Thông Điệp Centesimus Annus (Bách Chu Niên) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 01-05-1991) – (2)

0
2252


THÔNG ĐIỆP CENTESIMUS ANNUS

(BÁCH CHU NIÊN)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

NHÂN DỊP KỶ NIỆM MỘT TRĂM NĂM THÔNG ĐIỆP TÂN SỰ

1891 – 1991

***

 

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

CHƯƠNG IV

VẤN ĐỀ TƯ HỮU VÀ CỦA CẢI DÀNH CHO MỌI NGƯỜI

30. Quyền tư hữu và những giới hạn của nó

Trong thông điệp RN, Đức Lêô XIII đã xác quyết mạnh mẽ về tính chất tự nhiên của quyền tư hữu, chống lại chủ nghĩa xã hội thời đó, và Người dựa trên nhiều lý chứng khác nhau[67]. Quyền này có tính cách nền tảng đối với sự tự lập và phát triển của cá nhân, vẫn luôn được Giáo hội bảo vệ cho tới ngày nay. Giáo hội cũng dạy rằng sở hữu các tài sản không phải là quyền tuyệt đối, nhưng trong chính bản chất quyền con người của nó, nó cũng có những giới hạn riêng.

Khi công bố quyền tư hữu, Đức Giáo Hoàng cũng xác quyết rõ ràng rằng việc sử dụng của cải, dù là quyền tự do của con người, nhưng phải tùy thuộc vào mục đích nguyên thủy của nó là được sáng tạo dành cho mọi người và đó cũng là ý muốn của Đức Giêsu Kitô như được diễn tả trong Tin mừng. Quả vậy, Đức Giáo Hoàng đã viết: “Các người giàu có thế gian này được khuyến cáo (…) rằng họ phải run sợ trước những ngăm đe khác mà Đức Giêsu đã đưa ra để chống lại những người giàu; rằng sau cùng sẽ tới một ngày họ sẽ phải trả lẽ gắt gao với Thiên Chúa, là Đấng xét xử họ, về việc sử dụng tài sản của mình”; và trích dẫn thánh Toma, Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Nhưng nếu người ta hỏi việc sử dụng của cải hệ tại điều gì, Giáo hội không ngần ngại trả lời: “Về điều này, con người không được coi những của bên ngoài như của riêng, nhưng phải coi là của chung”, bởi vì “bên trên những xét đoán và luật lệ của con người, còn luật lệ và sự xét xử của Đức Giêsu Kitô”[68].

Các Đấng kế vị Đức Lêô XIII cũng đã nhắc lại hai xác quyết đó: – Sự cần thiết và do đó tính hợp pháp của quyền tư hữu, và – quyền tư hữu cũng phải có giới hạn của nó[69]. Công đồng Vatican II cũng đã đưa ra học thuyết truyền thống này bằng những từ ngữ cần phải trích lại nguyên văn như sau: “Khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà mình làm chủ một cách chính danh không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh lợi không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác nữa”. Sau đó, Công đồng viết: “Quyền tư hữu cũng như quyền làm chủ của cải bảo đảm cho mọi người một lãnh vực cần thiết để cá nhân và gia đình được tự trị; phải coi các quyền đó như sự mở rộng phạm vi quyền tự do của con người (…) Tự bản chất, quyền tư hữu có tính cách xã hội. Tính cách này đặt nền tảng trên định luật của cải dành cho mọi người”[70]. Tôi cũng đã nhắc lại học thuyết này, trước tiên trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ III các Giám Mục Châu Mỹ La Tinh tại Puebla, rồi sau đó trong thông điệp LE, và gần đây, trong thông điệp SRS[71].

31. Mục đích của của cải là phục vụ con người

Khi đọc lại giáo huấn này về quyền tư hữu và về vấn đề mục đích của cải là phục vụ mọi người trong bối cảnh thời đại chúng ta, người ta có thể đặt ra vấn đề về nguồn gốc các của cải đang nâng đỡ đời sống con người, thỏa mãn các nhu cầu con người và là đối tượng của các quyền của họ.

Nguồn gốc đầu tiên của mọi thiện hảo là hành động của chính Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo trái đất và con người, Đấng đã ban trái đất cho con người để con người làm chủ bằng lao động và hưởng thụ các hoa lợi của nó (x. St 1,28-29). Thiên Chúa đã ban trái đất cho cả nhân loại để trái đất nuôi sống mọi phần tử của nhân loại, không loại trừ cũng không dành đặc quyền cho một cá nhân nào. Đó là nguồn gốc của việc sở hữu chung của cải trái đất. Vì chính sự phong nhiêu của trái đất và vì những khả năng của nó thỏa mãn các nhu cầu của con người, trái đất là quà tặng đầu tiên của Thiên Chúa để cho con người được tồn tại. Thế mà, trái đất không nẩy sinh hoa trái nếu không có sự đáp ứng đặc biệt của con người đối với ân huệ của Thiên Chúa, nghĩa là nếu không có lao động. Nhờ lao động và nhờ sử dụng trí khôn cũng như tự do của mình con người thống trị trái đất, biến trái đất thành nơi cư ngụ thích hợp cho mình. Như vậy, con người chiếm hữu một phần đất, phần mà con người dành được do lao động của mình. Đó là nguồn gốc của quyền tư hữu cá nhân. Hiển nhiên con người cũng có trách nhiệm không được cản trở những người khác chiếm hữu được phần của họ từ hồng ân của Thiên Chúa; trái lại, họ phải cộng tác với người khác để cùng nhau thống trị toàn thể trái đất.

Trong lịch sử, hai yếu tố này, lao động và trái đất, luôn có ngay ở khởi đầu của mọi xã hội nhân loại, tuy nhiên giữa hai yếu tố đó, không phải luôn luôn có cùng một quan hệ. đã có thời sự phong nhiêu tự nhiên của trái đất có vẻ là, và thực sự là yếu tố chính của sự giàu có, trong khi mà lao động, một cách nào đó chỉ là sự trợ giúp và nâng đỡ cho sự phong nhiêu này mà thôi. Vào thời đại chúng ta, vai trò của lao động con người trở thành một yếu tố mỗi ngày một quan trọng hơn trong việc sản xuất ra của cải tinh thần và vật chất; ngoài ra còn thấy rõ ràng lao động của một con người đan kết một cách hết sức tự nhiên với lao động của những người khác. Hơn lúc nào hết, ngày nay, lao động là lao động với người khác và lao động cho người khác: nghĩa là làm cái gì cho ai đó. Việc lao động càng phong phú và sản xuất được nhiều khi con người càng có khả năng nhận biết các nguồn tài nguyên sản xuất của trái đất và nhận ra đâu là những nhu cầu sâu xa của người khác mà mình phục vụ.

32. Kỹ thuật và kiến thức

Tuy nhiên, ở thời đại chúng ta, có một hình thức tư hữu khác và hình thức này có một tầm quan trọng không kém hình thức tư hữu đất đai: đó là tư hữu về trí thức, kỹ thuật và kiến thức. Sự giàu có của các quốc gia kỹ nghệ hóa dựa trên kiểu tư hữu này nhiều hơn là tư hữu những nguồn lợi tư nhiên.

Người ta đã gợi ra sự kiện con người làm việc với những người khác, khi họ tham dự vào “lao động xã hội”, ngày càng mở rộng thêm những lãnh vực lớn lao hơn. Theo nguyên tắc chung, một người sản xuất ra một đồ vật tức là làm ra vật đó không chỉ để sử dụng cho cá nhân mình, nhưng cũng còn để các người khác có thể sử dụng, sau khi đã trả một giá tương xứng, được thỏa thuận trong thương lượng tự do. Thế mà khả năng nhận ra đúng lúc những nhu cầu của người khác và toàn bộ các yếu tố sản xuất thích ứng nhất để thỏa mãn các nhu cầu ấy chính là một nguồn mạch quan trọng khác của sự giàu có trong xã hội ngày nay. Hơn nữa, có nhiều của cải không thể sản xuất được bằng cách thức thích hợp bằng công việc của một cá nhân, nhưng đòi hỏi sự cộng tác của nhiều người vào cùng một mục tiêu. Tổ chức một nỗ lực sản xuất như vậy, lên chương trình về thời gian, lưu tâm để áp dụng đúng các nhu cầu phải thỏa mãn, chấp nhận những mạo hiểm cần thiết, tất cả những điều đó cũng làm nên một nguồn mạch sự giàu có trong xã hội hiện nay. Như vậy, lao động có tổ chức và sáng tạo, cũng như khả năng sáng kiến và quản trị là những yếu tố có một vai trò luôn hiển nhiên và quyết định hơn[72].

Cần phải chú ý nhiều để nhận xét về tiến trình đã đưa ra ánh sáng một cách cụ thể, giáo huấn về con người mà kitô giáo vẫn không ngừng xác quyết. Thực vậy, cùng với trái đất, tài nguyên chính yếu của con người là chính con người. Đó là trí thông minh của con người, nó làm cho con người khám phá được những khả năng sản xuất của trái đất cũng như nhiều cách thức nhờ đó nhu cầu của con người có thể được thỏa mãn. Chính nhờ lao động có điều khiển, trong sự cộng tác liên đới đã giúp tạo nên những cộng đồng lao động mở rộng và đảm bảo hơn để hoàn thành việc biến đổi môi trường tự nhiên và chính môi trường nhân bản. Trong tiến trình này, có những đức tính quan trọng như sự chuyên chăm, nhiệt tâm làm việc, sự khôn ngoan trước các nguy cơ hợp lý phải chấp nhận, sự tín nhiệm xứng đáng và sự trung thành trong các quan hệ hỗ tương, sự cương quyết trong việc thi hành các quyết định khó khăn và đau lòng, nhưng là những quyết định cần thiết cho công việc chung của xí nghiệp và cần thiết để đối đầu với các tình thế hỗn loạn có thể xảy ra.

Việc quản trị hiện nay trong việc kinh doanh bao gồm các khía cạnh tích cực mà nguồn mạch của nó là sự tự do cá nhân được thể hiện trong lãnh vực kinh tế cũng như trong nhiều lãnh vực khác. Thực vậy, kinh tế là một lãnh vực trong nhiều hình thức hoạt động của con người và trong lãnh vực này cũng như trong các lãnh vực khác, luôn có quyền được tự do cũng như nghĩa vụ sử dụng tự do một cách có trách nhiệm. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, có nhiều tính chất khác nhau giữa các khuynh hướng của xã hội hiện tại và của xã hội quá khứ, ngay cả trong thời gian vừa qua. Nếu, ngày trước, yếu tố quyết định việc sản xuất là đất đai, và nếu, sau đó, là yếu tố tư bản, hiểu như là toàn bộ máy móc và các dụng cụ sản xuất, thì ngày nay yếu tố càng lúc càng có tính quyết định lại là chính con người, nghĩa là khả năng hiểu biết của con người thể hiện trong kiến thức khoa học, khả năng tổ chức liên kết và khả năng nắm bắt cũng như thỏa mãn các nhu cầu của người khác.

33. Thế giới thứ ba bị gạt ra bên lề

Tuy nhiên cũng phải vạch rõ các nguy cơ và các vấn đề gắn liền với những mẫu phát triển này. Thực vậy, nhiều người và chắc chắn đó là đa số, ngày nay không có phương tiện để gia nhập một cách hữu hiệu và xứng đáng với con người, vào trong hệ thống doanh nghiệp, trong đó lao động thực sự chiếm một vị trí trọng tâm. Họ không có khả năng đạt được kiến thức căn bản giúp họ thể hiện khả năng sáng tạo và phát triển khả năng của mình, cũng không thể gia nhập vào hệ thống các kiến thức cũng như các mạng lưới thông tin giúp họ được thấy tư cách của mình như được đánh giá và sử dụng. Tóm lại, nếu không bị bóc lột thì họ cũng bị gạt ra bên lề; và sự phát triển kinh tế có thể nói cứ tiếp tục diễn ra ở trên đầu họ, nếu không đi đến chỗ thu hẹp hơn nữa lãnh vực kinh tế sinh tồn của họ trước đây vốn đã hạn hẹp rồi. Những người này không có khả năng đối phó với sự cạnh tranh của các sản phẩm do những phương pháp tồi tàn sản xuất và đáp ứng những nhu cầu mà trước đây họ đã từng đáp ứng trong khuôn khổ những tổ chức truyền thống. Bị quyến rũ do sự giàu có hào nhoáng mà mình không đạt tới được đồng thời bị thúc bắt do nhu cầu, những người này đang tràn ngập các thành phố của thế giới thứ ba; tại đây họ thường bị mất gốc về phương diện văn hóa, và sống trong tình trạng tạm bợ cưỡng bách, không có khả năng hội nhập vào xã hội. Trong thực tế người ta không nhìn nhận phẩm giá, cũng như những khả năng tích cực của họ, và đôi khi người ta tìm cách loại bỏ sự hiện diện của họ trong dòng lịch sử, bằng cách áp đặt một số hình thức kiểm soát dân số, ngược với phẩm giá con người.

Nhiều người khác, dù không hoàn toàn bị loại ra bên lề, nhưng phải sống trong những hoàn cảnh mà cuộc chiến đấu sống còn là nhu cầu trên hết, trong khi các đường lối của một chủ nghĩa tư bản thời đầu vẫn còn hoành hành trong một tình trạng mà tính cách “dã man” của nó chẳng hơn gì những thời kỳ đen tối nhất của giai đoạn kỹ nghệ hóa đầu tiên. Trong những trường hợp khác, đất đai vẫn còn là yếu tố trọng tâm của tiến trình kinh tế và những người canh tác đất đai bị cấm chiếm hữu đất đai, họ bị đẩy tới một cuộc sống hầu như nô dịch[73]. Trong những trường hợp như vậy, vào thời đại này cũng như thời của thông điệp RN, quả thực là một sự bóc lột bất nhân. Dù có những thay đổi nghiêm trọng trong những xã hội tiến bộ nhất, các khiếm khuyết của con người trong chủ nghĩa tư bản còn lâu mới biến mất, và hậu quả của nó là vật chất lấn lướt trên con người; hơn nữa, đối với các người nghèo, thêm vào sự khan hiếm của cải vật chất, còn có sự thiếu thốn về hiểu biết và kiến thức, điều này ngăn cản họ thoát ra khỏi tình trạng lệ thuộc nhục nhã.

