GIÁO PHỤ HỌC – PATER ECCLESIAE
(THẦN HỌC CỦA CÁC GIÁO PHỤ)
Lm. Antôn Trần Minh Hiển, Giáo sư ĐẠI CHỦNG VIỆN HUẾ
***
***
CHƯƠNG IV
THỜI BÚT CHIẾN VỀ MẦU NHIỆM BA NGÔI
(325 – 430)
***
PHẦN I: CÁC GIÁO PHỤ ĐÔNG PHƯƠNG
***
ĐOẠN III
THÁNH JEAN CHRYSOSTOME (THÁNH GIOAN KIM KHẨU)
(334 / 354 – 407)
I. TIỂU SỬ
1. Thời niên thiếu và nền giáo dục – Ơn gọi sống toàn thiện
Thánh JEAN CHRYSOSTOME còn được biết đến với tên gọi GIOAN KIM KHẨU, là Giáo phụ tiêu biểu nhất của trường phái Antioche và cũng là Giáo phụ hấp dẫn nhất của toàn thể Giáo Hội. Tiểu sử Ngài đã được Palladius Giám mục Hélénopolis ghi chép cẩn thận vào những năm ngay sau khi Ngài qua đời, trong cuốn “Dialogus de vita Sancti Johannis” (408 / 410), một tài liệu quý giá nhất về những năm cuối đời của Thánh Nhân.
Gioan sinh tại Antioche, xứ Syrie vào khỏang năm 344/354 trong một gia đình Công Giáo đạo đức và giầu có. Cha Ngài là một sĩ quan cao cấp trong binh đội La mã đã sớm từ trần, nên từ tấm bé Ngài đã được thân mẫu là bà Anthusa, góa chồng ngay vào tuổi đôi mươi, hết sức âu yếm và ân cần giáo dục. Bà mẹ giầu tình thương này đã muốn cho con mình hấp thụ nền văn hóa Hy Lạp cổ điển tốt đẹp nhất. Vì thế bà đã tìm cho con một danh sư nổi tiếng nhất tại Antioche, là Libanius, giáo sư tu từ học ngoại giáo trứ danh. Gioan là một trong những môn sinh xuất sắc nhất nên đã được thầy lưu tâm và muốn chọn làm người kế vị sau này. Ngoài ra Gioan còn theo các lớp Triết học với một giáo sư thời danh khác là Andragathius. Trong thiên khảo luận “Du Sacerdoce” Gioan sẽ gợi lại niềm phấn khởi mà nền học vấn đó đã gây hứng thú cho Ngài. Tuy nhiên ta nên lưu ý rằng tài hùng biện của diễn giả Gioan ít được lưu ý bởi những nguyên tắc tu từ và Triết học của nền văn hóa Ngài đã hấp thụ, cho bằng vì nó phát xuất từ nguồn gốc Thánh Kinh. Khá mau lẹ, Gioan đã bỏ được khiếu thơ phú và văn chương cổ điển để trở về thụ giáo với Thánh Phaolô. Palladius kể lại rằng: “Khi lên 18, trẻ về tuổi, Gioan đã nổi loạn chống các Giáo sư đa ngôn, nhưng trưởng thành về hiểu biết, Ngài lại vui thỏa trong những khoa học thánh”.[1] Từ nay Ngài chọn thánh Tông đồ dân ngoại làm vị tôn sư về phương diện tín lý và là mô phạm nghệ thuật hành văn và diễn giảng.
Theo những tài liệu có liên quan đến buổi thiếu thời thì Gioan đã có một cuộc đời hồn nhiên, trong trắng và dịu hiền, không bị xúc động mạnh bởi những dục vọng trần tục. Tuy thế, dầu đã 20 tuổi Ngài vẫn chưa chịu phép Rửa Tội, vì đó là thói quen hiện hành của thời đại. Sau này Gioan sẽ đả kích mạnh mẽ tập quán đó.
Khi ấy Giám mục Mélèce, người gốc Arménie, đang cai quản Giáo đoàn Antioche đã lưu ý đến chàng thanh niên tuấn tú Gioan, và bị chinh phục bởi tính tình cao thượng của cậu, Ngài đã chấp nhận cho cậu được luôn sống bên Ngài để được dẫn dắt về đàng tu đức. Vị Giám mục này thật đã có cái nhìn tiên tri về tương lai của Gioan, Ngài ban bí tích Thánh Tẩy cho Gioan vào năm 369, lúc đó lên 22 hoặc 25 tuổi. Ba năm sau lại ban tác vụ đọc sách và cho Gioan theo các lớp thần học với thầy Diodore Giám mục tương lai thành Tarse. Gioan còn được tiếp xúc về đàng thiêng liêng với thầy Carterios tu viện trưởng nữa. Trên đây là những vị linh hướng đã có ảnh hưởng sâu đậm trên đời Gioan.
Gioan cảm thấy khát vọng sống toàn thiện, theo đà tiến mãnh liệt hướng về đời sống ẩn tu: việc đó đòi phải ước muốn xa tránh sự phóng đãng về phong tục và sự hư ảo của tiền tài để gieo mình vào Thiên Chúa. Sau này Ngài sẽ là người cổ võ nhiệt tâm của lý tưởng Công Giáo muốn sống đời hoạt động. Ngài khởi sự bằng việc hăng hái dấn thân vào đời suy niệm. Khi biết ngay lúc đó người ta muốn tôn Ngài lên chức Giám mục (năm 373), Ngài liền nghĩ đến đời ẩn tu. Vì thế Ngài lên đường trốn tránh. Trong tác phẩm “Du Sacerdoce”, soạn sau cuộc trốn thóat để tự biện minh, Gioan đã nêu lên lý dochínhcủa việc tẩu thóat trên: đó là vì sợ bất xứng với phẩm chức cao trọng. Năm 375, sau khi thân mẫu tạ thế.[2] Ngài thấy có thể thực hiện được khát vọng sống ẩn dật và khắc khổ. Ngài liền từ biệt Antioche lánh mình vào miền núi khô chồi gần đô thị, tức sa mạc Chalcis (tỉnh Alep hiện nay), chung sống với một vị tu hành lão thành trong 4 năm. “Sau đó, do lòng khao khát thúc đẩy ẩn mình hoàn toàn khỏi thế gian Ngài đã một mình trốn vào một hang động và ở đó trong 2 năm, sống nhiệm nhặt khác khổ, kiêng ăn kiêng ngủ, chỉ chuyên chú tìm hiểu luật Chúa Kitô là khoa học trổi vượt nhất dẹp tan mọi ngu dốt. Hai năm đêm ngày không ngủ và kiêng khem này đã hủy họai bộ máy tiêu hóa của Ngài và cái lạnh thấu xương đã làm hư hỏng cặp thận. Tự mình không thể chữa trị nổi, Ngài đành chấp nhận trở về ẩn náu nơi Giáo Hội”.[3]
2. Làm Linh mục ở Antioche
Về tới Antioche Ngài được Giám mục Mélèce giang hai tay đón nhận và truyền chức Phó Tế vào năm 381. Năm 386, lúc khỏang chừng 40 tuổi, Ngài được Giám mục Flavien, kế vị Mélèce, truyền chức Linh mục và giao cho sứ vụ đặc biệt là giảng thuyết thay Giám mục (ít năng khiếu) tại các giáo đường lớn nhỏ trong thành Antioche và vùng phụ cận. Đó là nhiệm vụ chính trong suốt 12 năm làm Linh mục tại Antioche của Cha Gioan. Ngài đã chu toàn trách vụ với lòng hăng say đầy khả năng và đạt những kết quả lớn lao khiến từ đây thiên hạ muôn đời sẽ tặng cho Ngài tước “Nhà thuyết giáo số một” của Giáo Hội.
Ngoài Constantinople và Alexandrie ra, Antioche lúc đó là một đô thị đáng chú ý hơn cả trong đế quốc La mã bên Đông Phương. Bao lần đô thị này đã được dùng làm trụ sở cho các hoàng đế. Thật là một đô thị tráng lệ ít ra ở những khu phố trung tâm và ở một vài miền ngoại ô. Những nơi này thường được cung cấp nước đầy đủ và ban đêm còn có đèn công soi sáng. Thời đó dân chúng trong thành ước chừng 100. 000 người. Hình như đại đa số là Công Giáo, nhưng phần nhiều mới nhập Giáo Hội từ khi có sắc chỉ khoan hồng Constantin vào năm 313. Có lẽ một số khá đông đã nhập đạo vì xu thời, vụ lợi hay vì sức hấp dẫn của đại chúng; thậm chí những phong tục còn xa lý tưởng Kitô giáo, quần chúng còn sống nô lệ cho những tập tục ngoại giáo còn sống sót (dị đoan, vô luân). Gioan bắt đầu nhiệm vụ to tát đó bằng việc khuấy động lớp bột thế nhân dầy đặc và rắc vào đó một lớp men Phúc Âm. việc này đòi một phần lớn ở sứ mệnh rao giảng. Gioan giảng thuyết tại các giáo đường trong thành, đặc biệt trong ngôi đại giáo đường Constantin đã xây, cả trong ngôi giáo đường cổ kính mà theo lời truyền khẩu thì phải liệt vào thời các Tông Đồ Phêrô và Phaolô, hoặc trong những ngôi nguyện đường xây cất rải rác ở miền quê gần tỉnh để dâng kính các bậc tử đạo.
Trong thời gian bình thường, Gioan giảng tuần 1 lần vào ngày Chúa Nhật, đôi khi cả ngày thứ bảy. Thường ra Ngài giảng cho toàn thể cộng đồng Kitô giáo. Nhưng đôi lần, có lẽ Ngài cũng giảng đặc biệt cho một lớp thính giả nào đó: hoặc cho tân tòng, hoặc cho một cử tọa trí thức nhân những dịp tĩnh tâm. Trong giai đoạn sinh hoạt này người ta còn giữ lại được khá nhiều bài diễn giảng Phúc Âm, đặc biệt 90 bài về Phúc Âm Thánh Matthêô và nhiều bài khác về các thư Thánh Phaolô. Trong một chương dưới đây chúng ta sẽ đề cập đến những đặc tính diễn giảng của Gioan, những đặc tính mà nhờ đó,[4] Ngài đã đáng được danh hiệu “KIM KHẨU”.[5]
Tới đây chúng ta hãy dừng lại đôi chút trước biến cố quan trọng đã xẩy ra trong đời Thánh Gioan khi Ngài làm Linh mục ở Antioche: cuộc dấy loạn năm 387 đã là cơ hội để Ngài đưa ra một loạt bài giảng gọi là “giảng thuyết về ảnh tượng”. Qua thái độ của Thánh Nhân trước những biến cố quan trọng trên, chúng ta đã nhận thấy rõ nghị lực và lòng tốt lạ lùng của Ngài. Những đức tính đó sau này sẽ tỏ hiện một cách sung mãn trong giai đoạn Ngài làm Giám mục ở Constantinople.
Hạ tuần mùa đông năm 387, hình như trước vấn đề tệ lạm thuế má của ngân khố, dân thành Antioche từng khối người đã kéo đến giáo đường để xin Giám mục Flaviens can thiệp với Chính Quyền. Thế rồi, dưới sự hướng dẫn của một số người phản động dân chúng vây chiếm công trường và trong lúc phẫn nộ quá khích, họ đã đập phá những ảnh tượng của hoàng gia.[6] Họ đã bắt đầu phóng hỏa gia cư của các bậc cường hào. Để chấm dứt cuộc phiến loạn và tái lập an ninh, quân đội được phái đến đã can thiệp quá tàn bạo. Cuộc bạo động chấm dứt, dân chúng ai nấy đều hỏang sợ khi nghĩ đến trọng tội họ mới phạm đến hoàng đế vì đã hạ các tượng của hoàng gia. Về phía Théodore, người ta rất có thể đón chờ một cuộc báo thù đẫm máu. Những vụ chém giết sẽ xảy ra trong mấy năm sau do Théodore hạ lệnh tại Thessalonique để báo thù vụ dấy loạn, sẽ chứng tỏ hoàng đế có thể căm phẫn đến tột độ. Từ Antioche đến Constantinople, triều đình khá xa cách: các công chức phải lên đường loan tin cho hoàng đế. Thiên hạ đều khiếp sợ quyết nghị của hoàng đế. Từng khối người đã bị nhốt vào ngục. Kẻ phú quý nếu có thể được đã gấp rút từ giã thành thị. Dân chúng lúc này đến khẩn khỏan vị Giám mục lão thành Flaviens để Ngài lên đường can thiệp với hoàng đế Théodose. Đây là một cuộc hành trình vất vả về cuối mùa đông. Chính trong thời gian xa vắng lâu ngày của Flaviens (mùa chay năm 387), Gioan đã giảng 21 bài người ta thường gọi là “diễn giảng về ảnh tượng”. Thời gian trôi qua, nhờ những bài giảng đầy sức sống đó, chúng ta còn được biết đến những biến cố và những giai đoạn của vụ ảnh tượng trên. Đối với mọi người, Gioan chẳng những đã tỏ ra là vị mục tử nhân hiền mà còn là người bạn xấu số. Ngài đã âu yếm khích lệ ủy lạo và khiển trách họ, biết lợi dụng những biến cố để rút ra những bài học luân lý hữu ích.
Đối với những người phú quý bỏ thành thị vì khiếp sợ, có những vị tu sĩ từ những miền quê lân cận đã vì bác ái đến hòa mình vào giữa họ để xoa dịu mối lo sợ.
Sau cùng nhờ ở việc can thiệp của Giám mục Flaviens và các nhà tu sĩ, hình như hoàng đế đã động lòng thương xót, tiên vàn Ngài giảm bớt mức báo thù và sau cùng tha thứ cho dân thành về tội dấy loạn và phạm đến tôn nhan Ngài. Hai mươi mốt bài giảng trên của Thánh Gioan rất cảm kích. Nơi đây Ngài thường có một thể văn rất xúc động. Qua những bàigiảng đó, ta thấy rất rõ tâm hồn mục tử của Ngài chan chứa yêu thương và nhiệt thành với đoàn chiên. Chẳng những Ngài luôn luôn lo lắng khích lệ những kẻ thất vọng mà còn giáo huấn và hoán cải con chiên của Ngài. Thiết tưởng những bài giảng trên có thể liệt vào loại những kiệt tác của khoa hùng biện Kitô giáo.
