Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Tông Thư Mulieris Dignitatem
(Phẩm Giá Của Người Phụ Nữ)
Ban hành ngày 15.08.1988
VỀ PHẨM GIÁ VÀ ƠN GỌI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Bản dịch của LM. Augustino Nguyễn Văn Trinh
(trích từ: Huấn quyền về Đức Maria, NXB Tôn giáo 2007, trang 243-330)
VII. HỘI THÁNH – HIỀN THÊ CỦA ĐỨC KITÔ
“Mầu nhiệm cao cả”
23. Những lời trong thư của thánh Phaolô gửi giáo đoán Êphêsô có một ý nghĩa nền tảng cho vấn đề này: “Hỡi người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả; tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,25-32).
Trong thư này, tác giả nói đến chân lý về Hội Thánh là hiền thê của Đức Kitô, đồng thời cho thấy chân lý này đặt nền tảng trên Thánh Kinh về việc tạo dựng con người có nam có nữ. Được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa “như sự hợp nhất giữa hai người”, cả hai được mời gọi để đi đến tình yêu phu phụ. Dựa theo trình thuật sáng tạo trong đoạn St 2,18-25, có thể nói rằng ơn gọi nền tảng này xuất hiện cùng lúc với việc tạo dựng người phụ nữ và được Đấng Sáng Tạo ghi vào định chế hôn nhân; định chế này theo đoạn St 2,24 ngay từ đầu đã mang đặc tính của một sự hiệp thông nhân vị (communio personarum). Dù không trực tiếp, nhưng cách trình bày về “khởi nguyên” (x. St 1,27 và 2,24) cho thấy toàn bộ “luân lý – Ethos” của những liên hệ hỗ tương giữa người đàn ông và người đàn bà phù hợp với chân lý nhân bản sự hiện hữu của họ.
Tất cả những điều này đã được bàn đến bên trên. Thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô củng cố chân lý đã được trình bày và đồng thời so sánh đặc tính hôn nhân của tình yêu giữa người đàn ông và người đàn bà với mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh. Đức Kitô là hôn phu của Hội Thánh, Hội Thánh là hôn thê của Đức Kitô. Cách suy luận này đã có từ trước và chuyển sang Tân Ước những gì đã có trong Cựu Ước, đặc biệt nơi các tiên tri Hôsê, Giêrêmia, Êdêkien và Isaia [48]. Những đoạn này cần được phân tích đặc biệt. Chúng ta chỉ trích một đoạn thôi. Thiên Chúa phán với dân được tuyển chọn qua vị tiên tri như sau: “Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa. Vì Đấng Sáng tạo của ngươi là hôn phu của ngươi! Người được gọi là “Chúa các đạo binh”. Đấng Thánh của Israel là Đấng giải thoát ngươi. Người được gọi là “Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ” (…) Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành? Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi phán như vậy (…) Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hòa bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54,4-8.10).
Nếu Con người – đàn ông và đàn bà – được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, thì Thiên Chúa dùng miệng tiên tri để nói về chính mình, bằng cách sử dụng ngay ngôn ngữ loài người. Trong bản văn của tiên tri Isaia được trích dẫn, cách thức diễn tả tình yêu Thiên Chúa thật “nhân bản”; nhưng tình yêu lại mang tính cách thần linh. Vì là tình yêu của Thiên Chúa nên tình yêu cũng có đặc tính hôn nhân thần linh, dù được trình bày theo cách so sánh với tình yêu của người nam dành cho người nữ. Người phụ nữ và người vợ này chính là Israel, là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, và việc tuyển chọn này có nguồn gốc trong tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ tình yêu này mà giao ước đã ký kết được trình bày như một cuộc hôn nhân nối kết Thiên Chúa lại với dân được Ngài tuyển chọn. Về phía Thiên Chúa, giao ước này như một sự “cam kết” bền vững: Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với tình yêu hôn nhân của Ngài, dù người vợ đã biết bao lần bất trung.
Hình ảnh về tình yêu phu phụ với hình ảnh của vị hôn phu thần linh – một hình ảnh thật rõ ràng trong các bản văn tiên tri – được xác nhận và đạt tới đỉnh cao trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô (5,23-32). Đức Kitô được Gioan Tẩy Giả kính chào là vị Hôn Phu (x. Ga 3,27-29). Đức Kitô sử dụng cách so sánh nơi các tiên tri để áp dụng vào chính mình (x. Mc 2,19-20). Thánh Phaolô nắm vững gia sản Cựu Ước, viết cho giáo đoàn Côrinthô: “Vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết” (2 Cr 11,2). Nhưng trong lá thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô, chúng ta mới gặp được cách diễn tả mạnh mẽ nhất chân lý về tình yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ, dựa theo tình yêu phu thê trong hôn nhân: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25); qua đó chúng ta thấy thánh nhân xác nhận Hội Thánh là hôn thê của Đức Ki tô: “Đấng Thánh của Israel là Đấng giải phóng ngươi” (Is 54,5). Trong bản văn của thánh Phaolô, sự so sánh liên hệ hôn nhân có hai hướng tạo thành “Mầu nhiệm cao cả – sacramentum magnum”. Giao ước giữa đôi vợ chồng “nói lên” đặc tính phu thê của việc liên kết của Đức Kitô và Hội Thánh; việc liên kết này như “mầu nhiệm cao cả” và là “Bí tích” xác định tính bí tích của hôn nhân như giao ước thánh thiện của đôi vợ chồng, của người đàn ông và của người đàn bà. Khi đọc bản văn phong phú và phức hợp này như toàn bộ sự so sánh vĩ đại, chúng ta phải phân biệt giữa thực tại của những tương quan liên vị và “Mầu nhiệm cao cả” được trình bày theo ngôn ngữ biểu trưng.