Đáng tiếc thay phần lớn dân cư ở thế giới thứ ba vẫn còn sống trong những điều kiện như vậy. Tuy nhiên sẽ không còn chính xác nếu hiểu thế giới thứ ba chỉ theo nghĩa địa dư. Trong một số miền và một số thành phần xã hội của “thế giới” này, các tiến trình phát triển đang thể hiện, tập trung không phải trên sự khai thác các tài nguyên vật chất cho bằng trên sự khai thác “tài nguyên con người”.

Cách đây không lâu lắm người ta chủ trương rằng đối với các quốc gia nghèo nhất, sự phát triển giả thiết rằng các quốc gia đó phải tách khỏi thị trường thế giới và chỉ dựa vào năng lực riêng của mình. Kinh nghiệm của những năm gần đây minh chứng rằng các quốc gia tự tách mình ra khỏi những cuộc trao đổi chung trong hoạt động kinh tế ở tầm mức quốc tế đều bị đình trệ và thụt lùi, và các quốc gia hội nhập được vào trong các cuộc trao đổi đó thì tạo được một sự phát triển. Như vậy, hình như vấn đề thiết yếu là gia nhập vào thị trường quốc tế cách bình đẳng, không dựa trên nguyên lý chỉ khai khẩn các nguồn lợi thiên nhiên nhưng trên sự phát triển các tài nguyên con người[74].

Tuy nhiên, một số khía cạnh tiêu biểu của thế giới thứ ba cũng xuất hiện trong các nước đã phát triển, tại các nước này, sự biến đổi không ngừng về cách thế sản xuất và các kiểu tiêu thụ đã làm mất giá trị các kiến thức đã đạt được cũng như các chuyên môn nghề nghiệp vững chắc, điều đó đòi hỏi phải có một nỗ lực liên tục để thích ứng và tái huấn nghệ. Những ai không thể theo được nhịp tiến sẽ dễ dàng bị loại ra ngoài lề như những người lớn tuổi, những người trẻ không có khả năng hội nhập vào đời sống xã hội, cũng như một cách chung, những người yếu kém nhất và đám người được gọi là thế giới thứ tư cũng bị loại ra như vậy. Trong những hoàn cảnh như thế, tình trạng của người phụ nữ vẫn còn rất khó khăn.

34. Nền kinh tế thị trường

Trong mọi quốc gia cũng như trong các mối quan hệ quốc tế, hình như thị trường tự do là phương tiện thích dụng nhất để phân chia các nguồn lợi và đáp ứng hữu hiệu các nhu cầu cuộc sống. Nhưng điều đó chỉ đúng với các nhu cầu “có thể thanh toán bằng tiền”, vì người ta có khả năng mua sắm, cũng như việc các nguồn lợi “có thể bán được”, có thể đổi lấy nhờ trả một giá chính đáng nào đó. Tuy nhiên có nhiều nhu cầu của con người không thể thỏa mãn được trong thị trường. Đây là một nghĩa vụ nghiêm chỉnh về công bằng và chân lý là làm sao cho các nhu cầu căn bản của con người được thỏa mãn và giúp cho những người phải thiếu thốn không bị diệt vong. Ngoài ra, những người trong cảnh túng quẫn này phải được giúp đỡ để có được những kiến thức, để gia nhập vào hệ thống các mối liên hệ và để họ phát triển năng lực của mình hầu có thể phát triển những khả năng và nguồn vốn cá nhân của mình. Bên trên sự hợp lý của những trao đổi bình đẳng và những hình thức công bằng chi phối các sự trao đổi đó, còn có một món nợ với con người, bởi vì họ là con người, do phẩm giá cao quý của họ. Món nợ này bao gồm một cách không thể tách lìa cái khả năng sống còn và khả năng đem lại một sự đóng góp tích cực cho sự thiện chung của nhân loại.

Các mục tiêu đề ra trong thông điệp RN để tránh hạ thấp lao động của con người và chính con người thành một thứ hàng hóa thuần túy vẫn luôn có giá trị nguyên vẹn trong bối cảnh thế giới thứ ba, và, trong một số trường hợp, nó vẫn là mục tiêu phải đạt tới, đó là: tiền lương đủ để nuôi sống gia đình, những bảo đảm xã hội cho tuổi già và khi thất nghiệp, sự điều chỉnh các điều kiện lao động cho thích hợp.

35. Vai trò và những giới hạn của lợi nhuận

Tất cả những điều đó, làm nên một lãnh vực hoạt động rộng lớn, và phong phú đối với sự dấn thân và đấu tranh, nhân danh sự công bằng, của các nghiệp đoàn và các tổ chức khác của người lao động; các nghiệp đoàn và tổ chức đó bảo vệ quyền của người lao động và bảo vệ phẩm giá của họ, đồng thời cũng chu toàn một chức năng thiết yếu thuộc lãnh vực văn hóa, để làm cho người lao động được tham gia với đầy đủ quyền hạn và một cách đáng tôn trọng vào đời sống của quốc gia, cũng như giúp đỡ họ tiến bước trên con đường phát triển của họ.

Theo chiều hướng này, người ta có lý để nói về một cuộc đấu tranh chống lại một trật tự kinh tế hiểu như là phương pháp để đảm bảo ưu thế tuyệt đối của tư bản, của việc chiếm hữu các dụng cụ sản xuất và chiếm hữu đất đai, hơn là tự do và phẩm giá lao động của con người[75]. Khi chiến đấu chống lại hệ thống này, người ta không thể đề ra đối nghịch nó, như một kiểu mẫu thay thế, hệ thống chủ nghĩa xã hội, vì hệ thống này thực ra cũng là một thứ chủ nghĩa tư bản của nhà nước, nhưng người ta có thể đề ra đối nghịch nó xã hội của tự do lao động, kinh doanh và được tham dự. Xã hội này không đối nghịch với thị trường, nhưng đòi hỏi thị trường phải được kiểm soát một cách hợp lý do những sức mạnh xã hội, do nhà nước, sao cho bảo đảm được sự thỏa mãn các nhu cầu căn bản của toàn xã hội.

Giáo hội nhìn nhận vai trò thích hợp của lợi nhuận như là một chỉ dẫn cho thấy tiến hành tốt đẹp của một doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp làm ra lợi nhuận, thì điều đó có nghĩa là các yếu tố sản xuất đã được sử dụng thích đáng và các nhu cầu chính đáng của con người đã được thỏa mãn thích hợp. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ dẫn duy nhất về tình trạng của một doanh nghiệp. Có thể rằng người ta đạt được những tài khoản có giá, nhưng đồng thời những con người đã làm nên những tài sản quý báu nhất của doanh nghiệp lại bị hạ thấp và bị xúc phạm về phẩm giá của họ. Điều đó chẳng những là điều không thể chấp nhận được, xét theo khía cạnh luân lý, nhưng tất nhiên còn kéo theo những hậu quả tiêu cực đối với chính hiệu năng kinh tế của doanh nghiệp. Quả thực, mục tiêu của doanh nghiệp không phải duy chỉ là tạo ra lợi nhuận, nhưng còn là chính sự hiện hữu của doanh nghiệp như một cộng đồng các con người nữa; cộng đồng này bằng những cách thức khác nhau, tìm đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu nền tảng của mình và làm thành một nhóm riêng biệt để phục vụ toàn thể xã hội. Lợi nhuận là một yếu tố điều hòa của một cơ sở, nhưng đó không phải là một yếu tố duy nhất; còn phải quan tâm thêm vào đó những yếu tố khác có tính nhân bản và đạo đức, những yếu tố này về lâu về dài, ít ra cũng là những yếu tố thiết yếu cho doanh nghiệp.

Chúng ta thấy rằng người ta không thể chấp nhận sự sụp đổ của “chủ thuyết xã hội hiện thực”, nhưng người ta vẫn gọi nhường chỗ cho duy một mẫu chủ nghĩa tư bản trong việc tổ chức kinh tế. Phải phá đổ những rào cản và những thế lực độc quyền làm cho nhiều dân tộc bị loại ra bên lề sự phát triển, phải đảm bảo cho mọi cá nhân và mọi quốc gia có những điều kiện sơ đẳng để tham gia vào sự phát triển. Mục tiêu này đòi hỏi tất cả cộng đồng thế giới phải có nhiều nỗ lực phối hợp và có trách nhiệm. Các quốc gia hùng mạnh nhất nên biết dành cho các quốc gia nghèo nhất có những khả năng hội nhập vào đời sống quốc tế và các quốc gia thiếu thốn nhất nên biết nắm bắt lấy những khả năng này, chấp nhận những nỗ lực và những hy sinh cần thiết, bảo đảm sự vững chắc của tổ chức chính trị và nền kinh tế của mình, bảo đảm sự vững vàng trong viễn tượng tương lai của mình, bảo đảm sự gia tăng trình độ chuyên nghiệp của các người lao động, bảo đảm các người kiều khiển doanh nghiệp có được sự đào tạo hữu hiệu và có ý thức về trách vụ của mình.[76]

Hiện nay, vấn đề nợ nần của các quốc gia nghèo nhất, một vấn đề mà phần lớn vẫn chưa được giải quyết đang đè nặng trên những nỗ lực xây dựng đã thể hiện trong lãnh vực phát triển. Nguyên tắc nợ thì phải trả, dĩ nhiên là nguyên tắc chính đáng, nhưng nếu đòi hỏi, yêu cầu phải trả khi mà điều đó đưa tới việc thực sự áp đặt những lựa chọn chính trị, mà thực chất là thúc đẩy cả một dân tộc đến chỗ nghèo đói và thất vọng thì đó là không chính đáng. Người ta không thể đòi hỏi trả những món nợ đã ký kết với cái giá những hy sinh không thể chịu đựng nổi. Trong trường hợp này, cần phải tìm những phương cách giảm bớt, gia hạn hoặc xóa bỏ tiền nợ, hợp với quyền căn bản được sống và được phát triển của các dân tộc, điều này đang được thực hiện một phần.

36. Những thái quá của xã hội tiêu thụ

Giờ đây, cần phải lưu ý tới các vấn đề đặc biệt và những đe dọa xảy ra trong nội bộ các nền kinh tế tiến bộ nhất và gắn liền với các đặc tính của các nền kinh tế ấy. Trong những giai đoạn trước khi phát triển, con người luôn sống trong sự nghèo khổ. Những nhu cầu của họ rất ít, một cách nào đó, giới hạn trong những cấu trúc khách quan của sự cấu tạo thể lý của họ mà thôi, và hoạt động kinh tế được quan niệm là để thỏa mãn những nhu cầu đó. Ngày nay, rõ ràng vấn đề không phải chỉ là cung cấp cho con người một lượng đủ về của cải, nhưng là đáp ứng cho nhu cầu về phẩm: phẩm chất của hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ, phẩm chất của dịch vụ mà người ta cần đến, phẩm chất của môi trường và của đời sống nói chung.

Yêu cầu có một cuộc sống thỏa mãn hơn về phẩm chất và giàu có hơn, tự nó, là điều chính đáng. Nhưng người ta phải lưu ý tới các trách nhiệm mới và tới các nguy hiểm gắn liền với giai đoạn lịch sử này. Trong cách thức nảy sinh các nhu cầu mới và cách thức xác định các nhu cầu đó, luôn luôn có một quan niệm hơn kém chính đáng về con người, và về sự thiện đích thực của con người. Trong những chọn lựa sản xuất và tiêu thụ, xuất hiện một nền văn hóa nào đó, nó nói lên một quan niệm về toàn bộ đời sống. Chính khi đó xuất hiện hiện tượng tiêu thụ. Khi người ta xác định các nhu cầu mới, các phương pháp mới để làm thỏa mãn các nhu cầu đó, người ta cần phải cảm nhận một hình ảnh toàn diện về con người, hình ảnh tôn trọng tất cả những chiều kích của con người, và coi chiều kích thể lý, bản năng là những điều tùy thuộc vào những chiều kích nội tại và thiêng liêng. Ngược lại, nếu người ta qui chiếu trực tiếp vào các bản năng, và nếu người ta bỏ qua, cách này hay cách khác, thực tại của một con người có ý thức và tự do, thì điều đó có thể đưa tới những thói quen tiêu thụ và những kiểu sống khách quan không chính đáng và thường là tai hại cho sức khỏe thể lý và tinh thần. Một hệ thống kinh tế không bao gồm trong khuôn khổ riêng của nó những tiêu chuẩn cho phép phân biệt đúng đắn các hình thức mới và cao nhất để thỏa mãn các nhu cầu của con người cũng như các nhu cầu mới được khơi dậy ngăn cản con người đạt tới sự trưởng thành nhân cách. Như vậy cần thiết và khẩn cấp phải có một công việc rộng lớn về giáo dục và văn hóa, gồm việc huấn luyện các người tiêu thụ biết sử dụng quyền chọn lựa một cách có trách nhiệm, huấn luyện một cảm quan bén nhạy về tinh thần trách nhiệm cho những người sản xuất và nhất là cho những chuyên viên về truyền thông xã hội, chưa kể tới sự can thiệp cần thiết của chính quyền.

Ma túy là một trường hợp rõ ràng về một sự tiêu thụ giả tạo, có hại cho sức khỏe và phẩm giá con người và chắc chắn là khó kiểm soát được. Sự lan rộng của ma túy là một dấu hiệu thiếu hiệu năng của hệ thống xã hội, nó giả thiết một “não trạng” duy vật, và theo một nghĩa nào đó, hủy hoại các nhu cầu của con người. Như vậy, các khả năng đổi mới nền kinh tế tự do, cuối cùng, lại được thực hiện một cách độc đoán và không thích hợp. Ma túy, và cả các sách báo khiêu dâm và các hình thức tiêu thụ khác, nhằm khai thác sự dòn mỏng của những người yếu đuối, là một cách tìm lấp đầy khoảng trống tâm linh đang diễn ra.