3. Làm Giám mục Constantinople – lưu đày lần I
Mười hai năm làm Linh mục tại Antioche phải kể là thời gian tươi đẹp và diễm phúc nhất của Gioan. Thời gian này đã chấm dứt thật đột ngột khi mà Nectaire, vị Giám mục Constantinople qua đời ngày 27-9-397, và Cha Gioan được chọn lên kế vị tại tòa Giáo chủ quan trọng nhất này của Giáo Hội Đông Phương xét về mặt chính trị. Thực ra danh tiếng của Gioan đã vượt quá biên giới tỉnh Syrie. Thế nên cho dù vắng mặt, Ngài vẫn được cử làm Giám mục tại tòa Constantinople. Thấy Ngài không mấy sốt sắng để nhận chức, hoàng đế trẻ tuổi Arcadius và quan giám hộ Eutrope đã phải dùng đến võ lực và mưu lược đưa Ngài về Thủ đô theo lệnh của Triều đình. Théophile Giáo chủ Alexandrie, một nhân vật thù địch vì ghen tương và ngấp nghé Tòa Constantinople nay về tay Gioan, đã phải miễn cưỡng phong chức Giám mục cho đối thủ mình vào ngày 26-2-398. Từ trước tới nay Gioan đã gây được ảnh hưởng rộng lớn tại Antioche nhờ việc giảng thuyết. Nay Ngài nhận thấy địa trường hoạt động còn rộng hơn nhiều. Vừa lên Ngai Giám mục tại Constantinople Ngài liền hăng hái lao mình vào những cuộc cải cách khẩn trương hàng giáo sĩ và giáo dân đã quá sa sút trong thời vị tiền nhiệm. Công cuộc cải cách va chạm với những tư lợi vị kỷ, nên đã vấp phải nhiều đố kỵ chống đối và sau cùng gặp nhiều trở ngại lớn lao: kết quả đưa đến cuộc lưu đày lần thứ nhất năm 403 ta sẽ coi dưới đây.
Cũng như ở Antioche trước đây, tại Constantinople Gioan vẫn tiếp tục việc giảng thuyết nhưng không được đều đặn bằng, vì lẽ có nhiều trọng trách khác còn đè nặng trên vai Ngài. Trong giai đoạn hoạt động này của Ngài, chúng ta còn giữ được khá nhiều bài giảng do những tốc ký viên ghi chép. Những bài giảng trên đây thường được ứng khẩu, nên không được chải chuốt bằng các bài giảng thời còn ở Antioche. Đàng khác qua các bài giảng đó ta cảm thấy có sự hấp dẫn, cương quyết và táo bạo hơn.
Ngoài việc giảng thuyết Gioan còn mạnh mẽ lao mình vào iệc cải tổ hàng Giáo phẩm, giáo sĩ và giáo dân. Biết bao bê bối đã thâm nhập vào đó, nhất là nơi Giáo sĩ: mê tiền của, hà tiện, thích yến tiệc, sống xa hoa, lười biếng, dâm đãng. Hồi còn là tu sĩ Gioan đã có dịp giải thích quan niệm của mình về đời sống Linh mục, nay Ngài quyết liệt cưỡng bách hàng giáo Phẩm và giáo sĩ thực hành lý tưởng đó. Đặc biệt Ngài mạnh mẽ công kích thói hà tiện và những tội trái đức trinh khiết của các Linh mục. Không kể những bài giảng về 2 vấn đề trên, chúng ta còn giữ được 2 tập nhỏ nhan đề: “phản đối những ai chứa chấp các vị nữ tu trong nhà mình” và “phản đối những trinh nữ đã hiến thân cho Chúa mà sống chung với các giáo sĩ”. Những yêu sách và tính cương trực của Ngài đã gặp phải những phản ứng bí mật của những giáo sĩ phóng đãng, không muốn bỏ cuộc sống dễ dãi. Ít năm sau chúng ta sẽ thấy phản ứng đó sẽ trở thành oán thù khi Gioan bị tước đoạt hết quyền hành.
Ngoài ra Gioan còn cấp tốc cải tổ việc quản trị tài sản Giáo Hội trong địa phận Ngài bằng cách phế bỏ tất cả những việc chi tiêu xa xỉ mà vị tiên Giám mục thường ưa thích. Nhưng Ngài không muốn tích trữ tiền của, kể cả những lợi tức riêng khá lớn lao của Ngài; theo gương thánh Basile Giám mục thành Césarée, Ngài đã dùng để thành lập tại Constantinople một tổ chức cứu tế chung gồm: bệnh viện, dưỡng đường, nhà dưỡng lão và nhà tế bần cho đủ hạng người, đặc biệt là kẻ nghèo khó. Sau này người ta sẽ khiển trách Ngài vì đã phung phí tài sản của Giáo Hội vào việc đó. Giả sử Ngài cứ cho tiếp tục hoang phí vào những yến tiệc và buổi lễ như xưa thì có lẽ đã tránh được lời khiển trách này!
Gioan rất quan tâm đến những người ngoài Kitô giáo sống tại Constantinople, nhất là giai cấp nông thôn sống xung quanh Kinh thành. Ngài cũng chăm lo đến việc truyền giáo nơi dân Man di, đặc biệt dân Goths. ngài còn tận lực chiến đấu với những bè rối, đặc biệt là bè Ariô và Novatiô.
Tuy nhiên từ rất sớm người ta đã nhận ra rằng việc Gioan được bổ nhiệm vào ngai Giám mục tại Thủ đô đế quốc đã là một “bất hạnh” cho đời Ngài, vì Ngài đã không thể thích nghi với địa vị mới này. Ngài đã không bao giờ hiểu được rằng có một sự khác biệt căn bản giữa bầu khí tinh thần quá ô nhiễm nơi đặt Triều đình đế quốc này với khí hậu tương đối trong lành của một thủ phủ ở xa như Antioche. Tâm hồn Ngài lại quá cao thượng và vô vị lợi để có thể đoán biết được những mưu đồ ám muội của Triều đình. Thêm vào đó sự tự trọng phẩm giá cá nhân ở một mức độ cao đã không cho phép Ngài ngừng lại ở một thái độ khúm núm hay nịnh hót trước những kẻ nắm quyền bính chính trị luôn đủ thế lực để tiếp tục ủng hộ Ngài nếu Ngài đã biết qụy lụy họ. Trái lại tính tình ngay thẳng và hăng say lúc này đã thường đẩy Ngài đến những lời nói và hành động nói được là thiếu đắn đo nếu không là dễ nhục mạ đối với nhà cầm quyền.
Chương trình cải tổ hàng Giáo phẩm, giáo sĩ và giáo dân của Ngài cũng có phần thiếu thực tế, và sự trung thành nhât mực từ chối mọi thỏa hiệp với lý tưởng đặt ra đã chỉ giúp quy tụ mọi thế lực thù địch để chống đối Ngài, trong khi nếu không quá đơn thật Ngài đã có thể dễ dàng vận dụng cách khéo léo những thế lực đó để hóa giải lẫn nhau. Vì vậy mà việc chỉnh đốn đời sống luân lý ở đây đã gặp một sự chống đối mãnh liệt. Sự chống đối này đã trở thành một mối oán thù ghê gớm, khi đển chủ tọa một hội đồng nhóm họp năm 400-401 tại Ephèse Ngài đã tuyên bố cất chức 6 Giám mục về tội mại thánh (simonie), nghĩa là dùng tiền của để mua chức vị. Ngài còn cổ động tiến cử một tu sĩ lão thành nổi tiếng về khắc khổ lên ngôi Giám mục tại Ephèse.
Nhìn thấy nguy cơ, kẻ thù trong ngoài liền cấu kết với nhau để tìm cách hạ Ngài cho bằng được. Lợi dụng dịp Ngài vắng nhà trong 3 tháng để họp hội đồng và lo việc tại Ephèse, đối phương đã dùng mọi mưu mô, tung ra nhiều vu khống cho Gioan để gây tình hình rối reng trong địa phận. Đàng khác những liên hệ tốt đẹp ban đầu giữa Giám mục Gioan và Triều đình nay đã thay đổi hẳn kể từ ngày quan giám hộ Eutrope bị thất sủng và kết án (399). Hoàng đế Arcadius lại là một ông vua kém trí và hèn nhát nên mọi quyền bính đều rơi vào tay vợ là nữ hoàng Eudoxie người luôn mang ác cảm với Gioan, vì bị bọn nịnh thần ton ngót là Giám mục hằng xỉ vả cuộc sống xa hoa và dâm dật của Triều đình. Một số vị đồng liêu trong hàng Giám mục như Sévérien de Gabala, Acace de Bérée và Antiochus de Ptolémais lại cố tình đổ dầu thêm vào lửa giận của vị nữ hoàng đang tự do thao túng chính trường lúc này. Mưu đồ của họ đã đạt thành công lớn khi Giám mục Gioan lên tiếng khiển trách nữ hoàng về vụ tước đoạt tài sản của góa phụ, vợ công chức Eutrope vừa bị truất phế và kết án nói trên.
Nhưng kẻ thù lớn nhất của Gioan vẫn là Théophile Giáo Chủ Alexandrie. Ông này rất căm thù Ngài kể từ ngày phải miễn cưỡng tấn phong Ngài làm Giám mục Constantinople theo lệnh hoàng đế Arcadius. Nhân dịp một số vị tu dòng bị Théophile khai trừ về vụ môn phái Origène đã từ Ai cập kéo đến Constantinople Gioan ra tay tiếp đón họ và tỏ ý muốn mời Théophile tới dự một hội đồng đang được tổ chức tại Constantinople năm 403 để nhân tiện giàn xếp về vụ này. Lợi dụng cơ hội Théophile vui sướng lên đường, kéo theo từ Ai cập 28 Giám mục khác bị mua chuộc tiến sang Constantinople. Tại đây ông dụ thêm được 7 Giám mục nữa nhập phe mình, và mặc dầu không có thẩm quyền nhưng được sự hỗ trợ đắc lực của nữ hoàng Eudoxie và Triều đình, Théophile cũng triệu tập tại biệt thự Chêne ở Chalcédoine, gần Constantinople, một “công đồng” giả danh cáo buộc Gioan và đòi Ngài phải trình diện trước “công đồng”.[7] Sau 3 lần từ chối ra “hầu tòa”, Gioan bị tuyên án truất phế vào tháng 8 năm 403. Công đồng yêu cầu hoàng đế châu phê án quyết và đày Gioan sang Bithynie bên Tiểu Á. Được tin lạ lùng đó, Gioan tập trung giáo dân ở Constantinople và giảng một bài để phản đối tính cách bất công và bất hợp pháp của cái gọi là “Công đồng Chêne” và vụ truất phế Ngài. Sau đây là một đoạn trích của bài giảng đó:
“Sóng gió nhiều và phũ phàng; nhưng chúng tôi không lo đắm chìm, bởi lẽ chúng tôi đang đứng trên khối đá. Cho biển khơi có điên cuồng cũng không tiêu diệt nổi khối đá đó. Cho sóng gió có dâng cao con tầu của Chúa Giêsu cũng không thể sa chìm được. Hãy nói tôi hay, chúng tôi sợ chi? cái chết ư? Chúa Kitô là sức sống và sự chết là chiến thắng của tôi. Đày ải ư? Trái đất và mọi sự trên đó đều thuộc quyền Thiên Chúa. Mất tiền của trần gian ư? Đã không mang chi đến trần gian nên chúng tôi cũng không thể đem gì đi được. Những gian nguy đời này, tôi đều khinh thường, và vẻ hoa lệ của nó, tôi cũng coi nhẹ như không. Tôi không lo nghèo khó vì tôi không cần chi đến tiền của. Tôi không sợ chết cũng không mong sống nếu chẳng phải vì hạnh phúc của anh em. Thế nên hôm nay tôi chân thành khuyên anh em hãy tự an ủi, bởi chưng không gì có thể ly tán tôi khỏi anh em: “Điều Thiên Chúa đã liên kết, con người không tài nào tháo gỡ được” (Mt. 19, 6)… “Chúa Kitô ở sát bên, tôi còn sợ chi? khi sóng gió của biển khơi và giận dữ của thế quyền hung hăng phản đối tôi; nhưng tất cả đối với tôi đều không mạnh mẽ hơn chiếc màng nhện. Nếu Chúa muốn công việc xảy ra, tất sẽ xảy ra; nếu Ngài muốn tôi ở lại đây, tôi chân thành cảm tạ Ngài. Ngài muốn tôi ở bất kỳ đâu, tôi cũng đa tạ Ngài. Mong chi không ai có thể làm anh em xao xuyến. Anh em hãy chăm lo cầu nguyện. Đó là mưu mô của những kẻ ác tâm, họ muốn ngưng trệ lòng sốt sắng thành kính, bóp chết mối nhiệt thành cầu nguyện và thi hành việc mộ đạo của anh em. Nhưng họ không thành công và không thể gột bỏ lòng thành kính sốt sắng khỏi tâm hồn anh em được đâu. Họ chỉ tăng gấp sự tỉnh thức và lòng nhiệt thành của anh em. Mai tôi sẽ có mặt với anh em trong giờ kinh nguyện; bởi chúng tôi ở đâu, anh em cũng ở đó và anh em ở đâu tôi cũng ở đó. Chúng ta chỉ là một thân thể; thân sẽ không xa lìa đầu và đầu cũng sẽ không xa lìa thân. Nếu có xa cách về không gian, chúng ta vẫn hợp nhất trong tình yêu. Cái chết cũng không chia ly nổi chúng ta. Nếu có chết, tâm hồn tôi vẫn sống gần và tưởng nhớ tới những giáo hữu thân yêu. Tôi sẵn sàng hiến mạng sống tôi ngàn lần cho anh em; và anh em không cần hài lòng về tôi. Tôi chỉ việc thi hành nhiệm vụ: “bởi chưng người mục tử nhân hiền sẽ hiến mạng sống mình vì đàn chiên”.[8]
Ba ngày sau quân lính bí mật đến bắt Ngài không cho công chúng biết; họ điệu Ngài đến cửa biển Bosphore nơi đây người ta sẽ cho Ngài đáp tầu đi đày. Hay tin Giám mục ra đi, toàn thể giáo dân nhốn nháo kéo ra bờ biển. Nhưng lệnh của hoàng đế đã chính thức, nên Gioan phải xa lìa, Ngài nói: “vì nữ hoàng muốn trục xuất tôi, thì xin cứ trục xuất, trái đất và mọi sự trên trời đất đều thuộc quyền Thiên Chúa”.
