Tv78,8)-thì Thiên Chúa vẫn không ngừng chứng tỏ sự trung tín của Người: vì tình nghĩa ngàn đờỉ, Ta lạỉ chạnh lòng thương xót (Is 54,8). Chủ đề về mối tương quan và phục hồi mối tương quan, bất chấp sự bất trung và tội lỗi của nhân loại, là đặc điểm của toàn bộ lịch sử cứu độ cho đến khi Đức Kitô đến. Người là Đấng tín trung của Chúa Cha, và vì thế’ cũng là Đấng tín trung đối với nhân loại vốn yếu đuối, thiên về sự dữ, nhưng Người liên tục trao ban cho họ lời hứa cứu độ. Đức Giêsu Kitô là Đấng ‘Amen’ tín trung (xc. 2 Cr 1,20; Kh 3,14). Việc Đức Kitô đến, cuộc Nhập Thể của Người, là Lời Hứa được thực hiện. Đức Giêsu là nhân chứng trung thành, như được diễn tả trong Sách Khải Huyền (1,5), Tôỉ tớ trung tín và chân thật (Kh 19,11), nơi Người tất cả những gì Sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã ghỉ chép đều đã được ứng nghiệm (Lc 24,44). Nơi Người tất cả những lời hứa của Thiên Chúa được giữ trọn (xc. 2 Cr 1,20). Sự trung tín của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Kitô (xem 1 Tx 5:23-24).

Đức Kitô, chứng nhân trung thành, dạy bảo con người về sự trung thành, và là chân dung của sự trung thành; Người luôn trung thành với Thiên Chúa Cha. Người mời gọi mọi người hãy trung thành với Lời của Người. Ân sủng được ban tặng cho chúng ta và chúng ta được mời gọi đáp trả bằng sự trung tín với Thiên Chúa Cha qua Chúa Con, là Đấng đã yêu thương chúng ta và trao hiến bản thân cho chúng ta. Một trong những tước hiệu đầu tiên được ban cho các Kitô hữu là những người tin, để ám chỉ đức tin vào Đức Kitô (Cv 10,45; Ep 1,1), được linh hoạt nhờ tình yêu (Ga 15,9). Thánh Phaolô rất thường hay sử dụng thuật ngữ này (người tin), vừa ám chỉ những con người vừa ám chỉ thái độ, và ngài cũng nhắc đến đức trung tín trong số những hoa quả của Chúa Thánh Thần (Gl 5,22).

“Chúng ta không thể nào đạt được sự trung tín này chỉ bằng nỗ lực của chính mình; nó không chỉ là hoa quả từ sự dấn thân hằng ngày của chúng ta; nó đến từ Thiên Chúa và nó được đặt nền tảng trên tiếng ‘ vâng’ của Đức Kitô là Đấng đã nói rằng: thức ăn của Thầy là làm theo ý Cha Thầy (xc. Ga 4:34). Chúng ta phải bước vào trong tiếng ‘vâng’ này, vào trong tiếng ‘vâng’ của Đức Kitô, vào trong sự gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, để đạt đến chỗ khi có thể nói cùng với Thánh Phaolô rằng không phải là chúng ta sống nhưng là Đức Kitô sống trong chúng ta[2].”

Sự trung tín được nuôi dưỡng nhờ gặp gỡ

  1. Sự gặp gỡ Thiên Chúa chạm đến toàn thể con người: chúng ta được mời gọi hoàn toàn ký thác chính mình, lý trí và ý chí, tâm trí và trái tim, với sự ưng thuận kiên quyết và ngọt ngào của chúng ta. Đức tin là mầu nhiệm của sự gặp gỡ được tác động bởi Thánh Linh, giữa Chúa Cha và Chúa Con trong trái tim của mỗi con người đón nhận Ngôi Lời và chấp nhận trở nên đồng hình đồng dạng với Người.

Việc gặp gỡ Thiên Chúa mở người môn đệ ra cho một cuộc sống viên mãn. Sự tham dự vào đời sống Chúa Ba Ngôi được biểu lộ qua một lối sống trong đó Thiên Chúa là tất cả và tất cả quy về Người: Vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu (Cl 3,9). Ba Ngôi Thiên Chúa sống trong cuộc đời những ai đáp trả lại lời mời gọi bước theo Đức Kitô với sự trao hiến trọn vẹn bản thân: “Đời sống thánh hiến công bố những gì mà Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, thực hiện nhờ tình yêu, sự tốt lành và vẻ đẹp của Ngài[3].”

Để kiên trì: ký ức và hy vọng

  1. Thuật ngữ kiên trì xuất hiện trong Tin mừng Nhất Lãm với một công thức giống nhau trong Mát-thêu và Mác-cô: Kẻ nào kiên trì đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 10,22b; 24,13; Mc 13,13); và có một nội dung tương tự trong Lu-ca: Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình (Lc 21:19). Chính Đức Kitô, trong khung cảnh trang trọng của bữa tối Phục Sinh, đã trực tiếp đích thân mời gọi các môn đệ của mình hãy kiên trì: Còn anh em, anh em vẫn kiên trì với Thầy giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan (Lc 22,28). Người loan báo cho các môn đệ rằng họ cũng sẽ đương đầu những thử thách như Người; và ra như Người nhận ra những kẻ thuộc về mình qua việc bằng lòng chịu đựng những gian nan thử thách của Người trong suốt thời gian mà Người đã kiên trì, đến mức hiến dâng mạng sống cho họ (xc. Ga 13,1). Trước khi nói đến sự kiên trì cho đến cùng như vậy, Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ hãy kiên trì trong việc giữ gìn Lời đã nghe với tấm lòng cao thượng và quảng đại (Lc 8:15) và mang lại hoa trái. Thực vậy, Thánh Kinh cũng là một nguồn cho sự kiên trì, của sự an ủi và hy vọng, đồng thời, cũng cho biết nguyên nhân của sự bách hại phải đối diện (xc. Rm 15,4).

Các đoạn văn Tin mừng đã trình bày một vài chủ đề đặc trưng của sự kiên trì sẽ được tiếp nối trong các bản văn Tân

Ước liên quan đến đề tài này như là một đặc điểm cần thiết và tiêu chuẩn của những người Kitô hữu. Thư của Thánh Giacôbê mở đầu với lời khuyên hãy kiên trì, như một mẫu sống: Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì (Gc 1,2-4).

Kiên trì đầu tiên được hiểu như kiên nhẫn, như là khả năng chịu đựng những gian nan thử thách, để chuẩn bị cho chúng ta nên hoàn hảo và trọn vẹn. Kiên trì, như đã được Thánh Phaolô sống và làm chứng, là một nhân đức của những ai chiến đấu để làm chứng cho Đức Kitô (1Tm 6,11-12). Người Kitô hữu được mời gọi kiên trì theo gương Đức Kitô, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định (xc. Lc 22,28).

  1. Thư gửi các tín hữu Do Thái mời gọi chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin (Dt 12,1-2). Trong sự kiên trì, tình yêu chân thật dành cho Chúa Kitô được tỏ lộ, một tình yêu dán cặp mắt trái tim và tâm trí vào Người, như một vận động viên làm khi người ấy dán mắt vào vạch kết thúc. Khi cuộc sống không còn có mục đích, mọi thứ đều trở nên nặng nề, trống rỗng ý nghĩa và tình yêu trở nên không kiên định.

“Tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái nói rằng: ‘Thật vậy, anh em chỉ cần kiên trì, để anh em có thể thực hiện thánh ý Chúa và lãnh nhận điều đã hứa.’ Kiên trì để đạt đến lời hứa. Và con đường của lời hứa, có những khoảnh khắc đẹp đẽ, những giây phút sáng sủa, và những khoảnh khắc đen tối[4].” Đức Thánh Cha khuyến khích chúng ta hãy luôn luôn kiên trì, bước theo hai biểu hiện được các Thánh Tông Đồ đề cử: ký ức và hy vọng. Ký ức nhớ lại “chẳng hạn những ngày gặp gỡ hạnh phúc với Thiên Chúa”, hoặc “khi chúng ta đã làm một việc gì tốt và cảm thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu gần bên […] hay khi chúng ta lựa chọn vào chủng viện, vào đời sống thánh hiến[5].” Tác giả của bức thư đề nghị nhớ lại ‘những ngày thuở ban đầu khi mọi sự sáng tỏ rõ ràng.’ Biểu hiện thứ hai là ‘hy vọng’: “khi ma quỷ tấn công chúng ta bằng những cám dỗ, những tật xấu, những sự khốn cùng của chúng ta, chúng ta phải luôn hướng nhìn lên Thiên Chúa, sự chịu đựng thập giá, ghi nhớ những giây phút đẹp đẽ đầu tiên của tình yêu, nhớ về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và hy vọng dành cho chúng ta[6].”

Sự kiên trì của những người thánh hiến cũng là một hồng ân bởi Thiên Chúa của giao ước: “một nhân chứng tuy không lời nhưng lại rất hùng hồn của người tu sĩ đối với một Thiên Chúa trung thành, là Đấng mà tình yêu không bao giờ vơi cạn[7].” Được phát sinh từ cảm nghiệm sống động về Tình yêu cứu độ, dưới ánh sáng sự trung tín của Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đời sống thánh hiến tìm thấy ý nghĩa của nó trong động lực của sự trung tín[8].

Kiên trì trong tín trung

  1. Kể từ các văn kiện của công đồng, cặp đôi “trung tín- kiên trì” đã trở thành đặc điểm của Huấn quyền về đời sống thánh hiến. Công đồng, cũng như các văn kiện tiếp theo, không coi hai thuật ngữ là một cụm từ đồng nghĩa nhưng như là những khía cạnh không thể tách rời của một thái độ thiêng liêng duy nhất: kiên trì là một thuộc tính thiết yếu của trung tín. Nhất là trong các văn kiện của Công đồng và các văn kiện liền sau đó, kiên trì xuất hiện như là một thuộc tính tiêu biểu của trung tín, một trong những phẩm chất cấu thành cơ bản của nó, và được kết hợp với khiêm nhường.

Số 46 của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen gentium, diễn tả cách rõ ràng tính cao cả về đời sống của một sự thánh hiến đặc biệt, một đời sống kéo dài sự hiện diện của Đức Kitô trong lịch sử, qua dấu chỉ và việc làm của những người thánh hiến “Vì thế’, Thánh Công Đồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng lòng trung tín khiêm hạ và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức[9].” Chính đời sống của những người nam nữ thánh hiến vì thế mà được định nghĩa bằng lòng trung tín kiên trì và khiêm tốn của họ đối với sự tận hiến.

Tình yêu trọn vẹn và độc hữu

  1. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI, trong giáo huấn của ngài về chức linh mục và về đời sống thánh hiến, nhấn mạnh tầm quan trọng của một sự trung tín kiên trì, và của một sự hoàn toàn hiến dâng chính mình của những con người thánh hiến. Ngay cả khi không hề trực tiếp nhắc đến nó, Đức Thánh Cha đã mô tả sự kiên trì như là một dấu chỉ đảm bảo của những người thánh hiến đã dứt khoát hiến dâng cuộc sống của họ và hoàn toàn trung thành với việc dâng mình.