Ước muốn sống tốt hơn không phải là xấu, nhưng điều xấu là một mẫu sống tốt hơn lại hướng tới “cái có” chứ không hướng tới “cái là”, và khi người ta muốn có nhiều hơn không phải để là nhiều hơn, nhưng là để hoàn thành cuộc sống bằng một sự hưởng thụ, coi đó như chính mục đích của cuộc đời[77]. Như vậy, cần phải nỗ lực để tạo ra một mẫu sống trong đó các yếu tố quyết định các lựa chọn tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư, phải là sự tìm kiếm điều chân thiện mỹ, cũng như sự thông hiệp với các người khác để tạo một sự phát triển chung. Về vấn đề này, tôi không chỉ bằng lòng với một lời kêu gọi thi hành nghĩa vụ của đức ái, nghĩa là nghĩa vụ trao tặng những cái “dư thừa”, và đôi khi cả những cái “cần thiết” của mình để trợ giúp cuộc sống của người nghèo. Tôi muốn nói tới sự kiện là ngay cả sự lựa chọn đầu tư ở nơi này hơn là nơi kia, trong một ngành sản xuất này hơn là ngành sản xuất khác, luôn là một lựa chọn có tính cách luân lý và văn hóa. Một khi có đủ một số điều kiện cần thiết trong lãnh vực kinh tế và để tạo nên một thế chính trị chắc chắn, thì quyết định đầu tư, nghĩa là trao tặng cho một dân tộc có một cơ hội để thể hiện công việc của mình cho có giá trị, cũng chịu ảnh hưởng do một thái độ thiện cảm và niềm tin tưởng nơi Đấng Quan Phòng, những thái độ này cho thấy phẩm chất nhân bản của người quyết định.

37. Sự cần thiết của sinh thái học

Bên cạnh vấn đề tiêu thụ, vấn đề sinh thái gắn liền với vấn đề tiêu thụ, cũng tạo nên biết bao lo ngại. Con người do bị chi phối bởi các ước muốn “có” và hưởng, nhiều hơn bởi ước muốn “là” và tăng triển, đã tiêu thụ một cách quá đáng và bừa bãi các tài nguyên của trái đất và của chính cuộc sống mình. Nguồn gốc của sự hủy hoại cách ngu ngốc môi trường thiên nhiên là một sự sai lầm về nhân học, tiếc thay, sai lầm này lan rộng trong thời đại chúng ta. Con người, khi khám phá ra khả năng biến đổi, và theo một nghĩa nào đó, khả năng sáng tạo thế giới nhờ lao động của mình, đã quên rằng điều đó luôn chỉ được hoàn thành khởi từ một hồng ân nguyên thủy do Thiên Chúa ban ra. Con người tưởng mình có quyền sử dụng trái đất một cách độc đoán, bắt nó hoàn toàn lệ thuộc ý muốn của mình, như thể trái đất không hề có một hình thức và một mục đích từ trước do Thiên Chúa định đoạt và con người có thể phát triển mà không được phản bội. Thay vì chu toàn vai trò là người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, con người tự thay thế Thiên Chúa, và như vậy đưa tới sự phản loạn của thiên nhiên, một thiên nhiên bị hà hiếp hơn là được cai quản do con người[78].

Ở đây, chúng ta nhận thấy trước hết là sự nghèo nàn và bần tiện trong cái nhìn của con người, bị thúc đẩy do ước muốn chiếm hữu sự vật hơn là nhìn sự vật trong tương quan với chân lý. Một cái nhìn không có được một thái độ vô tư, vô vị lợi do cảm quan thẩm mỹ được gợi ra bởi sự thán phục trước sự vật, và trước vẻ huy hoàng, giúp con người nhận thấy trong các sự vật hữu hình sứ điệp của Thiên Chúa vô hình đã sáng tạo ra chúng. Trong lãnh vực này, nhân loại ngày nay phải ý thức về các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các thế hệ tương lai.

38. Sự tàn phá môi trường

Ngoài sự tàn phá một cách vô lý môi trường thiên nhiên còn phải nhắc tới ở đây sự tàn phá còn nặng nề hơn nữa đối với môi trường nhân loại, thế mà người ta còn chưa có một sự chú ý đúng mức về môi trường con người này. Trong khi người ta bận tâm chính đáng, mặc dù còn chưa đạt tới mức độ cần thiết, nhằm bảo vệ chỗ cư trú thiên nhiên của các chủng loại thú vật khác nhau đang bị đe dọa tuyệt chủng, bởi vì người ta nhận thức rằng mỗi loại có phần đóng góp riêng của mình cho sự quân bình chung của trái đất, thì người ta lại quan tâm quá ít trong việc bảo vệ các điều kiện luân lý của một thứ “sinh thái con người” đích thực. Không phải chỉ có trái đất được Thiên Chúa ban cho con người và con người phải sử dụng nó trong sự tôn trọng ý hướng nguyên thủy, tốt đẹp của Đấng Tạo Hóa, nhưng cả con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính mình và như vậy con người phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý mà mình đã lãnh nhận. Trong bối cảnh này, cần phải đề cập tới các vấn đề trầm trọng do việc đô thị hóa hiện đại gây ra, tới sự cần thiết một kế hoạch đô thị hóa quan tâm tới đời sống cá nhân, và lưu ý thích đáng đến “sinh thái xã hội” của lao động.

Con người đón nhận từ Thiên Chúa phẩm giá thiết yếu của mình, và cùng với phẩm giá đó, cũng đón nhận khả năng vượt trên tất cả tổ chức xã hội để hướng tới chân lý và sự thiện. Tuy nhiên, con người cũng bị chi phối do cơ cấu xã hội mình đang sống, do nền giáo dục mình được hấp thụ và do môi trường của mình. Các yếu tố này có thể làm dễ dàng hoặc ngăn cản đời sống dõi theo chân lý. Các quyết định, nhờ đó môi trường nhân loại được cấu tạo có thể tạo nên những cấu trúc tội lỗi riêng biệt làm cản trở sự phát triển trọn vẹn của những người bị các cấu trúc đó chèn ép bằng nhiều cách. Việc phá hủy các cấu trúc đó và thay thế chúng bằng những hình thức đích thực hơn của sự chung sống, đó là một trách vụ đòi hỏi có sự can đảm và kiên nhẫn[79].

39. Gia đình: đền thánh của sự sống

Cấu trúc căn bản đầu tiên của một nền “sinh thái con người” đó là gia đình; trong cuộc sống gia đình, con người đón nhận những ý niệm đầu tiên có tính cách quyết định, liên quan tới chân lý và sự thiện, trong gia đình con người học biết thế nào là yêu mến và được yêu, và do đó cũng học biết ý nghĩa cụ thể của việc là một con người. Ở đây chúng ta nghĩ đến gia đình dựa trên hôn nhân, trong đó việc dâng hiến chính mình cho nhau giữa người nam và người nữ tạo nên một môi trường sống mà đứa trẻ có thể được sinh ra và triển nở các khả năng của nó, học biết về phẩm giá của nó và chuẩn bị đối đầu với vận mệnh duy nhất bất khả thay thế của nó. Ngược lại, thường xảy ra là con người thiếu can đảm để thực hiện những điều kiện đích thực cho việc sinh ra một con người và họ đi đến chỗ tự coi mình và tự coi cuộc sống của mình như là toàn bộ các cảm giác nghiệm thấy chứ không như một công trình cần phải hoàn thành. Từ đó nảy sinh sự thiếu tự do, làm cho con người từ bỏ nghĩa vụ phải tự gắn bó với người khác trong một tình trạng vững bền và từ bỏ nghĩa vụ sinh con cái, hoặc coi các đứa con như một trong nhiều “sự vật” mà con người có thể có hoặc không tùy theo sở thích, và coi con cái như một thứ cạnh tranh với các khả năng khác.

Phải trở lại với quan niệm gia đình như một đền thánh của sự sống. Thực sự, gia đình được thánh hiến, đó là nơi mà sự sống, một hồng ân của Thiên Chúa, có thể được đón nhận một cách thích hợp và được bảo vệ chống lại bao nhiêu sự tấn công xảy ra, đó là nôi mà sự sống có thể triển nở theo những đòi hỏi của một sự tăng triển con người đích thực. Ngược lại với điều người ta gọi là văn hóa của sự chết, gia đình là nơi văn hóa của sự sống.

Trong lãnh vực này, hình như tài năng của con người được sử dụng nhiều để giới hạn, loại trừ hoặc tiêu hủy các nguồn mạch của sự sống, ngay cả bằng cách phá thai, điều này khốn thay lại đang lan tràn trong thế giới, hơn là để bảo vệ và mở rộng các khả năng của chính sự sống. Trong thông điệp SRS, chúng tôi đã tố cáo các phong trào tổ chức chống lại sự sinh sản, các phong trào này dựa trên một quan niệm sai lạc về vấn đề dân số, trong bầu khí “hoàn toàn mất tôn trọng tự do quyết định của các người liên hệ”, thường bắt con người chịu những áp lực không thể chịu nổi (…) để khuất phục họ dưới hình thức áp bức mới này[80]. Đó là những chính sách với những kỹ thuật mới, đã mở rộng lãnh vực hoạt động của mình đến mức đầu độc sự sống của hàng triệu con người không tự vệ, giống như trong một “cuộc chiến tranh hóa học”.

Những phê phán này không hẳn nhằm tới một hệ thống kinh tế cho bằng hệ thống đạo đức và văn hóa. Thực sự kinh tế chỉ là một khía cạnh, một chiều kích trong tổng thể phức tạp của hoạt động con người. Nếu như kinh tế trở thành một điều tuyệt đối, nếu sự sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa, cuối cùng lại chiếm vị trí trung tâm của đời sống xã hội và trở thành giá trị duy nhất của xã hội, không tùy thuộc bất cứ giá trị nào, thì phải tìm nguyên nhân của nó không chỉ và không nhiều lắm trong chính hệ thống kinh tế, nhưng trong sự kiện là hệ thống văn hóa xã hội, khi không nhận biết chiều kích đạo đức và tôn giáo, đã trở nên yếu đuối và tự giản lược vào sự sản xuất các của cải cũng như các dịch vụ[81].

Chúng ta có thể tóm tắt tất cả những điều đó bằng cách khẳng định một lần nữa rằng tự do kinh tế chỉ là một yếu tố của tự do con người. Khi nó trở thành độc lập, khi con người bị coi như một nhà sản xuất hoặc một người tiêu thụ của cải hơn là một chủ thể đã sản xuất và tiêu thụ để sống, khi đó tự do kinh tế mất đi mối tương quan chính đáng với ngôi vị con người và cuối cùng là tha hóa và đàn áp con người[82].

40. Nhà nước phải bảo vệ những tài sản tập thể

Nhà nước có bổn phận bảo vệ các tài sản tập thể, đó là môi trường thiên nhiên và môi trường con người, và sự gìn giữ đó không thể chỉ thực hiện được do vận hành của thị trường. Cũng như vào thời chế độ tư bản trước đây, nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các quyền căn bản của lao động, thì cũng thế, trong chế độ tư bản mới, nhà nước cũng như xã hội phải bảo vệ tài sản tập thể, những tài sản này và những cái khác nữa, làm nên một khuôn khổ trong đó mỗi con người có thể đạt tới mục đích cá nhân của mình một cách hợp pháp.

Ở đây chúng ta thấy một giới hạn khác của thị trường: có những nhu cầu tập thể và có tính cách phẩm chất không thể được thỏa mãn do cơ chế của thị trường; có những nhu cầu quan trọng của con người vượt ra khỏi đường lối của thị trường; có những của cải mà, do bản chất của nó, không thể bán hoặc mua được. Chắc chắn các cơ chế thị trường đem lại nhiều lợi điểm vững bền; trong đó phải kể đến việc chúng giúp sử dụng tốt hơn các nguồn lợi, chúng cổ võ những sự trao đổi sản phẩm và nhất là chúng đặt trọng tâm nơi ý muốn và sự ưa thích của con người trong hợp đồng, đáp ứng được sự ưa thích của một người khác. Tuy nhiên chúng bao gồm nguy cơ của một thứ “bái vật” trong thị trường, tức não trạng không biết rằng có những của cải, tự bản chất không phải là và không thể đơn giản là hàng hóa.

41. Những nguồn gốc của sự vong thân

Chủ thuyết Macxit đã phê phán các xã hội tư bản tiểu tư sản, trách cứ các xã hội đó làm tha hóa con người và biến cuộc sống đó thành một thứ hàng hóa. Sự trách cứ này rõ ràng dựa trên một quan niệm sai lầm và không thích đáng về sự vong thân, quan niệm này coi sự vong thân chỉ tùy thuộc vào toàn bộ những tương quan sản xuất và chiếm hữu, nghĩa là trách cứ đó gắn cho sự vong thân một nền tảng duy vật, và hơn nữa, chối bỏ tính cách hợp pháp cũng như tính cách tích cực của những quan hệ thị trường ngay trong chính lãnh vực riêng của thị trường. Như vậy, người ta đi đến chỗ xác quyết rằng, vong thân chỉ có thể bị loại trừ trong một xã hội theo kiểu tập thể chủ nghĩa. Thế mà, kinh nghiệm lịch sử của các quốc gia xã hội chủ nghĩa, tiếc thay, lại đã minh chứng rằng chủ nghĩa tập thể không những không loại bỏ mà còn làm gia tăng sự vong thân, bởi vì chủ nghĩa đó tạo ra sự khan hiếm các của cải cần thiết cũng như sự vô hiệu năng về kinh tế.

Về thế giới Tây Phương, kinh nghiệm lịch sử đã minh chứng rằng, mặc dù phân tích theo Macxit về sự vong thân và các nền tảng của sự phân tích đó là sai lạc, sự vong thân đó đánh mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống cũng là một thực tại trong các xã hội Tây Phương. Chúng ta nhận thấy điều đó trong phạm vi tiêu thụ, khi mà sự tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một hệ thống nhằm thỏa mãn các nhu cầu hời hợt và giả tạo, thay vì giúp con người có một kinh nghiệm đích thực và cụ thể về nhân cách của mình. Sự vong thân cũng xuất hiện trong lao động, khi mà lao động được tổ chức theo cách thức chỉ định giá theo sự sản xuất và các hoa lợi của lao động chứ không lưu tâm nhận biết xem qua công việc, người lao động có triển nở nhân tính của mình nhiều hay ít, tiếp theo mức độ họ tham dự vào một cộng đoàn liên đới đích thực được gia tăng, hoặc là lại trầm trọng thêm sự cô lập của họ giữa một tổng thể các tương quan mang tính cách một sự cạnh tranh quá đáng và loại trừ lẫn nhau trong đó, con người chỉ được coi như một phương tiện, chứ không như mục đích.