4. Cuộc phục hồi ngắn ngủi – lưu đày lần thứ II và tạ thế
Cuộc lưu đày lần thứ nhất rất vắn vỏi, vì kẻ thù đã không tính đến yếu tố quần chúng. Trước sự phẫn nộ đùng đùng của dân thành về việc phát lưu Giám mục Gioan, cộng thêm một cuộc động đất xảy ra tại Constantinople chính đêm Gioan ra đi và một tai nạn thê thảm gặp phải ngay trong đền vua, nữ hoàng Eudoxie đã run sợ và súc động nhiều. Bà vội vàng xin hoàng đế ra lệnh triệu hồi Giám mục Gioan về lại Constantinople, trong khi đó kẻ thù chủ mưu là Théophile bị dân chúng săn đuổi lẩn trốn mất dạng. Khi thông tín viên của hoàng đế đến loan tin ân xá và trao cho Gioan lá thư rất cảm động của nữ hoàng, Ngài chưa xa cách bờ bên kia Bosphore là bao. Dân chúng hân hoan đổ xô ra tiếp đón Ngài trên đường về, và trong cuộc rước long trọng khải hoàn vào thành Ngài đã đọc bài diễn từ bất hủ nhan đề “sau cuộc trở về”. Ngài nói: “Hoàn cảnh đã thay đổi, nhưng vinh tụng ca vẫn là một: Nguyện danh Chúa được chúc tụng”.[9] Ngày hôm sau trong một bài giảng lễ Ngài đã có những lời lẽ tán dương nữ hoàng Eudoxie.[10]
Hai tháng trôi đi trong yên hàn, bỗng một cơn bão táp mới lại bùng dậy và lần này sẽ vùi dập Gioan vào cõi chết. Mùa thu năm 403, nữ hoàng Eudoxie cho đặt tượng bạc của bà tại công trường của kinh thành, ngay bên cạnh ngôi đại giáo đường. Nhân dịp lễ khánh thành này người ta đã tổ chức những cuộc liên hoan giải trí, chẳng những có tính cách huyên náo mà còn mang nhiều vết tích ngoại giáo và vô luân. Giám mục Gioan phản kháng lên tòa đô trưởng,… và nữ hoàng liền coi những lời lẽ của Gioan như nhằm thóa mạ chính bản thân bà, nên đã ra mặt bất bình rõ rệt với Giám mục. Phần Gioan, xúc phạm bởi những dấu hiệu thù địch mới của nữ hoàng và bị thúc đẩy bởi sự hãnh diện của tính tình, lần này Ngài đã có một hành động kể là thiếu khôn ngoan mà hậu quả không thể lường được nữa. Vào ngày lễ kính Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết (29/8), Ngài đã mở đầu bài giảng bằng những lời lẽ táo bạo như sau: “Một lần nữa mụ Hêrodiađê lại nổi tam bành, một lần nữa mụ lại phát khùng, một lần nữa mụ lại múa nhảy, một lần nữa mụ lại đòi cho bằng đuợc cái đầu Gioan đặt trên đĩa”.[11] Kẻ thù dưới sự lãnh đạo của Théophile liền coi đây là những lời trực tiếp ám chỉ nữ hoàng Eudoxie, và họ quyết tâm chớp thời cơ Gioan đang bất bình với chính quyền để truất phế Ngài, đồng thời tố giác Ngài đã phục chức một cách bất hợp pháp sau vụ huyền chức đúng theo giáo luật tại “công đồng Chêne” trước đây! Thế là được sự yểm trợ của các Giám mục do Théophile mua chuộc, hoàng đế đã ra lệnh ngưng chỉ mọi nhiệm vụ thánh của Gioan, quản thúc Ngài tại Tòa Giám mục, cấm ngặt không được ra khỏi và xử dụng bất cứ một ngôi thánh đường nào trong thành.
Vào đêm Vọng Phục Sinh 404, cùng với các Linh mục trung thành, Gioan tập hợp các dự tòng lại tại giếng rửa tội do vua Constant xây cất trước đây để ban bí tích Thánh Tẩy long trọng cho họ. Nghi thức bị gián đoạn nửa vời do quân đội và cảnh sát ập vào tàn nhẫn dùng vũ lực giải tán dân; và nước rửa tội đã hòa lẫn với máu.[12] Năm ngày sau lễ Hiện Xuống, tức 9-6-404, hoàng đế hạ bút ký sắc chỉ lưu đày lần thứ hai. Thế là một lần nữa Gioan lại bị một sĩ quan điệu từ Constantinople đến cửa biển Bosphore.
Lúc này sức khỏe của Gioan đã suy yếu nhiều vì hãm mình và làm việc nặng nhọc. Giờ đây, Ngài đang vất vả lê gót trên con đường vô tận có lính tráng theo sau. Ngài bị lưu đày tới một thôn xóm xa xăm, tên là Cucuse, mạn nam Arménie, nằm ở ngay biên giới Cappadoce, trong một miền hoang địa khí hậu ẩm ướt và độc hại, hơn nữa còn thường bị bọn côn đồ Isauriens đến xâm chiếm. Họ là những tên cướp hung ác mà bao lần Gioan đã gặp phải trên dặm đường lưu lạc. Nhờ những bức thư Gioan đã gởi cho bạn hữu ở Antioche hay cho những nữ trợ tá ở Constantinople,[13] chúng ta còn ghi được khá rõ rệt những kỷ niệm của cuộc “trốn tránh” xa vời và khó nhọc đó. Nhờ những thư còn được giữ lại cẩn thận này mà ngày nay chúng ta vẫn có thể sống lại với Ngài một phần nào những dặm đường lưu lạc. Chẳng hạn chúng ta biết Ngài đã dừng chân 4 tuần tại tỉnh Nicée. Nơi đây Ngài đã viết:
“Tôi vẫn an mạnh và vui vẻ; trừ một việc làm tôi áy náy là không biết rõ anh em có được hạnh phúc như tôi không…?”.
Ngài lại khởi hành, đường đất trở nên khổ cực hơn. Ngài mắc chứng sốt rét, hơn thế đoàn người còn luôn luôn bị côn đồ hăm dọa. Nhưng một trong những khổ tâm hơn cả đó là dọc đường bị một số Giám mục bạc đãi. Các vị vẫn tưởng Ngài mắc tội trạng, vì lẽ sau vụ lên án của “Công đồng Chêne”, Ngài đã bị chính tay hoàng đế Công Giáo đầy ải. Bị thất vọng khuấy khuất, nhưng Ngài đã can đảm đối phó rất nghị lực. Ngài viếtnhư sau:
“Đời Cha đã tan vỡ, đã chết trăm ngàn lần. Những kẻ đưa thư này cho con có thể nói cho biết hơn ai hết, mặc dù họ chỉ ở với Cha ít bữa. Cha cũng không thể nói với họ được vì Cha luôn luôn bị chứng sốt rét làm tiêu hao sức lực. Dầu đau ốm Cha cũng phải đi đêm ngày, bị khổ cực vì sức nóng, mòn hao vì thức đêm, vì thiếu săn sóc và lương ăn. Cha đã phải và còn đau khổ hơn cả những tội nhân bị giam trong hầm mỏ và lao tù. Sau cùng, Cha đã có thể tới Césarée, đây là một hải cảng của Cha sau cơn bão tố. Nhưng chính hải cảng này cũng không thể bồi bổ được cho tất cả những tổn hại mà gió bão đã gây nên, vì thời gian vừa qua Cha đã tổn thương quá nhiều. Nhưng Cha bắt đầu dễ thở đôi chút sau khi tới Césarée, khi Cha lại có thể uống được nước lã và không còn phải dùng bánh hư và cứng như đá”.
Một bữa nọ, đoàn người suýt bị bọn Isauriens cướp lột. Bữa khác, bị một đoàn tu sĩ cuồng tín hung dữ đến vây quanh căn nhà Ngài nghỉ định hành hung. Sau cùng, bỏ Constantinople được 70 ngày, Gioan đã tới Cucuse, may thay tại đây Ngài gặp được một người phú quý trong vùng. Sau khi được nghe nói về Gioan, ông này liền đem lòng yêu mến Ngài, ông mời Ngài đến trọ ở nhà mình. Nhờ đó mấy tháng đầu ở đây cũng không đến nỗi khổ cực như Ngài thường lo ngại.
Nhưng ở Constantinople, tình hình rất căng thẳng. Từ khi Gioan ra đi, một số dân chúng khá đông còn trung thành với Ngài rất căm phẫn muốn bộc lộ nỗi bất mãn của mình. Một bầu khí khởi loạn đang đè nặng trên Kinh thành. Hoàng đế rất lo sợ. Một vụ hỏa họan bốc lên trong nhà thờ thánh nữ Sophie và đồng thời đã thiêu hủy cả dinh Thượng Nghị viện. Người ta liền tố giác những người theo Gioan là đã gây ra vụ hỏa họan trên. Cuộc thanh trừng quá tàn bạo: nhiều người, kể cả những Linh mục còn trung thành với Gioan đều bị quân lính của hoàng gia đem ra hành hình, tra tấn. Một tân Giám mục được cử lên thay thế Gioan là Arcace nhưng ít bữa sau, 1-11-405, Ngài chết. Người ta liền cử một vị khác là Atticus lên thế, nhưng một số khá đông giáo dân vẫn còn tỏ vẻ trung tín với Giám mục lưu đày.
Riêng phần Gioan trước khi rời Constantinople lên đường tù đày, Ngài đã gởi thư khiếu nại đến Giáo Hoàng Innocent I tại Roma cùng hai Giám mục Venerius và Chromatius ở Aquilée để xin sự phán quyết của các Ngài.[14] Sau đó Théophile cũng báo cáo việc truất phế Gioan cho Giáo Hoàng, nhưng Ngài đã không chấp nhận và đề nghị lập một hội đồng gồm cả Giám mục Đông Tây để điều tra về nội vụ. Đề nghị của Giáo Hoàng đã không được thể hiện; vì thế, cùng với Giáo Hoàng, cả Tây Phương đã quyết định ngưng thông hảo với Constantinople, Alexandrie và Antioche cho tới khi nào biết hối lỗi.[15] Vậy lúc này, từ Rôma, Đức Innocent đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực và bảo vệ Gioan, nên mặc dầu sống giữa kiếp lưu đày cực khổ, Ngài lại bắt tay hoạt động truyền giáo mạnh mẽ khắp cả miền. Ngài ở lại Cucuse 3 năm trời, bắt liên lạc khá dễ dàng với Constantinople và Antioche. Chúng ta còn giữ được 236 bức thư Ngài viết tại đây cho cả hai Giáo đoàn trên. Một trong những bức thư này cho chúng ta thấy sau những tháng đầu tương đối dễ dãi, cuộc sống Gioan tại Cucuse mỗi ngày một khó khăn hơn. Ngài viết:
“Mới đây, mặc dầu trong những ngày đông rét lạnh nhất Cha cũng phải luôn luôn thay đởi nơi ở: lúc ở thành thị, khi ở trong hẻm núi hay thung lũng, luôn bị quân Isauriens theo đuổi đây đó. Sau cùng, khi hiểm họa đã dịu, Cha đến náu mình ở Arabissos, vì lẽ trong thành trì của đô thị này Cha được an ninh hơn những nơi khác… Cha phải ở một nơi còn khổ cực hơn cả ngục thất. Thực vậy, không kể đến sự chết ngày ngày hằng đón chực ngay tận cửa (vì lẽ quân Isauriens hằng gieo rắc lửa đạn khắp nơi) chúng tôi còn lo sợ nạn đói kém vì lẽ một đoàn người đông đúc như vậy mà lại bị chất chứa trong một nơi quá hẹp hòi”.
Tại Constantinople, đối phương vẫn chưa nguôi giận. Nhất là chúng chưa an lòng vì thấy Gioan ở Cucuse vẫn hoạt động truyền giáo và liên lạc với Constantinople và Antioche. Hơn nữa từ cựu giáo đoàn Antioche của Gioan này, nhiều toán hành hương đã tấp nập tới tận Arménie (Cucuse) thăm viếng vị giảng thuyết lừng danh rất yêu kính của họ. Sợ sau này Ngài sẽ còn trở về Constantinople, những kẻ thù của Ngài “liền hạ quyết tâm rút ngắn ngày giờ của Ngài”.[16]
Họ thúc bách hoàng đế chỉ định cho Gioan một địa điểm lưu đày xa xôi hơn nữa, xa hơn cả những nơi dành riêng cho các phạm nhân nặng tội nhất. Vì thế Gioan đã được chỉ định đày đến Pithyus (Pithyonte), một thị trấn bé nhỏ và xa xôi nằm trên một mỏm đất hoang vu khô chồi, ở phía đông bắc man rợ của Hắc Hải.
Trung tuần mùa hạ năm 407, Gioan ra đi dưới sự canh gác của hai tên lính. Qua nhiều ngày, Ngài tới tỉnh Comane trong xứ Pont. Mệt quá, Ngài nghỉ chân trong một ngôi nhà nguyện dâng kính một vị tử đạo gần tỉnh. Ngài mộng thấy mình được vị tử đạo đến nói: “Bạn cứ an lòng mai chúng ta sẽ gặp nhau”.
Sáng ngày mệt quá, Ngài xin lính đừng đi nữa. Họ từ chối không nghe. Nhưng vừa đi được một giờ Ngài tỏ vẻ mệt quá nên quân lính phải đưa Ngài về ngôi nhà nguyện trên. Tại nơi đây, Ngài ra đi trong khi trên miệng cất lên: “Tôn vinh Thiên Chúa trong mọi sự”. Hôm đó là ngày 17-9-407, Ngài đã vĩnh biệt cõi trần trước khi tới chốn lưu đày mới là Pithyus. Những kẻ chống đối Ngài đã mau lẹ bỏ khí giới và chấp nhận ghi tên Gioan vào sổ bộ những Thánh Nhân mà Giáo Hội muốn tôn vinh trong phụng vụ và họ được thông hảo trở lại với Rôma. Người nhượng bộ cuối cùng là Cyrille d’Alexandrie (sau năm 420), cháu kế vị Théophile, sau này sẽ là đối thủ hăng say chống Nestorius.
Ngày 27-1-438, hài cốt thánh Gioan được đưa về Constantinople trong một cuộc rước khải hoàn trọng thể và được an táng trong nhà thờ các Thánh Tông Đồ bên cạnh mộ nữ hoàng Eudoxie (qua đời 404). Hoàng đế Théodose II, con của nữ hoàng đã ra nghênh đón linh cữu và “khiêm nhường quỳ phục trước quan tài cầu xin ơn tha thứ cho cha mẹ mình đã phạm lỗi lầm trong việc bách hại thánh Giám mục”.[17]
Xét về mọi phương diện, Thánh Gioan là người đáng tin cậy. Ngài là khuôn mặt hấp dẫn nhất trong các Giáo Phụ. Hết sức lợi khẩu, có tài hùng biện và luôn trung thành với chính mình. Ngay từ thế kỷ thứ VI người ta đã tặng Ngài danh hiệu “Chrysostome” (Kim Khẩu), hầu như thay thế cho tên thật của Ngài. Vào thế kỷ XVII, người ta gọi Ngài là bậc “Chính nhân” (honnête homme) vì văn hóa trong lành của Ngài. Ngài mãi mãi là con người chính trực (homme honnête). Thiết tha với chân lý đến mức cứng rắn, không khoan nhượng, Ngài ghê tởm sự thỏa hiệp và điều này đem lại nét cao quý cho lời rao giảng của Ngài, nhưng đồng thời cũng đã làm tổn thưng đến trách vụ điều hành của Ngài, nhất là tại Constantinople, như ta đã thấy. Dầu sao ta phải thừa nhận Ngài là một vị mục tử có tầm cỡ lớn, dám nghĩ, dám nói và dám làm.
