“Tông Đồ Gioan” Trong Tin Mừng Nhất Lãm Và “Môn Đệ Đức Giêsu Yêu Mến” Trong Tin Mừng Thứ Tư

0
313


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

DẪN NHẬP

Nhằm làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng của “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư (Tin Mừng Gio-an), bài viết này sẽ so sánh hai nhân vật: “Tông đồ Gio-an” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca) với “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư.

Tác giả Éduard Cothenet đã lựa chọn đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an vì hai lý do:

1) Tông đồ Gio-an và Phê rô thường đi với nhau trong một số sách Tân Ước: Tin Mừng Nhất lãm, Công Vụ các Tông đồ và thư Ga-lát (Gl 2,9). Cũng thế, trong Tin Mừng thứ tư, Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến thường hiện diện với nhau (Ga 13,23-26; 20,3-10; 21,20-23).

2) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có thể là một trong hai người con ông Dê-bê-đê nói đến ở Ga 21,2: “Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các con ông Dê-bê-đê và hai người khác thuộc nhóm môn đệ của Người, các ông đang ở với nhau.” (Xem é. COTHENET, “Le quatrième évangile”, dans M.-é. BOISMARD, é. COTHENET, La tradition johannique, 1977, p. 288).

Những phân tích sau đây sẽ cho thấy hai lý do É. Cothenet đưa ra khó đứng vững vì có sự khác biệt quá lớn giữa hai nhân vật: “Tông đồ Gio-an” trong Tin Mừng Nhất Lãm và “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư.

I. TÔNG ĐỒ GIOAN VÀ PHÊRÔ

Về lý do thứ nhất, theo É. Cothenet thì Tông đồ Gio-an và Phê-rô thường đi với nhau. Lý do này không đủ đề đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Tông đồ Gio-an thuộc nhóm ba môn đệ được Đức Giê-su tách ra: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Tương quan giữa ba môn đệ này với Đức Giê-su hoàn toàn khác với tương quan giữa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến và Đức Giê-su trong Tin Mừng thứ tư. Những so sánh trong các đoạn văn dưới đây cho thấy sự khác biệt giữa Tông đồ Gio-an và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

1. Mc 10,35-41

Trước hết, Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại câu chuyện Gio-an và Gia-cô-bê xin được ngồi bên hữu và bên tả Đức Giê-su trong vinh quang của Người ở Mc 10,35-41: “35 Những người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến nói với Người: ‘Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin Thầy.’ 36 Người nói với các ông: Các anh muốn Thầy làm gì cho các anh? 37 Các ông nói với Người: Xin cho chúng con được ngồi một người bên hữu và một người bên tả của Thầy trong vinh quang của Thầy.” 38 Đức Giê-su nói với các ông: ‘Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có thể uống chén mà Thầy sắp uống hay chịu phép rửa mà Thầy sắp chịu không?39 Các ông nói với Người: Chúng con có thể.’ Đức Giê-su nói với họ: Chén mà Thầy uống, anh em sẽ uống; và phép rửa mà Thầy chịu, anh em sẽ chịu. 40 Còn ngồi bên hữu của Thầy hay bên tả, Thầy không có quyền, nhưng là dành cho ai mà điều ấy được chuẩn bị cho.’ 41 Nghe vậy, mười người kia bắt đầu tức giận với Gia-cô-bê và Gio-an.”

Trong câu chuyện này, Tông đồ Gio-an đã không hiểu Đức Giê-su vì Người nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Trong mạch văn, Gio-an và Gia-cô-bê muốn có được những chỗ danh dự và dẫn đến sự bất bình và tức giận của các môn đệ khác (Mc 10,41). So với người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư có những điểm khác biệt sau:

1) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không xuất hiện với Gia-cô-bê.

2) Người môn đệ này không xin Đức Giê-su được ngồi bên hữu hay bên tả trong vinh quang của Người.

3) Không có sự hiểu lầm hay không hiểu giữa người môn đệ này và Đức Giê-su trong Tin Mừng thứ tư.

4) Các môn đệ khác không có thái độ bất bình hay không bằng lòng với người môn đệ Đức Giê-su yếu mến trong Tin Mừng thứ tư.

Tóm lại, trong trình thuật Mc 10,35-41 không có điểm chung nào giữa Tông đồ Gio-an và môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

2. Lc 9,49-50

Câu chuyện thứ hai liên quan đến Tông đồ Gio-an ở Lc 9,49-50: “49 Gio-an lên tiếng nói: ‘Thưa Thầy, chúng con thấy cóngười nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy’. 50 Đức Giê-su bảo ông: ‘Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta’!”