Cần phải tiến tới một quan niệm vong thân theo cái nhìn kitô giáo về sự vật để có thể làm sáng tỏ những đảo lộn giữa phương tiện và mục đích: khi không nhận biết giá trị sự cao cả của con người trong chính mình và trong người khác, con người đánh mất khả năng hưởng thụ nhân tính của mình một cách thích hợp và không thể gia nhập vào các tương quan liên đới, hiệp thông với những người khác mà vì đó Thiên Chúa đã sáng tạo ra con người. Thực thế, chính nhờ sự tự do dâng hiến chính mình mà con người trở thành đích thực là mình[83], và sự dâng hiến này có thể thực hiện được bởi vì con người thiết yếu “có khả năng vươn lên”. Con người không thể lao đầu vào một dự định hoàn toàn của con người đối với thực tại, vào một lý tưởng trừu tượng hoặc một ảo tưởng sai lầm. Xét như con người, họ có thể trao tặng mình cho một người khác, hoặc cho những người khác, và cuối cùng cho Thiên Chúa, Đấng là tác giả của con người và là Đấng duy nhất có thể đón nhận trọn vẹn sự dâng hiến này[84]. Con người bị vong thân khi họ từ chối vươn tới siêu việt và từ chối dâng hiến chính mình, kinh nghiệm xây dựng một cộng đồng đích thực hướng về cùng đích là chính Thiên Chúa. Một xã hội là vong thân khi mà, trong các hình thức tổ chức xã hội, các hình thức sản xuất và tiêu thụ, xã hội đó lại làm cho sự thực hiện việc dâng hiến này và việc xây dựng liên đới giữa con người với nhau trở thành khó khăn hơn.

Trong xã hội Tây Phương, sự bóc lột đã được vượt qua, ít là theo những hình thức đã được Cacmac phân tích và mô tả. Trong khi đó, sự vong thân chưa được vượt qua trong nhiều hình thức bóc lột khi mà con người trục lợi trên người khác và khi vì để thỏa mãn một cách luôn tinh vi hơn các nhu cầu riêng biệt và thứ yếu, người ta trở thành điếc trước nhu cầu thiết yếu và đích thực của họ, những nhu cầu này cũng phải chi phối các cách thức thỏa mãn các nhu cầu khác[85]. Con người không thể tự do nếu họ chỉ, hoặc trước hết bận tâm về cái “có” và về sự thụ hưởng đến nỗi không có khả năng làm chủ các bản năng, các đam mê, cũng không thể hợp nhất và thống trị các bản năng và đam mê bằng sự tuân phục chân lý. Tuân phục chân lý về Thiên Chúa và về con người, điều đó đối với họ, là điều kiện trước tiên của tự do và cho phép con người sắp xếp các nhu cầu, các khao khát và các cách thức thỏa mãn các điều đó theo một trật tự chính đáng, sao cho sự chiếm hữu sự vật lại là một phương tiện phát triển đối với họ. Sự phát triển này có thể bị ngăn cản do sự lèo lái của các phương tiện truyền thông, các phương tiện này nhờ một kiểu nhấn mạnh có phối trí khéo léo đã áp đặt những đường lối và những luồng dư luận, làm mất khả năng phê phán cách kỹ càng các tiền đề chúng dựa vào.

42. Hai mặt của chủ nghĩa tư bản

Bây giờ trở lại vấn đề sơ khởi, phải chăng chúng ta có thể nói rằng, sau khi chủ nghĩa cộng sản thất bại, chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội thắng thế và các quốc gia muốn tái xây dựng nền kinh tế và xã hội của mình phải hướng về đó? Phải chăng kiểu mẫu tư bản là điều phải đề nghị cho các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, là những quốc gia đang tìm một nẻo đường thăng tiến đích thực nền kinh tế và xã hội dân sự của mình?

Câu trả lời hiển nhiên là phức tạp. Nếu người ta hiểu từ ngữ “chủ nghĩa tư bản” là một hệ thống kinh tế nhìn nhận vai trò căn bản và đích thực của doanh nghiệp, của thị trường, của quyền tư hữu và trách nhiệm mà quyền đó bao hàm trong các phương tiện sản xuất, của sự sáng tạo tự do của con người trong ngành kinh tế, thì câu trả lời rõ ràng là tích cực, mặc dù có thể nói một cách thích hợp rằng đó là một thứ “kinh tế doanh nghiệp” hoặc “kinh tế thị trường”, hoặc đơn giản là “kinh tế tự do”. Nhưng nếu hiểu “chủ nghĩa tư bản” là một hệ thống, trong đó sự tự do trong lãnh vực kinh tế không bị chi phối do một khuôn khổ luật pháp vững chắc, luật pháp này nhằm để phục vụ tự do toàn vẹn của con người và coi tự do là một chiều kích đặc biệt của con người mà trọng tâm là trật tự đạo đức và tôn giáo, thì khi đó câu trả lời rõ ràng là tiêu cực.

Giải pháp Macxit đã thất bại, nhưng các hiện tượng như con người bị loại ra bên lề, hiện tượng bóc lột vẫn còn trong thế giới, đặc biệt trong thế giới thứ ba, cũng như các hiện tượng vong thân của con người, đặc biệt trong các quốc gia tân tiến nhất, tiếng nói của Giáo hội đã mạnh mẽ chống lại hiện tượng này. Một số đông dân chúng còn sống trong hoàn cảnh hết sức cùng khổ về vật chất và luân lý. Chắc chắn sự thất bại của hệ thống cộng sản đã loại bỏ được, trong nhiều quốc gia, một trở ngại trong việc nghiên cứu một cách thích đáng và hiện thực các vấn đề này, nhưng điều đó không đủ để giải quyết chung. Còn có một nguy cơ là sự lan tràn một ý thức hệ triệt để theo kiểu tư bản chủ nghĩa, từ chối cả việc lưu ý xem xét các vấn đề trên, chấp nhận tiên thiên rằng mọi cố gắng đối phó chỉ đưa tới thất bại, và chủ nghĩa đó theo nguyên tắc, chờ đợi một giải pháp từ sự phát triển tự do các sức mạnh của thị trường.

43. Định hướng của Giáo hội về xã hội

Giáo hội không đề ra một khuôn mẫu nào cả. Các khuôn mẫu đích thực và thực sự có hiệu quả chỉ có thể quan niệm được trong khung cảnh của các tình huống lịch sử khác nhau, do nỗ lực của mỗi người có trách nhiệm, những người này phải đối đầu với các vấn đề cụ thể dưới tất cả mọi khía cạnh xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa bao hàm lẫn nhau[86]. Đứng trước các trách nhiệm này, Giáo hội đưa ra học thuyết xã hội của mình, như một định hướng tri thức không thể bỏ qua; học thuyết này như đã trình bày, nhìn nhận tính cách tích cực của thị trường của doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết phải hướng tới công ích. Học thuyết này cũng nhìn nhận sự hợp pháp của các nỗ lực của người lao động để có được một sự tôn trọng đầy đủ đối với phẩm giá của mình và được tham dự nhiều hơn vào sinh hoạt doanh nghiệp, sao cho trong khi làm việc cùng với những người khác và dưới sự hướng dẫn của những người khác nữa, họ có thể, theo một nghĩa nào đó, làm việc “vì lợi ích của mình”[87], bằng cách sử dụng trí thông minh và tự do của mình.

Sự phát triển toàn vẹn một con người trong lao động, không chống lại, nhưng đúng hơn cổ võ sức sản xuất tốt hơn và hiệu năng nhiều hơn của chính lao động ngay cả khi điều đó có thể làm suy yếu các trung tâm quyền lực đã được thiết lập. Doanh nghiệp không thể chỉ được coi như một “xã hội nguồn vốn”, doanh nghiệp cũng đồng thời là một “xã hội các con người” trong đó, với những cách thức khác nhau và với những trách nhiệm chuyên biệt, có sự tham gia của những người đóng góp vốn cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động, và những người cộng tác bằng lao động của mình. Để đạt được các mục tiêu này, vẫn còn cần thiết có một phong trào rộng lớn quy tụ các người lao động mà mục đích của nó là để giải phóng và thăng tiến toàn vẹn con người.

Dưới ánh sáng của “các sự việc mới” ngày nay, chúng ta đọc lại mối liên hệ giữa các tài sản cá nhân hoặc tư hữu và tài sản dành cho mọi người. Con người được triển nở do trí thông minh và sự tự do. Và khi triển nở như vậy, con người sử dụng các yếu tố của thế giới và chiếm hữu chúng như là đối tượng và như dụng cụ. Nền tảng của quyền có sáng kiến và có tư hữu nằm trong bản chất hoạt động con người. Nhờ lao động, con người ra sức làm việc không những cho chính mình, nhưng còn cho các người khác và với các người khác: mỗi người cộng tác vào lao động và vào thiện hảo của người khác. Con người làm việc để cung cấp cho các nhu cầu của gia đình mình, của cộng đoàn mình, của quốc gia mình, và của toàn thể nhân loại[88]. Ngoài ra họ cộng tác vào lao động của những người khác, những người hoạt động trong cùng doanh nghiệp, cũng như cộng tác vào công việc của những người cung cấp và vào sự tiêu thụ của khách hàng, trong một dây chuyền liên đới mỗi ngày mỗi lan rộng. Quyền sở hữu các phương tiện sản xuất trong lãnh vực kỹ nghệ cũng như trong lãnh vực nông nghiệp, là điều chính đáng và hợp lý, nếu như nó giúp lao động sinh lợi ích; ngược lại, quyền đó là không chính đáng khi nó không phát huy được giá trị, hoặc được dùng để ngăn cản lao động của người khác hầu có được một lợi lộc, không phát sinh do sự phát triển đồng thời của lao động và của nguồn phong phú xã hội, mà là do từ sự đặt giới hạn, do bóc lột bất chính, do sự đầu cơ và cắt đứt tình liên đới thế giới lao động[89]. Cách thức tư hữu này không chính đáng một chút nào và tạo nên một sự lạm dụng đối với Thiên Chúa và đối với con người.

Sự bó buộc phải đổ mồ hôi để kiếm bánh ăn, đồng thời cũng giả thiết một quyền lợi. Trong một xã hội mà quyền này có thể bị chối bỏ một cách hệ thống và trong đó các biện pháp chính trị, kinh tế không cho phép người lao động có đủ việc làm thì xã hội đó không thể có tính cách hợp pháp về đạo đức và cũng không bảo đảm được sự yên lành trong xã hội[90]. Cũng như con người tự thực hiện mình một cách trọn vẹn trong sự tự do ban tặng chính mình, thì quyền tư hữu cũng là hợp lý xét theo tính cách luân lý, khi nó tạo ra được, theo những cách thức và những nhịp điệu thích hợp, nhiều công việc làm và sự phát triển nhân bản cho mọi người.

CHƯƠNG V

NHÀ NƯỚC VÀ VĂN HÓA

44. Nguồn gốc của chủ nghĩa cực quyền hiện đại

Không phải Đức Lêô XIII không biết rằng cần phải có một lý thuyết đúng đắn về nhà nước để đảm bảo cho những hoạt động tinh thần và những hoạt động thể chất của con người được phát triển bình thường; cả hai đều là những hoạt động không thể không có[91]. Về vấn đề này, trong một đoạn văn của thông điệp RN, Đức Giáo Hoàng đã trình bày việc tổ chức xã hội gồm ba quyền – lập pháp, hành pháp và tư pháp – và đối với lúc bấy giờ, đây là điều mới mẻ trong giáo huấn của Giáo hội[92]. Một cơ cấu như thế phản ánh một quan niệm thực tiễn về bản chất xã hội của con người, bản chất đó đòi hỏi phải có một pháp chế thích hợp để bảo vệ sự tự do của mọi người. Theo chiều hướng này, tốt hơn mỗi một quyền cần phải được những quyền khác và những thẩm quyền khác giữ cho quân bình, giữ cho được ở trong những giới hạn chính đáng. Đó là nguyên tắc “nhà nước pháp trị”, trong đó, luật pháp chứ không phải những ý muốn độc đoán của con người có quyền tối cao.

Thời này, đi ngược lại quan niệm trên là chủ nghĩa cực quyền (totalitarisme), chủ nghĩa này, dưới hình thức Macxit Leninit, cho rằng có một số người nhờ hiểu biết sâu xa hơn về những quy luật phát triển xã hội, hoặc nhờ thuộc về một giai cấp riêng biệt và nhờ tiếp xúc nhiều hơn với những nguồn mạch sâu sắc nhất của ý thức tập thể, nên không mắc phải sai lầm, và vì thế, tự cho mình là những người nắm quyền hành tuyệt đối. Cần thêm rằng chủ nghĩa cực quyền phát xuất từ việc chối bỏ chân lý, hiểu theo nghĩa khách quan. Nếu như không có chân lý siêu việt, nhờ vâng phục chân lý đó, con người đạt tới chân tính trọn vẹn của mình, thì chẳng có một nguyên tắc nào chắc chắn có thể bảo đảm cho những tương quan đúng đắn giữa con người với nhau. Những lợi ích riêng tư của giai cấp, phe nhóm hoặc dân tộc khiến họ khó lòng tránh khỏi đối chọi với nhau. Nếu chân lý siêu việt không được nhìn nhận, thì sức mạnh của quyền bình sẽ làm bá chủ, và mọi người đều có khuynh hướng tận dụng tối đa những phương tiện mình đang có để làm cho những lợi ích hoặc những tư kiến của mình thắng thế, không thèm đếm xỉa đến những quyền lợi của người khác. Lúc đó, con người chỉ được tôn trọng tùy theo mức độ họ có thể được sử dụng vào những mục tiêu có ưu thế vị kỷ. Như thế, phải nói rằng gốc rễ của chủ nghĩa cực quyền hiện đại nằm ở thái độ chối bỏ phẩm giá siêu việt của ngôi vị con người, hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và chính vì thế, do chính bản tính của mình, con người là chủ thể những quyền mà không một ai, dù là cá nhân, đoàn thể, giai cấp, dân tộc hay nhà nước có thể xâm phạm. Ngay cả đa số trong một đoàn thể xã hội cũng không thể xâm phạm các quyền đó bằng cách chống lại một thiểu số nhằm gạt họ ra ngoài lề, đàn áp, khai thác hoặc tìm cách triệt tiêu họ[93].

45. Giáo hội, một trở ngại đối với nhà nước độc tài

Chủ trương và thực hành của chủ nghĩa cực quyền cũng gồm việc chối bỏ Giáo hội. Nhà nước hoặc Đảng cho rằng mình có thể thực hiện điều thiện tuyệt đối trong lịch sử và tự đặt mình lên trên mọi giá trị, nên nhà nước hoặc đảng không chịu để cho người ta bênh vực một tiêu chuẩn khách quan về thiện và ác khác với ý muốn của những người cầm quyền, và trong một số trường hợp, tiêu chuẩn ấy còn được dùng để phê phán thái độ của những người ấy. Điều đó giải thích tại sao chủ nghĩa cực quyền tìm cách triệt hạ Giáo hội, hoặc ít là bắt Giáo hội phải chịu lệ thuộc, biến Giáo hội thành một công cụ phục vụ cho ý thức hệ riêng của mình[94].

