Tình yêu lân tuất

0
1848

Ý nghĩa của lịch sử theo Ki-tô giáo: hy vọng và tình yêu lân tuất

Pedro Barrajón, L.C.

Lịch sử có ý nghĩa gì không, hay chỉ là một chuỗi nhưng biến cố liên tiếp nhau chẳng có liên hệ gì với nhau? Bài này muốn tìm câu trả lời của thần học Ki-tô giáo về ý nghĩa của lịch sử. Trước hết, tác giả trình bày ba văn hào nổi tiếng trong lịch sử Giáo hội: thánh Augustinô, viện phụ Gioakim de Fiore, Giambattista Vico. Kế đó, tác giả trình bày quan điểm dựa trên khái niệm về Thiên Chúa quan phòng qua việc tạo dựng và cứu chuộc. Việc tạo dựng và cứu chuộc biểu lộ tình yêu lân tuất của Thiên Chúa đối với nhân loại. Tình yêu lân tuất đặt nền tảng cho niềm hy vọng vào một thế giới trong đó sự thiện sẽ thắng sự dữ. Vì thế, cái nhìn của Ki-tô giáo về lịch sử mang tính tích cực, mặc dù những hoàn cảnh bên ngoài xem ra tiêu cực hoặc bế tắc dưới cái nhìn của con người. Nguyên tác: Senso cristiano della storia, speranza e amore misericordioso, in: Alpha Omega, XII, n. 2, 2009, pp. 259-274.

Từ khi con người xuất hiện trên mặt đất, câu hỏi về ý nghĩa đã được đặt ra: con người muốn biết ý nghĩa của cuộc sống, của hoạt động, của vận mạng của mình. Thực ra, câu hỏi về ý nghĩa được nêu lên từ khi con người chấp nhận có những thực tại siêu hình và luân lý, dựa theo đó mà con người đối chiếu cuộc đời của mình hoặc lịch sử của một dân tộc. Không lạ gì mà chủ nghĩa duy-tương-đối (relativism) không chấp nhận ý nghĩa của lịch sử hoặc của thực tại nhân sinh.

1. Tầm quan trọng của việc nêu lên vấn đề ý nghĩa trong phạm vi lịch sử

Câu hỏi về ý nghĩa của lịch sử được nêu lên bởi vì con người nhận thấy nhiều điểm bất cập trong lịch sử. Giả như lịch sử chẳng có ý nghĩa gì, hoặc giả như mọi sự đã được tiền định rồi, thì ta đâu cần phải nỗ lực để thay đổi hoặc cải thiện nó. Vì thế tiên vàn câu hỏi về ý nghĩa mang tính cách triết học, và cũng mang tính cách thần học nữa. Thực ra, câu hỏi này thường do thần học gợi lên, rồi chuyển sang các lãnh vực kiến thức khác.

Trong khung cảnh văn hóa ngày nay, do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy-tương-đối và chủ nghĩa thực nghiệm, câu hỏi về ý nghĩa xem ra vô ý nghĩa, không nên gợi lên làm gì. Tuy nhiên, nếu lịch sử không có ý nghĩa, thì dòng đời chỉ là một trò chơi may rủi, để rồi kết thúc trong hư vô. Đứng trước những chủ trương tất định mù quáng ấy, chủ nghĩa Marx phản ứng lại và đã ấn định một chiều hướng cho dòng lịch sử, dồn hết nỗ lực vào việc xây dựng một regnum hominis (vương quốc của con người) kỷ nguyên xã hội cộng sản.

Chủ nghĩa Marx đã gợi lên niềm hy vọng cho biết bao nhiêu người trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, học thuyết này đã tan vỡ không chỉ vì những luận cứ lý thuyết nhưng qua thực tế của các chế độ cộng sản. Vì lý do đó mà vấn đề ý nghĩa của lịch sử được đặt lại, với những viễn ảnh mới.

Kitô giáo luôn mang theo một ý thức cao độ về lịch sử, đặt nặng tầm quan trọng và giá trị của lịch sử trong cuộc sống cá nhân và lịch sử, bởi vì Kitô giáo trình bày lịch sử cứu độ đặt trọng tâm ở tín điều Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, trong biến cố này, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa đã chạm đến thời gian, và trở thành trụ cốt của lịch sử, cũng như nguyên ủy và cứu cánh của nó. Đức Giêsu Kitô trở nên Đấng Cứu thế, không những của từng cá nhân mà còn của lịch sử nhân loại nữa. Con người luôn bị thôi thúc bởi câu hỏi về ý nghĩa của lịch sử mỗi khi muốn tỏ chức xã hội, khi nhìn lại quá khứ và chuẩn bị cho tương lai.

2. Những giải đáp quan trọng về ý nghĩa lịch sử trong nội bộ Kitô giáo

Với công đồng Vaticanô II, có thể nói rằng Giáo Hội có ý thức rằng “chìa khóa, trung tâm và cứu cánh của lịch sử nhân loại nằm ở Đức Ki-tô là Thầy và là Chúa của mình”[1]. Theo nghĩa này, cái nhìn Ki-tô giáo về lịch sử hoàn toàn đối nghịch với cái nhìn của chủ nghĩa vô thần đặt con người là trung tâm duy nhất của lịch sử, là cứu cánh cho chính mình, là tác nhân của lịch sử của mình[2]. Cái nhìn ấy lan rộng trong văn hóa Âu châu kể từ khi ông Voltaire, trong tác phẩm Essai sur les moeurs et l’esprit des nations (Khảo luận về phong tục và tinh thần của các dân tộc), đã trình bày nền tảng của lịch sử nhân loại, không còn dựa trên ý muốn của Thiên Chúa và sự quan phòng, như các tín hữu vẫn quen thuộc xưa nay, nhưng trên ý muốn của con người và những tiên liệu của lý trí[3].  Xem ra cái nhìn này đã tràn ngập văn hóa hiện đại và hậu-hiện-đại: người ta không muốn cho Thiên Chúa nhúng tay vào tự do và lịch sử của con người, ra như tác động của Thiên Chúa cạnh tranh với hành động của con người. Con người muốn là kẻ duy nhất tạo ra ý nghĩa cho vận mệnh của lịch sử.

Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của lịch sử dưới viễn ảnh Ki-tô giáo, chúng ta nên ôn lại quan điểm của vài tác giả đã gây ảnh hưởng đáng kể trong lãnh vực này.

A. Thánh Augustinô: Thiên Chúa, Chủ tể lịch sử. Đối chiếu giữa hai đô thành

Trước hết, chúng  ta bắt đầu với thánh Augustinô, nhà thần học nổi tiếng nhất của Tây phương Ki-tô giáo về lịch sử. Trong tác phẩm De civitate Dei (Đô thành của Thiên Chúa), tác gia đã đối chiếu giữa cái nhìn Ki-tô giáo về lịch sử, dựa trên đức tin, với cái nhìn Hy-lạp, dựa trên lý tính: “Trong các loài hữu hình, kẻ lớn nhất là con người; trong các loài vô hình, kẻ lớn nhất là Thiên Chúa. Thế giới hiện hữu thì chúng ta thấy được; Thiên Chúa hiện hữu thì chúng ta tin”[4]. Những người Hy-lạp dựa trên điều hữu hình của lý luận; người Ki-tô hữu dựa trên hành vi đức tin. Thánh Augustinô muốn đối chọi giữa cái nhìn Ki-tô giáo về lịch sử, hướng về niềm hy vọng cuộc sống vĩnh cửu, với cái nhìn của các triết gia cổ thời, đề ra lý tưởng về “xoay vần trường cửu” (eternal retour / eternal return), nhưng lại không đạt đến cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn. Người Ki-tô hữu đặt niềm hy vọng của mình trên một sự mới lạ tuyệt đối đã xâm nhập vào lịch sử một cách bất ngờ, chứ không dựa trên những suy tư triết học hoặc lý luận khoa học. Sự cứu chuộc của Ki-tô giáo bao hàm một sự cứu độ toàn thể linh hồn con người, trong đó “diễn ra một điều chưa từng có, một cái gì tuyệt diệu, và đó là hạnh phúc không bao giờ chấm dứt”[5]. Luận cứ dứt khoát để kết thúc cuộc tranh biện chống lại những người ủng hộ chủ trương “xoay vần trường cửu” là Đức Ki-tô: “bởi vì nếu Đức Ki-tô đã chết một lần vì tội lỗi chúng ta và đã chỗi dậy từ cõi chết, thì Người sẽ không còn chết lần nữa”[6]. Biến cố cứu độ của Đức Ki-tô tác động một lần trong lịch sử đã cắt đứt tất cả các sự cứu độ khác. Tư tưởng này làm sáng tỏ ý nghĩa của khẩu hiệu dòng Chartreux “stat crux, dum volvitur orbis” (thập giá vẫn đứng trơ, khi vũ trụ quay vòng): thập giá là một biến cố cứu độ dứt khoát, mang lại cho lịch sử một sự ổn cố thần linh, trong khi thế giới trải qua các cuộc biến động chẳng đi tới đâu. Tác giả K. Löwith đã chú giải chính xác như sau : “Tư tưởng hiện đại vẫn còn đang sống giữa hai biểu tượng : Thập giá và vòng tròn ; và lịch sử tâm linh của con người Tây phương là một nỗ lực dung hòa giữa Hy-lạp cổ thời và Ki-tô giáo. Nỗ lực ấy không thể nào thành công vì phải đạt được một thỏa hiệp giữa hai điều không thể nào hòa hợp được. Cả Nietzsche lẫn Kierkegaard đã cho thấy rằng sự phân rẽ quá rõ ngay từ đầu giữa Ki-tô giáo và ngoại giáo”[7].

Cái nhìn của thánh Augustinô về lịch sử đặt trọng tâm vào biến cố Đức Ki-tô trong lịch sử. Trong viễn ảnh ấy, các đế quốc vĩ đại, tựa như đế quốc Rôma, chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Điều thực sự quan trọng trong lịch sử không phải là  vẻ oai hùng của các đế quốc, nhưng là sự cứu độ vĩnh viễn của con người trong tương lai cánh chung. Lịch sử trần thế tùy thuộc vào những nguyên lý nâng đỡ nó: kể từ nguyên lý tuyệt đối thứ nhất của sự tạo dựng cho đến nguyên lý cánh chung cuối cùng, dòng lịch sử diễn ra dưới cuộc chiến đấu giữa civitas Dei (đô thành của Thiên Chúa) và civitas terrena (đô thành trần thế). Như ta đã biết, hai đô thành này không đồng hóa với Giáo hội hữu hình và Đế quốc. Đúng ra đó là hai xã hội huyền bí với hai cái nhìn đối nghịch về thực tại. Abel và Cain là hai người khai sáng hai đô thành ấy. Dưới cái nhìn của thánh Augustinô, dòng lịch sử là một cuộc hành hương. Đô thành của Thiên Chuấ trong lịch sử quả là một đô thành lữ hành (civitas peregrinans). Hai đô thành được hướng dẫn bởi các nguyên tắc đối nghịch nhau: đô thành của Thiên Chúa được điều khiển bởi lòng yêu mến Thiên Chúa đến nỗi khinh chê bản thân; đô thành trần thế được điều khiển bởi lòng yêu mến bản thân đến nỗi khinh chê Thiên Chúa. Dưới mắt của loài người, lịch sử diễn ra trong cuộc giao tranh ấy; nhưng dưới mắt của Thiên Chúa, tất cả đã được xếp đặt.