II. SỰ NGHIỆP
A. THÁNH GIOAN KIM KHẨU: NGƯỜI CỦA HỌC THUYẾT
1. Một công trình đồ sộ
Gioan là tác giả dồi dào phong phú nhất của nền văn chương Giáo phụ: Tác phẩm của Ngài chiếm 18 cuốn trong bộ Migne về Giáo phụ Hy lạp… 10.000 cột chữ Hy lạp dày đặc cho khoảng 1500 bài viết. Trong số này, tuy có hàng trăm đề mục còn bị tranh cãi.[18] Năm 1955, Cha Wenger đã chẳng khám phá ở núi Athos tám bài giáo lý, công bố có lẽ vào năm 390 đó sao? Còn hàng trăm bản văn khác đang chờ các nhà phê bình phán quyết hoặc chờ nhà xuất bản chú ý tới. Công trình đồ sộ này dễ phân loại, ít ra một cách tương đối, nhưng xác định niên biểu của các tác phẩm thì lại là điều khó. Người ta thấy trong đó có 11 khảo luận hầu hết là về tu đức: “So sánh giữa vua và người đan sĩ”; “Chống những đối thủ của đời đan tu”; “Gởi Théodore”; “Gởi một góa phụ trẻ”; “về hôn nhân độc nhất”; “những sự sống chung đáng ngờ”; “Gởi Stagire”; “về lòng ăn năn”; “về hư vinh và về việc giáo dục con cái”; “về đức trinh khiết”; “về chức Linh mục”. Hai khảo luận cuối quan trọng nhất. Những khảo luận này thường được xếp vào thời gian Gioan sống ở Syrie.
Các tác phẩm về giảng thuyết, hiển nhiên là phần lớn nhất, chiếm tới 9 cuốn trong bộ 13 cuốn của ấn bản bénédictine bằng giấy rời (in-folio), được soạn trong suốt 17 năm, tuy niên biểu biên soạn một số bài còn bị tranh cãi rất nhiều.
Các bức thư thì mãi về sau mới viết. Bức thư cũ nhất là bức thư Ngài cậy nhờ Đức Giáo Hoàng Innocent, viết năm 404, còn hầu hết là thuộc thời kỳ lưu đày. Mười bảy thư gởi Olympias, vị nữ phó tế quảng đại thành Constantinople, làm thành một phần riêng của tác phẩm và là tuyển tập “các thư linh hướng” xưa nhất (Lettres de direction), tuy rằng tính chất Kitô giáo trong các lá thư đó không được rõ nét lắm. Hai thư khác thực ra là hai tiểu luận: “Về sự quan phòng của Thiên Chúa”; “Gởi những kẻ đang phẫn uất” hay đúng hơn đó là “Lá thư lưu đày”, viết từ Cucuse dựa theo chủ đề của triết lý khắc kỷ kiểu Socrate: “Không ai có thể làm hại kẻ không tự làm hại mình”. Số thư từ này, viết trong cảnh cô đơn, khốn khổ, được mài dũa đến độ thái quá, là bằng chứng cuối cùng về văn hóa, tài hùng biện, và lối viết văn kiểu cách của Gioan Kim Khẩu.
2. Một thần học đa diện
a. Đứng trước ngoại giáo, Do thái giáo và lạc giáo
Gioan hoạt động trong một thế giới mà phân nửa còn là ngoại giáo, và các tín hữu của Ngài vẫn còn bị tiêm nhiễm bởi phần ngoại giáo đó.
Vào một số ngày, các Kitô hữu thích trường đua và rạp hát hơn là nhà thờ, những nơi này tổ chức biểu diễn ngay cả vào ngày thứ sáu tuần thánh và Lễ Phục Sinh. Họ thuộc tên tuổi xà ích và tên ngựa hơn là tên các tiên tri, tông đồ, họ thực hành đủ thứ mê tín: họ mừng năm mới theo lối cũ, mang tiền đồng in ảnh Alexandrie để xua trừ vận rủi. Họ đeo cho con cái bùa chú, lục lạc, dây vải điều, trét bùn ở bể tắm lên trán cũng để đuổi vận xui. Họ tin rằng, ban sáng mà gặp một trinh nữ thì họa đến nơi, còn gặp gái hư hỏng thì ấy là điều lành. Vị mục tử còn tố giác ảnh hưởng của người Do thái ở Antioche trong tám bài giảng, Ngài kêu gọi các tín hữu, những người đã được “nâng lên địa vị làm con”, đừng trở xuống với hàng “khuyển tộc”. Những lời này làm chúng ta chướng tai, và chúng cũng không phải là ngoại lệ. Thực ra ở đây, nhà giảng thuyết chỉ đi theo truyền thống bài Do thái chung, khi phải đương đầu với sự lôi kéo theo đạo hữu hiệu của các đối thủ của Ngài, nhưng so với các Giáo phụ khác, Ngài hơn ở chỗ là chỉ giới hạn vào lãnh vực tôn giáo.
Ngược lại, Ngài tỏ ra tương đối khoan dung đối với các Kitô hữu lạc đạo. Sự kiện chính yếu là: Gioan đã sống giai đoạn chuyển tiếp từ Kitô giáo chính thống sang qui chế quốc giáo, với khả năng khai thác quyền lực phần đời. Nếu Ngài có nại đến đó, thì chỉ sau thời gian dài nhẫn nại mà Ngài “đã để cỏ lùng mọc lên cùng với hạt giống tốt”, và trên thực tế, giáo huấn của Ngài không nhắm tới việc chống lạc giáo. Chỉ có 16 bài giảng “Về tính bất khả thấu đạt của Thiên Chúa”, là có phần trực tiếp nhắm vào lạc giáo, và ở đây là phái Anoméen.[19] Để chống lại phái Ariô quá khích hay đúng hơn có khuynh hướng duy lý này, Ngài bảo vệ tính chất khôn tả của Thiên Chúa, Chúa Cha và Chúa Con ngang bằng nhau về Ngôi Vị, dù rằng một bên “không-được-sinh-ra”. Cả 88 bài giảng của Ngài về Thánh Gioan cũng nhấn mạnh đến thần tính trọn vẹn của Chúa Con, Đấng “không giảm sút về bản tính khi Ngài đến với chúng ta”, “có sự bằng nhau và hoàn toàn giống nhau”. Ngược lại, nếu thỉnh thoảng Ngài có nói đến việc Ngôi Lời làm người thì Ngài không hề nhấn mạnh đến nhân tính toàn vẹn của Đức Kitô, về linh hồn lại càng không thấy nhấn mạnh. Ngài thường xuyên nói đến xác phàm. Qua sự thực hiện: “Nhiệm cục” (économie), có sự “kết hiệp khôn tả và không thể xác định được” của Ngôi Lời – xác phàm (Verbe- Chair) chứ không có sự “biến đổi bản tính này thành bản tính kia” ở đây, người ta không tìm thấy dấu hiệu gì của Kitô học được gọi là theo khuynh hướng Antioche, cũng như dấu hiệu về cuộc chiến đấu chống lại bè Apollinaire thời bấy giờ.
b. Tình yêu của Thiên Chúa và sự tự do của con người
Gioan nhấn mạnh cùng một lúc tình yêu bao la của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người vào chương trình cứu độ. Mặc dù là người thích lấy hình phạt hoả ngục để răn đe nhưng Ngài lại không ngừng thốt lên nỗi kinh ngạc của mình trước lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: Chẳng tình yêu xác thịt nào, dù người đó có yêu đến điên cuồng đi nữa, lại chó thể cháy bỏng nỗi khát khao người mình yêu như là niềm khát khao của Thiên Chúa đối với phần rỗi linh hồn chúng ta?. Lòng nhân ái thì vô lượng hạn. Về sự bao dung đối với tội lỗi của con người, một tội lỗi luôn bị giới hạn bởi chính bản chất của kẻ phạm tội. Ngài còn đi đến chỗ nói rằng việc hoán cải là “công trình hoàn toàn sốt sắng của con người không đủ, nếu nó không được ơn trên thúc đẩy”. Đúng là như vậy, nhưng “trong thực tế, tất cả đều tùy ở ý chí tự do của chúng ta sau khi lãnh nhận ân sủng từ trên ban cho”. “Vậy do đâu mà có sự thay đổi? – Do ý chí tự do. Nói cho cùng, đây mới là nguyên nhân của mọi sự lành cũng như mọi sự dữ”. “Nếu(con người) không khởi đầu ước muốn ân sủng, thì ân sủng không được ban, hoặc vẫn vô hiệu lực”. “Đối với linh hồn, chỉ cần ước muốn ân sủng thì mọi sự đã được nâng dậy, uốn nắn”. Người ta ít thấy phía La tinh dành cho tự do một chỗ đứng như thế, ngay cả trước cuộc khủng hoảng Pélage.
Quả đúng là thần học của Gioan không quan tâm đến sự chính xác đến mức như thần học của Thánh Augustin, là thầnhọc luôn luôn phải đương đầu với lạc giáo. Thần học của Ngài, vì nhằm để giảng cho quần chúng, nên trực tiếp nhằm đến tâm hồn hơn là suy lý. Đây là cách dạy giáo lý “đơn sơ và dễ hiểu, như Ngài nói, dành cho các nữ tì, cho góa phụ, cho chủ quán trọ, cho thủy thủ, cho nông dân”. Điều cơ bản là loan báo tình thương của Chúa, thể hiện trong Đức Kitô và tha nhân.
3. Kiểu chú giải Antioche
Việc giảng thuyết của Gioan thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: diễn từ (discours) tùy tình huống, các bài tán tụng trong các lễ trọng (panégyriques), các bài giảng lễ (homélies) và đủ thể loại giảng (sermons). Không thiếu gì những bài giảng được viết thành hai bản, một bản gãy gọn, không liên tục,có lẽ đây là bản đầu tiên, còn bản kia đã được viết lại, đôi khi được hoàn chỉnh thành một bài chú giải liên tục. Ngoài bảy bài tán tụng Thánh Phaolô, còn chỉ nguyên các thư Phaolô cũng đã cung cấp 280 bài giảng lễ (homélies), và qua những bài giảng này, Gioan tỏ cho thấy Ngài là nhà chú giải tuyệt vời về các thư Phaolô, đặc biệt là thư Rôma. Tuy nhiên, Ngài nhạy cảm về bài học luân lý hơn là về nội dung tín lý. Và, như thầy của mình là Diodore, Ngài đem chú giải vào mục vụ. Ngài phân tích kỹ lưỡng bản văn dưới ánh sáng những dữ kiện ngữ văn học (philologiques) và tâm lý học, nhưng không đi xa hơn bản văn Hy lạp của bộ LXX, trừ tập Thánh Vịnh, Ngài xác định chặt chẽ nghĩa đen (sens littéral) của bản văn và những thực tại lịch sử chứa đựng trong đó để rút ra bài học trực tiếp cho cử tọa: việc Rebecca nói dối (Kn 27) không phải là một “mầu nhiệm” như nơi Augustin, mà chỉ là một sự kiện đơn thuần.
Cùng với thầy mình, Ngài sử dụng rất hạn chế lối chú giải gọi là ẩn dụ. Tuy nhiên Ngài chấp nhận hình bóng, “tiên trưng” (le type), “Lời tiên báo được nói lên qua các sự kiện”, các biến cố, các sự việc hay các nhân vật, là những điều sẽ tìm thấy thực tại tròn đầy của chúng trong Tân ước: “Những biến cố xảy ra trong Cựu ước là hình ảnh tiên trưng của điều xảy đến trong ân sủng”. Ngài sửa sai cả Thánh Phaolô là người tự cho phép nói đến ẩn dụ về đề tài hai người con của Abraham (Gl. 4, 24): “ở đây, điều là tiên trưng (type) thì Phao lô lại gọi là ẩn dụ (allégorie). Đó không phải là cách sử dụng thông thường từ ngữ này. Điều Phaolô muốn nói là thế này: Câu chuyện ở đây không phải chỉ công bố điều đã rõ ràng. Nhưng nó còn tỏ cho ta biết một số điều khác nữa, từ đó mới có cái tên là ẩn dụ”. Chính dựa trên nền rõ ràng là Antioche đó mà Gioan đã vận dụng Kinh Thánh tối đa để xây dựng đời sống luân lý và đạo đức cho các tín hữu của Ngài.
B. NHÀ LUÂN LÝ VÀ THẦY DẠY ĐÀNG THIÊNG LIÊNG
1. Một nền tu đức về các bậc sống
Người ta đã nói hàng ngàn lần rằng Chrysostome không phải là nhà thần học nhưng là nhà luân lý. Trước hết, trong lãnh vực luân lý, Ngài là một chuyên gia về các bậc sống. Đời sống đan tu, Linh mục, trinh nữ, hôn nhân, góa bụa,… Ngài khởi đầu từ đời sống đan tu, là điều sẽ chiếm một vị trí đáng kể trong tất cả đời sống của Ngài, chứ không chỉ dừng lại ở những khảo luận chuyên biệt, chẳng hạn trong các bài giảng 60 và 70của Ngài về Tin Mừng theo Thánh Matthêu. Với kinh nghiệm về đời sống khổ tu đồng thời với nền văn hóa cổ điển đã được hấp thụ.
Trước hết, Ngài kiên quyết bênh vực người đan sĩ. Sinh ra trong một thành phố đầy dẫy khoái lạc, Gioan bị ám ảnh – trong toàn bộ tác phẩm của mình – về hiểm họa giàu sang gắn liền với tội lỗi nơi con người. Sự cô tịnh là phương thế quan trọng đem lại ơn cứu độ và là con đường bảo đảm nhất. Mọi gia đình cần phải gởi con cái mình tới nơi cô tịch, ít là trong một thời gian. Chúng sẽ tìm gặp được ở đó một sự giáo dục và đào tạo hơn hẳn lối giáo dục trẻ em của Hy lạp. Ngài mời gọi Théodore kiên trì ở đó, Démitrius hay Stéléchius thì hãy tĩnh tâm mà ăn năn hối lỗi, ông Stagire tội nghiệp bị ma quỉ hành khổ và hoàn toàn bị suy sụp thì hãy cố mà hiểu ý nghĩa của thử thách,… trong sự tự do hoàn toàn của mình, người đan sĩ hơn hẳn một ông vua, sánh ngang với các Thiên Thần. Khốn cho kẻ nào chống lại đời đan tu. Quả đúng là người ta có thể trốn vào sa mạc vì lòng khinh chê bản thân hay những người khác. Nhưng thường xuyên hơn, làm đan sĩ là để thay mặt cộng đoàn mà cầu nguyện, mà tiếp đón, mà lo lắng việc truyền giáo. Qua đức khiết tịnh và nghèo khó, đan sĩ là dấu chỉ Nước Trời.
Gioan bênh vực người đan sĩ rải rác trong các tác phẩm, ngược lại chức Linh mục là đề tài cho một cuộc đối thoại dài, được soạn kỹ lưỡng, gồm 6 cuốn, trong đó người linh mục – không phân biệt rõ vớigiám mục – được ca tụng nồng nhiệt về phẩm chức của mình, một phẩm chức đặt linh mục vào “hàng các phẩm trật trên trời”, nhất là qua việc cử hành Phụng vụ Thánh Thể và các bí tích, ca tụng về tác vụ rao giảng đầy đòi hỏi, khiến Linh mục sánh ngang với thánh Phaolô, và về trách nhiệm chăm sóc các linh hồn, vì điều này đặt linh mục lên trên những người sống độc thân khác, trong khi vẫn “lao mình vào cả những công việc của thời đại”.