Tính chất “mới mẻ” của Tin Mừng
24. Thánh Phaolô muốn nói với các đôi vợ chồng, những người đàn ông và những người đàn bà cụ thể, và nhắc họ nhớ lại “luân lý – Ethos” của tình yêu hôn nhân được Thiên Chúa thiết đặt cho hôn nhân từ “thuở ban đầu”. Chân lý về sự thiết đặt này đáp ứng đòi buộc: “Hỡi các người chồng, hãy yêu thương vợ mình”; tình yêu này dựa trên nền tảng dây liên kết đặc biệt và duy nhất, qua đó người nam và người nữ trở thành “một xương một thịt” trong hôn nhân (St 2,24; Ep 5,31). Trong tình yêu này, chúng ta thấy có một sự xác định căn bản về người phụ nữ như một nhân vị, nhờ đó mà cá tính nữ giới có thể phát huy đầy đủ và phong phú. Cũng thế, Đức Kitô hoạt động như vị hôn phu của Hội Thánh, muốn nhìn thấy Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy, không tì vết, không vết nhăn” (Ep 5,27). Đây là “phong cách” của Đức Kitô đối với phụ nữ. Người chồng phải đón nhận tất cả các yêu tố của “phong cách” này làm của mình để đối xử với vợ; tương tự như thế, người đàn ông cũng phải đối xử như vậy đối với phụ nữ trong mọi hoàn cảnh. Như vậy, cả hai, người nam và người nữ, mới sống “hiến dâng vô vị lợi”.
Tác giả thư Êphêsô không thấy có mâu thuẫn gì giữa lời khuyên được viết như thế với việc đòi buộc “người vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa (Kitô); vì chồng là đầu của vợ” (Ep 5,22-23). Tác giả biết rằng thái độ này nằm sâu trong phong tục và truyền thống tôn giáo thời đại, nên phải hiểu và sống cách mới mẻ: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5,21). Hơn nữa, người chồng được gọi là “đầu” của người vợ, như Đức Kitô là Đầu Hội Thánh, chỉ vì Người “hiến mình cho Hội Thánh” (Ep 5,25), thì người chồng cũng phải hiến dâng cả cuộc đời cho người vợ. Trong liên hệ Đức Kitô – Hội Thánh, chỉ có Hội Thánh phải tùng phục; sự tùng phục trong liên hệ giữa người chồng và người vợ không phải là một chiều nhưng là song phương cho nhau. Trong liên hệ với “điều cũ” thì đây là “điều mới”: Đó là “điều mới” của Tin Mừng. Chúng ta gặp nhiều đoạn trong các sách tông đồ làm nổi bật “điều mới” này, cho dù nơi họ, “điều cũ” đã ăn sâu trong truyền thống Israel, trong cách hiểu và trình bày Sách Thánh, tỉ như đoạn St 2 [49].
Lá thư của Thánh tông đồ gửi cho những người sống trong môi trường có cùng suy tư và hành động giống nhau. “Điều mới” mà Đức Kitô đem đến là một thực tại, tạo nền tảng cho một nội dung rõ ràng của sứ điệp Tin Mừng và là kết quả của ơn cứu độ. Đồng thời, ý thức về “việc tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô” trong hôn nhân không phải chỉ dành cho người phụ nữ đối với chồng mình, nhưng phải thấm nhập vào tâm hồn, lương tâm, thái độ và phong tục. Từ ngày xưa, lời mời gọi này không bao giờ ngưng thúc đẩy những thế hệ tiếp nối; đây là lời mời gọi mà con người phải luôn đón nhận cách mới mẻ. Thánh Tông đồ không những viết: “Trong Đức Giêsu Kitô không còn chuyện phân biệt đàn ông hay đàn bà (…)”, nhưng còn thêm: “không còn nô lệ hay tự do” (GI 3,28). Dù vậy, biết bao thế hệ phải lợi dụng câu này để tạo thành nền tảng trong lịch sử nhân loại qua việc xóa bỏ chế độ nô lệ! Và còn biết bao hình thức lệ thuộc cách nô lệ của con người và các dân tộc vẫn chưa biến khỏi môi trường thế giới?
Dù vậy, sự thách thức “luân lý” của ơn cứu độ vẫn rõ ràng và đứt khoát. Tất cả mọi lý do cho sự “tùng phục” người phụ nữ đối với người đàn ông trong hôn nhân phải được giải thích theo nghĩa “tùng phục nhau” của cả hai “trong sự kính sợ Đức Kitô”. Chiều kích tình yêu phu phụ đích thực có nguồn gốc sâu xa trong Đức Kitô, vị Hôn Phu của Hội Thánh là hôn thê của Người.
Chiều kích biểu trưng của “mầu nhiệm cao cả”
25. Trong thư Êphêsô, chúng ta còn thấy một chiều kích thứ hai của việc so sánh này được sử dụng toàn bộ để phục vụ cho “mầu nhiệm cao cả”. Đó là chiều kích biểu trưng. Nếu tình yêu Thiên Chúa đối với con người và với dân Israel được tuyển chọn, được các tiên tri trình bày như tình yêu của hôn phu đối với hôn thê của mình, sự so sánh như vậy sẽ làm nổi bật đặc tính “hôn nhân” và đặc tính thần linh chứ không phải nhân bản của tình yêu Thiên Chúa: “Đấng Sáng Tạo ngươi là chồng ngươi (…) Người được gọi là “Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ” (Is 54,5). Điều này cũng áp dụng vào tình yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Ở đây tình yêu Thiên Chúa được làm nổi bật qua ơn cứu độ do Đức Giêsu hoàn tất. Theo thư thánh Phaolô, tình yêu này “tương tự” như tình yêu hôn nhân của những đôi vợ chồng, nhưng đương nhiên là không “giống” như thế. Vì sự so sánh nói lên sự giống nhau, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự “không giống nhau”.