Đàng khác, nhà nước theo chế độ cực quyền còn có khuynh hướng nuốt trọn dân tộc, xã hội, gia đình, cộng đồng tôn giáo và ngay cả những cá nhân con người. Khi bênh vực quyền tự do của mình, Giáo hội cũng bênh vực con người, là những kẻ phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm (x. Cv 5,29), đồng thời bênh vực gia đình, những tổ chức xã hội khác nhau và các dân tộc, là những thực tại được hưởng quyền tự trị và quyền tối cao trong những phạm vi riêng của mình.

46. Nền dân chủ đích thực

Giáo hội đánh giá cao hệ thống dân chủ, xét như một hệ thống bảo đảm cho người công dân được quyền tham gia vào các lựa chọn chính trị, đồng thời bảo đảm cho những người ở dưới quyền cai trị vừa được quyền chọn lựa và kiểm soát những người cai trị mình, vừa được quyền thay đổi họ bằng những phương thế ôn hòa khi điều đó thuận lợi[95]. Như vậy, Giáo hội không thể tán thành thể chế chỉ có một nhóm người lãnh đạo giới hạn, nắm hết quyền nhà nước nhằm phục vụ lợi ích riêng tư hoặc những mục tiêu ý thức hệ.

Chỉ có thể có dân chủ thực sự trong một nhà nước pháp trị và dựa trên một quan niệm đúng đắn về ngôi vị con người. Một nền dân chủ thực sự đòi hỏi phải tạo điều kiện cần thiết cho việc phát triển “phẩm cách riêng” của xã hội, thông qua việc sáng tạo những cơ cấu để mỗi người có thể tham gia và đồng lãnh trách nhiệm. Ngày nay, có khuynh hướng khẳng định rằng chủ nghĩa bất khả tri và chủ nghĩa tương đối hoài nghi là tượng trưng của triết lý và của thái độ căn bản hợp với các hình thức dân chủ trong sinh hoạt chính trị cũng như khẳng định rằng những người xác tín mình biết chân lý và gắn bó chặt chẽ với chân lý là những người không đáng tín nhiệm xét về quan điểm dân chủ, bởi vì những người đó không nhận rằng chân lý được quy định bởi đa số, hoặc chân lý có thể biến chuyển tùy theo những thế quân bình chính trị khác nhau. Về vấn đề này, cần nhận định rằng nếu không có một chân lý tối hậu chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động chính trị, thì những tư tưởng và những xác tín có thể bị khai thác dễ dàng nhằm phục vụ quyền bính. Một nền dân chủ không tôn trọng những giá trị, sẽ dễ dàng biến thành một chủ nghĩa cực quyền công khai hoặc được ngụy trang kín đáo, như lịch sử từng minh chứng. Cũng không phải Giáo hội không biết đến nguy cơ của thái độ cuồng tín hoặc chủ trương bảo thủ tôn giáo của những người nhân danh một ý thức hệ tự nhận là có tính khoa học hay tôn giáo, cho rằng có thể áp đặt cho người khác quan niệm của mình về chân lý và sự thiện. Chân lý của kitô giáo không thuộc loại này. Vì không phải là một ý thức hệ, nên đức tin kitô giáo không hề tìm cách giam hãm những thực tại xã hội và chính trị, là những thực tại hay thay đổi, vào một khuôn mẫu cứng ngắc, nhưng đức tin kitô giáo nhìn nhận rằng cuộc đời con người diễn ra trong lịch sử bằng những cách thế khác nhau và không hoàn hảo. Nhưng khi Giáo hội thường xuyên tái khẳng định phẩm giá siêu việt của con người, qui luật hành động của Giáo hội bao giờ cũng là tôn trọng tự do[96].

Thế nhưng tự do chỉ đạt tới mức độ phát triển trọn vẹn nhờ biết đón nhận chân lý. Trong một thế giới không có chân lý tự do sẽ không có nền tảng bền vững và con người phải chịu khuất phục bạo lực xuất phát từ những đam mê và những thủ đoạn rõ ràng kín đáo. Người kitô hữu sống tự do (x. Gl 8,31-32), và dấn thân phục vụ tự do, kiên trì giới thiệu chân lý mình đã khám phá đúng theo bản chất của ơn gọi truyền giáo của mình. Nhờ lưu tâm đến mọi yếu tố của chân lý mà họ đã khám phá qua kinh nghiệm trong đời sống và văn hóa của những con người và những dân tộc khi đối thoại với người khác, họ sẽ không ngần ngại khẳng định những gì họ đã biết nhờ niềm tin và nhờ dùng lý trí một cách đúng đắn[97].

47. Nền dân chủ và sự tôn trọng nhân quyền

Sau khi chủ nghĩa cực quyền cộng sản cũng như nhiều chế độ cực quyền khác và các chế độ “an ninh quốc gia” sụp đổ, hiện nay ta đang chứng kiến thành công của lý tưởng dân chủ trong thế giới, tuy không phải là không có những dấu hiệu xung đột, song song với mối quan tâm lớn lao và mối ưu tư mãnh liệt đối với các quyền con người. Nhưng muốn đi theo chiều hướng này, các dân tộc đang trên đà cải tổ thể chế của mình cần phải dành cho thể chế dân chủ một nền tảng đích thực và chắc chắn nhờ biết nhìn nhận rõ rệt các quyền này[98]. Trong số những quyền chính yếu, phải nói đến quyền được sống; thành phần toàn vẹn của quyền được sống là quyền được lớn lên trong lòng mẹ sau khi thụ thai; tiếp đến là quyền được sống trong một gia đình hòa thuận và trong một môi trường đạo đức thuận tiện cho việc phát triển nhân cách; quyền được phát triển về trí tuệ và tự do qua việc tìm kiếm và nhận biết chân lý; quyền được tham gia vào việc khai thác những tài nguyên của trái đất và làm sản sinh ra của nuôi sống mình và nuôi sống những người thân của mình; quyền được tự do xây dựng một gia đình, đón nhận và dưỡng dục con cái bằng cách sử dụng tính dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn mạch và tổng hợp các quyền trên, chính là quyền tự do tôn giáo, hiểu như quyền được sống trong chân lý của niềm tin của mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của con người[99].

Ngay tại những quốc gia đã có những hình thức chính quyền dân chủ, các quyền trên không phải lúc nào cũng được tôn trọng hoàn toàn. Ở đây ta không chỉ nghĩ đến tệ nạn phá thai, nhưng còn cả những khía cạnh khác của cuộc khủng hoảng các hệ thống dân chủ mà dường như đôi lúc đã làm biến chất khả năng đưa ra những quyết định nhằm phục vụ công ích. Những yêu cầu của xã hội không phải lúc nào cũng được cứu xét theo những tiêu chuẩn công bằng và đạo đức, nhưng đúng hơn được cứu xét theo ảnh hưởng của việc bầu cử hoặc theo thế lực tài chính của những nhóm ủng hộ những yêu cầu đó. Với thời gian, những sai lạc như thế trong đường lối chính trị sẽ gây ra ngờ vực và lãnh đạm, đồng thời kéo theo thái độ không thèm tham gia chính trị và làm giảm sút tinh thần công dân của quần chúng, một quần chúng cảm thấy bị lợi dụng và lường gạt. Hậu quả là càng ngày càng không thể xác định những lợi ích riêng tư trong khung cảnh một quan niệm hợp lý về công ích. Quả vậy, công ích không phải chỉ là tổng số những lợi ích riêng tư, nhưng nó giả thiết người ta phải đánh giá và hòa hợp những lợi ích riêng tư theo bậc thang giá trị quân bình, và nói cho cùng, theo một quan niệm đúng đắn về phẩm giá và các quyền của con người[100].

Giáo hội tôn trọng sự độc lập chính đáng của thể chế dân chủ và Giáo hội không có tư cách để bảo rằng giải pháp thể chế hoặc lập hiến này hơn giải pháp thể chế hoặc lập hiến kia. Đóng góp của Giáo hội đối với lãnh vực chính trị chỉ là đóng góp quan điểm của mình về phẩm giá của con người, phẩm giá được mạc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể[101].

48. Vai trò của nhà nước trong lãnh vực kinh tế

Những nhận xét tổng quát trên đây cũng được áp dụng cho vai trò của nhà nước trong lãnh vực kinh tế. Không thể triển khai hoạt động kinh tế, nhất là kinh tế thị trường, trong một môi trường không có thể chế pháp lý và chính trị. Trái lại, hoạt động ấy giả thiết các quyền tự do cá nhân và quyền tư hữu phải được bảo đảm, ấy là chưa kể đến một hệ thống tiền tệ ổn định và các dịch vụ công cộng hữu hiệu. Như vậy, nhiệm vụ chính yếu của nhà nước là bảo đảm những vấn đề trên, để những người lao động sản xuất có thể hưởng kết quả do sức lao động họ đã bỏ ra, và nhờ đó họ cảm thấy được khích lệ để làm việc một cách có hiệu quả và lương thiện. Một trong những trở ngại chính cho việc phát triển và trật tự kinh tế tốt đẹp, đó là tình trạng bất ổn kèm theo sự băng hoại của công quyền và sự gia tăng những cách làm giàu trái phép và chạy theo lợi nhuận dễ dãi bằng những hoạt động phi pháp hay thuần túy có tính cách đầu cơ.

Một nhiệm vụ khác của nhà nước là giám sát và hướng dẫn việc thi hành các quyền con người trong khu vực kinh tế; tuy nhiên trong lãnh vực này, trách nhiệm hàng đầu không thuộc về nhà nước, nhưng thuộc về cá nhân, các nhóm hoặc các tập thể khác nhau tạo nên xã hội. Nếu nhà nước trực tiếp bảo đảm cho mọi công dân quyền có công ăn việc làm thì sẽ phải kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế, và như vậy cản trở quyền tự do sáng kiến của cá nhân (hoặc nhà nước không thể đứng ra bảo đảm trực tiếp cho mọi công dân quyền có công ăn việc làm, mà không kiểm soát toàn bộ sinh hoạt kinh tế…). Thế nhưng, như thế không có nghĩa là nhà nước không có một thẩm quyền nào trong khu vực này như chủ trương của những người cho rằng tuyệt đối không nên có những luật lệ trong lãnh vực kinh tế. Ngược lại, nhà nước có bổn phẩn nâng đỡ hoạt động của các xí nghiệp bằng cách tạo những điều kiện giúp thêm việc làm, bằng cách thúc đẩy các hoạt động ấy trong trường hợp còn yếu kém hoặc nâng đỡ trong những thời kỳ khủng hoảng.

Nhà nước cũng có quyền can thiệp khi những hoàn cảnh đặc thù do tình trạng độc quyền gây ra, có thể làm trì hoãn hoặc làm cản trở việc phát triển. Nhưng ngoài vai trò điều hợp và hướng dẫn việc phát triển trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhà nước còn có thể thi hành những chức năng bổ sung, trong những hoàn cảnh bất thường khi những nhóm xã hội hoặc các tổ hợp quá yếu hoặc đang trong thời kỳ thành lập không đạt tới tầm vóc xứng với nhiệm vụ của mình. Những can thiệp bổ sung này, được biện minh bằng những lý do cần hành động khẩn cấp vì công ích, cần phải giới hạn về thời gian, càng ngắn càng tốt, để không tước đi thẩm quyền của những nhóm hay những xí nghiệp ấy và để đừng mở rộng quá đáng phạm vi can thiệp của nhà nước, có thể làm phương hại đến quyền tự do kinh tế hoặc tự do dân sự.

Những năm gần đây, ta đã thấy những can thiệp này mở rộng phạm vi một cách đáng kể, đến độ tạo ra một kiểu nhà nước mới gọi là “nhà nước vì sung túc” (L”État du bien être). Chuyện này đã diễn ra tại một số quốc gia nhằm đáp ứng nhiều nhu cầu một cách tốt hơn, bằng cách sửa chữa những hình thức nghèo khổ và thiếu thốn, không xứng đáng với ngôi vị con người. Tuy nhiên đặc biệt trong những năm gần đây, đã có nhiều thái quá và lạm dụng khiến người ta phê bình nghiêm khắc nhà nước vì sung túc mà người ta gọi là “nhà nước bao cấp” (L”État de l”assistance). Tình trạng rối loạn chức năng và những sai lầm về cứu trợ xã hội xuất phát từ một quan niệm không thích hợp về những bổn phận riêng của nhà nước. Trong bối cảnh này cần tôn trọng nguyên tắc bổ trợ: Một đoàn thể cấp trên không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một đoàn thể cấp dưới, bằng cách lấy mất những thẩm quyền của họ; đúng hơn, phải nâng đỡ đoàn thể đó khi cần và giúp đoàn thể đó phối hợp hoạt động của mình với hoạt động của những thành phần khác tạo nên xã hội, nhằm phục vụ công ích[102].

Khi can thiệp trực tiếp và lấy mất trách nhiệm của xã hội, nhà nước bao cấp làm hao tổn năng lực của con người, làm cho bộ máy công cộng ra cồng kềnh do cách lý luận quan liêu hơn là do quan tâm phục vụ quần chúng, cũng như làm cho chi phí gia tăng kinh khủng. Thực vậy, có lẽ chính những người đang gần gũi với nhu cầu hơn hoặc những người biết tiếp cận với nhu cầu phải là người biết rõ nhu cầu hơn và chính họ phải là những người có khả năng đáp ứng hơn. Cần thêm là thường thường một số loại nhu cầu đòi một sự đáp ứng không chỉ trên lãnh vực vật chất, nhưng là sự đáp ứng biết nhận ra những đòi hỏi thâm sâu hơn của con người. Ta cũng cần nghĩ đến điều kiện của những người tị nạn, di cư, những người già lão hoặc bệnh tật và tất cả những người đang ở trong hoàn cảnh cần được giúp đỡ, ví dụ những người nghiện ma túy: đó là tất cả những người chỉ có thể được giúp đỡ một cách hữu hiệu nhờ những người không những chỉ mang lại cho họ sự chăm sóc cần thiết, nhưng còn cả sự nâng đỡ chân thành.