Tuy nhiên, Gioan là người thực tế: Ngài không dấu diếm những mưu đồ đang bắt tay nhau rình rập các tòa trống ngôi. Linh mục vẫn là một con người. Hai mươi năm sau, Ngài lên tiếng cảnh giác về sự “nguy hiểm lớn lao” của cái trách vụ nặng nề này và khuyên những kẻ bị gánh nặng đó đe dọa thì hãy lo mà trốn tránh.
Khảo luận “Về Đức Trinh Khiết” ca ngợi sự vẹn toàn của thân xác, sự khiết tịnh của tâm hồn, và việc thánh hiến cho Đức Kitô: Trinh khiết là sự khởi đầu đời sống mai hậu. Nhưng Gioan không bao giờ quên thực tế con người và tuyên bố chống lại việc các trinh nữ sống chung cùng nhà với các đan sĩ hoặc với giáo sĩ dù có ý hướng tốt lành nhất – Nhớ lại thư 1 Cor 7, 38, dĩ nhiên Ngài xếp bậc đồng trinh trên bậc hôn nhân, nhưng Ngài đề cập đến bậc sống hôn nhân bằng những từ ngữ thật đáng kinh ngạc. Tuy không còn coi phụ nữ như một “quả bóng da dơ bẩn” như trong tiểu luận “Gởi Théodore”, và đã coi sự kết hợp trong hôn nhân là hợp pháp, nhưng Ngài cũng vẫn chỉ nghĩ tới những “cực nhọc và phiền nhiễm” của hôn nhân, tới những thằng bé thò lò phải lau nước mũi, hay cùng lắm tới việc làm dịu bớt “bản tính đang phát khùng”. Thậm chí Ngài còn mạnh mẽ đả kích lại việc chẳng đặng đừng ấy nữa: có như thế mới dễ dàng an ủi những “góa phụ trẻ” và mời gọi họ, nói chung, “đừng tái giá nữa”. Ở chỗ khác Ngài nói người vợ có tốt chăng là để giúp người đàn ông, để “ông ta có thể chống lại hiểm nguy đang đe dọa”. Nhưng cũng chính trong bản chú giải đó về sách Khởi Nguyên, Ngài đã ca ngợi vợ chồng được kết hợp với nhau như xác với hồn, một sự hòa hợp trọn hảo. Trong bài giảng thứ tư về Ozias, Ngài trình bày thật dài và thật hùng hồn sưu tập Kinh Thánh thật đẹp về những người lập gia đình, chẳng hạn như Phêrô là “người tình si mê Đức Kitô” (…) đã quăng lưới xuống biển và chài lưới loài người, con người đó đã chẳng có một người vợ hay sao? Ở chỗ khác, Ngài còn thấy Đức Kitô và các Thiên Thần tới dự đám cưới của người Kitô hữu nữa. Qua thư Thánh Phaolô gởi người Êphêsô, Ngài ca ngợi tình yêu thương lẫn nhau, hình bóng của Đức Kitô và Giáo Hội. “Ai có được những cái nhìn như thế khi lấy một người đàn bà làm vợ thì không hề kém những người độc thân, ai lập gia đình như thế thì không hề kém người không lập gia đình”. Ngài đã có thể trở thành vị thầy hướng dẫn đường thiêng liêng cho giáo dân.
2. Sự thánh thiện của bậc giáo dân
Gioan không chỉ dành riêng sự thánh thiện cho những người sống độc thân và các trinh nữ, mà Ngài rất đề cao. Lý tưởng Phúc Âm được gởi tới mọi người, trong sự toàn vẹn của nó. Ngài nói: “Thật là một sai lầm khủng khiếp nếu nghĩ rằng người đan sĩ phải sống cuộc đời hoàn hảo hơn, trong khi người khác không phải sống tiết chế (…) Người sống ở đời và người đan sĩ có bổn phận đạt tới cùng một đỉnh trọn lành”. Bậc sống hôn nhân phân biệt họ là giáo dân, nhưng không vì thế mà họ ít được mời gọi hơn đến “các mối phúc thật mà Đức Kitô đã công bố”, “Nếu không thì thế giới sẽ sụp đổ”. Lối sống có khác nhau, nhưng cả họ nữa, họ cũng phải tránh “tính toán lặt vặt” và “làm tất cả vì yêu Chúa”. Không nên giới hạn việc cầu nguyện vào thời gian qui định nhưng “hãy đem lòng khao khát và tưởng nhớ Chúa vào trong mọi công việc của mình”. Như thế “giống như hạt muối”, tình yêu Chúa sẽ là gia vị biến tất cả nên của ăn ngọt ngào dâng lên Chúa. Ngài nói với từng người lời kêu gọi: “Bạn là công nhân ư? Hãy hát thánh vịnh lúc ngồi làm việc. Nhưng bạn không thể hát lớn tiếng ư? Hãy hát thầm trong trí. Bạn có thể ở trong xưởng thợ của mình như trong một đan viện”. Ngài gởi lời kêu gọi đó tới “nguời phụ nữ đang cầm thoi dệt vải (…), tới người đàn ông đang vội vã đến công trường (…), tới người đang may da thuộc. Một người giúp việc, khi không được phép đến nhà thờ, có thể cầu nguyện chăm chú và cầm trí chính trong khi mua sắm, khi đi lại, khi phụ giúp đầu bếp”. Gioan cổ vũ giáo dân đọc Thánh Vịnh: vì phải đương đầu với nhiều nguy hiểm hơn các đan sĩ, họ cần đến Thánh Kinh nhiều hơn. Người giáo dân nên đặc biệt chuẩn bị trang Phúc Âm trước khi nghe giảng giải trong cộng đoàn phụng vụ. Đừng nói là mình không có giờ trong khi bỏ cả bao nhiêu ngày để xem đua ngựa, rồi những lợi, danh phù phiếm, trần tục thì lúc nào cũng sẵn sàng.
Mối lo về sự hoàn thiện cá nhân không phải là tất cả. Gioan muốn người giáo dân cộng tác vào thừa tác vụ của mình: một mình Ngài không đủ. “Nhưng anh em, nếu anh em muốn tham phần đem lại phần rỗi cho nhau, và nếu mỗi người có lòng lo cho một trong những người anh em không được ai đoái hoài tới thì phận sự của chúng ta trong việc xây dựng (thân mình) sẽ tiến triển tốt đẹp. đây là công trình chung của mọi người, có khác biệt thì cũng chỉ tùy theo sự khác biệt giữa các chi thể với nhau mà thôi”. Chúng ta đừng trút hết gánh nặng cho các linh mục, nhưng chúng ta hãy lo cho toàn Giáo Hội như cho một thân mình thuộc về tất cả mọi người. Đó là con đường “Dẫn vào đời sống đạo đức” của Thánh Phanxicô Salê sau này, kể luôn cho phong trào Công giáo tiến hành nữa.
Trong tinh thần đó, các bài giáo lý của Ngài đòi hỏi không những một sự gắn bó của trí tuệ, mà còn hơn thế nữa, một cuộc hoán cải tất cả đời sống, được nâng đỡ bằng những phương thế cụ thể nhất: xét mình hàng ngày, mỗi tháng sửa chữa một lỗi lầm,… Trong số các đòi hỏi thực hành, thì việc làm phúc là điều được nhắc nhở thường xuyên nhất. Nhưng Gioan hiểu nó theo những nghĩa rất khác nhau: “Đừng nói rằng bạn không có tiền”, “giúp đỡ” cũng có giá trị như vàng bạc: Bạn có thể săn sóc ư? Hãy làm đi. Bạn làm thầy thuốc lành nghề ư?Hãy lo cho các bệnh nhân, đó cũng là điều quan trọng”. Tóm lại để thi hành bổn phận thuộc về bậc sống của mình thì vừa phải cầu nguyện vừa phải làm phúc.
Tuy nhiên, việc giúp đỡ người nghèo bằng tiền bạc và bằng sự tiếp đón rõ ràng là trọng tâm lời giảng dạy của Gioan. Đằng sau sự nhấn mạnh này là cả một học thuyết xã hội và một học thuyết về tu đức.
3. Cộng đoàn và sự hiệp thông
a. Người nghèo khổ và người nô lệ
Mọi sử gia đều nêu lên sự chênh lệch trầm trọng về tài sản ở Antioche vào thế kỷ IV và V. Sự giàu sang quá mức tập trung vào tay một số ít người trong khi đa số công dân sống trong cảnh lầm than. Gioan thường bênh vực thợ rèn, thợ giày, nông dân, thợ thuộc da,… là những thành phần làm việc cho xã hội, cho nền kinh tế, trong khi những người giàu có thì Ngài coi như những kẻ vô tích sự. Trong một bài giảng nổi tiếng, Ngài đã vẽ ra một thành phố của những người giàu, là một thành phố không tồn tại nổi và một thành phố của những người thủ công, của người nghèo có thể tự túc được. Những người nghèo, những nạn nhân mới của nạn cho vay nặng lãi và cả một đám đông hành khất bị quyến rũ bởi một hi vọng điên rồ, tất cả đã khiến cho khối quần chúng nghèo khổ, thấp kém không ngừng gia tăng.
Cũng như các Giáo phụ miền Cappadoce, như Ambroise, Gioan đã đứng lên tố cáo sự dữ, và còn hơn các vị đó nữa, Ngài nhắc nhở rằng, trái đất được dựng nên là cho tất cả mọi người. Khẳng định của sách “Khởi Nguyên” được củng cố thêm bởi luận thuyết của phái Khắc kỷ – khuyển nho (cynicostoïcisme) về một cộng đồng phổ quát cùng thân phận, cùng định mệnh, một quan niệm có lẽ thuộc về triết lý phổ thông của thời bấy giờ (koinè philosophique). Ngoài ra, nó còn được củng cố bởi lối sống chia sẻ đồng đều của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong thời gian làm Giám mục, Gioan, cùng với Basile, đã mơ ước một thế giới theo hình ảnh một đan viện, trong đó người giàu tự ý trút bỏ của cải vì người nghèo để cùng đi tới một sự cân bằng khiêm tốn. Theo một sử gia Tây Ban Nha, Antonio Gonzales Blanco, người vừa nghiên cứu lại cách cẩn thận và không thiên kiến về quan niệm “kinh tế và xã hội” (économie et société) nơi Gioan Kim Khẩu, thì vị Giám mục Constantinople có thể đã thực sự đạt tới một quan niệm “cộng sản tông đồ” (communisme apostolique). Đây hẳn là đích điểm, đồng thời là sự vượt qua học thuyết của Ngài về việc bố thí. Dầu sao, Ngài vẫn muốn tránh thái độ cha chú, kể cả (paternalisme) xúc phạm đến phẩm giá người khác. Ngài mời gọi những người có của hãy ngỏ lời với người túng nghèo “xin được giúp một điều gì đó để họ khỏi phải hổ thẹn khi lãnh nhận, như vậy họ sẽ cảm thấy thoải mái, và giữa anh em sự tự do và tín nhiệm sẽ ngự trị”.
Quả là một nỗi ưu tư đáng ngạc nhiên trong thời đại đó.
Những người nô lệ cũng thuộc về cùng một gia đình nhân loại. Một Kitô hữu “đừng bao giờ bắt một người phục dịch riêng cho mình”. Miễn cưỡng lắm Gioan mới chấp nhậncho người ta có một hay hai người giúp việc vì những đòi hỏi của công việc. Nhưng phải giải phóng tất cả những người phục dịch cho chuyện vinh hoa phù phiếm hoặc tốt hơn,trước hết hãy dạy cho họ một nghề để họ có thể sử dụng được cho mình cách hữu ích. “Sự nô dịch không có nền tảng trong bản tính nguyên thủy của con người”. Thiên Chúa đã dựng nên con người tự do. Tình trạng nô lệ là “hậu quả lòng tham vô đáy của con người”, là “hình phạt của tội lỗi”. Nhưng Đức Kitô đã cất bỏ sự chúc dữ đó.
b. Bố thí và Thánh Thể
Từ nay, người nô lệ là “anh em của chúng ta, đã được đổ tràn đầy những điều thiện hảo, là thành phần của cùng một thân mình như chúng ta, hay đúng hơn, người đó là anh em, không phải của chủ mình, nhưng của chính Con Thiên chúa”. Vì cộng đồng nhân loại mà Chrysostome nói tới cũng là một cộng đồng thiêng liêng, được xây dựng trên mầu nhiệm Nhập thể và bí tích Thánh thể: “(Chúa Kitô) hòa nhập vào mỗi một tín hữu nhờ bí tích này. Những kẻ Ngài đã sinh ra thì Ngài nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, Ngài không trao họ cho một ai khác, ngược lại, qua bí tích Thánh thể, Ngài làm cho bạn vững tin rằng Ngài đã mang lấy chính xác thân của bạn”.
Gioan thường trình bày bí tích Thánh Thể như là chóp đỉnh của lòng nhân ái (philanthropie) của Thiên Chúa, là sự trải rộng (expansion) và trải dài liên tục (permanence) của mầu nhiệm Nhập thể, trong đó Đức Kitô trở thành của ăn “tan biến” trong chúng ta, “làm một khối duy nhất với chúng ta”, “làm chúng ta nên thân mình của Ngài”. Thân mình này của Đức Kitô, được làm nên bởi tất cả những ai được mời gọi đến với Thánh Thể, đang dong ruổi trên các đường phố và các công trường. Đức Giêsu Nazareth, Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể và thân mình mà Ngài tạo nên cho mình qua bí tích, chỉ là một. “Chính Ngài đã nói điều đó: “Chính là Ta”. Bàn thờ nơi diễn ra hi tế của Đức Kitô và bàn thờ nơi đức ái được thể hiện, có phẩm giá ngang nhau:
“Bạn muốn thấy bàn thờ Đấng hay thương xót ư? (…) Bàn thờ đó được làm nên bằng chính những chi thể của Đức Kitô, và chính thân mình của Thầy Chí Thánh dùng làm bàn thờ cho người (…). Bạn tôn kính bàn thờ (Thánh Thể) vì bàn thờ này đón nhận thân mình của Chúa Kitô. Nhưng bạn lại làm nhục bàn thờ kia, là thân mình của chính Đức Kitô. (…) Bạn có thể thấy một bàn thờ như thế ở khắp nơi ngoài đường phố, trên các công trường, hằng giờ bạn có thể dâng hiến tế ở đó vì cũng ở đó hiến vật được thánh hiến”.
Bổn phận của các Kitô hữu là mặc y phục cho thân mình đó, là nuôi dưỡng, là tiếp nhận thân mình đó nơi các chi thể. Giữa Đức Kitô và người nghèo, giữa những hi sinh dâng cho Chúa và những hi sinh cho người nghèo, có sự đồng nhất thần nhiệm.