Trong Thông Điệp Sacerdotalis caelibatus năm 1967, về sự độc thân của các linh mục, ngài cổ võ một tình yêu chân chính, “toàn diện, độc hữu, vững chắc và bền vững, một động lực manh mẽ vô song dẫn đến hành vi anh hùng[10].” Trong cùng năm ấy, trong Thông điệp cho Ngày thế giới cầu nguyện, ngài một lần nữa nhấn mạnh tính trọn vẹn của lời mời gọi vào một đời sống hiến dâng đặc biệt: “Từ ngữ ơn gọi đã đạt được ý nghĩa trọn hảo của nó, nó chắc chắn có khuynh hướng trở thành, nếu không độc hữu, đặc trưng và hoàn hảo ở nơi nào bao gồm một ơn gọi gấp đôi đặc biệt: bởi vì nó đến trực tiếp từ Thiên Chúa, giống như một tia của ánh sáng chói lòa trong sự mật thiết nhất và sâu kín thẩm sâu nhất của lương tâm; và vì nó hầu như biểu lộ chính mình trong một sự hoàn toàn hiến dâng cuộc sống cho một và chỉ một tình yêu cao cả: yêu Chúa và yêu anh chị em, tình yêu thứ hai phát sinh từ tình yêu thứ nhất và là một với nó[11].”

Đặc biệt sâu sắc là Tông Huấn Evangélica testificatio năm 1971, trong đó Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI xin các tu sĩ nam nữ trở thành những chứng nhân cho những người nam nữ cho thời đại của mình, về một cuộc sống hợp nhất và cởi mở, mà nó chỉ có thể đạt được nhờ việc gắn bó bản thân vào Thiên Chúa Hằng Sống[12]. Đức Giáo Hoàng liên kết sự làm chứng của những người thánh hiến với sự kiên trì trong đời sống của họ. Chủ đề kiên trì giành được sự nhấn mạnh đặc biệt trong giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI cho các Tu hội đời, nhắc nhở họ về “bổn phận trung tín,” trung tín “với ơn gọi riêng của mình,” được biểu lộ trước hết trong sự trung tín cầu nguyện “nền tảng của sức mạnh và sinh hoa trái[13].”

Trong các văn kiện theo sau đó, sự trung tín càng ngày càng được mô tả như là một động lực của sự tăng trưởng, mà trong đó kiên trì đòi hỏi một sự cam kết cần thiết và kiên định của những người thánh hiến, và cũng của chính Hội Dòng. Sự kiên trì ngày càng mang lấy giá trị chứng nhân cho sự trung tín của Thiên Chúa đối với giao ước được thiết lập với người thánh hiến, ngay cả trước khi nó được thiết lập bởi chính người nam nữ thánh hiến.

Trong suốt Thượng hội đồng giám mục về Đời Sống Thánh Hiến, mối quan hệ giữa sự trung tín và sự kiên trì ngày càng được đào sâu hơn, và trung tín được xem như là thuật ngữ then chốt để tổng kết và mô tả những giá trị nồng cốt đa dạng của đời sống thánh hiến.

Đức Maria, gương mẫu của sự kiên trì

  1. Đức Trinh Nữ Maria được nhắc đến liên tục như là mẫu gương và cột chống cho ‘sự kiên trì trung tín’ của những người thánh hiến. Thánh Gioan Phaolô II trong phần kết luận của Tông Huấn Redemptionis donum cầu khẩn Mẹ: “Giữa tất cả những người tận hiến triệt để cho Thiên Chúa, Mẹ đứng hàng đầu. Chính Người, Đức Trinh Nữ Nazareth, cũng là người tận hiến cho Thiên Chúa một cách trọn vẹn nhất, tận hiến một cách hoàn hảo nhất. […] Các con hãy kiên trì trong sự trung tín với Đấng luôn trung tín, và các con hãy cố gắng tìm một trợ lực hoàn toàn đặc biệt nơi Đức Maria! Người đã được Thiên Chúa mời gọi hiệp thông một cách hoàn hảo nhất với Con của Người. Ước chi Người, Đức Trinh Nữ trung tín cũng là Mẹ của các con trên bước đường Tin Mừng, giúp các con cảm nghiệm và chứng minh cho thế gian biết sự trung tín vô tận của chính Thiên Chúa[14]! ” Cụm từ ‘kiên trì trung tín’ tạo thành một trong những chìa khóa giải thích hiệu quả nhất cho việc đọc Tông Huấn Vita consecrata. Trong đó, vượt lên khỏi những cách diễn tả khác nhau của nó, sự kiên trì nằm trong mối liên hệ trực tiếp với chính sự trung tín. Sự kiên trì, ngay cả trước khi nó được kết hợp với sự trung tín dành cho tu luật hay linh đạo, thì nó đã hoàn toàn được liên kết với sự trung tín dành cho Thiên Chúa, như một sự tổng hợp toàn bộ con đường suy tư của Huấn Quyền.

Hành trình thăng tiến trung tín

  1. Dọc theo suốt lịch sử cứu độ, sự trung tín của Thiên Chúa dành cho mỗi người nam nữ được thể hiện trong tính sáng tạo. Vì thế, mặc dù sự trung tín của chúng ta trái ngược lại với sự bất động, nó được mời gọi trở nên năng động, như Vita consecrata53 nhấn mạnh: điều mà chúng ta muốn gìn giữ thì phải được cập nhật liên tục. Sự trung thành do đó được kết hợp với tính sáng tạo: có điều cần được thay đổi, và có điều cần được giữ lại. Việc quan trọng là biện phân xem điều gì cần phải được giữ lại trong sự kiên trì và, ngược lại, những điều có thể và phải thay đổi.

“Đó là ý nghĩa của ơn gọi sống đời thánh hiến : nó là một sáng kiến hoàn toàn phát khởi từ Chúa Cha (xc. Ga 15,16), Đấng muốn những kẻ Người đã tuyển chọn đáp trả bằng việc hiến mình trọn vẹn và tuyệt đối. Kinh nghiệm về tình yêu ban không của Thiên Chúa mang tính cách thâm sâu và mạnh mẽ đến nỗi họ hiểu rằng mình phải đáp trả bằng việc hiến dâng cuộc đời vô điều kiện, bằng cách trao dâng mọi sự, hiện tại và tương lai, trong tay Ngài[15] [16].”

Nếu sự tuyệt đối trung tín được dành cho sự hiệp thông yêu mến đặc biệt với Chúa Cha có nghĩa là trung tín với ơn gọi, với sự tận hiến và với sứ vụ lãnh nhận từ Chúa Cha, thì trung tín với Đức Kitô không chỉ được xây dựng trên bí tích rửa tội, nhưng còn trên giao ước hôn nhân nữa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết trong Tông Huấn Vita consecrata: “Chúng ta có thể nói rằng đời sống tâm linh, được hiểu như là sống với Đức Kitô và do Thánh Linh hướng dẫn, là một cuộc hành trình thắng tiến trung tín, trong đó người tận hiến được Thánh Thần soi dẫn và biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, trong niềm hiệp thông yêu thương và phục vụ trong Giáo Hội [17].” Trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô phải đi trước tất cả mọi việc phục vụ, mọi hành động, để nhờ đó sự trung tín với Đức Kitô của những người nam nữ thánh hiến làm cho họ có khả năng trở thành một sự nối dài trong lịch sử về sự hiện diện đặc biệt của Đấng Phục Sinh[18].18 Chính trong sự trung tín với Chúa Thánh Thần[19] mà mỗi một người thánh hiến mới có thể luôn trung tín với căn tính của mình[20], tới mức mà sự khiết tịnh vì Nước Trời “là phản ảnh của tình yêu vô biên đang nối kết Ba Ngôi Thiên Chúa trong chiều sâu nhiệm mầu của đời sống Tam vị ; tình yêu mà Ngôi Lời nhập thể làm chứng cho đến hy sinh mạng sống ; tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5,5), tình yêu thúc bách chúng ta đáp trả với trọn tình thương dành cho Thiên Chúa và anh em[21].”

  1. Trong ánh sáng của Chúa Ba Ngôi chúng ta mới có thể hiểu được bốn sự trung tín kinh điển: “Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung tín với Đức Kitô, với Giáo Hội, với Dòng của mình và với con người thời đại này[22].” Trung tín với Dòng rõ ràng là quy vào Chúa Ba Ngôi, tới mức mà mỗi linh đạo là một món quà từ Thiên Chúa, Đấng nhìn con người như là những người cộng sự: theo ý nghĩa này, sự trung tín của cá nhân muốn ở lại trong một Hội Dòng của cá nhân, tuy cũng chấp nhận những trường hợp ngoại lệ, không chỉ là câu hỏi của con người mà thôi nhưng nó còn quy hướng về sự chọn lựa sâu thẳm hơn nữa, đó là trung tín với Thiên Chúa. Trung tín với con người trong thời đại của chúng ta có nghĩa là yêu thương và phục vụ họ với trái tim Đức Kitô và bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi. Một sự trung tín được xây dựng trên mẫu gương là Ba Ngôi Thiên Chúa là nơi cốt lõi, giống như sự trung tín của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là một sự trung tín trọn vẹn, tới mức nó đi trọn con đường đến thập giá [23].

Kiên trì trên con đường thánh thiện

  1. Vì thế, những người thánh hiến được kêu gọi sống như người môn đệ và bước theo Chúa Kitô. Nó là một sự đáp trả của tình yêu, bao hàm một sự gắn bó chặt chẽ vào Đức Kitô qua việc trao hiến tất cả cuộc sống của chính mình, và nếu cần thiết đến mức hiến dâng chính mình trong việc tử đạo.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định lại lần nữa rằng một sự trung tín chân thật trong việc bước theo Đức Kitô, bao hàm cả khía cạnh tử đạo, phải được những người nam nữ thánh hiến sống trong sự thực hành đơn sơ và bình thường của một quy chiếu thường xuyên về linh đạo của vị sáng lập[24].

Sự kiên trì của những người thánh hiến cốt ở việc bước theo đường lối đã được tu luật và hiến pháp của Hội Dòng đề ra, cũng chính là con đường của sự thánh thiện mà trong đó họ được mời gọi kiên trì, để được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, để nhờ đó họ có thể trở thành những chứng nhân và những người cộng tác trong công trình cứu độ của Người.

Đối với cộng đoàn cũng như đối với từng cá nhân thánh hiến, thì sequela Christi được hoàn tất trong mầu nhiệm vượt qua, bằng cách sống trong “niềm tin tưởng vững vàng nơi Đấng Chủ tể của lịch sử [25],” điều này được nhận thức và tìm thấy bằng chứng rõ ràng nhất trong sự kiên trì.

Mặc khác, Tông Huấn Vita consecrata nhắc lại làm thế’ nào “Trong thế kỷ này, cũng như nhiều thời đại khác trong lịch sử, nhiều người nam nữ tận hiến đã làm chứng cho Đức Kitô đến hy sinh mạng sống. Hàng ngàn người đã phải trốn tránh trong các hang toại đạo khi bị các chính quyền độc tài hoặc những nhóm khủng bố bách hại, họ đã bị sách nhiễu vì hoạt động truyền giáo, phục vụ người nghèo, săn sóc bệnh nhân và những người ngoài lề xã hội ; họ đã và đang phải trả giá cao để được sống đời thánh hiến, phải anh dũng chịu khổ cực lâu dài, nhiều khi phải đổ máu đào, như vậy họ được nên hoàn toàn đồng dạng với Chúa chịu đóng đinh[26].” Tông Huấn này ký thác cho lời chuyển cầu của những người nam nữ này, những người đã kiên trì trong tình yêu đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình, xin các ngài chuyển cầu cho tất cả những người nam nữ thánh hiến luôn được trung tín[27].