Trong đoạn văn này, Gio-an nói nhân danh các môn đệ khác: “Chúng con thấy” (ngôi thứ nhất số nhiều). Câu trả lời của Đức Giê-su ngược hoàn toàn với việc làm của các môn đệ. Nếu Gio-an và một số các môn đệ đã cố ngăn cản những người nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ thì Đức Giê-su bảo họ “Đừng ngăn cản người ta…” Nhiệt tình của các môn đệ, mà Tông đồ Gio-an là người đại diện để trình bày với Đức Giê-su, cho thấy họ đã không hiểu Đức Giê-su. Trong khi đó, không có dấu hiệu gì trong Tin Mừng thứ tư cho thấy môn đệ Đức Giê-su yêu mến không hiểu Đức Giê-su.

3. Lc 9,51-56

Câu chuyện tiếp theo ở Lc 9,51-56. Bản văn này trình bày phản ứng của Tông đồ Gio-an xa lạ với thái độ của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư.

Người thuật chuyện kể ở Lc 9,51-56: “51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ của Người là Gia-cô-bê và Gio-an nói rằng: Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?’ 55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.”

Khi những người Sa-ma-ri không đón nhận Đức Giê-su và các môn đệ, phản ứng của Gia-cô-bê và Gio-an là “muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó” (Lc 9,54). Cách xử sự này hoàn toàn không phù hợp với ý định của Đức Giê-su và Người đã quở mắng các ông. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng ít nói hơn và nói chính xác hơn, Đức Giê-su không hề than phiền hay quở trách người môn đệ này.

4. Mc 14,32-42

Câu chuyện khác xảy ra trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14,32-42) đã cho thấy sự khác biệt lớn lao giữa Tông đồ Gio-an và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Ba môn đệ (Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an) được Đức Giê-su chia sẻ giờ hấp hối của Người, nhưng cả ba môn đệ này đã ngủ li bì khi Thầy của họ đang đối diện với sự chết. Tin Mừng Mác-cô kể: Đức Giê-su đi cầu nguyện, ba lần Người quay lại thì cả ba lần Người thấy ba môn đệ này đang ngủ (Mc 14,37.40.41), tác giả giải thích: vì “mắt của họ nặng trĩu và các ông không biết trả lời làm sao với Người” (Mc 14,40). Khi Đức Giê-su bị bắt: “Tất cả các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn” (Mc 14,50). Tông đồ Gio-an cũng như các môn đệ khác, họ chỉ gặp lại Đức Giê-su sau khi Người đã Phục Sinh.

5. Môn đệ Đức Giê-su yếu mến

Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su cũng báo cho các môn đệ biết trước: “Này đến giờ, – và đã đến rồi -, anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình, vì Cha ở với Thầy” (Ga 16,32). Lời báo trước này không dành cho người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Bởi vì, khác với Nhóm Mười Hai trong Tin Mừng Nhất Lãm, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã hiện hiện dưới chân thập giá. Đức Giê-su cho người môn đệ này được làm con của thân mẫu Người và người môn đệ này đón nhận thân mẫu về nhà mình (Ga 19,26-27). Đặc biệt, môn đệ này đã làm chứng về những điều xảy ra trước và sau khi Đức Giê-su chết trên thập giá.

Những so sánh trên cho thấy trong Tin Mừng Nhất Lãm, Tông đồ Gio-an cũng như các Tông đồ khác thường là không hiểu Đức Giê-su, bị Đức Giê-su quở trách, không có đủ sức để canh thức với Thầy trong giờ Thầy hấp hối, không đủ can đảm để hiện diện với Thầy dưới chân thập giá. Trong khi đó, Tin Mừng thứ tư trình bày hình ảnh người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hoàn toàn khác. Đây là người môn đệ đặc biệt về nhiều phương diện: Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong Tin Mừng thứ tư ở đầu chương 13 (trình thuật bữa tiệc ly). Trong bữa tiệc đó, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có vị trí danh dự: “Tựa vào lòng Đức Giê-su” (Ga 13,23). Người môn đệ này hiện hiện dưới chân thập giá (Ga 19,26-27) và là người đầu tiên tin dù chưa thấy Đấng Phục Sinh (Ga 20,8).

Trong tương quan với Phê-rô, Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm thuộc nhóm ba môn đệ thường được Đức Giê-su tách riêng ra (Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an). Trong nhóm ba môn đệ này, Phê-rô giữ vai trò nổi bật hơn Gio-an. Chẳng hạn, trong trình thuật Đức Giê-su biến đổi hình dạng trên núi, chính Phêrô đưa ra đề nghị làm ba lều (Mc 9,5). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê, Phê-rô đại diện nhóm tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (Mc 8,29). Ngược lại, trong Tin Mừng thứ tư, vai trò của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến nổi bật hơn Phê-rô. Phê-rô giữ vai trò trưởng nhóm, nhưng trong tương quan với Thầy, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hiểu Thầy và gần gũi Thầy hơn Phê-rô.