Ngoài ra, Gioan không bận tâm đến người nghèo khổ, bất hạnh có thực sự kết hiệp với Đức Kitô qua việc hiệp lễ không. Ngài chỉ trích các Kitô hữu điđiều tra về những người nghèo: “Họ lừa đảo và vô ơn phải không? thế thì bạn sẽ được thưởng công nhiều hơn nếu bạn tiếp đón họ nhân danh Đức Kitô”. Mọi người cùng khổ đều là Đức Kitô lang thang và trần trụi. Trước khi làm đẹp cho lừa, ngựa của mình, thậm chí trước khi trang hoàng nhà thờ, thì cần phải chăm sóc cho Đức Kitô đang luôn đau khổ: “Đền thờ này còn tôn nghiêm hơn đền thờ kia”. Và hàng chục trang với giọng điệu đả kích đanh thép tiếp nối nhau:“Trong khi con chó của ngươi ăn uống phủ phê, thì Đức Kitô bị cơn đói cào cấu”. “Có chỗ dành riêng cho xe ngựa, xe bò, nhưng dành cho Chúa Kitô lang thang, thì không hề có”. “Dù cho đó là nơi la lừa và tôi tớ ở, bạn hãy cứ tiếp nhận Đức Kitô”.
Việc thông hiệp vào bí tích Thánh thể dẫn đến việc hiệp thông thực sự với tất cả mọi anh em đồng loại trong thân mình Đức Kitô, đặc biệt là với những anh em ngèo túng, trần trụi nhất.
Như vậy, ta thấy nhân đức làm phúc bố thí mang lấy một chiều kích khác hẳn. Bánh chia sẽ chính là bàn tiệc Thánh Thể. Lòng nhân ái của Thiên Chúa và tình âu yếm vô biên của Người được nối dài ngang qua thân mình Chúa Kitô. Và nếu như thế thì cái “quan điểm duy luân lý” mà người ta gắn vào tên của Gioan như là dấu hiệu của sự chật hẹp, không thể bay cao, lại chứa đựng phong phú một nền linh đạo cao siêu nhất. Tha nhân, đó chính là Đức Kitô hằng ngày bên cạnh chúng ta, trong hình hài những người bị bỏ rơi không ai đoái hoài. Kim Khẩu sẽ gào thét điều gì nếu Ngài sống vào ngày hôm nay?
Trong chiều hướng ấy, ta có thể trích thêm bài giảng của Gioan Kim Khẩu về Tin Mừng theo Thánh Matthêô dưới đây:
KHI TRANG TRÍ ĐỀN THỜ, ĐỪNG HỮNG HỜ VỚI NGƯỜI ANH EM [20]
Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớkhinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi: đừng có thái độ này là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải lạnh giá và trần trụi. Bởi vì Đấng nói Đây là Mình Thầy và đã dùng lời của mình mà thực hiện việc đó, thì cũng chính là Đấng nói: Các người đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy. Thân thể Chúa ở đây không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng, còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình.
Chúng ta hãy học cho biết suy nghĩ chín chắn sâu xa mà tôn kính Đức Kitô như Người muốn. Thực vậy, Đấng chúng ta tôn kính sẽ rất hài lòng khi chúng ta tôn kính theo cách người chọn chứ không phải theo cách chúng ta nghĩ. Ông Phêrô tưởng là ông tôn kính Chúa khi ngăn cản không cho Chúa rửa chân cho ông; nhưng muốn như thế chẳng phải là tôn kính, mà lại là điều trái ngược hẳn. Bạn cũng thế, hãy bày tỏ lòng tôn kính Người theo cách mà Người đã truyền dậy khi ra luật cho bạn: đem của cải phân phát cho người nghèo. Thiên Chúa chẳng cần bình vàng chén bạc, nhưng cần những tấm lòng vàng.
Tôi nói thế không phải để ngăn cản việc dâng cúng, nhưng điều tôi xin là đồng thời với việc dâng cúng hoặc trước khi dâng cúng, hãy làm phúc bố thí đi. Chúa vui nhận của dâng cúng, nhưng Người vui hơn nhiều khi nhận của làm phúc. Khi dâng cúng, chỉ có người dâng được lợi; còn khi làm phúc, cả người nhận cũng được lợi nữa. Một đàng, xem ra dâng cúng là dịp để phô trương; nhưng đàng này, trao tặng chỉ để làm phúc và bày tỏ tình thương.
Quả vậy, ích lợi gì khi bàn của Đức Kitô thì chất đầy những bình vàng đang lúc chính Người lại phải chết vì chẳng có gì ăn? Trước hết hãy cho kẻ đói ăn no đã, rồi còn lại bao nhiêu sẽ đem trang hoàng cho bàn của Người. Sao bạn lại bỏ vàng ra làm chén lễ mà không chịu cho lấy một chén nước? Bạn đem khăn vàng ra trải mặt bàn cho Người làm chi vậy, đang khi chính Người cần mảnh vải che thân, bạn lại không cho? Làm thế thì ích lợi gì? Bạn thử nói cho tôi nghe xem: nếu thấy Người đang cần của ăn mà không có, bạn bỏ mặc Người, rồi cứ đem vàng ra dát lên bàn của Người, liệu Người biết ơn bạn, hay đúng hơn, lại không nổi giận với bạn sao? Rồi chi nữa: nếu bạn thấy Người mặc đồ rách bươm, toàn thân rét cứng, bạn chẳng nghĩ gì đến quần đến áo của Người, cứ lo xây cho Người hết cột vàng này đến cột vàng khác, mà bảo làm như vậy là tôn kính Người sao? Người lại chẳng nghĩ là đang bị nhạo báng và bị xỉ nhục đến cực độ sao?
Cũng hãy suy nghĩ điều này về Đức Kitô khi Người lang thang đó đây làm thân lữ khách, không cửa không nhà: bạn không đón Người vào nhà bạn, cứ lo lát nền nhà cho đẹp, lo trang trí tường vách, trang trí các đầu cột, lấy dây bạc treo đèn; còn chính Người đang bị xiềng xích trong tù, ghé thăm Người thôi, bạn cũng không chịu. Tôi nói những chuyện trên đây không có ý ngăn cản bạn trang hoàng, nhưng để đồng thời với việc trang hoàng, bạn còn biết lo làm những việc khác nữa. Thậm chí tôi còn khuyên bạn làm phúc bố thí trước khi làm những việc khác. Quả thật, không hề có ai bị kết tội vì đã không trang trí nhà thờ, nhưng ai chểnh mảng việc làm phúc sẽ phải xuống hoả ngục, chịu lửa không hề tắt và chịu cực hình dành cho ma quỉ. Vì thế, trang trí ngôi nhà thì cũng đừng hờ hững với người anh em sầu khổ, vì người anh em ấy còn đáng giá hơn cả đền thờ.
C. CÁC TÁC PHẨM CỦA THÁNH GIOAN KIM KHẨU
1. Tác phẩm diễn giảng
Như chúng ta đã thấy ngay khi thụ phong linh mục tại Antioche, giảng thuyết đã là một trong những nhiệm vụ truyền giáo chính thức của Thánh Gioan. Mười hai năm ở Antioche cũng như 6 năm tại Constantinople, Thánh Nhân đã dành cho sứ mệnh thuyết giáo một điạ vị ưu tiên trong đời sống linh mục và Giám mục. Thánh Nhân giảng quanh năm, đặc biệt trong mùa chay, hầu như Ngài giảng hằng ngày; còn thường ra Ngài chỉ giảng tuần một lần vào Chúa nhật.
Theo như biệt hiệu vinh dự “Kim Khẩu” đã được nhắc nhở qua các thời đại, thì Thánh Gioan thực là một nhà giảng thuyết thiên tài. Thực ra, Thánh Nhân đã dầy công học hỏi về tu từ, nhưng Ngài chỉ coi đó là những quy tắc giả tạo. Với Ngài, ta có thể nói được rằng khoa hùng biện thực thụ đã chế nhạo những quy tắc của khoa hùng biện cổ điển. Rất tự nhiên, Ngài biết hấp dẫn và quan tâm đến cử tọa. Toàn bộ giảng thuyết của Thánh Nhân đã biểu lộ một tài nghệ diễn giảng lỗi lạc thậm chí ta không sợ quá lời khi đem liệt Ngài vào hàng những nhà giảng thuyết trứ danh nhất trong quá trình văn nghệ thế tục cũng như tôn giáo. Từ khi lên Ngai Giám mục Constantinople, Thánh Nhân ít khi biên soạn trọn bài trên giấy tờ; nhưng Ngài đã được bẩm sinh một tài ứng khẩu đặc biệt, thậm chí theo những tài liệu của các tốc ký viên ghi chép đôi khi ta có cảm tưởng đó là những bài hoàn toàn được biên soạn trước khi giảng. Lời lẽ của Ngài linh hoạt: qua những danh từ Ngài dùng luôn luôn tỏ hiện những nhiệt tính sâu sắc của tâm hồn Ngài như: phẫn nộ trước những bất công, khát vọng được thấy giáo dân sống sâu xa trong tinh thần Kitô giáo và tình âu yếm của vị mục tử với đoàn chiên. Văn thể của Ngài không độc điệu; luôn luôn được đổi thay: lúc trang nghiêm, khi thân mật, lúc uyển chuyển, tha thiết, khi bị lôi cuốn theo đà phẫn nộ. Không có gì trừu tượng: mỗi câu đều súc tích nhiều hình ảnh sống động và nhiều thí dụ dẫn khởi.
Nhưng cái đặc sắc nhất trong khoa hùng biện của thánh Gioan Kim Khẩu trước tiên không cốt ở phương diện văn chương, nhưng ở phương diện công bố Tin Mừng và truyền giáo của lời Ngài.
Đối với Ngài vấn đề quan trọng độc nhất là sự kiện toàn và sức tiến bộ về luân lý và tôn giáo của cử tọa. Giữa Thánh Nhân và thính giả có một sự hợp nhất mật thiết trong tình ái. Như thợ điêu khắc trên đá, Ngài nghiêng mình xuống để đục đẽo, tìm tòi, làm nổi lên và biến đổi,… Thánh Nhân chỉ mong ước một điều: hoán cải và giáo huấn quần chúng. do đó đường lối luân lý, cách thế áp dụng lời giảng thuyết của Ngài khác xa với thánh Grégoriô thành Naziance hay thánh Grégoriô thành Nysse, và cả thánh Augustinô. Thực ra xét tổng quát, lối giảng thuyết của Thánh Nhân cũng bao hàm một phần chú giải và tín lý nhưng vẫn luôn luôn mật thiết dính liền với bài học luân lý; chính điểm sau này đã tạo nên thành phần chính của bài giảng. Vả lại, cả trong phần tín lý và lý thuyết, Thánh Nhân vẫn cố gắng cho thính giả dễ hiểu: Ngài trình bày minh bạch, đơn sơ trong một lối văn thích hợp với mọi người. Còn phương diện khích lệ, tức điểm can hệ nhất của Thánh Nhân, đã được gói ghém trong một lối văn sáng sủa, thân mật, tha thiết. Luôn luôn Ngài tỏ ra gần gũi cử tọa. Ngài tỏ hiện phụ tính, tình âu yếm và thường ra cả tình huynh đệ:
“Dù chỉ xa cách anh em một ngày, nhưng Cha đã xao xuyến, nóng lòng khác chi đã vắng anh em hằng năm trời. Bằng vào tình cảm mà anh em đã cảm thấy, anh em sẽ nhận rõ Cha không nói dối đâu”.
Thánh Nhân vui sướng khi được cử tọa để ý tới: “Anh em khác chi bầy nhạn non đang mong đợi mẹ công mồi về mớm”.
Nhưng giả như ít thính giả Ngài cũng không cụt hứng: “Dù có người nghe hay không, diễn giả vẫn phải giảng khác chi nước chảy liên lỉ không bao giờ múc cạn được”.
Hình như tại Antioche vì muốn gần gũi cử tọa nên Thánh Nhân không đứng trên tòa riêng để giảng, Ngài thường xuống tận chỗ của người đọc sách. Nếu có thấy đổi giọng văn, có xử dụng nhiều hình ảnh cụ thể, thì không phải Ngài muốn cầu danh nhưng chỉ để trở nên mọi sự cho mọi người để thu hút sức chú ý của những người đãng trí hay tâm hồn thô sơ: “Nếu Cha có đề cập tới nhiều điều trong mỗi bài giảng, có đổi thay vấn đề luôn luôn, thì chẳng qua cũng chỉ để cho ai nấy đều tìm được ngôn ngữ và thâu được chiến lợi phẩm riêng cho mình, và để không một ai ra về tay không”.
Nhưng dù âu yếm cử tọa như Mục tử nhân hiền, Thánh Nhân không quá nghe theo họ, Ngài biết yêu sách, và biết nói không phải một cách tổng quát, nhưng một cách trực tiếp, minh bạch, đến nỗi rủi ra có thể làm phật ý một số thính giả, Thánh Nhân không sợ những kẻ quyền thế: Ngài biết công kích mãnh liệt những nết xấu của họ như: làm đỏm khoe khoang, xa xỉ của nữ giới và tính hà tiện kiêu kỳ của giai cấp cường hào. Giọng nói của Ngài có khi hơi có tính cách mạnh mẽ, nhất trong những khi nói đến tiền của. Ta phải tin chắc rằng một phần lớn những phiền muộn đã sẩy đến cho Ngài đều phát sinh do lời giảng thuyết của Ngài, bởi chưng biết bao lần giai cấp quyền quý và cả nữ hoàng đã phải ra về với một tâm hồn tức bực vì lời giảng thuyết của Ngài. Thực ra Thánh Nhân vẫn yêu thương họ, nhưng Ngài muốn hoán cải họ thôi.
LIỆT KÊ NHỮNG TÁC PHẨM GIẢNG THUYẾT CỦA THÁNH NHÂN
Những bài giảng có 6 loại:
1/- Giảng theo hoàn cảnh
– nhân dịp thụ phong,
– về vụ ảnh tượng (21),
– về vụ sụp đổ của Eutrope (2)
– trước cuộc lưu đày lần I
– sau cuộc lưu đày lần I
2/- Giảng có màu sắc bút chiến
– Phản đối môn phái Anoméens; về bất khả đạt tính của Thiên Chúa trong đó Ngài bảo vệ siêu việt tính của Thiên Chúa và đồng bản tính của Ngôi cha cùng Ngôi Con.
– Phản đối những người Do thái Kitô hữu: công kích một số Kitô hữu vẫn tiếp tục tham dự các ngày lễ của người Do thái.
3/- Giảng về luân lý
– Một số tập giáo lý về nhiệm tích rửa tội.[21]
– Những diễn văn về ngày mồng một tháng giêng theo lịch La mã: nhân dịp những tệ nạn về những ngày lễ của năm mới.
– Những bài giảng về lòng sám hối
– Những bài giảng về rạp xiếc và kịch trường
– Những bài giảng về cơn cám dỗ
4/– Giảng về những mùa phụng vụ
– Giáng sinh, Hiển Linh,
– Thứ năm và thứ sáu Tuần Thánh,
– Phục sinh, Lên trời, Linh giáng.