Đời sống huynh đệ: địa điểm của sự kiên trì

  1. Sau Công Đồng, Huấn Quyền đã không ngừng phát triển và đào sâu suy gẫm về vai trò của đời sống huynh đệ trong sự kiên trì của những người thánh hiến. Thực vậy, nhiều lần nhắc đi nhắc lại rằng một trong đặc trưng của sequela Christi của những người thánh hiến hệ tại đời sống huynh đệ trong cộng đoàn và những mối tương quan được xây dựng nên trong đó. Mặc khác, thật đáng ghi nhận trong giáo huấn Công đồng, đời sống chung là đối tượng đầu tiên cho lời mời gọi kiên trì: “Đời sống chung cần được kiên trì trong việc cầu nguyện và hiệp thông trong cùng một tinh thần, được nuôi dưỡng bằng đạo lý của Tin mừng, phụng vụ và nhất là Bí tích Thánh Thể (xc. Cv 2,42), rập khuôn theo gương mẫu của Giáo Hội tiên khởi, nơi mà các tín hữu sống một lòng một ý với nhau (xc. Cv 4,32)[28].” Vì thế, cộng đoàn tông đồ Giêrusalem được đề nghị là gương mẫu cho đời sống tận hiến, để nhờ đó nó có thể đương đầu với những thách thức của lịch sử thời nay.

Huấn Quyền đề xuất những phương tiện nhờ đó đời sống huynh đệ được linh hoạt và nuôi dưỡng: Tin mừng, Phụng Vụ Thánh Thể và cầu nguyện. Những phương tiện này sẽ liên tục được đề nghị trong những văn kiện theo sau, và được khai triển trong Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô [29]. Dần dần các văn kiện cho thấy rằng để có được một đời sống hiệp thông chân thật thì điều cốt yếu không chỉ là cầu nguyện, nhưng còn là chính sự kiên trì của từng thành viên trong hành trình cá nhân gắn bó với Đức Kitô, cũng được thực hiện qua sự nuôi dưỡng những mối tương quan trong cộng đoàn. Ngoài ra người ta cũng nhận ra rằng sự kiên trì của mỗi người có liên quan tương hỗ với sự kiên trì của cộng đoàn.

Đồng trách nhiệm đối với sự trung tín của anh chị em

  1. Sự liên kết mạnh mẽ giữa đời sống huynh đệ chân thật theo tinh thần Phúc Âm và tính hiệu quả của khả năng đào luyện những tu sĩ trẻ trong một cộng đoàn đã được khẳng định lại rộng rãi và được đào sâu hơn bởi Văn Kiện Potissimum institutioni [30]. Một lần nữa, qua việc quy chiếu về “sự linh hứng căn bản” của Hội Thánh, được mô tả trong Sách Công Vụ Tông Đồ, như là “hoa trái từ Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô”, văn kiện nhắc lại những điều kiện và đòi hỏi mà một gương mẫu như vậy đòi hỏi [31]: thái độ khiêm tốn chấp nhận thực tếvà niềm tin, sự từ bỏ chính mình và đón nhận Chúa Thánh Thần, tất cả những đặc điểm của sự kiên trì.
  2. Huấn thị về Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor15 đánh dấu một sự chín mùi trọn vẹn của giá trị nền tảng trong đời sống chung, như là một sự nâng đỡ và đảm bảo cho sự kiên trì. “Văn Kiện khẳng định: Chất lượng của đời sống cộng đoàn có tác động quan trong lên sự kiên trì của từng cá nhân người tu sĩ. Cũng giống như chất lượng kém của đời sống cộng đoàn thường được nhắc lại nhiều lần như là lý do cho việc rời bỏ đời sống thánh hiến, tình huynh đệ được sống cách trọn vẹn thường đã là, và vẫn là một sự nâng đỡ có giá trị cho sự kiên trì của rất nhiều người. Trong một cộng đoàn huynh đệ chân thật, mỗi thành viên đều có ý thức đồng trách nhiệm đối với sự trung tín của người khác; mỗi người đóng góp vào bầu không khí thanh thản từ việc chia sẻ cuộc sống, thấu hiểu, tương trợ lẫn nhau; mỗi người quan tâm chú ý đến những giây phút mệt mỏi, đau khổ, cô đơn hoặc thiếu động lực của những người khác; mỗi người trao tặng sự khuyến khích cho những người buồn phiền vì khó khăn và thử thách. Do đó, các cộng đoàn tu sĩ, trong sự khuyến khích mà họ dành cho sự kiên trì của mỗi thành viên, thì cũng đạt được sức mạnh của dấu chỉ về sự trung tín trường tồn của Thiên Chúa, và vì vậy trở thành sự nâng đỡ cho đức tin và sự trung tín của các Kitô hữu, những người đang bị nhận chìm trong những sự việc thế gian, nơi mà con đường trung tín dường như ngày càng ít được biết đến[32] [33].”
  3. Những khía cạnh của sự kiên trì trong cộng đoàn có thể được tìm thấy trong các văn kiện gần đây nhất, thêm vào một vài điểm nhấn có ý nghĩa. Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô nhìn nhận chính xác nơi việc đào tạo như là một khung cảnh trực tiếp cho sự kiên trì hiến dâng của cả Hội Dòng và người thánh hiến[34]. Cuối cùng, Huấn Thị Quyền Bính và Vâng Phục[35], giao phó cho các Bề Trên – như những người bảo đảm và khuyến khích đời sống huynh đệ được sống cách chân thật theo tinh thần Phúc Âm – việc chăm sóc và chuyển cầu cho sự kiên trì của mỗi tu sĩ đã được giao phó cho họ[36].

Kiên trì cầu nguyện

  1. Trong các văn kiện của Huấn Quyền, chủ đề về cầu nguyện là đặc điểm của mối tương quan giữa kiên trì và trung tín. Điều kiên trì đầu tiên mà người thánh hiến cần phải chú ý đó là liên lỉ nguyện xin hồng ân trung tín: “họ hãy khiêm nhượng và kiên trì cầu xin ơn trung thành, vì Chúa không bao giờ từ chối những người thành tâm kêu cầu[37].”

Đặc biệt, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô đã đào sâu và mở rộng suy tư về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sự cầu nguyện và kiên trì của người thánh hiến. Nó thôi thúc một sự cởi mở đối với hơi thở ban sự sống của Thánh Linh, Đấng trở thành tác viên của sự kiên trì cần thiết của người thánh hiến[38]. Hoạt động của Thánh Linh không hề làm suy giảm trách nhiệm của người tu sĩ thánh hiến. Ngược lại, chính sự kiên trì của họ đã tạo nên khung cảnh phương tiện cho cuộc chiến thiêng liêng, đưa tất cả những nhân đức của họ vào hành động, để họ trở thành chủ thể tự do bảo vệ những hồng ân đã lãnh nhận và làm cho họ có khả năng hằng làm mới lại giá trị của sự hoán cải không ngừng. Huấn quyền chưa bao giờ phớt lờ khía cạnh kiên trì căn bản này.

Đào tạo: nền tảng của sự kiên trì

  1. Với một nhận thức lớn dần lên về tầm quan trọng của việc đào tạo đối với sự kiên trì của những người thánh hiến và đối với khả năng cố gắng phấn đấu để đạt được nó, đã tìm thấy sự diễn tả sung mãn và trọn vẹn trong Văn Kiện Potissimum institutioni. Thật vậy, toàn bộ văn kiện dường như được thúc đẩy bằng ước muốn tăng cường phấm tính của đời sống thánh hiến và sự kiên trì của từng cá nhân thánh hiến qua những chương trình đào tạo thích hợp. Người thánh hiến được mời gọi mở ra cho hai thái độ căn bản, điển hình cho cuộc chiến thiêng liêng: “một là khiêm nhường phó thác cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa ; hai là hiểu biết và thực hành sự phân định trong đời sống thiêng liêng. Thật vậy, cần có khả năng nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong mọi khía cạnh của cuộc sống và lịch sử [39].” Văn kiện nhắc lại rằng trong việc biện phân ý Chúa cũng cần có trung gian của một người hướng dẫn thiêng liêng, để nhờ đó người tu sĩ có thể thực hành sự cởi mở con tim, là một trong những phương tiện truyền thống và quan trọng trong cuộc chiến đấu thiêng liêng. Điều này không hề làm thuyên giảm trách nhiệm của mỗi người thánh hiến đối với việc đào tạo bản thân mình[40].
  2. Chính trong tiến trình này mà chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc đào tạo liên tục, thôi thúc cả người thánh hiến và Hội Dòng “phải không ngừng kiểm điểm về lòng trung thành đối với Chúa ; về sự sẵn sàng lắng nghe Thần Khí Chúa […], về sự cương quyết trong việc trao hiến; về sự khiêm tốn chịu đựng những nghịch cảnh[41].”

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Vita consecrata lặp đi lặp lại nhiều lần về chiều kích cộng đoàn trong cuộc chiến thiêng liêng hướng về sự thánh thiện: ngài mời gọi các Hội Dòng hãy can đảm đối diện “với những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải trong cuộc sống hằng ngày” trong “thái độ ngoan ngoãn với sự soi sáng của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội[42].” Niềm vui kiên trì

  1. Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn đưa ra một yếu tố khác cho việc lượng giá sự trung tín và kiên trì: niềm vui. Một tiêu chuẩn nền tảng đánh giá phẩm chất của đời sống huynh đệ được nhận dạng nơi “chứng tá niềm vui” của toàn thể huynh đoàn, nó tạo thêm một “sự nâng đỡ kiên trì” cho người thánh hiến. “Chúng ta không được quên rằng, sự bình an và hoan lạc của việc chung sống là một trong những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm vui sống cả giữa những khó khăn gặp phải trên hành trình thiêng liêng và nhân bản, và cả giữa những phiền muộn hàng ngày cũng đã là một phần của Nước Trời. Niềm vui này là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và bao gồm một đời sống đơn giản và kết cấu đơn điệu thường nhật. Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang tàn dần; sớm muộn, các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm ở nơi khác điều mà họ không thể tìm thấy ở nhà mình [.. ,][43].”

Hiến Chế Lumen gentium đã mô tả các gia đình tu sĩ như là một phương tiện để tiến triển “hoan hỷ tiến bước trên con đường đức ái[44].” Huấn Quyền kế tiếp đã nhấn mạnh sự liên kết giữa chứng từ về một đời sống tận hiến đặc biệt và niềm vui, đặc biệt là qua việc sống tình huynh đệ. Văn Kiện Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn phát biểu: “Con người đương thời muốn nhìn thấy nơi những người thánh hiến niềm vui đến từ việc được ở cùng Thiên Chúa[45],” niềm vui từ sự trung tín[46], hoa trái từ “sự gặp gỡ hằng ngày với Lời[47].”