49. Tình liên đới và bác ái

Trong lãnh vực này, trung thành với lệnh truyền của Chúa Kitô, Đấng sáng lập Hội Thánh, Hội Thánh luôn luôn có mặt qua những công việc nhằm cống hiến cho những người đang cần được nâng đỡ về vật chất, những không làm cho họ cảm thấy nhục nhã, cũng như không coi họ chỉ là đối tượng cần được giúp đỡ, nhưng là giúp họ thoát ra khỏi những điều kiện bấp bênh, bằng cách cũng cố phẩm giá con người của họ. Trong tâm tình sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, cần phải ghi nhận là đức bác ái tích cực không bao giờ ngừng hoạt động trong Hội Thánh, thậm chí ngày nay, đức bác ái còn gia tăng một cách đáng khích lệ qua nhiều hình thức. Về mặt này, cần được nhắc đến phong trào tự nguyện, được Hội Thánh khích lệ và cổ võ bằng cách kêu gọi mọi người cộng tác để nâng đỡ và khích lệ trong những bước đầu của phong trào này.

Ngày nay, muốn vượt qua não trạng vị kỷ đang lan tràn, cần có sự dấn thân một cách cụ thể trong tình liên đới và bác ái, bắt đầu từ trong gia đình, qua việc vợ chồng biết nâng đỡ nhau, rồi các thế hệ biết lãnh lấy trách nhiệm đối với nhau. Chính vì thế, gia đình cũng được định nghĩa là cộng đoàn lao động và liên đới. Tuy nhiên, có khi gia đình quyết định đáp ứng trọn vẹn ơn gọi của mình, nhưng lại không tìm được sự nâng đỡ cần thiết về phía nhà nước và thiếu những nguồn lợi cần thiết. Vì thế, phải cấp thời cổ võ không phải chỉ những chính sách về gia đình, nhưng còn cả những chính sách về xã hội mà đối tượng chính yếu là gia đình, nhưng chính sách giúp cho gia đình có những nguồn lợi chính đáng và những phương thế nâng đỡ hữu hiệu cả trong việc giáo dục con cái lẫn việc chăm sóc người già cả, để họ không phải xa lìa tổ ấm gia đình, đồng thời tăng cường những mối liên kết giữa thế hệ trước với thế hệ sau[103].

Ngoài gia đình ra, còn có những nhóm xã hội trung gian khác đóng vai trò hàng đầu và vận dụng những hệ thống liên đới đặc biệt. Những nhóm này đã đạt được sự trưởng thành của những cộng đoàn đích thực và họ củng cố hệ thống xã hội, tránh cho xã hội khỏi rơi vào tình trạng quần chúng vô ngã và vô danh, là những điều thật đáng tiếc hay xảy ra trong xã hội hiện đại. Chính nhờ sự giao thoa của bao mối quan hệ mà con người sống và “nhân cách” xã hội tiến triển. Ngày nay, cá nhân thường bị đè bẹp giữa hai cực là nhà nước và thị trường. Thực vậy, đôi khi dường như họ chỉ hiện hữu như là người sản xuất và người tiêu thụ hàng hóa, hoặc như người bị nhà nước cai trị, trong khi đó người ta quên đi rằng đời sống xã hội không nhằm mục đích nhà nước hay thị trường, bởi vì đời sống xã hội tự nó có một giá trị duy nhất mà cả nhà nước lẫn thị trường phải phục vụ. Con người tiên vàn là một hữu thể tìm kiếm chân lý và ra sức sống theo chân lý đó, ra sức đào sâu chân lý bằng một cuộc đối thoại không ngừng giữa những thế hệ đã qua và những thế hệ đang tới[104].

50. Di sản văn hóa

Văn hóa dân tộc có đặc tính là tìm kiếm chân lý một cách cởi mở; Chân lý này được đổi mới qua mỗi thế hệ. Thực vậy, gia sản gồm những giá trị được lưu truyền và thủ đắc, luôn luôn bị những người trẻ đặt thành vấn đề. Đặt vấn đề không đương nhiên là phá hủy hay tiên thiên từ chối, nhưng đặt vấn đề có nghĩa là đưa ra thử nghiệm trong đời sống riêng của mình. Thông qua cách nghiệm chứng sinh động như thế, các giá trị ấy trở nên sống động hơn, hiện tại hơn và cá nhân hơn, bằng cách phân biệt trong truyền thống cái gì có giá trị, cái gì giả dối hoặc sai lầm, hay thay thế những hình thức già nua cũ kỹ bằng những hình thức thích hợp với thời đại hơn.

Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng việc loan bao Tin mừng phải đi sâu vào văn hóa các dân tộc, bằng cách củng cố nỗ lực tìm kiếm chân lý nơi nền văn hóa đó và giúp nền văn hóa đó hoàn tất nỗ lực thanh lọc và đi vào chiều sâu[105]. Tuy nhiên, khi một nền văn hóa tự đóng kín và tìm cách tồn tại với những cách sống cũ kỹ, từ chối mọi thứ thay đổi và đối chiếu trong vấn đề chân lý về con người, thì nền văn hóa ấy trở nên cằn cỗi và đang trên đà suy sụp.

51. Phần đóng góp của Giáo hội trong vấn đề văn hóa

Mọi hoạt động của con người đều diễn ra trong một nền văn hóa và phản ứng đối chiếu đối với nền văn hóa đó. Để kiến tạo một nền văn hóa thích hợp cần mỗi người phải tham gia, phải phát triển sức sáng tạo trí tuệ và sự hiểu biết về thế giới và con người. Ngoài ra, họ còn phải đầu tư vào đó những khả năng tự chủ, hy sinh cá nhân, biết liên đới và sẵn sàng cổ võ công ích. Để thực hiện điều đó, nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất được thực hiện nơi tâm hồn con người, và cách con người dấn thân để kiến tạo tương lai của mình lệ thuộc vào quan niệm họ có về chính họ và về định mệnh của họ. Giáo hội góp phần đặc biệt và quyết định vào văn hóa đích thực chính trên bình diện này. Giáo hội cổ võ phẩm tính của những cách thế hành động nào của con người góp phần làm thành hình một nền văn hóa xây dựng hòa bình, ngược với những mô hình văn hóa khiến cho con người mất hút trong đám đông, coi thường vai trò sáng kiến và tự do của họ, cũng như chỉ xác định sự cao cả của con người nơi những kỹ thuật tạo ra xung đột và chiến tranh. Giáo hội thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao giảng chân lý về việc sáng tạo thế giới, thế giới mà Thiên Chúa đã đặt vào tay con người để con người làm cho nó phong phú và kiện toàn nó nhờ sức lao động của mình; Giáo hội cũng thi hành công tác phục vụ đó bằng cách rao giảng chân lý về ơn cứu chuộc, nhờ đó Con Thiên Chúa đã cứu thoát mọi người và đồng thời nối kết họ với nhau, làm cho họ có trách nhiệm đối với nhau. Kinh Thánh thường xuyên dạy chúng ta về việc tích cực dấn thân phục vụ tha nhân và đòi hỏi mọi người phải có một thái độ đồng trách nhiệm.

Đòi hỏi này không dừng lại ở giới hạn gia đình, thậm chí dân tộc hay quốc gia, nhưng nó liên quan một cách tiệm tiến đến toàn thể nhân loại, đến độ không ai được coi mình như người xa lạ hoặc dửng dưng đối với số phận của một phần tử khác trong gia đình nhân loại. Không một người nào có thể quả quyết rằng mình không chịu trách nhiệm về số phận của người anh em mình (x. St 4,9; Lc 10,29-37; Mt 25,31-46) ! Thái độ ân cần và tận tâm lo lắng cho người thân cận vào lúc họ đang cần – thái độ này ngày nay được dễ dàng hơn nhờ có những phương tiện truyền thông xã hội mới mẻ giúp cho con người xích lại gần nhau hơn – có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm kiếm những phương thức giải quyết các xung đột quốc tế mà không cần phải dùng đến chiến tranh. Chẳng khó khăn gì khi phải quả quyết rằng sức mạnh khủng khiếp của những phương tiện hủy diệt – ngay cả những nước nhỏ hoặc trung bình cũng có – cũng như những quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa các dân tộc trên toàn trái đất làm cho sự hạn chế những hậu quả của một cuộc xung đột trở nên rất khó khăn hoặc thực tế không thể được.

52. Phát triển và phản chiến

Đức Benedicto XV và các Đấng kế vị đã hiểu rõ nguy cơ này[106], và chính bản thân tôi, nhân cuộc chiến tranh thương đau vừa xảy ra tại vùng vịnh Péc xích, tôi đã lặp lại tiếng kêu: “Đừng bao giờ còn chiến tranh nữa!” Đừng, đừng bao giờ còn chiến tranh nữa, một chiến tranh hủy diệt mạng sống của những người vô tội, một chiến tranh đầy chém giết, và đảo lộn cả cuộc đời của những người chém giết, một chiến tranh để lại đàng sau một chuỗi những hận thù và ghen ghét khiến cho càng khó tìm ra một giải pháp đúng đắn cho chính những vấn đề đã làm cho chiến tranh bùng nổ ! Cũng như cuối cùng đã đến lúc bên trong các nhà nước, hệ thống bảo thủ cá nhân và những việc cấp bách bây giờ là phải thực hiện một bước tiến tương tự trong cộng đồng quốc tế. Đàng khác, không nên quên rằng: tận gốc rễ của chiến tranh, thường có những động lực thực sự và trầm trọng, đó là những bất cộng, sự tước đoạt những khát vọng hợp pháp, sự bần cùng và khai thác đám người tuyệt vọng không còn thấy khả năng thực sự có thể cải thiện điều kiện sống của mình nhờ những phương thế ôn hòa. Chính vì thế, tên gọi khác của hòa bình là phát triển[107]. Cũng như phải có một trách nhiệm tập thể để tránh chiến tranh, thì cũng cần có một trách nhiệm tập thể để cổ võ việc phát triển. Trên bình diện nội bộ của mọi xã hội, đó là điều có thể và là một bổn phận phải xây dựng một nền kinh tế xã hội nhằm phục vụ công ích; cũng cần có những can thiệp thích hợp để thực hiện điều đó trên bình diễn quốc tế. Muốn được như vậy cần phải có một cố gắng to lớn để tạo sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau và để làm cho lương tâm thêm bén nhạy. Đó chính là nền văn hóa đáng mơ ước vì nó gia tăng sự tin tưởng đối với những khả năng nhân bản nơi người nghèo, và như thế là tín nhiệm vào khả năng họ có thể cải thiện điều kiện sống nhờ làm việc, hoặc có thể đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng kinh tế. Nhưng để đạt tới đó, người nghèo – cá nhân hay quốc gia – cần phải được cung cấp những điều kiện sống thuận lợi có thể đạt được một cách sụ thể. Sáng tạo ra những điều kiện ấy, đó chính là mục đích của cuộc bàn thảo quốc tế nhằm cổ võ phát triển; điều này giả thiết ngay cả phải hy sinh những ưu thế về lợi nhuận và quyền lực, là những điều mà các nền kinh tế phát triển nhất vẫn tự hào[108].

Điều đó có thể đòi phải có những thay đổi quan trọng trong những lối sống đã ổn định, hầu hạn chế những hoang phí tài nguyên thiên nhiên và năng lực con người; để mọi dân tộc và mọi người trên trái đất có thể sử dụng những tài nguyên và năng lực đó theo mức độ thích đáng. Thêm vào đó, cũng cần phải khai thác những tài nguyên mới về vật chất và tinh thần, kết quả của sức lao động và của văn hóa các dân tộc ngày nay đang bị gạt ra ngoài lề, như thế gia đình các dân tộc mới đạt tới chỗ phong phú toàn diện của con người.

CHƯƠNG VI

CON NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG CỦA GIÁO HỘI

53. Giá trị độc đáo của mỗi con người

Đứng trước nỗi khốn cùng của giai cấp vô sản, Đức Lêô XIII đã viết: “Chúng tôi đề cập đến vấn đề này với niềm xác tín và với tất cả quyền hạn của chúng tôi (…), chúng tôi im lặng thì nhiều người sẽ xem chúng tôi là thờ ơ với bổn phận của mình”[109]. Suốt một trăm năm qua, Giáo hội đã nhiều lần bày tỏ tư tưởng của mình trong khi theo sát với đà tiến không ngừng vấn đề xã hội. Và Giáo hội làm như thế không phải là để tìm lại những đặc quyền trong quá khứ hoặc để áp đặt quan điểm của mình. Mục tiêu duy nhất của Giáo hội là thể hiện mối quan tâm và trách nhiệm của mình đối với con người đã được chính Đức Kitô uỷ thác cho: con người đó, như Công đồng Vatican II nhắc lại, là tạo vật duy nhất trên trái đất mà Thiên Chúa đã muốn dựng nên vì chính họ và Người đã có dự định cho họ được dự phần vào ơn cứu độ vĩnh cửu. Đó không phải là con người “trừu tượng” nhưng là con người thực tế, con người “cụ thể”, “mang lịch sử tính”. Đó là vấn đề “mỗi con người”, vì mỗi con người đều nằm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và qua mầu nhiệm này, Đức Kitô đã mãi mãi liên kết với từng người[110]. Do đó Giáo hội không thể từ bỏ con người và “con người” là con đường của đầu tiên Giáo hội phải đi qua để chu toàn sứ vụ của mình (…), con đường này đã được chính Đức Kitô vạch ra, đó là con đường nhất thiết đi qua mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Chuộc[111].

Đó là nguyên tắc và là nguyên tắc độc nhất gợi lên giáo thuyết của Giáo hội về xã hội. Nếu Giáo hội đã dần dần triển khai giáo thuyết đó một cách có hệ thống, đặc biệt kể từ thời điểm mà chúng ta đang kỷ niệm, chính là do học thuyết phong phú đó của Giáo hội đã nhắm đến con người trong thực tế cụ thể của họ là tội lỗi và công chính.

54. Đặc biệt ngày nay, giáo thuyết về xã hội quan tâm đến con người xét như được hội nhập vào một hệ thống phức tạp của những tương quan giữa các xã hội hiện đại. Những khoa nhân văn và triết học giúp hiểu rõ con người được đặt ở trung tâm của xã hội và giúp họ hiểu rõ hơn mình là một hữu thể mang tính xã hội. Nhưng chỉ có niềm tin mới mạc khải cho họ trọn vẹn căn tính đích thực của mình, và chính niềm tin mới là khởi điểm của giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, và Giáo hội dựa vào những đóng góp của các khoa học và triết học để trợ giúp con người trên đường cứu độ.