Chúng ta dễ dàng nhận ra điều này khi nhìn vào người vợ. Theo thư Ephêsô, Hội Thánh chính là người vợ, cũng như đối với các tiên tri, Israel là người vợ: bà là chủ thể tổng hợp chứ không phải cá nhân đơn độc. Chủ thể tổng hợp này là dân Thiên Chúa, có nghĩa là do nhiều người, đàn ông, đàn bà, một cộng đoàn chung với nhau. “Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh” như là một cộng đoàn, là dân Thiên Chúa; và đồng thời Người yêu từng cá nhân trong Hội Thánh này; Hội Thánh được gọi là “thân thể” của Người (x. Ep 5,23), chỉ vì Đức Kitô đã cứu độ tất cả mọi người, nam cũng như nữ, không loại trừ ai. Chính trong ơn cứu độ, chúng ta thấy nổi bật tình yêu này của Thiên Chúa và đặc tính hôn nhân được hoàn thành trong lịch sử nhận loại và vũ trụ.
Đức Kitô bước vào lịch sử và ở lại như người chồng, “dâng hiến mình (cho vợ)”. “Dâng hiến” ở đây có nghĩa “hiến thân vô vị lợi” cách tuyệt hảo và triệt để nhất: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu này” (Ga 15,13). Theo quan niệm này, qua Hội Thánh, mọi người – nam cũng như nữ – đã mời gọi trở thành hôn thê của Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian. Như thế “là hôn thê” và như vậy, tính chất “nữ giới” trở thành biểu trưng của mọi “nhân bản”, như thánh Phaolô nói: “Không còn đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Về phương diện ngôn ngữ, chúng ta có thể nói rằng sự so sánh tình yêu phu thê theo thư Êphêsô, đã đưa “điều thuộc nam tính” hướng về “điều thuộc nữ tính”, vì như chi thể của Hội Thánh, người đàn ông cũng được đưa vào ý niệm “hôn thê”. Điều này không làm cho chúng ta ngạc nhiên; vì Thánh tông đồ diễn tả sứ vụ của ngài trong Đức Kitô và trong Hội Thánh như việc “phải quặn đau để sinh những đứa con ra một lần nữa” (Gl 4,19). Đứng về mặt “nhân tính”, những gì tạo thành con người, có sự phân biệt giữa “nam giới” và “nữ giới”, nhưng đồng thời cả hai bổ túc và soi sáng cho nhau. Điều này chúng ta thấy rõ trong sự so sánh vĩ đại về “vị hôn thê” trong thư Êphêsô. Trong Hội Thánh, mỗi người – nam hay nữ – đều là “hôn thê”, chỉ vì họ cảm nghiệm được tình yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ như một sự “hiến dâng” và họ cố gắng để đáp trả bằng sự hiến dâng chính bản thân mình.
Đức Kitô là vị hôn phu. Điều này nổi lên sự thật về tình yêu Thiên Chúa, Đấng yêu thương trước nhất (x. 1 Ga 4,19) và là Đấng vượt trên mọi chờ đợi của con người qua hồng ân sản sinh ra tình yêu phu thê cho con người: “Người minh chứng tình yêu của mình đối với họ cho đến cùng” (Ga 13,1). Vị hôn phu – là Người Con đồng bản thể với Chúa Cha – trở thành Con Đức Trinh Nữ Maria, là “Con Người” và là con người thật, một người đàn ông. Biểu trưng của vị Hôn phu thuộc về nam tính. Trong biểu trưng nam giới, đặc tính nhân bản của tình yêu được trình bày, trong đó Thiên Chúa ban tình yêu của Người cho Israel, cho Hội Thánh, cho mọi người. Khi suy niệm những gì các Phúc Âm tường trình về thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, chúng ta có thể rút kết luận rằng, Người là một người nam, là con cái Israel, làm sáng tỏ phẩm giá “những con gái của Abraham” (x. Lc 13,16), phẩm giá mà người phụ nữ đã có ngay từ thuở ban đầu giống như người nam. Đồng thời, Đức Kitô cho thấy tính độc đáo giúp phân biệt người nữ khác hẳn người nam, sự phong phú trọn vẹn được Thiên Chúa ban cho trong mầu nhiệm sáng tạo. Trong thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, chúng ta thấy ý niệm về “vị hôn phu” trong thư Êphêsô được thực hiện một cách gương mẫu nhất. Chỉ vì tình yêu thiên linh của Đức Kitô là tình yêu của một hôn phu, đặc biệt là tình yêu của những người nam.
Bí tích Thánh Thể
26. Chiều kích rộng lớn của “mầu nhiệm cao cả” diễn tả liên hệ phu thê giữa Đức Kitô và Hội Thánh, có thể giúp chúng ta hiểu được việc kêu gọi “nhóm Mười Hai”. Nếu như Đức Kitô kêu gọi chỉ có người đàn ông làm Tông đồ, thì Người hoàn toàn tự do và độc lập để làm việc này. Người hành động với sự tự do như khi nhấn mạnh phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ với tất cả thái độ của mình, không dựa vào phong tục hiện hành cũng như truyền thống do luật lệ thời đại qui định. Điều này phù hợp với giả thiết, Người chỉ chọn đàn ông làm tông đồ chỉ vì theo tâm thức phổ biến vào lúc đó, nhưng giả thiết này lại không đúng với cách hành động của Đức Kitô. “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa (…), vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22,16). Lời này diễn tả trọn vẹn thái độ của Đức Giêsu thành Nazareth, trong đó hàm chứa lời giải thích cho việc gọi “Nhóm Mười Hai”. Nhóm này hiện diện với Đức Kitô trong suốt buổi Tiệc Ly; chỉ mình họ lãnh nhận mệnh lệnh bí tích liên kết với việc thiết lập Bí tích Thánh Thể: “Hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy!” (Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Vào chiều ngày phục sinh, họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần để tha thứ tội lỗi: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).