Những cộng đoàn, tràn đầy hoan lạc và Thánh Linh (Cv 13,52), “trong đó việc quan tâm giúp đỡ nhau giúp vượt thắng cảnh cô đơn. Sự hiệp thông thúc đẩy mỗi người cảm thấy đồng trách nhiệm, sự tha thứ giúp hàn gắn những vết thương, và quyết tâm sống hiệp thông của mỗi người được kiện toàn. Trong các cộng đoàn như vậy, bản chất đoàn sủng điều động các năng lực, nâng đỡ lòng trung thành và hướng dẫn công việc tông đồ của mọi người nhắm tới một sứ vụ duy nhất[48].” Những cộng đoàn như thế trở thành những kẻ loan báo Tin mừng, “là những nơi sống niềm hy vọng và khám phá ra các mối phúc, những nơi mà tình yêu được bồi dưỡng nhờ kinh nguyện, nguồn hiệp thông, được kêu gọi trở thành khuôn mẫu của cuộc sống và nguồn mạch niềm vui[49].”

  1. Tông Huấn Vita consecrata đặc biệt mời gọi những người nữ tu thánh hiến hãy sống ơn gọi của họ “trong sự trọn hảo và niềm vui[50],” trở thành “những dấu chỉ về tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa dành cho nhân loại và trở thành những chứng nhân đặc biệt cho mầu nhiệm của Hội Thánh, Trinh Nữ, Hiền Thê và Hiền Mẫu[51].”

Một nhiệm vụ cụ thể, cũng liên quan đến kiên trì trong niềm vui, được giao phó cho những người thi hành quyền bính, những

người được mời gọi khẩn cầu trời cao, để những người được giao phó cho họ “luôn luôn vui vẻ kiên trì trong mục đích thánh thiện của họ, cho đến khi đạt đến đời sống vĩnh cửu[52].”

  1. Giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô chú ý đặc biệt đến niềm vui. Evangelii gaudium, Amoris l&titia, Gaudete et exsultate, những lời mở đầu của các văn kiện này nói lên một đòi hỏi của Phúc Âm mang tính quyết định trong đời sống của người môn đệ: sự khẩn thiết của niềm vui, chính là niềm vui của Tin Mừng, niềm vui của tình yêu, kinh nghiệm vui mừng được hiệp thông với Chúa Giêsu. Nói chuyện với những người thánh hiến, Đức Thánh Cha liên tục mời gọi họ làm chứng cho niềm vui: “Đây là vẻ đẹp của sự tận hiến: đó là vui mừng, vui mừng…’[53]‘”

Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, niềm vui không phải là một thứ trang sức vô dụng, nhưng nó là một đòi hỏi và nền tảng của đời sống con người. Trong những gian truân hằng ngày, mỗi người đều có khuynh hướng tìm đến và ở lại trong niềm vui với trọn vẹn con người họ, vui tươi là động cơ thúc đẩy kiên trì. “Niềm vui được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ bất vụ lợi! […] Và niềm vui của cuộc gặp gỡ Ngài và lời Ngài mời gọi đưa ta đến chỗ không khép mình lại nhưng là mở rộng đời mình; nó đưa ta đến việc phục vụ Hội Thánh. Thánh Tôma Aquinô đã nói: ‘bonum est diffusivum sui.’ Điều tốt thì tỏa lan. Và niềm vui cũng lan truyền. Đừng sợ hãi bày tỏ niềm vui vì đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, vì đã đáp lại sự lựa chọn tình yêu của Người và vì làm chứng cho Tin Mừng của Người trong việc phục Giáo Hội. Và niềm vui, niềm vui thực sự rất dễ truyền, dễ lây… thúc đẩy tiến tới.[54]

II. QUÁ TRÌNH THAM GIA BIỆN PHÂN

Trường học cuộc đời

  1. Trung tín kiên trì với ơn gọi là một món quà quý giá được chứa đựng trong một bình sành (xc. 2Cr 4,7tt.). Trong sự căng thẳng giữa kho tàng được lãnh nhận và tính mỏng giòn yếu đuối của đời sống thánh hiến, thì việc cốt yếu là duy trì được một sự quân bình giúp mở ra một viễn tượng cho tiến trình tăng trưởng của mỗi người. Chính nhờ kinh nghiệm mà những cơ hội mới trong cuộc sống xuất hiện, góp phần vào việc điều chỉnh những khuôn mẫu cũ kỹ, đặc biệt nếu người ta học biết cách đọc lại sự kết thúc của một hành trình ơn gọi dưới một góc độ của động lực và tình cảm có khả năng mang lại ý nghĩa mới cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả những điều này đều khả thi nếu chúng ta nhìn vào đời sống thánh hiến như là một trường học cuộc đời, nơi mà trong mối tương quan với những người khác, “mọi người học biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến người anh em, chị em chung sống với mình, và yêu mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ [55].”

Xem xét những cuộc rời bỏ đời sống thánh hiến như thành phần của một quá trình biện phân-đồng hành dường như là một mâu thuẫn, đặc biệt nếu chúng ta đang nói đến những người đã từng sống và kinh nghiệm những giây phút khó khăn và căng thẳng trong cộng đoàn và Hội Dòng. Trên thực tế, khi sự ra đi của một người anh em hoặc chị em được hiểu như là một “sự giải thoát”, thì hẳn đã có gì đó trục trặc trên quá trình biện phân. Người ta không nên đi đến giai đoạn cuối cùng của biện phân qua những tình huống loại trừ hoặc một hình thức tẩy chay thật sự khỏi cộng đoàn hoặc Hội Dòng: trên thực tế điều này có thể khích động một cảm thức thất bại trong những người ra đi và gây sinh ra sự bất an mới cho những người ở lại.

  1. Ngày nay, cần phải dành một ý thức lớn hơn cho viễn tượng đào tạo của một Giáo Hội quan tâm đến những anh chị em đang gặp khó khăn và – khi đụng đến những sự lựa chọn đau đớn và khó khăn – đồng hành với họ trong việc tìm ra một con đường khác và những ý nghĩa mới có thể mang lại ý nghĩa cho sự lựa chọn cuộc đời. Chúng ta mang sẵn những tiềm năng và nguồn lực cho đến nay vẫn nằm ngủ yên. Vấn đề là tái khám phá, để nhờ đó đi đến những vùng ngoại biên cuộc sống, không chỉ nhắm tới thế giới bên ngoài trong việc loan báo tin mừng, mà còn hướng đến nội bộ môi trường của chúng ta. Việc buông theo tính bi quan đứng trước hiện tượng những cuộc ra đi sẽ đưa đến chỗ thụ động chấp nhận tình trạng, hoặc tệ hại hơn nữa, phản ứng lại cách vô trách nhiệm, với tâm thức là không còn có thể làm gì được nữa.

Tuy nhiên, chính trong những khoảnh khắc loay hoay khổ sở như vậy mà người ta mới cần một sự đồng hành để giúp đưa ra một lựa chọn về cuộc sống của chính mình, trao tặng “người ấy một sự nâng đỡ tin tưởng to lớn hơn và một tình yêu sâu xa hơn[56].” Trên thực tế, chính trong những giây phút yếu đuối mà con người ta càng cảm thấy mình cần phải khám phá lại ý nghĩa giao ước mà Thiên Chúa tiếp tục thiết lập chứ không rút lại, đặc biệt là đối với những ai yếu đuối và mất phương hướng. Cần một sự gần gũi thân mật là cần thiết để có thể giúp vẽ lại con đường cuộc đời, đến mức đưa ra những lựa chọn có thể cũng là những tiếng “không” đau đớn. Trình bày giây phút rời đi như là một quá trình đồng hành ơn gọi có nghĩa là làm việc chung với nhau để hướng tới một sự biện phân vẫn còn mang ý nghĩa ngay cả và trên hết là trong những giây phút tế nhị và quan trọng nhất trong cuộc sống. Theo cách này, chúng ta có thể đối diện với giây phút đòi hỏi sự lựa chọn như vậy với một cái nhìn khác, không phải loại trừ nhưng là bao gồm, tôn trọng sự khác biệt của những chọn lựa được người anh em hay chị em đưa ra. Giây phút “khủng hoảng” có thể trở thành một cơ hội thuận lợi, một kairòs, cho tất cả cộng đoàn.

Làm việc với nhau để tham gia biện phân

  1. Cũng như trong việc biện phân lúc khởi đầu, nơi có những dấu hiệu cần phải được làm sáng tỏ cùng nhau, thì vào lúc quyết định rời bỏ đời sống thánh hiến,cũng cần khám phá lại, đàng sau những ngóc ngách của các sự kiện, ý nghĩa thẳm sâu của lời mời gọi từ Thiên Chúa và của sự đáp trả từ cá nhân, trong đó Thiên Chúa liên tục tỏ ra là Đấng ban lại ý nghĩa cho mỗi sự kiện trong cuộc đời con người. Điều quan trọng nữa là sống giây phút này với một định hướng rõ ràng cùng với một sự nâng đỡ tình cảm. Trong ý nghĩa này, chúng ta cần phải trang bị cho chính mình với những công cụ thích hợp, không chỉ trên mức độ chuyên nghiệp, để có thể nhận dạng được những vấn đề, nhưng trên hết là trong việc đảm nhận trách nhiệm chung để giải quyết chúng cách đúng đắn. Vì thế, thực hành tham gia biện phân vẫn nằm ở vị trí then chốt đối với sự tin tưởng và tín nhiệm trong đời sống và sứ vụ của những người nam nữ thánh hiến, trong sự hiệp thông với Giáo Hội, đặc biệt là trong khung cảnh lịch sử hiện nay. Kết thúc sự suy tư về biện phân, trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate, trong một đoạn đặc biệt thích hợp, Đức Thánh Cha Phanxicô tổng kết ý nghĩa cuộc hành trình của chính ngài: “Khi, trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta xem xét cuộc hành trình cuộc đời của chính mình, thì không loại trừ bất cứ lãnh vực nào. Trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống, chúng ta đều có thể tiếp tục lớn lên và hiến dâng một điều gì đó lớn hơn cho Thiên Chúa, ngay cả trong những lãnh vực mà chúng ta cảm thấy là khó khăn nhất. Tuy thế, chúng ta cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần giải phóng chúng ta và xua tan sự sợ hãi làm chúng ta ngăn cản Ngài đi vào một vài khu vực trong cuộc sống của chúng ta. Thiên Chúa là Đấng xin tất cả mọi thứ, nhưng là Đấng ban tất cả mọi thứ, và Ngài không muốn đi vào cuộc đời chúng ta để cắt xén hay làm tê liệt, nhưng là đem đến sự trọn hảo. Do đó, biện phân không phải là một sự tự phân tích duy ngã của chính mình hoặc một hình thức cao ngạo tự xem xét nội tâm, nhưng là một tiến trình chân thật đi ra khỏi chính mình để đến gần mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng giúp chúng ta thực hiện sứ vụ mà Ngài đã kêu gọi chúng ta, vì lợi ích của các anh chị em của chúng ta[57]

Biện phân và đồng hành

  1. Việc thực sự đi ra khỏi chính mình để hướng đến mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải là một công cuộc đơn độc một mình, nhưng là một hành trình trong sự đồng hành của những người trẻ, trưởng thành, người lớn tuổi – những anh em và chị em – những người đã lên đường để cùng nhau sống cuộc phiêu lưu của sự gặp gỡ có tính biến đổi với Thiên Chúa. Nó là một cuộc hành trình hướng về sự trưởng thành của đức tin, tiến tới trình độ tráng niên (xc. 1Cr 13,11-12). Chúng ta được mời gọi đưa ra những chọn lựa vận dụng lương tâm của những tín hữu, để tự do và có trách nhiệm quyết định về bản thân và cuộc đời mình, theo sự thật của kế hoạch huyền nhiệm của Thiên Chúa, vượt lên trên những rủi ro và do dự có thể xảy đến. Cuộc hành trình này tiến lên theo từng giai đoạn trong một quá trình đào tạo căn tính cá nhân, trong một nhận thức liên tục về sự canh tân tu sĩ hoặc căn tính linh mục.

