Thân Phận Lữ Hành – Phần II

0
1252


 

THÂN PHẬN LỮ HÀNH

 

Chuyển ngữ: Tu sĩ Giuse Nguyễn Trị An, OP.

 

Thân Phận Lữ Hành – Phần I

 

 

IV. LỮ HÀNH VÀO THIÊN NIÊN KỶ III

18- Công đồng Vatican II là “một biến cố quan phòng” được trù định để thảo ra một “chương trình chuẩn bị cấp thiết cho Năm Toàn xá của Thiên Niên Kỷ thứ II” [89]. Công đồng – từ khi được triệu tập, với việc quy tụ các mục tử ở các Giáo hội địa phương về Roma, tới khi bế mạc với Năm Thánh ngoại thường sẽ được cử hành trong từng Giáo phận – được tổ chức trong một bối cảnh mang tính biểu trưng về cuộc lữ hành lớn lao của toàn thể Giáo hội. Khía cạnh này được làm sáng tỏ qua một vài khuôn mặt điển hình, như Đức Giáo hoàng Gioan XXIII với chuyến hành hương tới Loreto vào lúc khai mạc Công đồng (1962) và Đức Giáo hoàng Phaolô VI với chuyến đi tới miền Đất Thánh vào cao điểm của các cuộc họp Công đồng (1964). Nối tiếp hai chuyến hành hương đậm nét tinh thần này, chúng ta còn thấy các chuyến tông du sau đó của Đức Giáo hoàng qua những nẻo đường thế giới, để rao giảng Tin Mừng, cũng như rao giảng chân lý và công bằng theo tinh thần Tin Mừng, bắt đầu với những chuyến đi của Đức Giáo hoàng Phaolô VI tới Liên Hợp Quốc và tới Bombay.

19- Công Đồng đã diễn tả Giáo hội – trải nghiệm như một hành trình tâm linh và truyền giáo – là người bạn đồng hành với nhân loại trên bước đường lữ thứ trần gian. Đòi hỏi thực tế là “chúng ta phải canh tân chính mình thế nào, để mọi người nhận biết chúng ta rất mực xác tín vào Tin Mừng của Chúa Kitô” [90]. Vì vậy, Giáo hội của Thiên Chúa “mang tính lữ hành” đã trở thành một bức chân dung nổi bật ngay từ lúc khai mạc Công đồng [91]. Giáo hội là “một dấu chỉ nổi lên giữa các dân tộc (Is 5,26) giúp mọi người định hướng hành trình đi về Chân lý và Sự sống” [92]. Việc gặp gỡ các quốc gia trên thế giới, vốn được diễn tả đậm nét qua sự kiện Đức Giáo hoàng Phaolô VI đến thăm Liên Hợp Quốc, được xác định là “đoạn kết của một cuộc lữ hành đầy gian khó” [93]. Chính Công đồng đã xuất hiện như là một bước “thăng tiến về tinh thần”, trong khi các Nghị phụ chào mừng các nhà tư tưởng như là “những kẻ lữ hành trên con đường đi về Ánh sáng” [94].

20- Chuyến hành hương về Đất Thánh của Đức Phaolô VI kể trên đã được chính Đức Giáo hoàng trình bày dưới ánh sáng của linh đạo lữ hành (peregrinatio) trong những thành phần nền tảng của nó. Mục đích của những cuộc thăm viếng các địa điểm thánh thiêng là suy tôn các mầu nhiệm cứu độ chính yếu của Kitô giáo, mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Phục Sinh; ước muốn trở thành một dấu chỉ của cầu nguyện, của tinh thần sám hối và canh tân. Nó hướng tới việc hoàn trọn cả ba mục đích: dâng hiến Giáo hội cho Chúa Kitô, thúc đẩy sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu và khấn xin Chúa thương xót ban hoà bình cho nhân thế [95]. Chính Công đồng, qua các Hiến Chế, đã tuyên bố Giáo hội “hiện diện trong thế giới nhưng đồng thời cũng là kẻ lữ hành” [96]. Bản chất lữ hành của Giáo hội, được đề cập nhiều lần [97], cho thấy khía cạnh Ba Ngôi: nguồn mạch của bản chất ấy nằm ở sứ mạng của Chúa Kitô, “Đấng đã được Chúa Cha sai đến trần gian” [98]; bởi thế, chúng ta “bắt đầu từ Thiên Chúa, sống nhờ Thiên Chúa và được dìu dắt để về với Thiên Chúa [99], Chúa Thánh Thần là Đấng hướng dẫn hành trình nhân loại, giúp chúng ta men theo dấu chân của Chúa Kitô [100]. Mầu nhiệm Thánh Thể và Phục Sinh làm nên trung tâm của Phụng vụ [101], tự bản chất hai mầu nhiệm ấy nhắc đến cuộc xuất hành của dân tộc Israel, nhắc đến bữa tiệc lên đường cũng như bữa tiệc Giao ước mà cuộc xuất hành đã khai mở [102] và hoàn tất [103].