Chúng ta đang ở ngay trung tâm mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm mạc khải tình yêu phu thê của Thiên Chúa. Đức Kitô là vị Hôn phu, chỉ vì Người “tận hiến bản thân mình”: Mình Người đã được “trao ban”, Máu Người bị “đổ ra””(x. Lc 24,19.20). Như thế Người “minh chứng tình yêu của mình cho đến cùng” (Ga 13,1). Việc “hiến thân vô vị lợi” nơi hy tế thập giá đã nâng ý nghĩa phu thê của tình yêu một cách đứt khoát. Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, là Hôn phu của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể là Bí tích của ơn cứu độ chúng ta. Đó là Bí tích của hôn phu và của hôn thê. Bí tích Thánh Thể hiện diện hóa và hiện thực hóa cách bí tích hành động cứu độ của Đức Kitô thật mới mẻ, Đấng “tạo dựng” Hội Thánh như thân thể của mình. Với “Thân thể” này, Đức Kitô liên kết như hôn phu với vị hôn thê. Tất cả những điều này đã được nói trong thư Êphêsô. “Sự hợp nhất giữa hai người” đã được thiết đặt từ ban đầu giữa người đàn ông và người đàn bà nay được đưa vào “mầu nhiệm cao cả” của Đức Kitô và Hội Thánh.
Khi thiếp lập Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô rõ ràng nối kết Bí tích này với thừa tác vụ linh mục của các Tông đồ, nên chúng ta cũng có thể nhận ra rằng với cách thức này, Người muốn làm nổi bật liên hệ như Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm sáng tạo cũng như mầu nhiệm cứu độ giữa người nam và người nữ, giữa “nữ giới” và “nam giới”. Trong Bí tích Thánh Thể, hành động cứu độ của Đức Kitô, của vị Hôn Phu đối với vị hôn thê là Hội Thánh, được hiện thực cách bí tích. Điều này lại càng rõ ràng và trong sáng, khi thừa tác vụ của bí tích Thánh Thể, do vị linh mục hành động “nhân danh Đức Kitô – in persona Christi“, được một người đàn ông hoàn tất. Ý nghĩa này xác nhận giáo lý trong Tuyên ngôn Inter Insigniores được công bố theo lệnh Đức Giáo hoàng Phaolô VI, để trả lời các câu hỏi về vấn đề cho phụ nữ lãnh nhận chức linh mục [50].
Việc hiến dâng của hôn thê
27. Công đồng Vaticanô II canh tân ý thức về chức tư tế cộng đồng trong Hội Thánh. Trong Giao ước mới chỉ có một hy tế và một tư tế: đó là Đức Kitô. Tất cả mọi người đã được rửa tội, nam cũng như nữ, được tham dự vào chức tư tế duy nhất này, vì họ “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1), bất cứ nơi nào họ làm chứng cho Đức Kitô và trình bày niềm hy vọng về đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người đang khao khát” (x. 1 Pr 3,15) [51]. Việc tham dự chung vào hy lễ của Đức Kitô, trong hy lễ này Đấng cứu độ dâng lên Chúa Cha cả thế giới và đặc biệt là cả nhân loại, tác động để mọi thành phần Hội Thánh trở thành “một vương quốc tư tế” (Kh 5,10; x. 1 Pr 2,9), nghĩa là không những họ được tham dự vào sứ vụ tư tế mà cả sứ vụ tiên tri và vương đế của Đức Kitô, của Đấng Messias. Hơn nữa, việc tham dự này kéo theo sự kết hợp về mặt cơ cấu với Hội Thánh như dân Thiên Chúa với Đức Kitô. Đồng thời “mầu nhiệm cao cả” của thư Êphêsô cũng xuất hiện trong sự tham dự này: như cách vị hôn thê kết hợp với Hôn Phu của mình; kết hợp, vì hôn thê sống cuộc sống của Hôn Phu; kết hợp vì hôn thê tham dự vào sứ vụ ba mặt của hôn Phu (tria munera Christi); kết hợp theo cách thức, hôn thê đáp trả cho hồng ân vô lượng tình yêu của vị Hôn Phu, Đấng Cứu độ trần gian, bằng việc “hiến thân vô vị lợi” của mình. Điều này liên hệ đến tất cả mọi người trong Hội Thánh, nữ cũng như nam, và liên hệ tự nhiên đến những người tham dự vào thừa tác vụ tư tế mang tính phục vụ [52]. Trong chiều kích “mầu nhiệm cao cả” của Đức Kitô và của Hội Thánh, mọi người được mời gọi như hôn thê đáp trả sự hiến dâng vô ngần vô lượng của tình yêu Đức Kitô, Đấng Cứu độ cũng là Hôn Phu duy nhất của Hội Thánh, bằng sự dâng hiến cuộc sống của mình. Trong chức “tư tế vương giả” chung cho mọi người, chúng ta cũng thấy được sự hiến dâng của người hôn thê.
Đây là ý nghĩa nền tảng để Hội Thánh có thể hiểu được bản chất đặc thù của mình và đồng thời tránh cho Hội Thánh cách gán ghép theo những tiêu chuẩn giải thích và đánh giá, không liên hệ gì đến Hội Thánh, như “cơ chế” do nhiều người hợp thành, mang dấu ấn lịch sử. Dù Hội Thánh có một cơ chế “phẩm trật” [53], nhưng cơ chế này được thiết lập cho sự thánh thiện của các chi thể Hội Thánh. Sự thánh thiện này được xác định từ “mầu nhiệm cao cả”, nơi đó hôn thê đáp trả sự hiến dâng của hôn phu bằng sự hiến dâng tình yêu, và thực hiện điều này “trong Thánh Thần”; “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Khi xác nhận giáo lý về thánh truyền, Công đồng Vaticanô II nhắc lại, trong phẩm trật của sự thánh thiện, chính người nữ, Đức Maria thành Nazareth, là “hình ảnh” của Hội Thánh. Mẹ luôn đi trước chúng ta trên con đường thánh thiện; trong bản thân Mẹ, “Hội Thánh đã đạt được sự hoàn hảo, làm cho mình không còn tỳ ố, không vết nhăn” (x. Ep 5,27) [54]. Trong nghĩa này, chúng ta có thể nói, Hội Thánh vừa mang đặc tính “thánh mẫu” vừa có đặc tính “tông đồ” và đặc tính “thuộc về Phêrô” [55].