Một quyết tâm mạnh mẽ thi hành tiến trình biện phân vào mỗi giai đoạn và thời kỳ chuyển tiếp trong đời sống thánh hiến- dựa theo sự suy nghĩ lại về ý nghĩa, mục tiêu và phương thức của nó – bao gồm việc kết nạp câu chuyện kiên trì của những người nam nữ thánh hiến trong sự trung tín với món quà ơn gọi sequela Christi. Truyền thống đã khôn ngoan nuôi dưỡng vun trồng kiểu mẫu này, cho phép một sự ngăn ngừa những khó khăn và hiểm họa cách cẩn thận và hiệu quả. Trong phạm vi một tiến trình biện phân – đồng hành dành cho những người thánh hiến, chắc chắn là nó đòi hỏi khắc khe hơn nhiều so với trong quá khứ, lại có tiềm năng được biểu lộ theo một cách mới. Việc cấp thiết là nhận dạng và đối diện với những câu hỏi có thể gây ra lo ngại, nhưng cũng lại là những dấu chỉ của hy vọng. Đồng hành và biện phân liên kết không rời: một bên xuất hiện trong tiến trình biện phân xuất sắc còn một bên được nuôi dưỡng và mang hình thái của sự đồng hành.

  1. Giữa những dấu chỉ của hy vọng mà chúng ta đặc biệt chú ý, đó là sự tiến triển trong việc khắc phục loại tâm lý có khuynh hướng lên án chỉ trích những người rời bỏ đời sống thánh hiến, phủ nhận mọi trách nhiệm của Hội Dòng. Hơn năm mươi năm sau Công Đồng Vatican II, kinh nghiệm biện phân-đồng hành những cộng đoàn dành cho những người đang trải qua những tình huống khó khăn trong đời sống thánh hiến đã được mở rộng. Bên cạnh đó cũng có sự lớn lên trong việc thừa nhận về sứ vụ biện phân – đồng hành, không chỉ dành cho những ai đang phải trải qua thời kỳ khủng hoảng, nhưng cũng dành cho những người, trong khi vẫn đang kiên trì, ước muốn làm lại động cơ thúc đẩy ý nghĩa sự trung tín của chính họ. Sứ vụ này được mời gọi đối diện, chứ không lãng tránh chúng, những câu hỏi khó khăn của những người nam nữ thánh hiến; nó phải được kết hợp giữa kinh nghiệm và phẩm chất chuyên môn, trong việc cầu khẩn món quà của sapientia cordis (trái tim khôn ngoan). Nó cũng thi hành một sự ngăn ngừa thận trọng để đối diện ngay cả những tình huống kịch tính xúc động với một ý thức tình yêu dành cho Hội Thánh.

Đào tạo lương tâm

  1. Nguyên tắc căn bản của mọi sự thảo luận liên quan đến biện phân và đồng hành nằm tại lương tâm của người tín hữu. Vì thế, chủ đề lương tâm và đào tạo được đặt ra trong cuộc hành trình này. Khả năng biện phân thì không thể nào bị tách khỏi sự đào tạo lương tâm: “Chúng ta đã được kêu gọi huấn luyện lương tâm chứ không phải thay thế lương tâm.[58]” Trong nền văn hóa hôm nay, mỗi khi nhắc đến lương tâm, người ta thường muốn truyền tải một ý tưởng đề cao cá nhân và riêng tư. Nhưng coi trọng lương tâm “không có nghĩa là bước theo cái tôi của chính mình, làm những gì có lợi cho tôi, những gì thích hợp với tôi, những gì tôi thích.”[59] “Lương tâm là nơi thâm kín bí ẩn nhất và là nơi thiêng liêng nhất của một con người.”[60] Nó đồng nhất với căn tính cá nhân của mỗi người, với lịch sử ít nhiều đau khổ của chính mình: những mối tương quan, tình cảm, nền văn hóa mà mình thuộc về. Lương tâm cũng được đào tạo nhờ các mối tương quan tốt đẹp, nơi mà người ta kinh nghiệm những gì là tốt cho việc đáng hiến dâng cuộc sống của chính mình. Đặc biệt, những kinh nghiệm đầu tiên luôn có tính quyết định đối với sự đào tạo lương tâm, những kinh nghiệm liên quan đến những mối tương quan gia đình, một trường nhân bản đích thực. Chính trong kinh nghiệm làm con mà mỗi người nam nữ học được cách lắng nghe chân lý, lắng nghe sự thiện hảo, lắng nghe Thiên Chúa. Trong những kinh nghiệm về sự thiện hảo này, lương tâm đạo đức nhận ra mối tương quan sâu xa của nó với Ngài, là Đấng nói với con tim và giúp người anh chị em ấy biện phân, thấu hiểu và ôm lấy con đường phía trước và giữ sự trung tín.[61] Trên hết, việc cần thiết là ngoan ngoãn đối với Lời Chúa, sẵn sàng cho những sự bất ngờ đến từ Thiên Chúa, Đấng phán dạy.

Lời mời gọi của Thiên Chúa, vang dội lại trong sự thiện hảo, đòi hỏi một sự đáp trả khắt khe: giống như đối với những người Do Thái trong sa mạc (xem Xh 8:2), lương tâm của người Kitô hữu cũng phải trải qua một giai đoạn thử thách, gian khổ và khó khăn. Đó là nơi mà những gì chúng ta thật sự quan tâm đều được đem ra ánh sáng. Lịch sử cá nhân vì thế mà được đánh dấu bằng những thử thách, và đôi khi, bằng những thất bại và sự vỡ mộng mà chúng mạnh mẽ thách thức chúng ta đảm nhận một sự đào luyện lương tâm quyết liệt hơn, một chiều kích căn bản thiết yếu trong việc thực hành biện phân. Nó cần phải có một khả năng to lớn để thấu hiểu linh hồn con người, hơn thế nữa, nó là một loại đào luyện chúng ta đến “sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và những thời gian của Ngài, không giống với chúng ta.”[62] Trung tín với memoria Jesu, được sống trong hình thức riêng của mình, đòi hỏi chấp nhận trách nhiệm mà không thể là để tùy sáng kiến mỗi cá nhân, cũng không thể ủy thác lại càng không thể trao lại cho những người đồng hành thiếu trách nhiệm.

Trong phạm vi rộng lớn của chủ đề lương tâm và các mối tương quan của nó, giờ đây chúng tôi muốn chỉ ra một vài hình thức căn bản của con đường biện phân và đồng hành.

Tự biết mình

  1. Những người thánh hiến nhìn nhận ơn gọi của mình như là một món quà, được sống với lòng biết ơn sâu xa dành cho Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô lặp lại cho những người trẻ: “Cuộc sống mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta là một câu chuyện tình yêu, một cuộc sống lịch sử muốn hòa trộn vào với chúng ta và cắm rễ trong vùng đất cuộc sống của chính chúng ta. […] Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một lời mời gọi trở thành một phần của câu chuyện tình yêu dệt lẫn với những câu chuyện cá nhân của chúng ta; nó vẫn sống và ước muốn được sinh ra giữa chúng ta, để chúng ta có thể mang lại hoa trái như chúng ta là, bất cứ chúng ta ở đâu và với tất cả mọi người xung quanh chúng ta. Thiên Chúa ngự đến đó và gieo trồng và để được gieo trồng.”[63] Ớ đây cuộc sống được hiểu như là một món quà giúp phát triển khao khát cho một restitutio (đáp trả) nhằm đến sự tốt lành của người khác. Nó là một tiến trình của sự hoán cải mà không thể tách khỏi sự hiểu biết sâu xa về chính mình. Sự biết mình này trở thành tiêu chuẩn giải thích cho mọi sự biện phân và mọi sự chọn lựa.

Khởi đầu của sự biết mình là một sự chân thành biện phân những tình cảm của mình. Trước khi là một sư hiểu biết theo trí tuệ hay một nỗ lực về nhận thức, nó là chuyện lắng nghe những tình cảm của chính mình, lắng nghe những cảm nghĩ của mình. Đây không phải là việc biết mình mang tính quy ngã có tính tự luyến, nhưng đúng hơn nó là việc không che giấu bất cứ cảm nghĩ, bất cứ tình cảm, vì sợ rằng chúng bị chỉ trích là xấu. Trên thực tế, tất cả những gì bị kiềm nén và trở lại dưới những hình thái khác và trở thành chất độc hủy hoại đời sống cá nhân và cộng đoàn.

Qua tiến trình biện phân những tình cảm, chúng ta có khả năng lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi chạm đến chúng ta qua lịch sử cá nhân, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội, với những tình cảm và ước muốn mà nó làm nổi lên trong chúng ta. Vì thế, khi sự tự biết mình được nhìn ra và chấp nhận như là một ơn gọi, nó mang lấy một phẩm giá cao cả của sự thật về chính mình, và chúng ta không thể làm gì hơn ngoài việc trung thành. Điều đặc biệt quan trọng là sự kiên trì được bao gồm trong tiến trình hoàn thành sự quyết định cuộc đời của chính mình và biểu lộ nó trong trung thành gìn giữ sự thật về chính mình, như nó đã xuất hiện trong lịch sử cá nhân của chính mình qua những kinh nghiệm đã sống. Trên thực tế, chỉ có sự tự biết mình như thế mới có khả năng giúp người ta bước một bước rõ ràng dứt khoát hướng về tương lai, một tương lai không biết trước những tình huống, và kiên trì trong một tình trạng sống, cho dù trong những khó khăn, thì vẫn ở lại trong sự lựa chọn cuộc đời của chính mình.