Như vậy, theo mô hình của thánh Augustinô, lịch sử suy phục Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa  bị lệ thuộc vào dòng biến đổi, như Hegel quan niệm. Thiên Chúa làm chủ dòng lịch sử. Con người chỉ nhìn thấy một tí chút chương trình của Thiên Chúa, và duy một mình Thiên Chúa mới thấu hiểu toàn diện. Thiên Chúa là Chủ tể của lịch sử đồng thời cũng là nhà sư phạm, Ngài dạy dỗ con người qua các sự kiện lịch sử, nhất là qua sự đau khổ.

Dựa theo Kinh thánh, thánh Augustinô chia lịch sử thành sáu thời kỳ, tương đương với sáu ngày tạo dựng: 1) từ khởi nguyên đến ông Noe; 2) từ ông Noe đến ông Abraham; 3) từ ông Abraham đến vua Đavit; 4) từ vua Đavit đến cuộc lưu đày ở Babilonia; 5) từ cuộc lưu đày Babilonia đến cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu; 6) thời kỳ chót, từ cuộc giáng sinh của Chúa Ki-tô cho tới khi Người trở lại. Tác giả để mở thời kỳ, nhưng ông Lactantius đã tính rằng thế giới sẽ kết thúc vào khoảng năm 600 CN. Vào thời Trung cổ, thánh Tôma chấp nhận lối phân chia này. Thánh Bonaventura điều chỉnh nó để có thể thích nghi với học thuyết của Joachim de Fiore[8].

Với một cái nhìn siêu nhiên về lịch sử như vậy, thánh Augustinô chẳng quan tâm lắm đối với lịch sử thế gian. Là một công dân Rôma, ông tôn trọng giá trị của đế quốc Rôma, nhưng dưới cặp mắt đức tin, ông coi nhẹ quyền lực chính trị và quân sự của bất cứ đế quốc nào[9]. Đối với ông, hai biến cố trọng đại có ảnh hưởng sâu đậm đối với lịch sử nhân loại là tội nguyên tổ và núi Calvariô. So sánh với hai biến cố đó, tất cả các biến cố khác đều chẳng đáng kể gì. Đối với ông, điều quan trọng là ưu thế của tác động Thiên Chúa, vượt ngàn trùng trên tác động của con người[10]. Xét dưới cái nhìn thuần túy con người, lịch sử là một chuỗi các biến cố đặc thù mà ta không biết được khía cạnh tổng quát của chúng. Vì lẽ ấy, ta không thể thật sự  có một lịch sử về các biến cố này[11].

B. Gioakim de Fiore: Tam Vị với lịch sử

Vào thời Trung cổ, một tác giả nổi bật về thần học lịch sử là viện phụ Gioakim de Fiore (1131-1202), bị công đồng Latêranô IV kết án các luận đề về Chúa Ba Ngôi. Ông cảm thấy được thu hút muốn đi tìm một sự hiểu biết về lịch sử, và ông liều đưa ra một giải thích qua thuật ngữ “Tin mừng vĩnh cửu” dựa theo đoạn sách Khải huyền (14,6): “Rồi tôi thấy một thiên thần khác bay qua trên đỉnh vòm trời, mang một tin mừng vĩnh cửu để loan báo cho các người ở trên mặt đất, cho mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ và mọi nước”. Giám mục Bossuet và nhiều nhà chú giải khác hiểu thuật ngữ này theo nghĩa là Tin mừng sẽ được truyền bá, một khi các lạc giáo đã được chinh phục. Còn viện phụ Gioakim hiểu rằng hàng giáo phẩm nhiễm mùi trần tục phải biến đi, nhường chỗ cho một cộng đoàn các thánh nhân; những người này sẽ cứu vãn thế giới khỏi cảnh phong hóa suy đồi.

Các tác phẩm của viện phụ Gioakim đã được giải thích theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn như Gherardo di San Donnino, trong sách   Liber introductorius ad Evangelium aeternum (1254), cho rằng các lời tiên tri của viện phụ Gioakim đã ứng nghiệm nhờ thánh Phanxicô  và dòng anh em hèn mọn (mà Gherardo là một thành viên). Việc giải thích này đã dẫn đến việc tổng hội của Dòng truất chức cha tổng quyền Gioan Parma tổng quyền vì đã quá nhân nhượng cha Gherardo. Vị kế nhiệm là cha Bonaventura, giáo sư thần học tại Paris, đã tìm cách vớt vát học thuyết của Gioakim bằng cách chen thêm những đạo lý về Đức Ki-tô[12].