Trong bữa tiệc ly, Phê-rô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức Giê-su để biết ai là người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Phê-rô không có vị trí sát bên Đức Giê-su trong bữa ăn như người môn đệ này. Trong trình thuật Ga 13, Phê-rô được trình bày như một nhân vật không hiểu Đức Giê-su: Phê-rô không hiểu ý nghĩa việc rửa chân (Ga 13,6-10), không hiểu ý nghĩa việc đi theo Thầy (Ga 13,36-37) và Đức Giê-su báo trước Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (Ga 13,38). Ngược lại, Tin Mừng thứ tư không nói gì về những yếu đuối của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Khác với Phê-rô, không có sự hiểu lầm hay không hiểu giữa Đức Giê-su và người môn đệ này.

Tóm lại, trong Tin Mừng thứ tư, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trổi vượt hơn Phê-rô về ba phương diện:

1) Về vị trí, người môn đệ này gần Đức Giê-su hơn Phê-rô trong bữa tiệc ly (Ga 13,23).

2) Về lòng tin, người môn này “đã thấy và đã tin” (Ga 20,8), khi đứng trước ngôi mộ trống, trong khi lòng tin của Phê-rô và các môn đệ khác chưa được nói đến (Ga 20,9).

3) Về sự hiểu biết, người môn đệ này nhận ra Chúa, trước Phê-rô và các môn đệ khác khi họ đánh cá ở biển hồ Ga-li-lê (Ga 21,7).

Như thế, lý do mà É. Cothenet đưa ra: người môn đệ Đức Giê-su yêu mến thường hiện diện với Phê-rô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn đệ này với Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm.

II. HAI NGƯỜI CON ÔNG DÊ-BÊ-ĐÊ (Ga 21,2)

Về lý do thứ hai, É. Cothenet cho rằng: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có thể là một trong hai người con ông Dê-bê-đê nói đến ở Ga 21,2. Lý do này khó chấp nhận, vì một số tác giả cũng dựa vào Ga 21,2 để loại trừ việc đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an.

M.-é. Boismard nhận định: “Như các tác giả R. Brown, R. Schanckenburg và một số tác giả khác, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến phải là một trong ‘hai môn đệ khác’ nói đến ở Ga 21,2.” (M.-é. BOISMARD, “Le disciple que Jésus aimait d’après Jn 21,1ss et 1,35ss”, RB 105/1 (1998) p. 78)]. Thực vậy, người thuật chuyện nói tới “hai môn đệ khác” ở Ga 21,2: “Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các con ông Dê-bê-đê và hai người khác thuộc nhóm môn đệ của Người, các ông đang ở với nhau.” “Hai môn đệ khác” ở 21,2 là hai môn đệ vô danh, môn đệ Đức Giê-su yêu mến cũng là một môn đệ vô danh và cũng được gọi là “môn đệ khác” ở 20,2. Với những lý do này, chúng tôi đồng thuận với ý kiến của các tác giả trên: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không phải là một trong hai người con ông Dê-bê-đê (Gia-cô-bê và Gio-an) mà là một trong hai môn đệ vô danh ở 21,2.

Tông đồ Gio-an được Tin Mừng thứ tư nhắc tới cách gián tiếp trong kiểu nói: “Hai người con ông Dê-bê-đê” (Ga 21,2). Theo Tin Mừng Nhất Lãm, kiểu nói “các con ông Dê-bê-đê” (Mt 10,2; 20,20; 26,37) ám chỉ hai Tông đồ Gia-cô-bê và Gio-an. Trong Tin Mừng thứ tư, kiểu nói này chỉ xuất hiện một lần ở Ga 21,2. Còn người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là một môn đệ vô danh cũng được nói đến ở 21,2. Trong cách hiểu này, môn đệ Đức Giê-su yêu mến và Tông đồ Gio-an, cả hai cùng hiện diện ở Ga 21,2. Hai nhân vật này cùng hiện diện ở Ga 21,2 là bằng chứng không thể đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an.

KẾT LUẬN

Những phân tích trên cho thấy cả hai lý do mà É. Cothenet dựa vào để đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an không đủ sức thuyết phục. Để làm nổi bật khuôn mặc độc đáo của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư, thiết nghĩ nên tôn trọng sự khác biệt giữa Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư như bản văn đã trình bày.