Quà tặng và nghĩa vụ

  1. Sự tự biết mình trong việc biện phân những tình cảm, được biểu lộ qua một cuộc đời được nghĩ và sống như là một cuộc đáp trả hồng ân Thiên Chúa, là hồng ân đi trước và khơi gợi một sự hiến dâng chính mình vô điều kiện cho Thiên Chúa và cho đồng loại. Trên thực tế, chỉ trong động thái hiến dâng không điều kiện mà sự thể hiện bản thân theo Tin Mừng của Chúa Giêsu mới khả thi. Tìm kiếm sự thể hiện bản thân là một chiều kích được cảm nhận sâu sắc trong nền văn hóa của chúng ta. Tuy nhiên, trong ơn gọi làm môn đệ của người Kitô hữu, điều ấy không thể nào được ước muốn hay đòi hỏi cách kín đáo, bởi vì làm như vậy là đánh mất ý nghĩa sâu xa của việc hiến dâng chính mình trong Chúa Kitô, cho Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Trong cái nghịch lý của Kitô giáo, ngay tận gốc rễ sâu xa của con người, sự thể hiện bản thân được cống hiến cho những ai biết rằng mình phải trao tặng chính mình mà không dè giữ, ngay cả chấp nhận cái chết, bởi vì “cuộc sống trần thế của chúng ta đạt đến tình trạng viên mãn khi nó biến thành một của lễ hiến dâng.”[64] Nếu cầm giữ lại cuộc sống thì nó bị đánh mất. Còn nếu như cuộc sống được cho đi thì nó sẽ được gặp lại cách tròn đầy kỳ lạ. Tin Mừng mặc khải chân lý sâu thẳm về đời sống con người: Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy (Mc 8,35). Món quà được nhận lãnh mời gọi chúng ta hoàn trả lại những gì đã được giao phó cho chúng ta, theo như động thái sinh hoa lợi chân thật. Chiều kích mầu nhiệm Phục Sinh mang lại cho người Kitô hữu, những người nam nữ thánh hiến, một cảm thức của sự tròn đầy, nó cho phép họ sống cuộc đời của chính mình mà không bị phụ thuộc vào việc cần phải liên tục khẳng định sự chọn lựa và cũng không bị thống trị bởi nỗi sợ hãi quen thuộc vẫn thường xuất hiện trong cuộc sống. Những người thánh hiến nhận thức được rằng trong những dấu chỉ của những giới hạn, của yếu đuối và khổ đau, họ mang lấy bên trong tâm hồn một sự tròn đầy về sự hiện hữu của chính mình cách mạnh mẽ hơn và chân thật hơn. Sự chắc chắn về tính tự thông truyền của Thiên Chúa trong lịch sử, về việc tự hạ của Ngài nơi sự yếu đuối của con người, nuôi dưỡng niềm hy vọng có thể chiến thắng những giới hạn của chính mình trong sự kiên trì hiến dâng chính mình, tuy không coi nhẹ những khủng hoảng và hiểm họa.

Một sự tự do có trách nhiệm

  1. Cuộc đời cần được luôn luôn sống như một ơn gọi, bởi vì Thiên Chúa không mệt mỏi gia tăng quà tặng của Ngài. Vì thế, điều này ngụ ý rằng hành trình đào tạo sự trung thành kiên trì đặt ra những điều kiện cho sự tự do có trách nhiệm và cho việc liên tục thẩm định nó trong thời gian tập luyện biện phân thật sự. “Để đáp trả lại ơn gọi của chúng ta, chúng ta cần phải nuôi dưỡng và phát triển tất cả những gì chúng ta là. Đây không phải là sáng chế bản thân hoặc tạo dựng chính mình từ hư vô, nhưng là việc khám phá con người thật của chính mình trong ánh sáng của Thiên Chúa và để cho cuộc sống của chúng ta được thăng hoa và kết quả.”[65] Nó không chỉ là việc nhạy cảm nội tâm hòa hợp với giai điệu của Chúa Thánh Thần, nhưng còn là một sự rèn luyện liên tục cảm thức thiêng liêng đưa ra sự lựa chọn tự do của người thánh hiến, một ơn gọi tình người – Đức Thánh Cha Phaolô VI trong bài diễn từ nổi tiếng tại Liên Hiệp Quốc đã định nghĩa Giáo Hội như là một nhà chuyên môn về tình người[66] – luôn luôn có khả năng để nhận ra biến cố cứu độ nằm đằng sau và bên trong bản tính con người và cuộc sống hằng ngày trong lịch sử.

Việc đào luyện sống kiên trì cần được hiểu không như là một cố gắng của ý chí tập trung vào chính mình; nó nhằm mục đích đánh thức lại, hồi sinh (xc. 2Tm 1:5) thái độ đáp trả lại món quà đã được lãnh nhận, thực hành một sự nhạy cảm nội tâm tinh tế, là điều mà chúng ta không luôn luôn nhận thức được. Đây là bước đầu tiên của việc biện phân, một món quà mà Thiên Chúa ước muốn mãnh liệt đánh thức nó trong tất cả những người tin, để họ có thể “hòa hợp” với quà tặng Thần Khí trong trái tim họ.

Tất cả những điều này phải được biểu lộ nơi một sự lựa chọn cuộc sống, nhấn mạnh khả năng của con người có thể lập kế hoạch cho mình trải qua thời gian và chấp nhận những cam kết bền vững giống như là những chiều kích thiết yếu trong căn tính cá nhân và tương quan, và trong sự nhất quán luân lý của đời sống thánh hiến của chính mình. Mặc dù việc quyết định cuộc đời diễn ra trong một khoảnh khắc nhất định của cuộc sống, nó mang đặc điểm là lời đáp trả cho một quá khứ của hồng ân, mở ra một mục tiêu hướng dẫn tất cả đời sống (kế’ hoạch) và trở thành traditio, hiến dâng chính mình qua những tháng ngày và những công việc của đời sống. Với sự quyết định của mình, người thánh hiến đưa ra sự thỏa thuận

hoàn toàn cho cảm nghiệm về thánh ý Chúa: tiếng xin vâng của họ là một sự ưng thuận cho những gì họ là và cho những gì Thiên Chúa muốn dành cho họ. Họ đóng ấn nó với sự bằng lòng tự do và kiên quyết, được biểu lộ qua nghi thức tuyên khấn hoặc thánh hiến. Sự quyết định hôm nay, dựa vào món quà đã được cảm nghiệm và nhắm ngày mai. Như thế, nó đi trước tương lai chưa hiện hữu và chỉ trong tầm nhìn này mà lời hứa trung tín của Thiên Chúa và giá trị sự quyết định của chúng ta- đó là sự kiên định của nó- mới xuất hiện cách rõ ràng.

Đối thoại giữa các lương tâm: lời nói và mặt tốt

  1. Trong quan điểm này, biện phân sẽ có vị trí riêng biệt của nó trong việc đối thoại giữa các lương tâm, và đặc biệt trong truyền thống khôn sánh của việc đồng hành thiêng liêng, đặt nền tảng trên sự khôn ngoan sâu xa của con người. Trên thực tế, những tình cảm cần phải được biểu lộ ra bằng lời. Nếu một người khép kín chính mình lại, người ấy trở thành tù nhân cho cảm xúc của mình. Mặt khác, qua lời nói trong đối thoại, con người ta có khả năng nhìn nhận mặt tốt đang bị đe dọa trong chính kinh nghiệm cá nhân của mình và chạm đến mối tương quan giữa mình với những người khác. Trong việc đối thoại với người khác, người ta học cách chấp nhận điều tốt đã hiện diện trong những kinh nghiệm căn bản nền tảng trong cuộc sống, một khía cạnh quyết định luân lý lương tâm của mọi người tín hữu, và đặc biệt là của người thánh hiến.

Bản chất đặc trưng của đời sống thánh hiến đòi hỏi một sự huấn luyện luân lý liên tục và lâu dài. Đó là vấn đề đào tạo sự tự do cá nhân, tham gia trong một cuộc trao đổi đầy hoa trái với những người khác, và trong sự bằng lòng sẵn sàng khám phá sự thiện hảo, nơi mà Thiên Chúa kêu mời chúng ta bước vào cuộc sống viên mãn. Truyền thụ đạo lý và các quy tắc, thường mới chỉ được biết đến cách hời hợt và nông cạn, thì vẫn chưa đủ; cần phải gợi nhớ lại quá khứ của chính mình: nơi mà ta có thể tìm gặp lại chính mình và thấm nhuần động lực luân lý cá nhân của chính mình. Tiến trình này không thể là tiến trình thuần túy cá nhân, nhưng được khơi lên nhờ những mối tương quan tốt giữa các cá nhân với nhau. Lòng biết ơn những điều tốt lành xảy ra trong tình huống cụ thể, trong sự chọn lựa cá nhân. Về bản chất, nó là chấp nhận trách nhiệm đối với việc đào luyện lương tâm của chính mình. Đối thoại trong thời gian đồng hành thiêng liêng là một nơi và thời gian thuận lợi đặc biệt cho việc này.

Trên thực tế, đồng hành thiêng liêng là một sự đối thoại được nâng đỡ bằng sự sẵn lòng cộng tác trong khung cảnh của một mối tương quan, qua sự tôn trọng lẫn nhau, làm cho việc lắng nghe và đáp trả có thể xảy ra – hoặc đề nghị lại – những giá trị cần được thừa nhận, lựa chọn, hấp thụ. Trong Tông Huấn Christus vivit, Đức Thánh Cha Phanxicô mạnh mẽ mời gọi chúng ta hãy thực hành linh đạo lắng nghe,[67] trên hết và trước hết là phải chú ý lưu tâm đến con người: “Một dấu chỉ sẵn lòng lắng nghe là thời gian chúng ta sẵn sàng dành cho người khác. Còn hơn là lượng thời gian mà chúng ta dùng, về việc làm cho người khác cảm thấy thời gian của tôi chính là thời gian của họ, rằng họ có toàn bộ thời gian họ cần để nói ra hết tất cả những gì họ muốn. Người khác phải cảm nhận được rằng tôi đang lắng nghe cách vô điều kiện, mà không cảm thấy bị xúc phạm hay sốc, mệt mỏi hay chán chường.”[68]

Sự đối thoại giữa các lương tâm là một công cụ quý báu của việc biết mình, một cơ hội để đối chất và lượng định khách quan, để biện phân không chỉ về những gì cần phải làm nhưng còn về những gì đã làm được, ngõ hầu rút ra từ kinh nghiệm và từ những lựa chọn đã và vẫn đang hướng dẫn con người chúng ta, suy nghĩ và hành động như là những người thánh hiến. Tiến trình đào tạo sơ khởi và đào tạo liên tục mang lại những khả năng cụ thể, nhắm vào việc kích thích và gìn giữ bảo vệ những tiềm lực của chính mình.