Trong thời kỳ đầu của Hội Thánh, bên cạnh các người đàn ông – cũng có nhiều người đàn bà – làm nổi bật sự đáp trả của hôn thê đối với tình yêu cứu độ của vị Hôn Phu. Đầu tiên là những người phụ nữ đã gặp gỡ Đức Kitô và theo chân Người; sau khi Người giả biệt, họ đã cùng các Tông đồ “kiên trì cầu nguyện” trong nhà Tiệc Ly tại Giêrusalem cho đến ngày Hiện Xuống. Ngày đó, Chúa Thánh Thần nói qua “các con trai con gái” của dân Thiên Chúa và hoàn tất những gì tiên tri Giôen báo trước (x. Cv 2,17). Những người phụ nữ này – và những bà khác sẽ tiếp nối – tham gia cách tích cực và năng động vào đời sống Hội Thánh sơ khai qua hồng ân và các việc phục vụ thật đa dạng, dựa theo cơ cấu của những cộng đoàn đầu tiên và tiếp nối. Các tác phẩm tông truyền còn ghi tên các bà này, tỉ như bà “Phêbê, nữ trợ tá Hội Thánh Cenchrées” (Rm 16,1); bà Priscilla và chồng là ông Aquila (x. 2 Tm 4,19), Evodia và Syntychê (x. Pl 4,2), Maria, Tryphêna, Persis, Tryphose (x. Rm 16,6.12). Thánh tông đồ nói về “sự nhọc nhằn” của họ về Đức Kitô: các bà này minh chứng trong nhiều lãnh vực khác nhau công việc phục vụ tông đồ trong Hội Thánh, khởi đầu từ “Giáo hội tại gia”. Trong “Giáo hội tại gia” này, niềm tin đúng đắn được chuyển trao từ người mẹ sang người con và cháu chắt, như trường hợp trong nhà của ông Timôthê (x. 2 Tm 1,5).
Điều này lập đi lập lại từ thế hệ này sang thế hệ khác suốt bao thế kỷ, như lịch sử Hội Thánh minh chứng. Khi bảo vệ phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, Hội Thánh nói lên sự tôn trọng và biết ơn đối với những bà – trung thành với Phúc Âm – tham gia vào sứ vụ tông đồ của toàn dân Thiên Chúa trong mọi thời gian. Đó là các nữ thánh tử đạo, các nữ đồng trinh, các bà mẹ gia đình làm chứng cách can đảm cho niềm tin và giáo dục con cái trong tinh thần Phúc Âm, tiếp tục trao phó đức tin và truyền thống của Hội Thánh.
Trong mọi thời đại và trong mọi nước, chúng ta thấy rất nhiều phụ nữ thật “đảm đang” (Cn 31,10), dù bị bách hại, khó khăn và bị kỳ thị vẫn tham gia vào sứ vụ của Hội Thánh. Ở đây chỉ nêu lên: bà Monica, mẹ thánh Augustinô; Macrina; Olga thành Kiev; Mathilda thành Toscana; Hedwig vùng Schlesien và Hedwig thành Cracovie; Elisabeth thành Thuringe; Brigitte của Thụy Điển; Jeanne xứ Arc; Rosa thành Lima; Elizabeth Seton và Mary Ward.
Chứng cứ và hoạt động của các bà Công giáo này chói sáng vào đời sống Hội Thánh và xã hội. Cho dù bị xã hội kỳ thị nặng nề, các thánh nữ này vẫn “tự đo” hoạt động nhờ được củng cố bằng sự liên kết với Đức Kitô. Cũng nhờ sự liên kết và trong sự tự do bắt nguồn từ Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu được hoạt động vĩ đại của thánh nữ Catharina thành Siene trong đời sống công khai của Hội Thánh và của thánh nữ Têrêsa thành Avila trong đời sống tu trì chiêm niệm.
Ngày hôm nay, Hội Thánh được phong phú nhờ chứng cứ của rất nhiều người phụ nữ đang thực hiện ơn gọi nên thánh của họ. Các phụ nữ thánh thiện là hiện thân của lý tưởng nữ giới; họ cũng là mẫu gương cho tất cả Kitô hữu, một mẫu gương “bước theo Đức Kitô”, một thí dụ cho việc hôn thê đáp trả bằng tình yêu cho tình yêu của Hôn Phu.
VIII. CAO TRỌNG HƠN CẢ LÀ ĐỨC MẾN
Đối mặt với những đổi thay
28. “Hội Thánh tin rằng Đức Kitô đã chết và đã phục sinh vì chúng ta; nhờ Thánh Thần, Người ban ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại ơn gọi cao sang của mình” [56]. Chúng ta có thể áp dụng những lời Hiến chế Gaudium et Spes của Công đồng vào đề tài này. Việc nhấn mạnh vào phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ trong thời đại chúng ta có thể và phải được đón nhận trong “ánh sáng” và “sức lực” được Thánh Thần của Đức Kitô ban cho con người trong thời đại quá thay đổi này. Hội Thánh “tin rằng khởi điểm, trung tâm và cùng đích của con người và toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Hội Thánh”; Hội Thánh “xác nhận rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không thay đổi vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Đức Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi” [57].
Với những lời này, Hiến chế về Hội Thánh trong thế giới ngày nay cho chúng ta thấy con đường phải theo để chu toàn các trách vụ liên quan đến phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ trước những thay đổi đầy ý nghĩa của thời đại. Chúng ta chỉ có thể đối mặt với những đổi thay này cách thẳng thắn và chính xác, nếu chúng ta quay về nền tảng vững chắc trong Đức Kitô, về những chân lý và giá trị “bất biến” mà Người là “chứng nhân trung tín” (Kh 1,5) và là Thầy dạy. Nếu hành động khác sẽ đưa chúng ta đến những kết quả đáng nghi ngờ, nếu không nói thẳng là sai lệch và dối trá.