5/– Những bài tán từ:Đặc biệt bảy bài tán dương Thánh Phaolô
6/– Những bài diễn giải:
Chúng ta còn giữ được chừng bảy trăm bài. Ta tạm liệt kê một số:
– Diễn giải Thánh vịnh (60 thánh vịnh),
– Diễn giải Phúc Âm thánh Matthêô (90 bài),
– Diễn giải Phúc Âm thánh Gioan (88 bài),
– Diễn giải các thư thánh Phaolô (250 bài).
Dưới đây là một vài đoạn rút trong các bài giảng của Thánh Nhân. Những đoạn đó tỏ hiện niềm khát vọng muốn làm ơn lành cho thính giả, đồng thời cũng tỏ hiện đặc tính hấp dẫn của lời Ngài. Những đoạn đó cũng biểu lộ niềm thông cảm tha thiết giữa thính giả và diễn giả:
– “…Chỉ một người cũng đủ hoán cải cả một dân tộc khi người đó chan chứa nhiệt thành”.
– “… Nếu xin anh em tiền của, anh em chắc sẽ cho Cha phải không? Khi Cha lâm nguy cùng độ, nếu có thể được anh em cũng sẽ cắt thịt cho Cha… này! anh em hãy nghĩ đến nguy cơ Cha sắp gặp phải: giả thử Cha bị tố cáo trước mặt Thiên Chúa là không thể hoán cải nổi anh em! Vậy anh em hãy cải tân đi, để Thiên Chúa đối sử nhân hậu với Cha”.
– “… Nếu không sợ thiên hạ tố cáo là phô trương, Cha sẽ khoe anh em bên trong ngôi nhà của Cha. Anh em sẽ thấy Cha than khóc khi nhìn anh em sa ngã, sẽ thấy Cha hoan lạc khi thấy anh em tiến bộ. Mong chi anh em sẽ được cứu rỗi. Thà rằng Cha bị tố cáo vì không chu toàn nghĩa vụ còn hơn thấy anh em sẽ phải hư đi, bằng chứng là để cứu vãn anh em Cha đã không bỏ qua một việc gì”.
– “… Cha muốn biết xem anh em có cẩn thận nghe lời Cha nói với anh em chăng, vì sợ rằng cha đã gieo hạt trệch bên luống cầy. Bởi chưng, nếu tin chắc ở sức chú ý của anh em thì lời giáo huấn của Cha sẽ có đà và được phấn khởi hơn nhiều. Thực vậy, Cha sẽ giảng cả khi không có người nghe vì sợ thượng lệnh của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa phán: hãy rao giảng cho dân này, và nếu họ không chịu nghe thì ngươi cũng không có tội gì”. Nhưng nếu biết chắc lòng nhiệt thành và sự cần mẫn của anh em, thì Cha sẽ không giảng nguyên vì sợ sệt đâu mà còn vui sướng nữa”.
– “… Cả khi giả thử Linh mục có biệt tài tự nhiên về nghệ thuật giảng thuyết (một điều rất hiếm) Ngài vẫn bó buộc phải nghiên cứu không ngừng. Không phải năng khiếu tự nhiên nhưng là sự học vấn đã đào tạo nên nhà giảng thuyết. Và cả khi người ta tới đỉnh của khoa hùng biện, thì khoa hùng biện lập tức cũng sẽ trở nên trống rỗng nếu không được duy trì bằng một cuộc nghiên cứu liên lỉ”.
– “… Vậy, ai đã nhận trọng trách giáo huấn người khác không được quá chú trọng đến những lời tán dương của quần chúng, và cũng không được thất vọng nếu quần chúng không ca tụng. Một khi đã giảng thuyết với mục đìch làm hài lòng Thiên Chúa (đây là quy tắc và là mục đích độc nhất của một chức nghiệp quqn trọng nhất chứ không phải những tiếng hoan hô hay những lời tán dương) và nếu sau khi đã tìm cách làm hài lòng Thiên Chúa, Linh mục vẫn còn được hài lòng thiên hạ, thì Ngài cũng không phản đối những lời tán dương của họ đâu. nếu những lời tán dương đó không xẩy đến, và chính Ngài cũng không tìm kiếm, không phiền muộn, thì phần thưởng trọng đại nhất cho công việc của Ngài đó là lương tâm minh chứng rằng Ngài đã xuất toàn lực để giảng thuyết nguyên với mục đích làm hài lòng Thiên Chúa”.
2. Những thiên khảo luận
– Khuyên Theodore sau cuộc sa ngã:Đây là hai thư viết cho người bạn đã từ giã đời tu dòng để hồi tục. Thánh Nhân khuyên bạn trở về với lòng sốt sáng ban đầu và đoạn tuyệt với thiếu nữ Hermione, người mà chàng đã mê cảm.
– Hai tác phẩm đề cập đến sự thống hối: Tác giả đàm đạo với Démétrios và Stelechios, Ngài nói một cách thâm tín và mạnh mẽ về lòng thống hối, và diễn tả tâm hồn của David và Phaolô như hai tấm gương sáng lạn về lòng thống hối của Kitô giáo.
– Ba tác phẩm phản đối những đối thủ của đời tu dòng: Thời Thánh Gioan chẳng những lương dân không hiểu biết sinh hoạt tu dòng, mà ngay cả những bậc phụ huynh công giáocũng cản trở không cho con cái sống đời tu dòng. Với niềm thâm tín chân thành và lối biện chứng chắc chắn, Thánh Nhân đã minh chứng sự cao thượng và vẻ diễm lệ của sinh hoạt tu dòng. Tác phẩm thứ hai viết cho lương dân. Tác phẩm thứ ba viết cho người trong gia đình công giáo.
– Đối chiếu giữa hoàng đế và vị tu dòng.
– Thiên khảo luận về chức Linh mục:Xin xem phần sau: Thánh Gioan với chức Linh mục.
– Những văn phẩm về giáo dục con em và về đức trinh khiết:
+ Về hư danh và giáo huấn con em, (SC.188)
+ Về đức trinh khiết,
+ Gởi cho một góa phụ,
+ Về đức nhẫn nại trong cảnh góa bụa,
+ Hai thiên tiểu luận đề cập đến những quy luật cấm việc sống chung giữa hai giới nữ trinh và giáo sĩ.
– Một số văn phẩm minh giáo:
+ Phản đối Julien và lương dân,
+ Phản đối người Do thái và lương dân: Đức Kitô là Thiên Chúa.
– Mấy tác phẩm đề cập đến đau khổ:
+ Ba tác phẩm viết cho Stagire, một vị tu dòng đang bị cơn bệnh tâm não hành hạ. Thánh Nhân quảng diễn vai trò quan phòng của đau khổ qua những tấm gương rút trong Thánh Kinh từ Ađam đến thánh Phaolô. Thánh Nhânkhuyên nên dùng việc làm như là phương dược để chữa bệnh phiền muộn.
+ Hai thiên khảo luận đề cập đến sự đau khổ với mục đích biện hộ cho Thiên Chúa quan phòng.
3. Thơ tín
Muốn nghiên cứu sâu xa về các thơ của Thánh Gioan ta nên đọc lại bài tựa của tác phẩm: “thơ gởi Olympias” trong bộ “Sources chrétiennes” số 13. Không kể một số thư khảo luận ta đã có dịp nói trên, đa số các thơ của Thánh Nhân ta còn giữ lại đều được viết trong thời lưu đày 404-407. Ta quen phân chia những thư đó làm bốn loại:
a/. Thơ có tính cách lịch sử: Viết cho Giám mục hay bạn hữu để đưa tin về đời sống của Thánh Nhân hay đời sống của địa phận Ngài. Những thơ trứ danh nhất là hai thơ viết cho Đức Innocent I để xin hỗ trợ.
b/. Thơ ủy lạo và linh hướng: Trong những thơ này, ta nên để ý đến 17 thơ viết cho Thánh Olympias, một nữ trọ tá ở Constantinople. Tình bạn giữa vị Thánh nữ trợ tá này và Thánh Nhân rất trong sạch và thâm sâu khác chi tình bằng hữu giữa Thánh Phanxicô Salê và Thánh Jeanne de Chantal.
c/. Thơ giới thiệu:Xin một đặc ân, một địa vị hay sự giúp đỡ cho chính người mang thơ.
d/. Thơ thân mật: Thường là những lời lẽ vắn vỏi để cảm ơn những ân huệ hay một sự nâng đỡ đã được.
D. THÁNH GIOAN KIM KHẨU TRƯỚC HAI VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA THỜI ĐẠI
1. Thánh Gioan Kim Khẩu và vấn đề xã hội: Thái độ phải có đối với tiền của
Ngoài Chúa Giêsu ra, Thánh Phaolô là bậc đại tôn sư và là ngươi gợi hứng phong phú của Thánh Nhân. Thế nên ta không ngạc nhiên khi thấy Thánh Gioan đã dành cho đức bác ái một địa vị ưu tiên trong khi thi hành nghĩa vụ tông đồ và giảng thuyết. Đức bác ái Thánh Nhân truyền bá nơi đây, không phải đức bác ái có đặc tính lý thuyết, không thể thực hiện nổi nhưng là đức bác ái thực tiễn và cụ thể.
Ở Antioche cũng như ở Constantinople, sự tương phản giữa vẻ xa hoa phi thường của giới giầu sang và cảnh tang thương của đa số quần chúng đã là một gương xấu mà Thánh Nhân không thể nào chịu được. Qua các bài giảng Thánh Nhân thường diễn tả cảnh xa hoa của phái quyền quý, nhất là giới phụ nữ với một giọng tức bực chua cay. Ngài không ngớt công kích thói hà tiện của lớp người giầu sang: “Kẻ giầu không có chi, nếu hắn không nhận được mọi sự; Kẻ giầu không đáng là người; Gương mặt hắn minh chứng thú tính trong con người hắn. Ngay loài lục súc còn kém tàn nhẫn và nanh vuốt của chúng cũng kém nhọn sắc hơn!”.
Tương phản với phái phú quý vô nhân đạo, ta thấy Thánh Nhân diễn tả số phận đáng thương của giai cấp yếu hèn đặc biệt giới nông thôn: “Suốt đời họ phải làm việc không ngơi, luôn bị trói buộc trong những công việc nặng nhọc khác chi thân phận lừa ngựa. Người ta coi thân xác họ kém cả gỗ đá. Không cho họ nghỉ ngơi bao giờ. Đất ruộng họ tốt hay xấu, thuế má vẫn bị chịu cao. Nào, ta có thể quan niệm được nỗi đau khổ nào sánh với nỗi đau khổ của họ khi thấy họ trong những ngày cuối đông phải bận bịu với những công việc nặng nhọc; sức lực tiêu hao vì rét lạnh, gió mưa và thức đêm, thế mà vẫn trở về với hai bàn tay trắng và nợ nần vẫn dan díu hoài. Họ run rẩy trước những hình phạt, nạn thuế má và cảnh bóc lột của những viên quản lý”.
Trước những tệ lạm đó thánh Gioan tỏ ra cương quyết và nghiêm khắc. Đối với Ngài tư sản hình như bị coi như một hành vi bóc lột. Nếu tự nó tư sản không nhất thiết là tội thì ít ra cũng phải kể là hiệu quả của tội: “Tất cả mọi khổ thống của chúng ta đều phát sinh do câu nói lạnh lùng: “Của anh và của tôi”. “Chính việc tập trung tài sản còn đúng luật tự nhiên hơn quyền sở hữu”. “Omnis dives iniquus aut heres iniqui”.
Thực ra thánh Gioan không phải là một nhà lãnh tụ xã hội: Ngài không muốn thúc đẩy giai cấp nghèo đấu tranh với giai cấp giầu nhưng Ngài muốn người giầu ý thức được đức bác ái và ra tay làm phúc: “Nhiều người tố cáo Cha hay tố cáo kẻ giầu sang, nhưng sở dĩ như vậy là vì họ luôn luôn ức hiếp những người nghèo. Phải, Cha phản đối giai cập giầu sang, nhưng không phải vì họ giầu có mà vì họ tiêu xài của không đúng phép”.
Ở thời đại chúng ta việc bố thí được coi như một phương pháp lỗi thời, vô hiệu và thiếu tôn trọng nhân vị kẻ nghèo. Quan niệm như vậy có một phần đúng, nhưng thời thánh Gioan thì đó là phương pháp độc nhất để giải quyết vấn đề xã hội. Thế nên cũng như thánh Basile, Thánh Nhân thực là một vị tông đồ nhiệt thành của việc bố thí. Thánh Nhân thiết lập nghĩa vụ bố thí trên việc đồng hóa Chúa Kitô với người nghèo:
“Chúa Giêsu nói với người giầu: Thực ra, Ta có thể tự lực mưu sinh nhưng Ta thích hành khất lang thang, thích giơ tay trước cửa nhà bạn để xin cấp dưỡng. Chính vì yêu bạn mà Ta thi hành như vậy. Thế nên Ta ưa thích mâm bàn của bạn khác chi những bạn hữu của bạn. Ta lấy làm vinh dự vì được tiếp nhận nơi đó và trước mặt thiên hạ Ta sẽ lớn tiếng ca tụng bạn, sẽ khoe để mọi người biết bạn là người cấp dưỡng Ta”.
Hoặc câu:
“Điều Ta sắp nói với các bạn thật chua sót và kinh khủng, nhưng Ta cũng phải nói. Vậy ít ra các bạn hãy đặt Thiên Chúa ngang hàng với những người nô lệ của bạn. Theo di chúc để lại các bạn vẫn có thói quen phóng thích các nô lệ, nhưng bây giờ Ta xin các bạn hãy giải phóng Chúa Kitô khỏi cảnh đói khát, lầm than, tù đầy và trần truồng”.
Thánh Gioan thích đưa ra những lời khuyên thực hành, đơn thật và cụ thể. Đối với giai cấp giầu sang, Ngài thôi thúc họ ra tay cứu độ kẻ hành khất ngoài đường, phân phát thức ăn thừa, quần áo cũ cho kẻ cùng khổ, và trong gia đình nên tổ chức những ống tiết kiệm giúp họ; với giới lang y, Thánh Nhân khuyên họ hãy săn cóc người nghèo cách nhưng không. Và với mọi người, Ngài khuyên nên cho người nghèo khó đến trú chân:
“Đức bác ái làm ích cho người làm ơn lẫn kẻ chịu ơn. Người nghèo khó là người bảo vệ chúng ta trước sức mạnh của quỉ thần khác chi binh sĩ đương đầu với dân man di. Vậy tùy khả năng, ai nấy trong anh em nên có một phòng trọ trong gia thất, nên dành riêng một buồng cho khách trọ, nghĩa là cho Chúa Kitô. Anh em nên trao trách nhiệm đó cho một tên đầy tớ và đừng ngại chọn tên đầy tớ tốt nhất để thi hành việc đó, cũng đừng ngại tiếp đón và săn sóc người hành khất, kẻ tàn tật trong nơi đó. Chẳng vậy, nếu anh em từ chối việc hy sinh đó, nếu anh em không muốn dẫn La-gia-rô vào gia thất thì ít ra hãy tiếp đón ông trong chuồng ngựa. Phải anh em hãy tiếp nhận Chúa Kitô trong chuồng ngựa. Có lẽ anh em run sợ, nhưng khước từ không mở cửa cho Chúa còn đắc tội hơn thế nhiều”.