  1. Trong tiến trình biện phân, toàn thể con người được huy động vào việc đáp trả những lời kêu gọi mà Thiên Chúa đưa ra trong dòng lịch sử cá nhân và cộng đoàn. Một sự biện phân thiêng liêng mà không đi vào phạm vi luân lý đạo đức thì sẽ bị rút gọn vào một sự tiếp cận mơ hồ, không kéo theo bất cứ lời cam kết nào với cộng đoàn và trong thế’ giới. Một loại linh đạo như thế này sẽ dễ dàng rơi vào việc biện minh cho tính quy ngã, đi tìm sự thân mật, hoặc rơi vào sự thỏa mãn vì được gia nhập một nhóm người ưu tuyển, đứng trên các thành phần khác của Dân Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh nhiều lần về sự cám dỗ này, mang nhãn hiệu “ngộ đạo” (gnosticismo)[69] bị lên án như là một linh đạo xa rời trần thế.[70] Mặt khác, một sự biện phân luân lý không bám rễ trong cảm nghiệm tâm linh sẽ bị rút gọn thành một quyết tâm luân lý, hoặc chỉ là một sự tuân thủ bề ngoài, mà chẳng có hồn sống và không hiểu biết ý nghĩa. Vì lý do này, biện phân là một phạm trù luân lý và tâm linh, là điểm gặp gỡ giữa luân lý và linh đạo, nơi mà sự đa dạng trong việc tiếp cận cùng một thực tại biểu lộ sự phong phú nhân bản và thần học của một con người được mời gọi sinh hoa trái cho thế giới trong Đức Kitô.[71]
    Những quyết định rõ ràng dứt khoát
  2. Sự cần thiết của một hành trình biện phân và liên lỉ đào luyện lương tâm, như là một hành trình trung tín có trách nhiệm đối với những đòi hỏi của đời sống thánh hiến, có một tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ vào thời nay. “Thời buổi ngày nay đang bị thống trị bởi một nền văn hóa của sự tạm bợ, nhưng đó là một ảo tưởng. Nghĩ rằng không có gì là lâu dài vĩnh viễn là một sự dối trá lừa bịp.”[72] Những người thánh hiến đang sống trong bối cảnh của “xã hội lỏng lẻo” này, trong đó cảm thức về những chọn lựa rõ ràng dứt khoát đã biến mất khỏi ngôn ngữ và văn hóa. Như thế’ thật là khá cam go khi đề nghị một sự cam kết suốt đời cho những người nam nữ thời đại chúng ta. Khung cảnh xã hội-văn hóa thời nay mang đặc tính là mở ra cho những cơ hội luôn luôn mới mẻ; vì thế, một quyết định cuối cùng dứt khoát thường bị trì hoãn, nếu không muốn nói là hoàn toàn bị xóa bỏ, trong cái ảo tưởng khả năng có thể đạt đến sự thành tựu cá nhân mà không quan tâm đến một sự cam kết bao hàm toàn bộ cuộc sống của chính mình. Còn trong những trường hợp tiến tới một quyết định vĩnh viễn, nó thường tỏ ra bấp bênh đáng lo ngại. Cách riêng, khi xét đến đời sống thánh hiến, người ta thấy ngỡ ngàng trước những khoảng thời gian và cách thức mà nhiều người nam nữ thánh hiến quyết định rời bỏ ơn gọi đã được lựa chọn như là một quyết định dứt khoát, ngay cả sau một hành trình đào tạo dài và khắt khe, và cũng sau những giai đoạn quan trọng trong việc thử nghiệm của chính mình về đời sống thánh hiến và linh mục – (cũng nên lưu ý đến đề nghị kéo dài thời gian khấn tạm thông thường ra chín năm)[73]
  3. Việc sống thử liên tục dường như diễn tả một điểm then chốt trong nền văn hóa và tâm thức đương thời, đặc biệt là ở Tây Phương: số phận của một người phải luôn luôn tuyệt đối để mở và nằm trong tay của đương sự quyết định. Vì thế, không ngạc nhiên khi thấy một sự suy giảm đối với những lựa chọn cuối cùng dứt khoát. Văn hóa và não trạng hẳn là trái ngược với những ai muốn lựa chọn hoặc đã lựa chọn một nếp sống dứt khoát rõ ràng; thêm vào đó phải kể đến sự thiếu trân trọng giá trị của việc trao hiến mình vô vị lợi cho người khác. Hơn nữa, bối cảnh xã hội của chúng ta tỏ ra hiểu biết và cảm thông đối với những người phá vỡ những mối ràng buộc đã được cam kêt vĩnh viễn. Không thể giấu rằng nền văn hóa và tâm thức này đang xâm nhập vào đời sống thánh hiến, hủy hoại chính khái niệm về ơn gọi, được hiểu theo truyền thống như là một giao ước tồn tại suốt cuộc đời và phải được hoàn tất trong quá trình cuộc sống của chính mình. Ngay cả trong cộng đoàn Kitô hữu – so sánh với quá khứ gần đây – có sự suy yếu trong những mong đợi về ơn gọi không thể rút lại, hoặc sự kiên định trong một bậc sống.

Khám phá những dấu hiệu mới

  1. Trong cái nhìn của một vài người thì dường như là bình thường khi chất vấn về tính không thể rút lại một quyết định trong đời, và còn đối với nhiều người, họ chất vấn luôn cả việc xét lại một quyết định cam kết trót đời. Không ai giả thiết rằng đây là một quyết định dễ dàng hoặc hời hợt. Trong những sự lựa chọn nhắm đến việc khám phá sự thật về chính mình thì không thể loại bỏ sự cần thiết của việc đồng hành. Đặt những người khác đứng trước chuyện đã rồi thì chẳng giúp ích gì cho việc hiểu ra những khó khăn của chính mình. Một đàng, cần phải cố gắng đối thoại với người bên cạnh ta hoặc muốn gần gũi với ta, để khỏi trở thành tù nhân của sự cô độc làm ngăn trở tự do và trách nhiệm: ý nghĩa của một sự lựa chọn cuộc đời và cái nhìn về một tương lai đầy ý nghĩa đang bị đe dọa. Đàng khác, khi đồng hành với những người đang trải qua khủng hoảng, không nên đặt quá nhiều giả thuyết về những quyết định sẽ được đưa ra, nhưng nên cho phép dấu hiệu mới cần được khám phá lại trong việc đi đến hoàn tất hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa và cho người khác. Nếu trên thực tế, việc có khả năng nhận ra sức mạnh của chính mình và biết được những giới hạn nguồn lực của chính mình là điều quan trọng, thì cũng không kém phần quan trọng đó là ghi nhớ rằng người ta có thể cam đảm vượt qua giới hạn đã được nhận biết, được đồng hành bằng tình huynh đệ, sự thân thiện, và đồng thời bằng sự gần gũi minh bạch trong sáng, những điều này soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ việc biện phân trong những lúc bị thử thách.

Mở ra một con đường mà trong đó người ta cảm thấy bị phơi bày ra những bóng tối nằm bên dưới có thể dập tắt ước muốn trở lại với ánh sáng. Nên tránh đi vào con đường quy ngã, tự xoay sở để giải quyết khủng hoảng của mình, bởi vì điều này có thể mang lại nguy cơ là dẫn đến thái độ phó mặc hoặc chấp nhận tình trạng không nhất quán hoặc thiếu trung tín của mình. Không chỉ như thế, tệ hơn là không đi đến kết luận nào, và để rơi vào một thứ lang thang thiêng liêng, tìm kiếm một người nào đó có thể tìm thấy giải pháp cho tình trạng bấp bênh của chính mình. Trong trường hợp dự đoán sẽ tới một quyết định khác với sự lựa chọn đã được thực hiện, được củng cố bằng những lý do hợp tình, thì quyết định đó cần phải được kiểm chứng nhờ những người, những thời gian và phương thức thích hợp. “Cần tránh những phán đoán mà không đếm xỉa gì tới tính cách phức tạp của những tình huống khác nhau, và họ cần phải lưu ý đến những hoàn cảnh mà người ta đang trải qua và phải đau khổ.”[74] Những tình huống và thời buổi khủng hoảng, vốn đã phức tạp do thân phận con người, không thể trở nên nặng nề hơn bởi lo lắng tìm kiếm một giải pháp càng sớm càng tốt, với nguy cơ là không đối diện với những vấn đề thực sự của cá nhân mà cuộc khủng hoảng đã phơi bày ra. Vì thế sự tập trung bị chuyển sang sự phê bình chỉ trích môi trường sống của mình, để giấu giếm và che đậy cuộc chiến đấu thật sự của chính mình. Những khó khăn có thể gặp thấy, hoặc ngay cả phải chịu đựng, không loại trừ, và trong một vài trường hợp còn tỏ rõ hơn, những lối sống thể hiện dần dần và tiệm tiến thái độ thiếu trách nhiệm, đến mức hoàn toàn xa lạ và ghẻ lạnh đối với chính cộng đoàn của mình.

III. ĐỂ CHO MÌNH ĐƯỢC ĐỒNG HÀNH TRONG THỜI GIAN THỬ THÁCH

CHIỀU KÍCH CỘNG ĐOÀN

Đời sống huynh đệ: nâng đỡ sự kiên trì

  1. Nếu thiếu một đời sống huynh đệ lành mạnh tốt đẹp, việc đồng hành thiêng liêng với từng cá nhân gặp nhiều nguy cơ. Sự nguy hiểm luôn luôn rình rập đi tìm một tương quan thân mật, vắng bóng cộng đoàn chân thật, trong đó chúng ta nói với người ấy điều mà mình ước muốn trở nên nhưng lại không nói mình thật sự như thế nào. Viễn tượng về một đời sống chung hiểu như là schola amoris (trường học yêu thương), đưa chúng ta tập trung vào điều có thể thực sự trở thành một cơ hội cho sự trưởng thành và biến đổi. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy xây nhà, tạo ra một ngôi nhà,“để cho lời ngôn sứ được mặc lấy hình hài và làm cho những giờ phút và ngày tháng của chúng ta bớt lạnh lẽo, bớt thờ ơ lãnh đạm và bớt vô danh.”[75] Xây nhà là “tạo ra những mối liên kết bằng những hành động đơn sơ thường nhật mà tất cả chúng ta đều có thể thực hiện. Một ngôi nhà, như tất cả chúng ta đều biết, đòi hỏi sự hợp tác của tất cả mọi người. Không ai có thể thờ ơ hoặc xa lạ, bởi vì mỗi người là một viên đá cần thiết để xây dựng ngôi nhà.”[76] Cộng đoàn của những người nam nữ thánh hiến, càn ngày càng trở nên đa văn hóa, là một thí điểm tuyệt vời cho tình huynh đệ trong đa dạng này. Chúng ta được mời gọi hình thành những cộng đoàn nhân bản, nơi tiếp đón và chấp nhận những giới hạn. Theo cách này, tình huynh đệ “là một sự nâng đỡ vô giá cho sự kiên trì của nhiều người.”[77] Một sự kiên trì như thế có thể đạt miễn là tôn trọng một vài điều kiện làm nền tảng của tiến trình trưởng thành liên bản vị: những con người biết ý thức cách đan dệt những mối tương quan, và đồng trách nhiệm đối với những tiềm năng xuất hiện từ mối tương quan hỗ tương. Hai điều kiện này có những hệ quả thực tiễn quan trọng đối với sự tiến triển có tính chất biến đổi của nhóm, bởi vì họ giúp khám phá lại mục đích của đời sống chung và liên kết chặt chẽ với ý nghĩa ơn gọi trong cuộc đời của mình.