Vào khoảng năm 1190-95, viện phụ Gioakim nói rằng mình đã nhận được một thị kiến mặc khải những mầu nhiệm của lịch sử nhờ hiểu biết các biểu tượng của Kinh thánh, đặc biệt là sách Khải huyền. Dựa vào đó, ông giải thích lịch sử theo chiều hướng Thiên Chúa Ba ngôi. Kỷ nguyên thứ nhất là của Ngôi Cha, kỷ nguyên của luật pháp, sợ hãi, nô lệ. Kỷ nguyên thứ hai bắt đầu từ ông Zacaria và trổ bông kết quả với cuộc nhập thể, đời sống, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là kỷ nguyên của ân sủng, khởi đầu cho tự do. Kỷ nguyên thứ ba bắt đầu từ thánh Biển Đức nhưng sẽ được biểu lộ toàn vẹn khi các đan sĩ thay thế các giáo sĩ. Đó sẽ là kỷ nguyên plenitudo intellectus, khi nước sẽ được hoàn toàn biến đổi nên rượu. Ông tính toán thời gian qua các thế hệ, ước chừng 30 năm cho mỗi thế hệ. Như thế các đồ đệ của ông quả quyết rằng, trong vòng hai thế hệ nữa kể từ khi thầy mất, nghĩa là khoảng năm 1260, thì sẽ tận thế.

Điểm độc đáo của ông không phải ở chỗ quan niệm dòng lịch sử dựa theo Kinh thánh, cho bằng áp dụng vào việc tiên đoán tương lai. Dựa theo đó, chìa khóa để hiểu biết tương lai là nắm bắt ý nghĩa của quá khứ. Trong kỷ nguyên thứ ba, kỷ nguyên của Thánh Linh, hàng giáo sĩ sẽ nhường chỗ cho hàng ngũ đan sĩ. Hàng ngũ đan sĩ, được Thánh Linh hướng dẫn, đã hiện diện trong trần gian rồi, chuẩn bị cho thời tận cùng. Trong kỷ nguyên cuối cùng này, sẽ không còn các bí tích và lời giảng nữa, bởi vì những nhà chiêm niệm sẽ có cảm nghiệm trực tiếp sâu xa về Thiên Chúa. Nếu chính ông Gioakim chưa xác định thời điểm của những biến cố này, thì các đồ đệ đã nhìn nhận ông như thánh Gioan Tẩy giả của kỷ nguyên thứ ba, và nhìn thánh Phanxicô như là thủ lãnh mới, Đức Ki-tô mới. Hàng tư tế cần phải biến đi, và chỉ còn tồn tại đời sống của Tin mừng cách triệt để, với nếp sống khó nghèo tuyệt đối, tạo ra một cộng đồng trong đó không có phẩm trật, không có bí tích, không có thần học, không có đọc Kinh thánh. Những tu sĩ này ở vào tư thế đối nghịch với giáo hoàng, và vị này cần phải biến đi; họ cũng đối nghịch với hoàng đế, là tay sai của quỷ vương cũng như bộ máy hành chính của Giáo hội.

Giáo hội đã kết án lập trường lạc giáo này, tuy vẫn tìm cách thu nhận những yếu tố tích cực trong đó. Trong việc giải thích lịch sử, viện phụ Gioakim có nhiều điều đi xa hơn thánh Augustinô. Thật vậy, niềm trông đợi một sự tiến bộ do Chúa quan phòng để đưa lịch sử cứu độ vào trong lịch sử phổ quát, là một tư tưởng mới mẻ so với thánh Augustinô. Ông Gioakim không bao giờ khước từ những lời tiên tri về sự canh tân hoàn toàn trật tự trần thế”[13]. Để đối phó với sự giải thích của viện phụ, Giáo hội phải viết lại quan điểm của mình về lịch sử bằng cách quy chiếu về Đức Ki-tô. Với Đức Ki-tô thời kỳ sung mãn đã đến. Nói đến một tương lai mà bỏ qua Đức Ki-tô như là đầu và là cứu cánh của lịch sử, đang khi trông đợi một trật tự mới mẻ tách rời Người ra khỏi Thánh Linh, thì quả thật là không còn trung thành với Tân ước nữa. Đây là điều mà thánh Bonaventura chỉ trích ông Gioakim, mặc dù vẫn cố gắng thu nhận cái gì là tốt cho thần học lịch sử.

Tuy nhiên, đang khi theo thánh Augustinô và thánh Tôma, chân lý Ki-tô giáo đặt nền tảng trên một chuỗi những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ tuy vẫn tiếp tục trong thời gian nhờ tác động của Thánh Linh, thì đối với ông Gioakim, chân lý mang một chiều hướng mở và tương đối. Vì thế có thể nói là tư tưởng của ông là một thứ “duy lịch sử”[14].

Mặc dù thuyết của ông mang nhiều giới hạn về thần học, nhưng qua các tu sĩ Phan sinh thuộc nhóm thần khí (Spirituales), điểm son của ông là làm thức dậy ý thức cánh chung của Hội thánh tiên khởi, nhìn về tận thế với niềm hy vọng lạc quan, bất chấp những biến cố bấp bênh của thời gian. Các đồ đệ của ông muốn nhen nhúm lòng ước ao nên thánh và chiêm niệm. Tuy nhiên cũng có người giải thích ý đồ của ông theo nghĩa phàm tục, tức là muốn tạo ra một xã hội cánh chung ngay ở trong dòng lịch sử, như các học thuyết về sau của Hegel, Lessing và Fichte hoặc Marx.