Phẩm giá của người phụ nữ và trật tự tình yêu
29. Đoạn thư Êphêsô đã được trích dẫn (Ep 5,21-23) trình bày mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh như dây liên kết giữa hôn phu và hôn thê, cũng gợi lên cơ chế hôn nhân theo sách Sáng Thế (x. St 2,24). Đoạn này liên kết chân lý về hôn nhân như bí tích nguyên sơ với việc tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1,27; 5,1). Nhờ sự so sánh đầy ý nghĩa này của thư Êphêsô, chúng ta thấy rõ điều xác định phẩm giá của người phụ nữ trước mặt Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Cứu độ, và trước mặt con người, cả người nam lẫn người nữ. Căn cứ trên nền tảng kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa, người phụ nữ là gốc rễ của trật tự tình yêu trong thế giới thụ tạo của con người. Trật tự tình yêu thuộc về cuộc sống nội tại của Thiên Chúa, thuộc về đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong đời sống nội tại của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là hiện thân cá vị của tình yêu. Nhờ Chúa Thánh Thần, hồng ân tự tại, tình yêu trở thành một ân huệ cho tất cả mọi người được Thiên Chúa tạo dựng. Tình yêu, xuất phát từ Thiên Chúa, được chia sẻ cho các thụ tạo: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Ơn gọi người phụ nữ hiện diện bên cạnh người đàn ông (“một trợ tá tương xứng với nó”: St 2,18) trong “sự hợp nhất giữa hai người” đem lại những điều kiện đặc biệt trong thế giới hữu hình của thụ tạo, để Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu của Người vào trong tâm hồn của những thụ tạo giống hình ảnh Ngài. Khi gọi Đức Kitô là Hôn Phu và Hội Thánh là hôn thê, tác giả thư Êphêsô với sự so sánh này cũng xác nhận cách gián tiếp chân lý về người phụ nữ là hôn thê. Hôn Phu là người yêu. Hôn thê là người được yêu, nhận tình yêu để đến phiên mình yêu lại.
Đoạn sách Sáng Thế – được đọc cách mới mẻ dưới ánh sáng của biểu trưng hôn thê theo thư Êphêsô – giúp chúng ta thấy một chân lý mang tính quyết định cho vấn đề phẩm giá cũng như ơn gọi của người phụ nữ: phẩm giá người phụ nữ được thẩm định từ trật tự tình yêu, trong bản chất cũng là trật tự công bằng và tình yêu tha nhân [58].
Chỉ có con người, như một nhân vị, mới biết yêu và chỉ có con người mới được yêu. Đó là một xác định của hữu thể học, từ đó đưa đến tính chất đạo đức. Tình yêu là một nhu cầu hữu thể và đạo đức của con người xét như là nhân vị. Con người cần được yêu; vì chỉ có tình yêu mới phù hợp với con người. Điều này giúp chúng ta hiểu Giới răn yêu thương đã có trong Cựu Ước (x. Đnl 6,5; Lv 19,18) và được Đức Kitô đặt làm trung tâm cho nền luân lý Tin Mừng (x. Mt 22,36-40; Mc 12,28-34); cũng giúp chúng ta hiểu sự ưu tiên của tình yêu, được thánh Phaolô nói trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô: “Cao trọng hơn cả là đức mến” (13,13).
Nếu không sử dụng trật tự và sự ưu tiên này, chúng ta không thể có câu trả lời đầy đủ và đúng đắn cho vấn đề phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ. Nếu chúng ta nói, người phụ nữ đón nhận tình yêu để đến phiên mình yêu lại, thì trước tiên chúng ta không nghĩ ngay đến liên hệ phu thê trong hôn nhân, nhưng nghĩ đến điều phổ biến nhất, căn cứ trên thực tế của nữ giới trong tương quan liên vị, tạo thành cuộc sống và hoạt động chung của các nhân vị, của người đàn ông và người đàn bà, dưới nhiều dạng khác nhau. Trong liên hệ rộng lớn và đa dạng này, người phụ nữ trình bày một giá trị đặc biệt như nhân vị và đồng thời như nhân vị cụ thể trong tính chất nữ giới của mình. Điều này áp dụng cho tất cả phụ nữ và cho từng người trong họ, độc lập khỏi môi trường văn hóa họ đang sống, và độc lập khỏi những đặc tính tinh thần, tâm lý và thể lý, như tuổi tác giáo dục, sức khỏe, lao động, đã lập gia đình hay độc thân.
Đoạn thư Êphêsô trên giúp chúng ta nghĩ đến một loại “tiên tri” của phụ nữ trong nữ tính của họ. Việc so sánh Hôn phu và hôn thê gợi lên tình yêu mà mỗi người, đàn ông và đàn bà, được Thiên Chúa yêu mến trong Đức Kitô. Dù vậy trong mạch văn của sự so sánh theo Thánh Kinh và căn cứ trên suy luận nội tại của bản văn, chính người phụ nữ, vị hôn thê, biểu lộ tất cả chân lý này. Đặc tính “tiên tri” này của người phụ nữ trong nữ tính của mình tìm được cách diễn tả tuyệt vời trong Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa. Nơi Mẹ, sự kết hợp nội tại của trật tự tình yêu – trật tự xuất hiện giữa trần gian do một người phụ nữ – với Chúa Thánh Thần được thể hiện cách hoàn hảo và trực tiếp nhất. Đức Maria đã nghe vào lúc truyền tin các lời này: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,35).
Ý thức về một sứ vụ
30. Phẩm giá của người phụ nữ liên kết chặt chẽ với tình yêu mà họ lãnh nhận trong nữ tính và với tình yêu mà họ sẽ trao ban khi đến phiên mình. Như thế chân lý về nhân vị và về tình yêu được xác nhận. Về vấn đề chân lý nhân vị, chúng ta phải trở lại với Công đồng Vaticanô II: “Con người, thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lại bản thân mình nhờ thành thực hiến dâng” [59]. Điều này áp dụng cho mỗi người như một nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, cho người đàn ông cũng như người đàn bà. Xác quyết thuộc lãnh vực hữu thể cũng gợi lên chiều kích đạo đức của ơn gọi làm người. Người phụ nữ sẽ không tìm được chính mình, nếu không trao ban tình yêu của mình cho người khác.