Một cung cách đón tiếp

  1. Hệ quả đầu tiên có liên quan đến khả năng vượt lên trên chính mình, bởi vì sự nhận thức về những giới hạn của chính mình là một lời mời gọi nhìn xa hơn những sự kiện đầy đau đớn. Kinh nghiệm của sự ra đi đặt câu hỏi cho mọi người về cung cách tương quan của mình, vì biết rằng “sự hiệp nhất mà họ phải xây dựng là một sự hiệp nhất bằng cái giá là sự hòa giải.”[78] Điều này là khả thi khi dựa trên vào một cái nhìn chung về cuộc sống, được hiểu như là một cơ hội quý báu để khám phá lại tính liên tục trong kế hoạch của Thiên Chúa, ngay cả trong sự đa dạng của những tình huống được kinh qua. Hệ quả thứ hai liên có quan đến sự quan tâm mà người ta dành cho nhau. “Trong một cộng đoàn huynh đệ chân chính, mỗi phần tử đều cảm thấy đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của những người khác. Mỗi người đóng góp cho bầu khí thanh bình của đời sống chia sẻ, của sự hiểu biết và sự trợ giúp hỗ tương, mỗi người lưu tâm đến những lúc chán nản, đau khổ, cô đơn hay những lúc thiếu sự động viên nơi những người khác ; mỗi người sẵn sàng nâng đỡ những ai bị buồn sầu vì những khó khăn và thử thách.”[79]

Hệ quả thứ ba có đặc trưng tình cảm nhiều hơn, liên quan đến kinh nghiệm cảm xúc trong nhóm. Trên thực tế, người ta có thể kinh nghiệm sự chuyển tiếp từ tình trạng bấp bênh không an toàn sang một cung cách yêu thương quý trọng lẫn nhau, nếu họ khám phá lại giá trị giáo dục của tình yêu huynh đệ. Chỉ có như thế người ta mới có thể thiết lập những mối tương quan, nơi mà mọi người đều cảm thấy được mời gọi “có trách nhiệm đối với sự thăng tiến của anh chị em; những người cởi mở và có khả năng lãnh nhận quà tặng của người khác; cũng như có khả năng giúp đỡ và được giúp đỡ; những người có thể thay thế’ và có thể được thay thế.”[80] Sự hỗ tương chân thành này, dựa trên gương mẫu Chúa Giêsu, sẽ giúp các thành viên trong mọi cộng đoàn tu sĩ và trong mọi thực tại của đời sống thánh hiến, để tìm lại bầu không khí tin tưởng, khuyến khích họ chấp nhận nguy hiểm theo cách riêng của họ để yêu thương, khám phá lại trong đời sống huynh đệ ý nghĩa của một sự hiệp thông, sự hiệp thông giúp củng cố con tim và chiến thắng sự sợ hãi về tính bấp bênh không an toàn. Chắc chắn rằng, ngay cả trong lúc bị thử thách, “Tình yêu Chúa Kitô đổ đầy tràn lòng chúng ta, thôi thúc chúng ta yêu thương anh em và chị em mình đến độ nhận lấy những yếu đuối, những vấn đề và những khó khăn của họ. Tắt một lời : yêu đến mức trao ban chính mình.”[81]

Tập trung về Thiên Chúa, bám trụ vào Ngài

61. Câu chuyện của mỗi người trong chúng ta được đan dệt vào trong câu chuyện cuộc đời của những người anh chị em, những người mà chúng ta chia sẻ cùng một ơn gọi, và điều này không bao giờ chỉ là sự ngẫu nhiên, nhưng là kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, Đấng biến đổi câu chuyện của mỗi người thành một hành trình chung tìm kiếm dung nhan Ngà. Trong cuộc sống hằng ngày những người nam nữ thánh hiến mang lấy gánh nặng cho nhau (Gl 6,2) có nghĩa là chấp nhận những đau khổ, khó khăn, và lo lắng. Cụ thể nó là làm cho lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trở thành của chính mình, lời mời gọi “tập trung về Thiên Chúa và bám trụ vào Ngài, Đấng yêu thương và bênh đỡ chúng ta. Nhờ vào việc bén rễ sâu trong Thiên Chúa, người ta sẽ có thể chịu đựng và kiên nhẫn trước những nghịch cảnh, những thăng trầm của cuộc sống, kể cả những thái độ thù địch của người khác, cũng như sự bất trung và những khiếm khuyết của họ: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8,31). Đây chính là nguồn mạch bình an được biểu lộ trong những thái độ của một thánh nhân. Trong một thế giới gia tốc, thất thường và hung hăng của chúng ta, chứng tá về sự thánh thiện, được bén rễ sâu xa nội tâm, sẽ bao gồm cả sự kiên nhẫn cũng như sự kiên định trong những điều tốt lành. Đó là sự trung tín của tình yêu, bởi vì phàm ai nương tựa vào Thiên Chúa (tiếng Hy-lạp là pistis), thì người ấy cũng sẽ có thể trung tín với những người anh chị em (tiếng Hy-lạp là pistos), và trong những thời điểm nguy nan, họ sẽ không bỏ rơi những người anh chị em mình trong lúc gian nan, người ấy sẽ không để cho mình bị cuốn theo sự xao xuyến, và luôn luôn kiên tâm đứng bên cạnh những người anh chị em cho dù khi điều đó không mang lại cho mình những thỏa mãn tức khắc.”[82]

—————-

[1] Đức Thánh Cha Phanxicô, Suy Gẫm Mỗi Ngày trong Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae, (2-6-2014), trong nhật báo L’Osservatore Romano, năm CLIV, số 124, Thứ Ba, 3-6-2014.

[2]    Đức Thánh Cha Bêneđictô XVI, Buổi tiếp kiến chung, Vaticanô, (30-5-2012).

[3]     Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Vita consecrata, (25-3-1996), 20.

[4]     Đức Thánh Cha Phanxicô, Suy Gẫm Mỗi Ngày trong Nhà Nguyện Domus Sanctae Marthae, Ký ức và Hy Vọng, (1-2-2019).

[5]    Như trên.

[6]    Như trên.

[7]    BỘ DÒNG TU VÀ TU HỘI ĐỜI, Những yếu tố cốt yếu của giáo huấn Hội Thánh về các Hội Dòng chuyên lo hoạt động tông đồ, Roma, (31-5-1983), 37.

[8]     Xc. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita consecrata, (25-3-1996), 70.

[9]    CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế’ Tín Lý về Giáo Hội Lumen gentium, 46.

[10]  Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông Điệp Sacerdotalis caelibatus, (24-6-1967), 24.

[11]  Đức Thánh Cha Phaolô VI, Thông Điệp cho Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ IV, (05 / 03 / 1967).

[12]  Xc.Đức Thánh Cha Phaolô VI, Tông Huấn Evangélica testificatio, (29-6-1971), 34.

[13]  Đức Thánh Cha Phaolô VI, Bài Phát Biểu cho Đại hội thế giới các Tu hội đời lần I, Vaticano, (25-8-1976).

[14]  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Redemptionis donum, (24-3-1984), 17.

[15]  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita consecrata, (25-3-1996), 70.

[16]  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita consecrata, (25-3-1996), 17.

[17]  Như trên, 93.

[18]  Như trên, 19.

[19]  Như trên, 62.

[20]  Như trên, 71.

[21]  Như trên, 21.

[22]  Như trên, 110.

[23]  Xc Như trên, 86.

[24]  Xc Như trên, 37.

[25]  Như trên, 63.

[26]  Như trên, 86.

[27]  Như trên.

[28]  Xc. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về việc thích nghi và canh tân đời sống tu trì Perfectae caritatis, (28-10-1965), 15.

[29]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Bắt đầu lại nơi Chúa Kitô. Bổn Phận Canh Tân trong Đời Sống Thánh Hiến trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, (19 / 05 / 2002).

[30]   Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Potissimum institutioni. Những Chỉ Dẫn Về Việc Huấn Luyện Trong Các Hội Dòng, (2-2-1990).

[31]  Như trên, 26.

[32]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor, (2-2-1994).

[33]  Như trên, 57.

[34]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô. Canh tân cam kết sống đời thánh hiến trong ngàn năm thứ ba, (19-5-2002), 18.

[35]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huân Thị Quyền Bính và Vâng Phục. Faciem tuam, Domine, requiram, (11-5-2008).

[36]  Xem Như trên, 30.

[37]  CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh Presbiterorum ordinis, 16.

[38]  Xc. Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô. Canh tân cam kết sống đời thánh hiến trong ngàn năm thứ ba, (19-5-2002), 10.

[39]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Potissimum institutioni. Những Chỉ Dẫn Về Việc Huấn Luyện Trong Các Hội Dòng, (2-2-1990), 19

[40]  Xc. Như trên, 29.

[41]  Như trên 67.

[42]    Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita consecrata, (25-3-1996), 37.

[43]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor, (2-2-1994), 28.

[44]  CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen gentium, 43.

[45]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor, (2-2-1994), , 28.

[46]  Xc. Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huân Thị Quyền Bính và Vâng Phục. Faciem tuam, Domine, requiram, (11-5-2008), 7.

[47]  Như trên.

[48]  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng

Vita consecrata, (25-3-1996), 45.

[49]  Như trên, 51.

[50]  Như trên, 57, 58.

[51]  Như trên.

[52]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn Thị Quyền Bính và Vâng Phục. Faciem tuam, Domine, requiram, (11-5-2008), 30.

[53]  Đức Thánh Cha Phanxicô, Gặp Gỡ Chủng Sinh và Tập Sinh, Vaticano, (6-7-2013).

[54]  Đức Thánh Cha Phanxicô, Chân Thật và Nhất Quán, Đức Thánh Cha Phanxicô nói về vẻ đẹp của việc tận hiến, [Gặp Gỡ Các Chủng Sinh và Tập Sinh, Roma, 6-7-2013], trong L’Osservatore Romano, ngày thứ Hai và thứ Ba 8 &9-7-2013, CLIII (155), trang 6.

[55]  Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huấn thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor, (2-2-1994), 25.

[56]  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita consecrata, (25-3-1996), 70.

[57]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn Gaudete et exsultate, (19-3-2018), 175.

[58]     Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Amoris laetitia, (19-3-2016), 37.

[59]    Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Kinh Truyền Tin, Vaticano, (30-6-2013).

[60]     CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Mục Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et spes, 16.

[61]    Xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Kinh Truyền Tin, Vaticanô, (30-6-2013).

[62]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn Gaudete et exsultate (19 / 03 / 2018), 174.

[63]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Phát Biểu trong Đêm Canh Thức với những người trẻ trong dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXXIV tại Panama, Panama, (26-1-2019).

[64]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, (25-3-2019), 254.

[65]    Như trên, 257.

[66]    Xc. Đức Thánh Cha Phaolô VI, Diễn từ tại Liên Hiệp Quốc, (4-10-1965).

[67]     Xc. Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, (25-3-2019), 244.

[68]    Như trên, 292.

[69]    Xc. Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn Evangelii gaudium, (24-11-2013), 94.

[70]    Xc. Như trên, 78, 82, 88, 89, 90, 91, 94, 180, 183, 207, 262.

[71]   Xc. CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Sắc Lệnh về Đào Tạo Linh Mục Optatam totius, 16.

[72]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus

vivit, (25-3-2019), 264.              ’

[73]    Xc. THÁNH BỘ TU SĨ VÀ TU HỘI ĐỜI, Renovationis causam. Hướng Dẫn về việc Canh Tân việc Huấn Luyện Tu Sĩ, (6-1-1969), 6.

[74]    KHÓA HỌP THÔNG THƯỜNG LẦN THỨ XIV CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG, Tường trình chung kết, (24-10-2015), 51; được trích dẫn trong: ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris laetitia, (19-3-2016), 79.

[75]    Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christus vivit, (25-3-2019), 217.

[76]    Như trên.

[77]    Bộ các Hội Dòng thánh hiến và các Tu Đoàn tông đồ, Huân thị Đời Sống Huynh Đệ trong Cộng Đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor, (2-2-1994), 57.

[78]    Như trên, 26.

[79]    Như trên, 57.

[80]    Như trên, 24.

[81]    Như trên, 21.

[82]   ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, Tông Huấn Gaudete et exsultate, (19-3-2018), 112.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here