C. “Tân Khoa học” của Vico

Với ông Giambattista Vico (1668-1744) chúng ta gặp thấy, không phải là một thần học gia nhưng là một triết gia muốn dùng lý trí để hiểu biết chương trình quan phòng của Thiên Chúa trong lịch sử. Trong việc định nghĩa tân-khoa-học, một phương thức được ông sử dụng là “thần học dân sự hợp lý về sự quan phòng”[15], một thứ chứng minh lịch sử cho hành vi quan phòng trong lịch sử. Chống lại quan điểm của Descartes muốn xây dụng một khoa học vật lý toán học, ông Vico không chấp nhận nguyên lý “Cogito ergo sum” (tôi tư duy, cho nên tôi hiện hữu), nhưng ông muốn đặt ra một nguyên lý tri thức luận riêng của mình: “cái đúng là cái đã thành hình” (verum quia factum). Như thế, Thiên Chúa là Đấng tác thành vũ trụ, nên là Đấng biết rõ vũ trụ tường tận hơn bất cứ ai khác. Một cách tương tự như vậy, những con người đã làm nên lịch sử nhân loại ngay từ thời thượng cổ đã có thể biết cách chắc chắn những nguyên tắc điều hành lịch sử do họ làm ra. Thật vậy, xem ra hiểu biết các định luật thiên nhiên (không do con người làm ra) thì khó hơn hiểu biết các định luật lịch sử do con người làm ra nhờ tự do của mình. Nguyên tắc của ông Vico để giải thích lịch sử có thể phát biểu như sau: “bởi vì ở đâu mà người làm ra sự việc kể lại chuyện ấy thì ở đấy lịch sử không thể nào chắc chắn hơn được nữa”[16]. Với nguyên tắc này, ông Vico muốn cấp cho môn sử học một quy chế khoa học mà vào thời của Descartes nó chưa có. Có thể xem đó là những bước chuẩn bị cho các khoa học nhân văn về sau này.

Trong tư tưởng của Vico, ý niệm quan phòng giữ một vài trò quan trọng, và đồng thời, “việc khám phá nguồn gốc lịch sử nhờ tinh thần của chúng ta và khả năng nắm bắt quá khứ, đặt nền cho một triết học của tinh thần con người dẫn đưa chúng ta đến Thiên Chúa xét như là quan phòng hằng cửu”[17] . Trong hệ thống tư tưởng của Vico, vai trò của quan phòng được đề cao đến nỗi ông cho rằng chủ nghĩa vô thần không thể nào thiết lập một triết học lịch sử đúng đắn được. Sự quan phòng tác dụng qua các luật lệ, các định chế xã hội và gia đình của các dân tộc, nhờ thế tân khoa học là một chứng minh cho tác động của quan phòng trong lịch sử nhân loại. Quan phòng không loại bỏ tự do của con người, vì tự do cũng là tác viên của tiến trình lịch sử. Tuy nhiên tự do biểu lộ như biến cố và sự kiện, vì thế các ý định đặc thù, (và chúng có thể lệch lạc), được vượt lên do những mục tiêu phổ quát hơn, do Thiên Chúa hướng dẫn. Như vậy Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử bằng việc hướng dẫn các hành động của con người hướng đến các mục tiêu mà Ngài muốn.

Sự quan phòng cũng hướng dẫn nhân loại qua các tôn giáo khác, nhờ vậy Thiên Chúa chuẩn bị cho họ đón nhận mặc khải toàn vẹn. Ông Vico không muốn làm công tác hộ giáo bênh vực Ki-tô giáo; ông chấp nhận nó như đạo thật, và ông ngạc nhiên khi khám phá rằng sự quan phòng đã hành động qua các tôn giáo nguyên thủy để chuẩn bị cho mặc khải sung mãn.

Cái nhìn của ông Vico về lịch sử đã du nhập một hệ thống chu kỳ, trong đó dòng lịch sử cần đến sự can thiệp của Chúa quan phòng để cho lịch sử trở về tình trạng nguyên thủy đức độ hơn. Ông không nói đến sự tiến triển của lịch sử hoặc sự hoàn tất tận cùng, nhưng xem ra ông muốn chứng tỏ rằng ý nghĩa của lịch sử là nhằm biểu lộ tác động của Chúa quan phòng. Kể cả việc trở về thời đại man rợ, dõi theo các chu kỳ lịch sử, cũng được Chúa quan phòng xếp đặt nhằm mục tiêu sư phạm. Cái nhìn của ông Vico về lịch sử chịu ảnh hưởng của thần học, nhưng các đường lối mà Chúa quan phòng được ông trình bày theo triết học, vì thế ông không đề cập đến thời cánh chung. Bởi vậy, cái nhìn của ông vừa mang tính thần học vừa mang tính triết học, và đã gây ra nhiều sự lẫn lộn cũng như nhiều sự chỉ trích của các người đương thời và hậu thế.  Dưới phương diện thần học, người ta vạch ra sự thiếu sót ở chỗ khi bàn về Chúa quan phòng, ông đã qua việc Thiên Chúa can thiệp vào dòng lịch sử, đặc biệt nơi Đức Ki-tô, là trung tâm và chóp đỉnh của lịch sử nhân loại.

3. Ý nghĩa của lịch sử theo Ki-tô giáo: hy vọng và tình yêu lân tuất

Chúng ta đã thấy rằng khái niệm về Chúa quan phòng đã giữ vai trò quan trọng trong cái nhìn về lịch sử theo thánh Augustinô  và Giambattista Vico, tuy dù có sự khác biệt giữa hai tác giả. Dĩ nhiên, khi bàn về lịch sử theo quan điểm Ki-tô giáo, ta không thể nào bỏ qua sự quan phòng, xét như là tác động của Thiên Chúa dẫn đưa thế giới, không những vật lý mà cả lịch sử nhân loại đến điểm hoàn tất, dựa theo kế hoạch tình yêu của ngài. Thế giới vật lý, sân khấu nơi diễn ra lịch sử nhân loại, đã được tạo dựng như là bối cảnh của tình yêu Thiên Chúa quan phòng dành cho loài người. Thiên Chúa tạo dựng vì yêu thương. Việc tạo dựng không phải là kết quả của một định mệnh mù quáng, nhưng là của một kế hoạch cứu độ. Thực vậy, Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, tiếp nhận một trực giác của ông Karl Barth  cho rằng “giao ước là lý do sâu xa của cuộc tạo dựng”[18], đã viết: “Thiên Chúa, là Cha toàn năng và thượng trí, hiện diện và hành động trong vũ trụ, trong lịch sử của mỗi thụ tạo, ngõ hầu mỗi thụ tạo và cách riêng, con người là hình ảnh của Thiên Chúa, có thể thực hiện cuộc sống như là một con đường được hướng dẫn bởi chân lý và tình yêu đến cùng đích của đời sống vĩnh cửu trong Ngài” [19].