Ngay lúc “khởi nguyên”, người phụ nữ – cũng như người đàn ông – được Thiên Chúa tạo dựng và được Người đặt vào trật tự tình yêu. Nguyên tội không phá hũy trật tự này cũng không xóa bỏ triệt để. Điều này được Tiền Tin Mừng minh chứng (x. St 3,15). Chúng ta đã thấy trong suy niệm bên trên, vị trí duy nhất của “người phụ nữ” trong bản văn then chốt của mạc khải. Ngoài ra, cũng chính người “phụ nữ” trở thành “nguyên mẫu” của Thánh Kinh được nhìn thấy trong chiều kích cánh chung của vũ trụ và con người trong sách Khải huyền của thánh Gioan [60]. Nơi đó, bà là “một người phụ nữ mình khoác mặt trời”, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Chúng ta có thể nói: một người phụ nữ trong chiều kích vũ trụ, trong chiều kích toàn thể công trình sáng tạo. Nhưng đồng thời “bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại” (Kh 12,2) như bà Eva, “Mẹ chúng sinh” (x. St 3,20). Bà đau đớn, “vì con rồng đứng trước người đàn bà sắp sinh con” (Kh 12,4), “con rồng to lớn chính là Con Rắn xưa” (Kh 12,9) mà chúng ta đã biết trong Tiền Tin Mừng: đó là Thần Dữ, “Cha kẻ dối trá” và của tội lỗi (x. Ga 8,44). “Con Rắn xưa” muốn “nuốt con bà (đứa con của người phụ nữ)” (Kh 12,4). Nếu chúng ta thấy được trong bản văn này một phản ánh Tin Mừng thời thơ ấu (x. Mt 2,13.16), chúng ta có thể nghĩ nguyên mẫu của người “phụ nữ” cũng ngầm chứa cuộc chiến chống cái xấu và Thần Xấu từ đầu lịch sử cho đến kết thúc lịch sử. Đó là cuộc chiến cho con người, cho hạnh phúc đích thực của họ, cho ơn cứu độ của họ. Thánh Kinh muốn nói với chúng ta rằng qua người “phụ nữ”, bà Eva và Đức Maria, lịch sử nhận ra cuộc chiến bi đát vì con người, cuộc chiến vì tiếng “thưa vâng” hay sự “từ khước” Thiên Chúa và kế hoạch vĩnh cửu của Ngài đối với con người.
Nếu phẩm giá của người phụ nữ minh chứng tình yêu mà họ đã lãnh nhận, để rồi tới phiên mình sẽ đáp trả lại, thì nguyên mẫu Thánh Kinh về người “phụ nữ” cho thấy trật tự đúng đắn của tình yêu xác định ơn gọi của người phụ nữ. Điều này muốn nói đến ơn gọi trong nghĩa cơ bản và phồ quát, thể hiện qua những dạng cụ thể và đưa đến nhiều “ơn gọi” đạ dạng của người phụ nữ trong Hội Thánh và trong thế giới.
Sức mạnh luân lý và tinh thần của các người phụ nữ liên kết chặt chẽ với ý thức, Thiên Chúa đã trao phó con người cách đặc biệt cho họ. Đương nhiên Thiên Chúa trao con người cho tất cả và cho từng người; nhưng chính sự trao phó này nhắm vào người phụ nữ cách đặc biệt – chính vì nữ tính của họ – và điều này xác định cách đặc biệt về ơn gọi của họ.
Nắm vững ý thức vào điều Thiên Chúa trao phó, nhiều người phụ nữ thể hiện sức mạnh tinh thần của họ trong thời Cựu Ước, trong thời Đức Kitô, trong các thời đại tiếp theo cho đến hôm nay. Người phụ nữ trở nên mạnh mẽ nhờ ý thức trách nhiệm được trao phó, mạnh mẽ vì Thiên Chúa gửi gắm con người cho họ ở mọi nơi, mọi lúc, ngay cả trong môi trường bị xã hội kỳ thị mà họ phải sống. Ý thức vào ơn gọi nền tảng này giúp người phụ nữ nhớ đến phẩm giá mà mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa; điều này giúp họ mạnh mẽ và xác tín hơn vào ơn gọi của mình. Như thế “người phụ nữ đảm đang” (x. Cn 31,10) trở thành chỗ dựa không thể thay thế được và thành nguồn sức mạnh tinh thần cho nhiều người khác, những kẻ đón nhận năng lực tinh thần của họ. Gia đình của họ và thường là nhiều quốc gia đều biết ơn các “người phụ nữ đảm đang” này.
Trong thời đại chúng ta, những thành tựu khoa học và kỹ thuật giúp tạo dựng an sinh vật chất trong trong mức độ chưa từng có, một số người được hưởng lợi, nhưng số khác lại bị đẩy ra bên lề xã hội. Trong những điều kiện như thế, sự tiến bộ một chiều có thể từng bước đưa đến việc đánh mất sự quan tâm đối với con người, những gì căn bản thuộc về con người. Trong nghĩa này, nhất là trong thời đại chúng ta, người ta mong chờ “thiên tài” của người phụ nữ xuất hiện để bảo đảm sự quan tâm đối với con người trong mọi hoàn cảnh chỉ vì họ là con người; chỉ vì: “Cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13).
Việc chú tâm suy nghĩ về nguyên mẫu người “phụ nữ” – từ sách Sáng Thế cho đến sách Khải Huyền – cho thấy phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ hệ tại vào đâu và điều gì là bất biến và luôn hoạt động nơi họ, vì những điều này có “nền tảng cuối cùng trong Đức Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn như thế” [61]. Nếu Thiên Chúa trao phó con người cách đặc biệt phụ nữ, thì điều này cũng có nghĩa là Đức Kitô tin tưởng người phụ nữ để chu toàn “chức tư tế vương giả” (1 Pr 2,9), đấy không phải là hồng ân phong phú Người ban tặng cho con người đó sao? Đức Kitô, vị Thượng tế duy nhất của giao ước mới và vĩnh cửu, và là Hôn Phu của Hội Thánh, luôn dâng lên Chúa Cha gia sản này trong Chúa Thánh Thần, để “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28) [62].