Thông điệp RN có thể coi như một đóng góp quan trọng vào việc phân tích kinh tế, xã hội của cuối thế kỷ XIX nhưng sở dĩ thông điệp này có được giá trị đặc biệt là vì nó là một văn kiện của huấn quyền đi đúng với sứ vụ rao giảng tin mừng của Giáo hội đồng thời với nhiều văn kiện khác cùng loại. Do đó có thể suy ra rằng giáo thuyết về xã hội tự nó có giá trị như một công cụ để loan báo tin mừng: xét như thế, giáo thuyết này đã loan báo cho mọi người về Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu độ nơi Đức Kitô, và cũng vì thế nó mạc khải cho con người về chính mình. Dưới ánh sáng đó và chỉ dưới ánh sáng đó, giáo thuyết ấy quan tâm đến các vấn đề khác như: các quyền con người nơi mỗi cá nhân và đặc biệt nơi “giai cấp vô sản”, gia đình và việc giáo dục, những nghĩa vụ của nhà nước, việc tổ chức xã hội về mặt quốc gia và quốc tế, đời sống chính trị, văn hóa, chiến tranh và hoà bình, việc tôn trọng sự sống từ khi thụ thai cho tới lúc chết.

55. Thiên Chúa giải thích lý do hiện hữu của con người

Giáo hội nhận được từ mạc khải của Thiên Chúa “ý nghĩa về con người”. “Để nhận biết con người, con người thực, con người trọn vẹn, phải nhận biết Thiên Chúa”, như Đức Phaolô VI đã nói, và ngay sau đó ngài trưng dẫn Thánh nữ Catarina Xiena, vị thánh này đã diễn tả cùng một ý tưởng đó dưới hình thức lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa vĩnh cửu, trong bản tính của Chúa, con nhận biết bản tính của con”[112].

Vì thế, trong thực tế, khoa nhân học kitô giáo là một chương trong thần học, và, cũng vì thế, giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, khi quan tâm lưu ý đến con người và đến cách sống của họ trong thế giới, “thuộc về (…) lãnh vực thần học và đặc biệt thần học luân lý”[113]. Như thế, chiều kích thần học thật cần thiết vừa để giải thích cũng như để giải quyết những vấn đề hiện nay trong việc chung sống của con người. Thật cũng nên lưu ý rằng điều đó có giá trị vừa cho giải pháp “vô thần”, một giải pháp đã loại trừ một trong những thành phần nền tảng của con người, đó là chiều kích thiêng liêng, và vừa cho những giải pháp gợi lên do chủ trương buông thả và tinh thần hưởng thụ, đây là những giải pháp viện nhiều cớ khác nhau để tìm cách thuyết phục con người về sự độc lập của họ đối với Thiên Chúa và mọi luật lệ, trong khi giam hãm họ trong một thứ ích kỷ rốt cuộc chỉ nguy hại cho chính họ và cho người khác.

Khi loan báo cho con người ơn cứu độ của Thiên Chúa, khi bày tỏ cho con người sự sống của Thiên Chúa và thông ban sự sống đó cho họ qua các nhiệm tích, khi hướng dẫn đời sống họ bằng các giới luật mến Chúa, yêu người, Giáo hội đóng góp vào việc làm phong phú phẩm giá của họ. Nhưng cũng như Giáo hội không bao giờ có thể hủy bỏ sứ mạng tôn giáo và siêu việt của mình đối với con người, thì cũng thế, Giáo hội nhận thấy rằng công cuộc của mình hôm nay đang gặp phải những khó khăn và những trở ngại đặc biệt. Bởi đó Giáo hội dấn thân với những nỗ lực và những phương thế luôn luôn mới mẻ cho việc Phúc âm hóa nhằm bảo đảm việc thăng tiến toàn thể con người. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội vẫn luôn là “dấu chỉ và bảo đảm tính cách siêu việt của ngôi vị con người”[114], cũng như Giáo hội đã từng luôn cố gắng làm như thế ngay từ buổi đầu trong khi đồng hành với con người suốt chiều dài lịch sử. Thông điệp RN là một dấu chỉ đầy ý nghĩa về việc đó.

56. Hiểu biết giáo thuyết của Giáo hội về xã hội

Trong dịp kỷ niệm 100 năm thông điệp đó, tôi muốn cám ơn tất cả những ai đã có công nghiên cứu, đào sâu và truyền bá giáo thuyết của kitô giáo về xã hội. Để được như vậy, không thể thiếu sự cộng tác của các Giáo hội địa phương và tôi mong ước rằng việc kỷ niệm 100 năm này phải là cơ hội cho một đà tiến mới để nghiên cứu, truyền bá và áp dụng giáo thuyết này trong nhiều lãnh vực.

Đặc biệt tôi mong ước rằng người ta phổ biến và áp dụng giáo thuyết ấy trong những quốc gia mà, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực, dường như người ta hoàn toàn mất định hướng khi đứng trước nhiệm vụ tái thiết. Về phần mình chính các nước Tây phương cũng đang gặp phải nguy cơ là coi sự sụp đổ đó như cuộc chiến thắng một chiều của hệ thống kinh tế của mình và vì thế, không quan tâm ngay đến những chỉnh đốn cần thiết trong hệ thống đó. Còn đối với thế giới thứ ba, hơn bao giờ hết, họ đang gặp phải những hoàn cảnh thê thảm của sự kém phát triển ngày càng gia tăng.

Đức Lêô XIII sau khi đã đưa ra những nguyên tắc và những chỉ dẫn để giải quyết vấn đề thợ thuyền, đã đưa ra khẩu hiệu: “Ước chi mỗi người đừng trì hoãn việc góp phần mình kẻo vì chậm trễ mà sự dữ vốn rất trầm trọng lại trở thành bất trị”. Và ngài thêm: “Về phần Giáo hội, Giáo hội sẽ không bao giờ thiếu sót bổn phận mình bằng bất cứ cách nào”[115].

57. Sứ điệp của Giáo hội về xã hội

Đối với Giáo hội, sứ điệp Tin mừng về xã hội không được coi là một lý thuyết nhưng trước hết phải coi là một nền tảng và nguồn động lực để hoạt động. Được thôi thúc bởi sứ điệp đó, một số kitô hữu tiên khởi đã chia sẻ của cải mình cho những người nghèo, điều đó cho thấy rằng dù nguồn gốc xã hội khác nhau nhưng việc chung sống hài hòa và liên đới là có thể được. Trải qua các thế kỷ, nhờ sức mạnh của Tin mừng, các đan sĩ đã khai thác đất đai, các tu sĩ nam cũng như nữ đã thiết lập những bệnh viện và những viện tế bần, những hội từ thiện, cũng như những người nam nữ thuộc đủ mọi hoàn cảnh sống đã dấn thân trợ giúp những người túng thiếu và những người bị gạt ra ngoài xã hội, với niềm xác tín rằng lời của Đức Kitô “những gì các ngươi đã làm làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất này của ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta” (Mt 25,40) không thể chỉ là một lời cầu chúc đạo đức suông nhưng phải trở thành một sự dấn thân sụ thể trong cuộc sống.

Hơn bao giờ hết, Giáo hội nhận thức rằng sứ điệp về xã hội sẽ phải trở nên khả tín qua chứng tá bằng việc làm hơn là do sự mạch lạc và hợp lý nội tại của sứ điệp đó. Từ niềm xác tín ấy dẫn đến sự lựa chọn ưu tiên về phía người nghèo, sự lựa chọn này không bao giờ mang tính cách loại trừ và phân biệt đối xử với những nhóm người khác. Thực sự, sự lựa chọn này không chỉ giới hạn vào nghèo đói về vật chất. Ta biết rõ ràng, nhất là trong xã hội ngày nay, có những hình thức nghèo đói, về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa và tôn giáo. Tình yêu của Giáo hội đối với người nghèo đói là điểm chính yếu và là thành phần trong truyền thống bền vững của Giáo hội, đã thôi thúc Giáo hội quay về với thế giới mà trong đó, mặc dù có những tiến bộ về mặt kỹ thuật và kinh tế, sự nghèo đói vẫn đe dọa trở nên rất trầm trọng. Tại những nước Tây phương, nơi có nhiều hình thức nghèo đói của những người bị gạt ra ngoài xã hội, những người tuổi tác và những bệnh nhân, những nạn nhân của nền văn minh tiêu thụ và nhất là sự nghèo đói của rất nhiều người tị nạn và di dân; tại những nước đang phát triển, người ta thấy đang manh nha những khủng hoảng sẽ thê thảm nếu người ta không kịp thời có những biện pháp phối trí trên bình diện quốc tế.

58. Cổ võ cho công lý

Tình yêu thương đối với con người, và trước hết đối với người nghèo, nơi họ, Giáo hội nhìn thấy Đức Kitô, được diễn tả cụ thể bằng việc cổ võ công lý. Việc cổ võ này sẽ không bao giờ được thực hiện nếu người ta không coi người đang túng thiếu, người xin sự nâng đỡ để sống, như người quấy rầy hoặc như gánh nặng, nhưng coi đó là lời mời gọi để làm việc nghĩa, một cơ may để nên phong phú hơn. Chỉ có ý thức đó mới đem lại cam đảm để dám đương đầu với những nguy cơ và những biến đổi trong mọi nỗ lực đích thực nhằm trợ giúp người. Quả thực, không phải chỉ là việc cho đi những thứ dư thừa nhưng là mang lại sự trợ giúp sao cho toàn bộ những dân tộc bị gạt ra ngoài cũng như bị loại trừ được hội nhập vào chu kỳ phát triển về mặt kinh tế và nhân bản. Điều này có thể thực hiện được, không những do của cải dư thừa được sản xuất dồi dào trên thế giới, nhưng nhất là bằng cách người ta đổi lối sống, thay đổi những kiểu thức sản xuất và tiêu thụ, những cơ cấu quyền bính đã được thiết lập đang điều hành các xã hội hiện nay. Cũng không phải là phá hủy những công cụ tổ chức xã hội đang chứng tỏ có hiệu năng, nhưng chính là hướng những công cụ ấy theo một quan niệm chính đáng về ích lợi chung của toàn thể gia đình nhân loại. Ngày nay đang diễn ra cái gọi là “hoàn cầu hóa nền kinh tế”, đó là một hiện tượng không thể chối bỏ được, vì nó có thể tạo nên những cơ hội đặc biệt để sống tốt đẹp hơn. Nhưng người ta luôn cảm thấy rõ rệt hơn sự cần thiết là kèm với việc quốc tế hóa về mặt kinh tế ngày cang gia tăng, cần có những cơ quan quốc tế hữu hiệu nhằm kiểm soát và điều chỉnh để hướng dẫn chính nền kinh tế đến công ích, điều mà không một quốc gia nào, cho dù là thế lực nhất trên địa cầu, có khả năng thực hiện được. Để đạt được kết quả như thế, phải gia tăng sự phối hợp giữa các quốc gia lớn. Và, trong tổ chức chuyên biệt, những phúc lợi của đại gia đình nhân loại phải được lưu ý một cách công bình. Đồng thời trong khi ước lượng những hậu quả do những quyết định của mình, các quốc gia và những cơ quan đó phải luôn luôn quan tâm đúng mức đến các dân tộc và những quốc gia không mấy quan trọng trên thị trường quốc tế nhưng lại đang phải gánh chịu những thiếu thốn cơ cực nhất, thê lương nhất và cần được nâng đỡ nhiều hơn để phát triển. Chắc chắn rằng còn nhiều việc phải làm trong lãnh vực này.

59. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử

Để công lý được thể hiện và để những mưu tính của con người nhằm thực thi công lý đạt được thành quả, thì nhất thiết cần có ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng, cùng với sự cộng tác của tự do con người, sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa Đấng quan phòng, sẽ được thực hiện trong lịch sử.

Sự đổi mới mà người ta cảm nghiệm được nhờ việc theo Đức Kitô phải được thông truyền cho những người khác trong thực tế cụ thể của những khó khăn của họ, của những cuộc đấu tranh, những vấn đề và những thách đố của họ, sao cho tất cả những điều đó được soi chiếu và trở nên nhân bản hơn nhờ ánh sáng đức tin. Quả thực, đức tin không chỉ giúp tìm ra những giải pháp, mà còn giúp chịu đựng một cách nhân bản, những hoàn cảnh khổ đau, để trong những hoàn cảnh đó, con người không bị băng hoại và không quên đi phẩm giá cũng như ơn gọi của mình.

Ngoài ra, giáo thuyết về xã hội còn có một liên quan hệ trọng với các môn học khác (interdisciplinaire). Để đưa chân lý độc nhất liên quan đến con người vào trong những bối cảnh xã hội, kinh tế và chính trị khác nhau và biến đổi liên tục, giáo thuyết ấy phải đối thoại với những môn học khác nhau chuyên về con người. Giáo thuyết đó tiếp thu những hỗ trợ của những môn học ấy và giúp định hướng những môn học ấy, trong một nhãn giới rộng lớn hơn, nhằm phục vụ con người, được nhận biết và yêu mến trong sự viên mãn của ơn gọi mình.

Bên cạnh chiều kích liên hệ hỗ tương này, cũng cần nhắc đến chiều kích thực dụng và theo một nghĩa nào đó, là chiều kích thực nghiệm của giáo thuyết này. Học thuyết xã hội của Giáo hội hình thành do sự gặp gỡ giữa đời sống và lương tri kitô giáo với những hoàn cảnh của thế giới, và biểu lộ trong những nỗ lực được thực hiện bởi những cá nhân, những gia đình, những chuyên gia về văn hóa và xã hội, những chính trị gia và những chính khách nhằm đem lại cho giáo thuyết ấy mô hình cũng như việc áp dụng cụ thể vào lịch sử.

60. Sự hợp tác của mọi người thiện chí

Khi nêu lên những nguyên tắc giải quyết vấn đề thợ thuyền, Đức Lêô XIII viết: “Một vấn đề quan trọng như thế này đòi hỏi những hoạt động và những nỗ lực của những người khác”[116]. Ngài xác tín rằng, những vấn đề quan trọng gây nên do xã hội công nghiệp chỉ có thể được giải quyết bằng sự hợp tác mọi sức lực. Khẳng định đó trở thành một yếu tố vĩnh cửu trong giáo thuyết của Giáo hội về xã hội, và điều đó đã giải thích rõ ràng lý do tại sao Đức Gioan XXIII đã gửi thông điệp của Ngài về hòa bình cho “mọi người thiện chí”.