Quan phòng là sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới và trong lịch sử. Đó là một sự hiện diện yêu thương của Đấng là Tình yêu và Thượng trí vô biên. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của tội lỗi, bị vùi dập dưới cảnh bơ vơ và dốt nát. Thiên Chúa đồng hành lịch sử nhân loại như một người anh đi bên cạnh chúng ta (Lc 24,15), cắm lều gần kề chúng ta (Ga 1,14). Thiên Chúa không xa lạ với những biến chuyển của lịch sử, với những ội ác trong lịch sử. Sự quan phòng của Thiên Chúa đã tác động cách đặc biệt nơi bản thân Đức Giêsu Ki-tô, nơi cuộc nhập thể và nơi mầu nhiệm của cuộc đời công khai của Người, nơi cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người.  Sự biểu lộ cao cả nhất của việc quan phòng là việc Thiên Chúa trao tặng Con của ngài, việc trao tặng trở thành một sự kiện lịch sử và thay đổi lịch sử nhân loại. Với biến cố này, lịch sử nhân loại trở thành một lịch sử thánh, một lịch sử trong đó các cuộc sống của mỗi cá nhân nhắm đến sự hiệp thông với cuộc sống của Thiên Chúa và của những người khác. Sự quan phòng được biểu lộ nơi bản thân Đức Kitô chứng tỏ Thiên Chúa liên tục đồng hành giữa chúng ta và trong chúng ta như một Đấng an bài ôm ấp chúng ta bằng tình yêu, thượng trí. Ngài hướng dẫn cách êm ái và cương quyết, cuộc đời chúng ta, diễn tiến lịch sử và thậm chí các sự chống đối của chúng ta, ngõ hầu lịch sử hướng đến sự thành toàn của ngày thứ bảy[20].

Thần học của các Ki-tô hữu về lịch sử đều khởi đi từ tiền đề là Thiên Chúa không xa lạ với các diễn biến lịch sử. Các lối tiếp cận thì khác nhau, đôi khi tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể của mỗi tác giả. Thánh Augustinô  khởi đi từ Kinh thánh, từ Thiên Chúa siêu việt nhưng không xa lạ với con người và các hoạt động của nó. Nhưng có lẽ lịch sử theo thánh Augustinô không làm nêu bật vai trò của con người như là tác nhân tự do trong lịch sử. Quan điểm của viện phụ Gioakim nêu bật những khía cạnh cánh chung và đặc sủng, nhưng không theo sát Kinh thánh, bởi vì vai trò của Đức Ki-tô không được tôn trọng đúng mức. Lịch sử của ông Vico trình bày sự quan phòng của Thiên Chúa trải qua tất cả mọi biến cố của lịch sử, nhưng quan điểm của ông lập lững giữa triết học và thần học, chứ chưa làm sáng tỏ nội dung phong phú của tư tưởng Kinh thánh. Mặc dù những giới hạn của các quan niệm vừa kể, tất cả đều đã vạch ra những khía cạnh căn bản để làm sáng tỏ ý nghĩa của lịch sử theo Ki-tô giáo.

Đối với người Ki-tô hữu và nhà thần học, suy tư về ý nghĩa của lịch sử là một chuyện quan trọng khi đối chiếu với những băn khoăn của người đời: lịch sử nhân loại có một ý nghĩa gì không? Người Ki-tô hữu trả lời là có: lịch sử của nhân loại, tuy giữa những thăng trầm trong đó sự dữ đã len lỏi, có một ý nghĩa. Lịch sử không phải là một chuỗi những hiện tượng mù quáng kế tiếp nhau. Ta không thể áp dụng mô hình “ngẫu nhiên – tất định” cho dòng lịch sử. Sự hiện diện của Thiên Chúa quan phòng, với sự kiện nhập thể của Con Chúa, đã chứng tỏ rằng lịch sử có một ý nghĩa đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ mặc lịch sử cho ngẫu nhiên may rủi. Ngài có một kế hoạch yêu thương và cứu độ.

Một câu hỏi nảy lên: liệu chúng ta có thể biết được chương trình của Thiên Chúa về lịch sử, hay là chương trình này hoàn toàn vượt khỏi tầm mức chúng ta? Hẳn nhiên, khi sống trên đời này, ta không thể nào hiểu thấu ý nghĩa của lịch sử. Điều ấy thuộc về thời cánh chung. Nhưng, mặc dù còn nhiều khiếm khuyết, ta có thể biết được chương trình ấy trong mức độ chúng ta ngước mắt nhìn vào mặc khải để nắm bắt những tia sáng phát ra từ đó.