Lúc đó, chân lý “đức mến cao trọng hơn cả” (1 Cr 13,13) được hoàn tất cách dứt khoát.
IX. KẾT LUẬN
“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban”
31. “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban” (Ga 4,10), đó là câu nói của Đức Giêsu với người phụ nữ thành Samarie trong một cuộc đối thoại tuyệt vời cho thấy Người đề cao phẩm giá và ơn gọi của từng người phụ nữ, cho phép họ tham gia vào sứ vụ Messias của Người.
Những suy tư trên, đến lúc phải kết thúc, giúp chúng ta nhận ra giữa các “hồng ân của Thiên Chúa” những gì Ngài là Đấng Sáng Tạo và Cứu độ trao phó cho từng người phụ nữ. Trong Thánh Thần của Đức Kitô, người phụ nữ có thể khám phá tất cả ý nghĩa nữ tính của mình, sẵn sàng “hiến dâng chính mình cách vô vị lợi” cho kẻ khác và qua đó tìm được chính mình.
Trong năm Thánh Mẫu, Hội Thánh muốn nói lên tiếng cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi vì “mầu nhiệm người phụ nữ” và cảm tạ vì từng người phụ nữ, vì chiều kích vĩnh cửu của phẩm giá người phụ nữ, vì “những kỳ công của Thiên Chúa” được thực hiện nơi người phụ nữ và qua người phụ nữ trong lịch sử các thế hệ loài người. Điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi người phụ nữ và qua người phụ nữ trong lịch sử nhân loại trên trái đất này – đó không phải là Mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa đó sao?
Hội Thánh cám ơn tất cả các phụ nữ và từng người phụ nữ: cám ơn các bà mẹ, chị em, các người vợ, các phụ nữ được thánh hiến cho Thiên Chúa để sống khiết tịnh; cám ơn các người phụ nữ dấn thân cho không biết bao nhiêu người, những người mong chờ tình thương vô vị lợi của kẻ khác; cám ơn các bà chăm sóc con cái trong gia đình là dấu chứng nền tảng của xã hội loài người; cám ơn các phụ nữ đang hoạt động nghề nghiệp và phải gánh lấy trách nhiệm xã hội; cám ơn các phụ nữ “đảm đang” và các phụ nữ “yếu đuối” – cám ơn tất cả phụ nữ: vì họ xuất phát từ trái tim của Thiên Chúa trong sự diễm lệ và phong phú tràn đầy của nữ tính; vì họ đã được che chở từ tình yêu vĩnh cửu; vì họ, cùng với người đàn ông, đồng hành trên trái đất này là quê hương trần thế của con người và cũng có lúc biến thành “thung lũng đầy nước mắt”; vì họ cùng với người đàn ông đón nhận trách nhiệm cho số phận của nhân loại, trong những nhu cầu hằng ngày và theo vận mệnh chung cuộc mà gia đình nhân loại có được trong Thiên Chúa, trong lòng Ba Ngôi Cực Thánh.
Hội Thánh cám ơn tất cả những “thiên tài” nữ giới, biểu hiện trong dòng lịch sử các dân tộc và quốc gia; Hội Thánh cảm tạ các đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho các người phụ nữ trong lịch sử dân Chúa, cảm ơn những chiến thắng nhờ đức tin, đức cậy và đức mến của các phụ nữ: Hội Thánh cám ơn mọi hoa trái do sự thánh thiện của nữ giới.
Đồng thời, Hội Thánh mong muốn rằng “những mạc khải vô giá của Thánh Thần” (x. 1 Cr 12,4tt) được tuôn ban cách quảng đại cho các “con gái” của Giêrusalem vĩnh cửu, được quan tâm công nhận và đánh giá cao, để đem lại lợi ích chung cho Hội Thánh và nhân loại, đặc biệt trong thời đại chúng ta. Trong khi suy niệm mầu nhiệm theo Thánh Kinh về “người phụ nữ”, Hội Thánh cũng mong ước mọi người phụ nữ tìm lại được chính mình và ơn gọi của mình trong mầu nhiệm này.
Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng đi trước Hội Thánh “trên con đường đức tin, tình yêu và sự hợp nhất toàn hảo với Đức Kitô” [63], trong năm nay, năm mà chúng con dâng kính Mẹ, nơi ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba sau khi Đức Kitô đến, cũng lãnh nhận được “hoa trái đó” cho mọi người.
Với những ước nguyện này, Tôi xin ban Phép Lành cho tất cả mọi tín hữu, đặc biệt cho các phụ nữ là những chị em trong Đức Kitô.
Ban hành tại Rôma,
bên cạnh Đền thờ thánh Phêrô,
vào ngày 15.08.1988,
nhân dịp lễ Đức Maria hồn xác về trời,
trong năm thứ 10 triều đại Giáo hoàng của Tôi.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
——————————————————————–
Ghi chú
48. Tỉ dụ: Hs 1,2; 2,16-18; Gr 2,2: Ed 16,8; Is 50,1; 54,5-8.
49. Cl 3,18; 1 Pr 3,1-6; Tt 2,4-5; Ep 5,22-24; 1 Cr 11,3-16; 14,33-35; 1 Tm 2,11-15.
50. UBGLDT ngày 15.10.1976: AAS 69 (1977), trang 98-116.
51. LG số 10.
52. Ibid số 10.
53. Ibid số 18-29.
54. Ibid số 65 và 63; RM số 2-6.
55. Osservatore Romano, 23.12.1987.
56. GS số 10.
57. Ibid số 10.
58. Augustin, De Trinitate, L. VIII, VII, 10-X, 14: CCL 50, 284-291.
59. GS số 24.
60. Pseudo Augustin, De symb ad catech. Sermo IV: PL 40, 661.
61. GS số 10.
62. LG số 36.
63. LG số 63.