2. Thánh Gioan và chức linh mục: cải tổ hàng giáo sĩ
Ngay trước khi thụ phong phó tế, Thánh Gioan đã viết một thiên khảo luận về chức Linh mục: đây là một trong những kiệt tác tu đức của Linh mục mà mỗi vị nên có trong tủ sách riêng hay ít ra phải đọc một lần. Tác phẩm khá lớn, gồm 6 cuốn và được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa Thánh Nhân và Basile, bạn Ngài.
Cuốn thứ nhất là một bài nhập đề dài tác giả giới thiệu mình và Basile với độc giả. Ngài tường thuật ơn Thiên triệu tu dòng của Ngài và đồng thời nói rõ y muốn tu dòng đó đã bị thân mẫu cản trở ra sao. Sau đó, Thánh Nhân kể lại mánh lới Ngài đã dùng để từ chối chức Giám mục mà người ta muốn cưỡng bắt và phong chức cho Ngài và để thay vì tiến cử Ngài, người ta sẽ tiến cử bạn của Ngài là Basile.
Cuốn thứ hai đề cập đến vẻ cao sang và trọng trách của Linh mục:
“Người ta chỉ được chọn lên phẩm chức cao trọng đối với những ai đặc sắc và trổi vượt quần chúng về nhân đức khác chi Saolê đã nhờ thân vóc mà vượt hẳn dân tộc Ngài. Tôi biết nói chi? Không phải chỉ nguyên vì tầm vóc mà các vị đó cao sang hơn mọi người như Saolê đâu, nhưng còn vì giữa con người và các vật thiếu lý trí khác nhau thế nào thì giữa mục tử và đoàn chiên cũng như vậy, cần chi phải nhiều lời vì rằng trách nhiệm của Linh mục nặng hơn nhiều.
Người mục tử mất chiên vì sói rừng, đạo tặc, ôn dịch hay một lý do nào khác, có lẽ hắn sẽ thắng lợi trong việc minh oan trước mặt chủ, hoặc nếu có bị kết tội thì hình phạt cũng chỉ là đền tiền thôi. Ngược lại, vì đã được Thiên Chúa trao phó các linh hồn, nghĩa là đoàn chiên thiêng liêng của Chúa Kitô nên Linh mục sẽ không phải lấy tiền bạc nhưng lấy linh hồn để bồi thường những chiên thất lạc”.
Linh mục có nghĩa vụ chữa các căn bệnh của tâm hồn và tập trung tất cả những phần tử xa lạc vào thân thể của Giáo hội.
Trong cuốn thứ ba, Thánh Nhân vẫn tiếp tục đề cao ơn Thiên Triệu của Linh mục. Ơn Thiên Triệu này cao đẹp hơn cả nghĩa vụ Vua Chúa hay Cha mẹ. Nó căn cứ trên một đời sống đẹp đẽ hơn cả đời sống các thiên sứ:
“Thực ra, Linh mục đã thi hành nghĩa vụ nơi trần thế, nhưng địa vị của Linh mục lại ở trên trời. Không phải người trần, thiên sứ, thượng đẳng thần hay một uy lực thụ tạo nào đã ban địa vị đó cho Linh mục, nhưng chính Thánh Linh đã ban cho các hữu thể có thân xác được phép mơ ước cho bản thân cái sứ mệnh của các thiên sứ. Thế nên, Linh mục cũng phải trong sạch khác chi các ngài đang sống giữa muôn Thiên sứ trên trời”.
Nơi vị tư tế Do thái, tất cả đều đã gợi lên một niềm sợ hãi kính cẩn và một mối kinh hoàng thánh thiện: nào là những chuông nhỏ, những trái lựu quanh tấm áo dài, nào là những viên ngọc lóng lánh trước ngực và trên vai, nào là chiếc vương miện, tấm áo dài lê thê, những lá vàng và nơi cực thánh mà ngài tiến vào một mình cùng với vẻ trầm lặng uy nghiêm của nơi đó… Dầu vậy nếu nhìn ngắm vị linh mục dưới chế độ ân điển, chúng ta sẽ bị một nỗi sợ, một sự kinh hoàng khác xâm chiếm, bởi chưng bên cạnh vẻ vinh quang của linh mục, thì vẻ huy hoàng của vị tư tế không thấm vào đâu (2 Cr 3, 10):
“… Chính các Linh mục phát sinh chúng ta trong ân điển và sinh hạ chúng ta cách thiêng liêng trong phép Rửa. Chính các Ngài khoác Chúa Kitô trên chúng ta; các Ngài liệm xác chúng ta cùng với Chúa trong mồ, cho chúng ta sống lại trong nhiệm thể Chúa, làm Chúa Kitô trở nên đầu chúng ta và chúng ta biến thành chi thể Ngài. Thế nên chúng ta tôn trọng các vị hơn cả Vua Chúa, và quý yêu, kính trọng các vị hơn cả Cha mẹ chúng ta. Cha mẹ đã truyền thông cho chúng ta cuộc sống tự nhiên, một cuộc sống được cấu tạo do huyết nhục các Ngài. Còn các Linh mục thông đạt cho chúng ta đời sống siêu nhiên, đời sống phát sinh bởi Thiên Chúa; chính nhờ các vị mà chúng ta được ơn tái sinh diễm phúc, được sự tự do chân chính và danh hiệu con Thiên Chúa…”.
Liền ngay đó, Thánh Gioan đề phòng các Linh mục trước hại nguy cơ: kiêu kỳ và tham vọng. Thế rồi, Thánh Nhân phác họa qua những đức tính cần thiết để tô điểm tâm hồn linh mục: đức khôn ngoan sáng suốt và kiên cố, đức nhẫn nại để lướt thắng cơn phẫn nộ, tinh thần vô vị lợi, tính thận trọng và khôn ngoan để dùng vào việc linh hướng những góa phụ và trinh nữ.
Sau đó Thánh Nhân lên tiếng công kích những tệ lạm trong những vụ tiến cử Giám mục và linh mục thường được linh mục và giáo dân bầu lên:
“Chắc bạn muốn tôi phát giác một quang cảnh khác của vụ tranh chấp đầy gian nguy? Được, Ta hãy vén màn lên. Đây chúng ta đang đứng trước một quang cảnh trang nghiêm công khai, trong đó người ta quen tổ chức những vụ tiến cử hàng giáo phẩm. Bao nhiêu giáo dân, bấy nhiêu ngôn ngữ chua cay để công kích những vị ứng cử. Những cử tri chia thành phe đảng. Bạn sẽ chưa từng thấy các linh mục lại bất hòa với nhau hay với vị thủ lãnh trong một đoàn thể các cử tri như vậy. Ai nấy đều có sở thích riêng: người này tiến cử vị này, kẻ kia tiến cử vị khác. Lý do của những vụ chia rẽ, chính là không ai để ý đến điểm độc nhất cần phải để ý: đó là đức tính. Đây là tất cả những lý do định đoạt cuộc tiến cử: “Vị này sinh trưởng trong một gia đình tên tuổi, nên tôi tiến cử Ngài; Vị ứng cử của tôi có một cơ nghiệp kếch sù, Ngài sẽ không tiêu xài đến huê lợi của Giáo hội. Người thứ ba nói: vị tôi tiến cử là người đã chinh phục được, Ngài đã bỏ hàng ngũ đối phương để sang hàng ngũ chúng ta”. Người ta tiến cử vị này là vì thân hữu, tiến cử vị kia vì là bà con, tiến cử vị khác vì khéo nịnh hót bạn... Nhưng họ có những đức tính phải có và những nhân đức thiết yếu không? Đó là điều không ai quan tâm đến. Riêng tôi, không bao giờ tôi nhìn nhận những tư cách đó trong việc tiến cử lên chức Linh mục, tôi cũng không thỏa mãn về lòng đạo đức cao cả (dù đây là điểm quan trọng để chu toàn sứ mệnh); tôi sẽ không đầu phiếu cho con người đó nếu lòng đạo đức của ông không có kèm theo một đức khôn ngoan hoàn bị”.
Trong hai cuốn 4 và 5, Thánh Nhân đề cập đến khoa hùng biện Kitô giáo và sứ mệnh thuyết giáo. Đây là một trong những sứ mệnh tuyệt hảo nhất của linh mục. Nhờ lời thuyết giáo, linh mục có thể hoán cải và chữa đã các linh hồn, có thể công kích các lạc giáo và bảo vệ thành trì của Thiên Chúa. Về điểm này, thánh Phaolô đáng là gương mẫu của linh mục. Thánh Nhân không phải là giáo sư tu từ, nhưng kiến thức và thế lực thuyết giáo của ngài đã tới tối cao độ.
Trong cuốn thứ 5 thánh Gioan nhấn mạnh đến những điều kiện để lời thuyết giáo của linh mục được phong phú tốt đẹp:
a/- Nỗ lực khảo cứu và sửa soạn bài giảng
“Cả khi giả thử linh mục có biệt tài tự nhiên về nghệ thuật thuyết giáo (một điểm rất hiếm), Ngài vẫn bó buộc phải nghiên cứu không ngừng. Không phải năng khiếu tự nhiên nhưng chính là kiến thức đã tạo nên nhà giảng thuyết. Cả khi bước tới đỉnh khoa hùng biện, nếu không được duy trì bằng một cuộc nghiên cứu liên tiếp thì khoa hùng biện đó lập tức cũng sẽ trở nên trống rỗng. Càng tài giỏi, người ta càng phải nghiên cứu vì lẽ người ta càng có thể mất được. Nếu một người vụng về thuyết giáo không hay thì chẳng ai ngạc nhiên. Trái lại một diễn giả mà thiên hạ đang trông đợi, nếu không vượt quá dư luận thì sẽ không ai được mãn nguyện. Đối với diễn giả trước những thành công nhỏ bé cũng có thể được những lời ca tụng lớn lao; trái lại với diễn giả sau, nếu không đánh động được thính giả, không gây được thán phục thì thay vì được ca tụng sẽ bị dân chúng la lối um sùm”.
2/- Coi thường những lời ca tụng
Nên có thái độ lãnh đạm trước lời khen cũng như những tiếng phê bình, miễn là ta đã nỗ lực thuyết giáo hẳn hoi:
“Vậy, ai đã nhận trọng trách giáo huấn người khác, không được quá chú trọng đến những lời tán dương của quần chúng và cũng không nên thất vọng nếu không được quần chúng ca tụng. Một khi đã giảng thuyết với mục đích làm hài lòng Thiên Chúa[22] và nếu sau khi đã tìm cách làm hài lòng Thiên chúa, linh mục vẫn còn được thiên hạ mến chuộng, thì cũng không đi ngược lại những lời tán dương của họ đâu. Nếu những lời tán dương đó không xẩy đến và chính Ngài cũng không tìm kiếm, không phiền muộn thì phần thưởng trọng đại nhất cho công việc của Ngài, đó là lương tâm minh chứng rằng Ngài đã xuất toàn lực để giảng thuyết nguyên với mục đích làm hài lòng Thiên Chúa. Ngược lại, nếu nhà giảng thuyết buông theo khát vọng được ca tụng, thì tất cả những khó nhọc và tài cán của Ngài sẽ không ích lợi gì. Không thể đương đầu nổi với những lời vu khống vô lý của quần chúng, tâm hồn sẽ thất đảm và không còn hứng thú để thuyết giáo. Thế nên điểm thứ nhất phải luyện cho bằng được đó là coi thường lời ca tụng. Thiếu tính cách vô vị lợi, thì khoa nói không đủ để bảo đảm sức mạnh và uy thế của việc thuyết giáo”.
Cuốn thứ sáu bàn đến nghĩa vụ bên ngoài của linh mục, đối chiếu sinh hoạt của linh mục với sinh hoạt của vị tu dòng. Thánh Nhân xác nhận rằng sinh hoạt linh mục đòi hỏinhiều đức tính hơn, tâm hồn linh mục phải trong sạch hơn tia nắng để không bị nhơ bẩn bởi những dịp cám dỗ mà Ngài sẽ trải qua. Linh mục cần khôn ngoan, học thức và tài giỏi hơn vị tu dòng. Nhưng đức tính căn bản của Ngài phải là lòng nhiệt thành truyền giáo.
Ta nhận thấy rằng, vừa lên chức Giám mục Thánh Gioan đã quan tâm cải tổ hàng giáo sĩ về những nguyên tắc mà Thánh Nhân đã có dịp trình bày trong tác phẩm “Du sacerdoce”. Cuộc cải tổ này đã vấp phải nhiều chống đối vị kỷ nên chưa đạt được thành công là mấy, nhưng nó đã phản ảnh trung thực nhiệt tâm của Thánh Nhân đối với lý tưởng Linh mục.
[1] Dialogus, 5
[2] Thực ra thân mẫu của Gioan đã nhiều lần van xin Ngài đừng làm cho bà phải góa bụa lần thứ hai, bằng cách đi sống đời ẩn tu, Du sacerdoce, I. 4
[3] Dialogus, 5
[4] Kể từ thế kỷ thứ VI trở đi cho đến ngày nay
[5] Chrysostome, Bouche d’Or, Miệng vàng
[6] Tượng Théodore, tượng nữ hoàng quá cố Flacilla và tượng hai hoàng tử ruột Honorius và Arcadius
[7] Công đồng giả danh Chêne quy tụ gồm 36 Giám mục, kết án Gioan về 29 khoản cáo buộc ngụy tạo (Photius, Bibl. cod. 59)
[8] Hom. ante Exsilium, Nn. 1-2: PG. 52, 427-430; coi thêm PTGP. A, th. Jean Chrysostome, số 1
[9] Hom. I post reditum
[10] Sozomène, Hist. eccl. 8, 18, 8
[11] Socrate, Hist. eccle. 6, 18; Sozomène, Hist. eccl. 8, 20
[12] Palladius, 33-34; Socrate, Hist. eccl. 6, 18, 14
[13] Ví dụ thư gởi nữ phó tế Olympias chẳng hạn
[14] Palladius, Dialog. 8-11
[15] Việc nối lại giữa Tây và Đông sau này chỉ xảy ra sau khi Gioan đã qua đời
[16] Palladius, 38
[17] Théodoret, Hist. eccl. 5, 36
[18] Cha De Aldama đưa ra 581 đề mục vào năm 1967, thì cũng thời gian đó, khoảng 100 đề mục mới đã được xuất bản dưới tên của Ngài
[19] Phái Anoméen chủ trương Chúa Con không giống Chúa Cha
[20] Hom. 50, 3-4 in Matthaeum: PG. 58,508-509, xem thêm PTGP.A, số 13
[21] Édition de huit par Wenger, Sources Chrétiennes số 50; Nhà xuất bản du Cerf: Huit catéchèses baptismales
[22]Đó là tôn chỉ và là mục đích độc nhất của một chức nghiệp cao cả nhất, chứ không phải những tiếng hoan hô hay những lời ca tụng