Chúng ta đã biết rằng Thiên Chúa hành động do tình thương; Ngài đã tạo dựng vũ trụ để biểu lộ vinh quang của Ngài[21]. Nếu tạo dựng và cứu chuộc không tách rời nhau và không thể tách rời nhau, và cứu chuộc là trung tâm của lịch sử nhân loại, thì ta có thể kết luận rằng ý nghĩa của tạo dựng và ý nghĩa của cứu chuộc chia sẻ với nhau cùng một mục đích và cùng một ý nghĩa. Thiên Chúa tạo dựng do tình yêu. Thiên Chúa cứu chuộc do tình yêu và trong lịch sử. Lịch sử trở thành sân khấu nơi Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài và tình yêu của Ngài đối với loài người. Cách riêng, tình yêu mà Thiên Chúa biểu lộ trong lịch sử nhân loại, –  một lịch sử của tội lỗi -, là tình yêu của lòng lân tuất và tha thứ; đó là một tình yêu cứu vớt và nâng dậy. Thánh Ambrosiô đã hiểu rõ điều đó khi diễn tả trong bài chú giải về sáu ngày tạo dựng : “Thiên Chúa đã tạo dựng bầu trời, nhưng tôi không thấy Kinh thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Ngài đã tạo dựng mặt đất, nhưng tôi không thấy Kinh thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Ngài đã tạo dựng mặt trời mặt trăng và tinh tú, nhưng tôi không thấy Kinh thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Nhưng tôi đọc thấy rằng Ngài đã tạo dựng con người và lúc bấy giờ Ngài nghỉ ngơi, bởi vì nơi con người Ngài đã có kẻ để tha thứ tội lỗi”[22]. Lịch sử có ý nghĩa là để có thể biểu lộ vinh quang và tình yêu của Thiên Chúa, không phải bất cứ thứ tình yêu nào nhưng là tình yêu lân tuất. Thập giá là sự biểu lộ rõ rệt nhất của lòng lân tuất của Thiên Chúa dành cho con người. “Thập giá là hành vi hạ cố sâu xa nhất của Thiên Chúa đối với con người, và là điều mà con người, đặc biệt vào những lúc khó khăn và đau khổ, nhìn lên như là số phận bất hạnh của mình. Thập giá là sự xoa dịu của tình yêu vĩnh cửu trên những vết thương sâu thẳm của cuộc sống nhân sinh”[23].

Như vậy, ý nghĩa Ki-tô của lịch sử là niềm trông mong sự biểu lộ toàn diện của vinh quang Thiên Chúa, của tình yêu lân tuất của ngài đối với loài người. Theo nghĩa này, những lời của thánh Phaolô trở nên đầy ý nghĩa: “muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Ngài. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn iềm hy vọng là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8, 19-21). Cùng với các thụ tạo, lịch sử sống thời chờ đợi, chờ đợi mặc khải trọn vẹn vinh quang của tự do con cái Chúa. Cũng như muôn loài thụ tạo, lịch sử sống niềm trông mong này tựa như người phụ nữ rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Lịch sử sống trong nỗi đau, trong đó điều dữ trộn lẫn với điều lành giống như cỏ lùng với lúa tốt. Toàn thể vinh quang Thiên Chúa chỉ tỏ lộ vào cuối lịch sử. Đang khi lịch sử tiến đến điểm sung mãn là sự mặc khải tuyệt đối của tình yêu lân tuất.
của Thiên Chúa, các Ki-tô hữu cần sống trong hy vọng, tuy vẫn nắm chắc sự toàn thắng của tình yêu lân tuất nhờ bảo chứng của Thánh Linh (Rm 8, 22-25).

Thiên Chúa có khả năng biểu lộ tình yêu cao cả giữa những sự tồi tệ nhất, vì thế chúng ta đừng vấp ngã trước những sự dữ xem ra đang thắng sự thiện. Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa có khả năng rút ra được hồng ân cứu chuộc từ sự dữ kinh khủng nhất của lịch sử, đó là việc kết án và giết hại Con Thiên Chúa làm người. Chính từ khả năng của Thiên Chúa đáp lại sự dữ bằng sự thiện như vậy mà Giáo hội múc lấy hy vọng và chuyển thông cho nhân loại.

Thiên Chúa đưa ra lời giải đáp cho sự dữ, không phải là bên trên lịch sử, nhưng là bên trong lịch sử, nhờ biến cố nhập thể của Ngôi Lời. Ta có thể khẳng định rằng Đức Ki-tô là trung tâm của lịch sử, bởi vì Người là mặc khải trọng đại nhất của vinh quang Thiên Chúa trong lịch sử và của tình yêu lân tuất của Thiên Chúa. Thiên Chúa của Ki-tô giáo là một vị Thiên Chúa quan tâm đến lịch sử, chứ không phải là một Ngọc Hoàng sau khi đã dựng nên vũ trụ thì bỏ mặc nó cho định mệnh. Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô dấn thân vào lịch sử và như vậy Ngài có khả năng cứu vớt nó khỏi sự dữ. Qua việc đưa tình yêu Thiên Chúa làm người vào lịch sử, Thiên Chúa cứu vớt thế giới và lịch sử. Vì thế ơn cứu độ Ki-tô giáo là lịch sử, phát xuất  bởi lịch sử và mang lại một ý nghĩa cho lịch sử. Do đó, ta có thể nói rằng có một sự đan xen giữa lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ. Đó không phải là hai lịch sử song hành, nhưng là hai lịch sử chồng chéo nhau và nâng đỡ lẫn nhau. Đức Gioan Phaolô II đã nhận định như sau: “Lịch sử cứu độ luôn luôn cung cấp nguồn hứng mới để giải thích lịch sử của nhân loại”[24]. Lịch sử cứu độ không phải là một lịch sử tách rời khỏi lịch sử nhân sinh, nhưng là chìa khóa giải thích có khả năng giải đáp nhưng thắc mắc thâm sâu nhất của cuộc đời con người. Vì thế nó là “lịch sử và siêu hình”[25], bởi vì trải qua lịch sử, (là lịch sử cứu độ), mà mở ra sự hiểu biết không những về bản tính con người cá vị, mà còn về một hữu thể được định hình trong lịch sử, mang lại cho nó một ý nghĩa.