Tuy nhiên, Đức Lêô XIII buồn phiền nhận thấy rằng những ý thức hệ thời đại Ngài, đặc biệt là chủ thuyết tự do và chủ nghĩa Macxit đã từ chối sự hợp tác. Kể từ đó đã có biết bao nhiêu điều thay đổi nhất là những năm gần đây. Ngày nay thế giới ngày càng ý thức hơn việc giải quyết những vấn đề nghiêm trọng mang tầm mức quốc gia cũng như quốc tế, không phải chỉ là vấn đề về sản xuất kinh tế hay tổ chức pháp chế hoặc xã hội nhưng đòi hỏi chấp nhận những giá trị nhất định về đạo đức và tôn giáo, cũng như phải có một sự thay đổi về não trạng, về lối sống và về những cơ chế. Giáo hội đặc biệt cảm thấy bổn phận phải đóng góp vào công việc đó, và như tôi đã viết trong thông điệp SRS, có hy vọng hợp lý rằng ngay cả đông đảo những người không tuyên xưng tôn giáo nào vẫn có thể đóng góp để đem lại cho vấn đề xã hội một nền tảng đạo đức cần thiết[117].

Cũng trong văn kiện đó, tôi đã kêu mời Giáo hội kitô giáo và tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới, hãy đồng tâm làm chứng cho những xác tín chung về phẩm giá của con người được Thiên Chúa tạo dựng[118]. Quả thực, tôi xác tín rằng hiện nay cũng như trong tương lai những tôn giáo sẽ có vai trò quan trọng nổi bật hơn trong việc duy trì hòa bình và việc thiết lập một xã hội xứng với con người.

Đàng khác, đòi hỏi tất cả mọi người thiện chí hãy sẵn sàng đối thoại và cộng tác, và điều này đặc biệt đối với những người cũng như những nhóm có trách nhiệm riêng trong những lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, dù ở tầm mức quốc gia hay quốc tế.

61. Những thách đố mới

Buổi đầu của xã hội công nghiệp, chính sự xuất hiện của một thứ “ách gần như nô lệ” đã đòi buộc vị tiền nhiệm của tôi phải lên tiếng để bênh vực con người. Giáo hội vẫn trung thành với nhiệm vụ đó suốt 100 năm qua. Quả thực, Giáo hội đã can thiệp vào thời kỳ hỗn độn vì đấu tranh giai cấp, sau thế chiến thứ I, để bênh vực quyền con người khỏi bị bóc lột về kinh tế và ách thống trị của các hệ thống cực quyền. Sau thế chiến thứ II, Giáo hội tập trung những sứ điệp về xã hội vào phẩm giá của con người bằng việc nhấn mạnh rằng của cải vật chất được dành cho mọi người, về một trật tự xã hội không còn áp bức và dựa trên tinh thần hợp tác và liên đới. Giáo hội không ngừng nhắc lại rằng con người và xã hội không chỉ cần những của cải này, nhưng còn cần những giá trị thiêng liêng và tôn giáo. Ngoài ra, Giáo hội vì ý thức rằng có rất nhiều người không được sống trong cảnh sung túc của thế giới Tây phương, họ đang phải chịu những nỗi khốn cùng của những xứ đang trên đà phát triển và ở trong một tình trạng vẫn còn là “dưới ách gần như nô lệ” nên đã cảm thấy và hiện đang cảm thấy buộc phải tố cáo thực trạng này hết sức minh bạch và thẳng thắn, mặc dù Giáo hội biết rằng những lời kêu gọi của mình không phải luôn luôn được mọi người sẵn sàng chấp nhận.

Một trăm năm sau khi ban hành thông điệp RN, Giáo hội vẫn còn đang gặp phải những “sự việc mới” và những thử thách mới. Chính vì lẽ đó, việc kỷ niệm 100 năm này phải củng cố tất cả những ai thiện chí và đặc biệt người tín hữu trong nỗ lực của họ.

62. Trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba

Thông điệp này muôn nhìn lại quá khứ nhưng nhất là hướng đến tương lai. Cũng như thông điệp RN, thông điệp này đứng trước thềm kỷ nguyên mới và với sự trợ lực của Thiên Chúa, thông điệp muốn dọn đường cho kỷ nguyên đó.

Sự mới mẻ chân thực và vĩnh cửu nơi muôn vật luôn luôn bắt nguồn từ quyền năng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Này đây ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Nhưng lời này nói đến sự thành toàn của lịch sử, khi Đức Kitô “trao vương quyền lại cho Thiên Chúa Cha… và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,24.28). Những người kitô hữu biết rõ rằng, sự đổi mới mà chúng ta đang mong đợi trong sự viên mãn của nó khi Chúa trở lại, đang hiện diện kể từ khi tạo dựng thế giới, và đúng hơn, từ khi Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô, và với Người, nhờ Người Thiên Chúa đã thực hiện một “cuộc sáng tạo mới” (2Cr 5,17; Gl 6,15).

Trước khi kết thúc, một lần nữa, tôi xin tạ ơn Thiên Chúa toàn năng đã ban cho Giáo hội ánh sáng và sức mạnh cần thiết để đồng hành với con người trên bước đường dương thế hướng về vận mạng vĩnh cửu của mình. Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội cũng sẽ tiếp tục trung thành lấy con đường của loài người làm của mình, vì nhận thức rằng Giáo hội không thể đi một mình mà cùng đi với Đức Kitô, Chúa của mình. Chính Người cũng đã đi qua con đường nhân loại là hướng dẫn nhân loại, mặc dù nhân loại không ý thức điều đó.

Cầu xin Đức Maria, Mẹ Đấng cứu chuộc, Mẹ luôn ở gần Đức Kitô trên bước đường Người đến với nhân loại, và đồng hành với nhân loại, Mẹ đã đi trước Giáo hội trong cuộc lữ hành đức tin, xin Mẹ đồng hành với nhân loại bằng sự can thiệp đầy tình mẫu tử hướng về thiên niên kỷ tới, trong sự trung thành với Đấng “hôm qua cũng như hôm nay” “như vậy mãi đến muôn đời” (x. Dt 13,8). Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhân Danh Người với tất cả tấm lòng rộng mở, tôi ban phép lành cho mọi người.

Làm tại Rôma, gần đền Thánh Phêrô, ngày 01.5.1991

ngày lễ Thánh Giuse Lao Động,

năm thứ mười ba triều đại giáo hoàng của tôi.

GIOAN PHAOLÔ II


[1] Đây là điều tôi đã viết trong “Question vennues de L’est, Marisme, foi chrétienne , utopie” (Những vấn đề xuất phát từ phía Đông. Chủ nghĩa Mác xít, đức tin Kitô giáo, sự không tưởng). Sách được xuất bản do Edition ouvrieres năm 1992.

[2] Đức Gioan Phaolô II “nói giá trị của tự do ngày nay vẫn còn vượt trên quan niệm của chủ nghĩa tư bản tự do, dẫu cho có nhiều ích lợi thuyết phục, thực ra vẫn e dè việc sử dụng tự do của mọi người. Ngài không muốn chúng ta tự cho mình được nghỉ ngơi: thông điệp sau cùng này là lời mời gọi bền bỉ tìm kiếm một chủ thuyết nhân bản về kinh tế có tính phổ quát, luôn được tiếp cận từ rất xa (theo Jean – Yres Calvez, “Centesimus annus et le libéralisme”, Etudes, p.632, 12/1991).

[3] Lêo XIII, Thông điệp Tân Sự 15.5.1891. Nguyên văn thông điệp này k có số đoạn, bản dịch Pháp văn dựa theo cách đánh số trong tập “Le Discours Social de l”Eglise Catholique”, do CERAS thực hiện trong bộ “L”Eglise et Société” (Le Centurion) Paris 1985/1990. Bản dịch các đoạn trích dẫn cũng dựa theo nhà xuất bản này, nhưng có một vài thay đổi.

[4] x. Piô XI, thông điệp Quadragesimo anno 15.5.1931; Piô XII, sứ điệp Truyền thanh 01.6.1941; Gioan XXIII; thông điệp Mẹ và Thày 15.5.1961; Phaolo VI, tông thư Tám mươi năm 14.5.1971

[5] x. TĐ. QA, III

[6] TĐ LE, 14.9.1991; TĐ SRS 30.12.1987

[7] x. Thánh Irene Adversus Haereses, I,10,1; III,4,1

[8] Lêo XIII RN, số 38

[9] x. Chẳng hạn Lêo XIII, TĐ Arcanum Divinae sapientiae 10.2.1880; TĐ Diutunum, illud 29.6.1881; TĐ Libertas praestantissimum 20.6.1888; TĐ Graves de communi 18.1.1901

[10] RN, số 1

[11] nt, số 1

[12] x. nt số 15

[13] x. nt, 16 về những hoàn cảnh lao động; số 44, về những hiệp hội thợ thuyền chống Kitô giáo.

[14] nt số 31; cũng xem số 20

[15] nt , 34

[16] nt, 27

[17] x. LE, các số 1,2,6

[18] x. RN các số 3-12

[19] x. nt, 7

[20] x. nt các số 6-8

[21] x. nt các số 37-38, 41

[22] nt, số 38

[23] x. nt, 33

[24] nt, 33

[25] nt, 34

[26] nt, 34,3

[27] nt, 34,4

[28] x. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền

[29] x. RN, 27

[30] x. nt, 32

[31] nt, 32

[32] x. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền: Tuyên ngôn về việc loại trừ mọi hình thức không khoan nhượng (intolerance)

[33] x. Vat.II TD; Gioan Phaolo II, thư gửi các nguyên thủ quốc gia 01.7.1980; Sứ điệp ngày thế giới hòa bình 1988

[34] x. RN, 3-9,34,38

[35] nt, 29

[36] x. SRS, 38-40; xem thêm Gioan XXIII, MM

[37] x. RN, 20-21; QA.III; Phaolo VI, Bài giảng Bế mạc Năm Thánh 25.12.1975; Sứ điệp ngày thế giới hòa bình 1977

[38] SRS,

[39] x. RN, 6,9,34,39

[40] GS, 24

[41] RN, 3

[42] x. SRS, 15,28

[43] LE, 11-15

[44] x. QA.III

[45] RN 26-29

[46] x. LE, 20; Diễn từ tại tổ chức lao động quốc tế (OIT) ở Genève, 15.6.1982; Phaolô, diễn từ tại tổ chức trên 10.6.1969

[47] x. LE, 8

[48] x. QA, 14

[49] x. Tđ Arcanum divinae sapientiae 10.2.1880; Tđ Diuturnum illud 29.6.1881; Tđ Immortale Dei 1..11.1885; Tđ Sapientiae christianae 10.1.1890; Tđ Quod apostolici muneris 28.12.1878; Tđ Libertas praestantissimum 20.6.1888

[50] x. Lêo XIII, Libertas Praestantissimum, 10

[51] x. Sứ điệp ngày thế giới hòa bình 1980.

[52] x. SRS, 20

[53] x. PT, 11.4.1963

[54] x. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948; PT, IV; Buổi họp kết thúc hội nghị về an ninh và hợp tác tại Châu Âu (CSCE) Helsinki 1975.

[55] x. PP, 61-65

[56] x. Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 1980

[57] x. GS, 36,39

[58] x. Tông huấn Christifideles laici 30.12.1988 , các số 32-44

[59] x. LE, 20

[60] x. Huấn thị Libertatis conscientia 22.3.1986 về tự do kitô giáo và giải phóng.

[61] x. Diễn từ tại hội nghi hội đồng kinh tế Tây Phi (CEAO) nhân dịp 10 năm “Appel pour le Sahel” (Ouagadougou, Burkina – Faso 29.10.1990

[62] x. PT, III.

[63] x. SRS, 27-28; PP, 43-44

[64] x. SRS, 29-31

[65] x. Văn kiện bế mạc Hội nghị Helsinki và hiệp ước Vienne Lêo XIII, thông điệp Libertas praaestantissimum, 5.

[66] x. RM 07.12.1990, 7

[67] x. RN, 3-12, 35

[68] x. RN, 18,19.

[69] x. QA, II; Piô XII, Sứ điệp truyền thanh 01.6.1941; MM; PP, 22-24.

[70] GS, 69,71

[71] x. Diễn văn đọc trước các Giám Mục Châu Mỹ Latinh tại Puebla 28.1.1979; LE, 14; SRS, 42.

[72] x. SRS, 15.

[73] x. LE, 21.

[74] x. PP, các số 33-42.

[75] x. LE, số 7.

[76] x. nt, số 8.

[77] x. GS, 35; PP, 19.

[78] x. SRS, 34; Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 1990, số 19.

[79] x. Tông huấn Reconciliatio et paenitentia 02.12.1984, số 16; QA, III.

[80] x. SRS, số 25.

[81] x. nt, số 34.

[82] x. RH 04.3.1979, số 24.

[83] x. GS, 24.

[84] x. nt, số 41.

[85] x. nt, số 26.

[86] x. nt, 36; OA, các số 2-5.

[87] x. LE, số 15.

[88] x. nt, số 10.

[89] x. nt, số 14.

[90] x. nt, số 18.

[91] x. RN, các số 32-33.

[92] x. nt, số 27.

[93] x. Lêo XIII, Libertas praestantissimum, số 10.

[94] x. GS, 76.

[95] x. nt, số 29; Piô XII, sứ điệp truyền thanh lễ Giáng Sinh 24.12.1944.

[96] x. Vat. II, tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis humanae).

[97] x. RM, số 11.

[98] x. RH, số 17.

[99] x. Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 1988 và 1991; Dignitatis humanae, các số 1-2.

[100] x. GS, 26.

[101] x. nt, số 22.

[102] x. QA, số 1.

[103] x. Tông huấn Familiaris consortio 22.11.1981, số 43.

[104] x. Diễn từ tại UNESCO 02.6.1980.

[105] x. RM, các số 39,52.

[106] x. Benedicto XV, tông huấn Ubi primum 08.9.1914; Piô XI, sứ điệp truyền thanh 29.9.1938; Piô XII, Sứ điệp truyền thanh 24.8.1939; Gioan 23, PT, III; Phaolô VI, Diễn văn tại Liên hiệp quốc 04.10.1965.

[107] x. PP, các số 76-77.

[108] x. Tông huấn Familiaris consortio, số 48.

[109] x. RN, 13.

[110] x. RH, số 13

[111] x. nt số 14.

[112] Phaolô VI, Bài giảng bế mạc Công đồng Vat. II, 07.12.1965.

[113] SRS, 14.

[114] GS, 76; x. RH, số 13.

[115] RN, số 45.

[116] x. nt, số 13.

[117] x. SRS, số 38.

[118] x. nt, số 47.