Nhưng ý nghĩa chung quyết của lịch sử vẫn còn chờ đợi sự hoàn tất viên mãn, chờ đợi sự biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa và cũng là vinh quang của con người. Đang khi đợi chờ vinh quang ấy đến, thì trong giai đoạn này của lịch sử, chúng ta sống trong thái độ hy vọng. Nhân đức hướng Chúa này là đặc trưng của con người lữ hành homo viator. Khi nắm chắc rằng lịch sử có một ý nghĩa, rằng lịch sử không bị cuốn chìm theo những vòng xoáy của sự dữ xem ra thắng thế, người Ki-tô hữu nhận được sức mạnh của hy vọng. Ý nghĩa thần học của lịch sử thúc đẩy Đức Gioan Phaolô II khẩn khoản mời gọi hãy bước vào hy vọng. Trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” (Varcare la soglia della speranza), khi được hỏi về đức hy vọng, Người trả lời rằng kẻ nào đã vượt lên sự sợ hãi, thắng nhờ tình yêu, nguồn mạch của tự do chân chính, người ấy có thể bước vào hy vọng. Vượt lên sự sợ hãi nô lệ để bước vào sự kính sợ hiếu thảo của agape, đó là động lực thúc đẩy toàn thể Giáo hội và nhân loại nếu muốn đi vào đức hy vọng. Ki-tô giáo có niềm hy vọng cho lịch sử, và cũng có một tiếng nói về ý nghĩa của lịch sử, vì thế Giáo hội mang trong mình một niềm trông cậy sẽ không thất vọng, bởi vì “tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ tràn trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh đã được ban cho chúng ta (Rm 5,5). Và tình yêu, – tình yêu lân tuất của Chúa Cha được biểu lộ nơi Đức Giêsu và được trao ban trong lịch sử qua Thánh Linh -, có khả năng đặt nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta. Niềm hy vọng này mang lại cho chúng ta khả năng chịu đựng đau khổ vì tình yêu trong một lịch sử đầy dẫy những sự dữ, thể lý cũng như luân lý, nhưng đồng thời, lịch sử ấy đã được cứu chuộc bởi Đấng chính là Chân lý và Tình yêu, đã muốn mặc lấy bản tính của chúng ta để chịu khổ vì chúng ta và với chúng ta[26].

(Nguồn: Thời sự Thần học, Số 72 (tháng 5/2016), tr. 37-57)

————————————-

[1] Gaudium et Spes (GS), 10

[2] X. GS, 20.

[3] Karl Lowith, Significato e fine della storia. I presupposti teologici della filosofia della storia, Il Saggiatore, Milano, 2004, trang 21.

[4] T. Augustinô, De civitate Dei, XII, 21.

[5]  T. Augustinô, De civitate Dei, XII, 21

[6] T. Augustinô, De civitate Dei, XII, 17.

[7] Op. cit., tr. 191.

[8] X. Joseph Ratzinger, La théologie de l’histoire de Saint Bonaventure, Ed. Presses Universitaires de France, Paris, 1988, 120-125.

[9] T. Augustinô, De civitate Dei, V, 17.

[10] Về quan niệm của thánh Augustinô về lịch sử, x. Karl Lowith, Significato e senso della storia. I presupposti teologici della filosofia della storia, Il Saggiatore, Milano, 2004, 185-189.

[11] J. Ratzinger, op. cit., 88. Liber de div. Quaest. 83, q. 48.

[12] J. Ratzinger op. cit., 134-136. Amador Pedro Barrajón Muñoz, La sabiduría cristiana en las Collationes in Hexaëmeron de S. Buenaventura, PPU, Barcelona, 1998, 271-281.

[13] K. Löwith, Significato e fine della storia, Il Saggiatore, Milano 1998, p. 179.

[14] H. Grundmann, Studien über Joachim von Floris, Teubner, Leipzig, 1927, p. 96. Chú thích của người dịch: “Duy lịch sử” (historicismus) ám chỉ một trào lưu triết học cho rằng thực chất của một vật được biểu lộ nơi lịch sử, chứ không phải nơi bản tính siêu hình. Trào lưu này gồm nhiều khuynh hướng, nổi tiếng nhất trong thế kỷ XIX là Hegel.

[15] G. B. Vico (a cura di F. Nicolini), Scienza nuova seconda, Laterza & Figli, Bari, 1942, 3ª ed., 153.

[16] G. B. Vico (a cura di F. Nicolini), Scienza nuova seconda, 129.

[17] K. Löwith, Significato e fine della storia, op. cit., 144.

[18] K. Barth, Die Kirliche Dogmatik III/1. Die Lehre von der Schöpfung, Zürich, EVZ, 1945, 261).

[19] Giovanni Paolo II, Udienza generale del 30, marzo del 1986, in Catechesi sul Credo, Libreria Editrice Vaticana, 1992, p.432.

[20] X. Ibid.

[21] Công đồng Vaticanô I, Denzinger-Schönmetzer, 3025.

[22] T. Ambrosiô, Exameron. Commento ai sei giorni della creazione, 75 (ed. Italiana, TEA, Milano, 1995, 278-279).

[23] T. Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in misericordia, số 8.

[24] Giovanni Paolo II – Vittorio Messori, Varcare la soglia della speranza, Mondadori, Milano 2004, cap. 9.

[25] Ibid.

[26] X. ĐGH Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe salvi, 39.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here