21- Giáo hội lữ hành tất yếu có sứ mạng truyền giáo [104]. “Hãy đi …. làm cho muôn dân trở thành môn đệ” [105] lệnh truyền của Chúa Phục Sinh đặc biệt nhấn mạnh ở động từ “đi”, một phương thức không thể thiếu trong công cuộc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Lương thực và kho báu cho hành trình truyền giáo chính là Lời Chúa [106] và Thánh Thể [107]. Khi phác hoạ một cái nhìn tổng hợp về hành trình của nhân loại trong đó có cả thành công và thất bại [108], Công đồng cho thấy Giáo hội là bạn đồng hành của gia đình nhân loại trên con đường lữ thứ, có đích đến siêu việt, nằm bên ngoài lịch sử trần thế [109]. Vì vậy, một kết quả phát sinh là sự kết hợp phong phú giữa lữ hành với dấn thân trong lịch sử [110], và thế giới này cũng được kêu gọi hãy tích cực cộng tác, đóng góp với Giáo hội bằng những trao đổi thiết thực và sống động [111].

22- Từ biến cố Công đồng, Giáo hội đã sống kinh nghiệm lữ hành của mình, thể hiện không những trong việc đổi mới, rao giảng Tin Mừng, dấn thân vì hoà bình, mà còn qua vô vàn các bằng chứng khác của Huấn quyền Giáo hội, đặc biệt những năm Toàn xá 1975, 1983 và 2000 [112]. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trở thành một nhà lữ hành trong thế giới. Ngài là nhà truyền giáo tiêu biểu trong hai thập niên cuối thế kỷ XX. Thông qua các chuyến tông du và những lời giáo huấn, Đức Giáo hoàng đã hướng dẫn và mời gọi toàn thể Giáo hội hãy chuẩn bị bước vào ngàn năm thứ III, kỷ nguyên mới gần đến. Các chuyến tông du mục vụ của Đức Giáo hoàng chính là “những chặng của một cuộc lữ hành đến các Giáo hội địa phương …., một cuộc lữ hành hoà bình và liên đới” [113].

23- Một đích đến nền tảng của hành trình đậm tính lịch sử hiện nay là Năm Toàn xá 2000, hướng tới thời điểm đó các tín hữu đang bước đi dưới sự hướng dẫn, chở che của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đấy không đơn thuần là một hành trình địa lý, mà còn là một hành trình nội tâm trọng yếu, với hy vọng sẽ gặt hái được những giá trị lớn lao của năm hồng phúc như đã được ghi trong Kinh Thánh [114]. Khi lắng nghe tiếng tù và, đánh dấu thời điểm Năm thánh ở Israel, thì các nô lệ sẽ được tự do, mọi món nợ sẽ được xoá bỏ, để rồi mọi người tìm lại phẩm giá cao quý và tình liên đới trong xã hội, đất đai tiếp tục phục vụ sự sống con người, điều đó nhắc chúng ta nhớ lại nguồn gốc của mọi phúc lành chính là Thiên Chúa, Đấng “từ nơi cao thẳm đã đổ mưa xuống núi, đất chứa chan phúc lộc của Ngài” [115]. Từ đó phát sinh một cộng đồng mang tính huynh đệ hơn, tựa như cộng đoàn Giêrusalem thời Giáo hội sơ khai: “Tất cả các tín hữu hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” [116]. “Tuyệt nhiên giữa anh em sẽ không có người nghèo ….Nếu giữa anh em, trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã ban cho anh em, có một người anh em nghèo thì anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng” [117].

V. CUỘC LỮ HÀNH CỦA NHÂN LOẠI

24- Cuộc lữ hành, bắt đầu từ Abraham, trải dài nhiều thế kỷ, là dấu chỉ về một sự chuyển động trên diện rộng và phổ quát của toàn nhân loại. Thực vậy, con người xuất hiện trong dòng lịch sử như một “kẻ lữ hành” (homo viator), một kẻ lên đường đi tìm những chân trời mới, khao khát công lý và hoà bình, ước mong chân lý và tình thương, mở ra cho cái tuyệt đối và vĩnh hằng. Việc nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế xã hội, cộng với những căng thẳng liên tục trong cuộc sống, rồi đến những cuộc di cư xuyên hành tinh, huyền nhiệm sự dữ và những điều bí ẩn khác bao quanh con người, tất cả cứ liên tục truy vấn, đẩy con người vào những nẻo đường mà các tôn giáo và các nền văn hoá đã vạch ra. Thêm nữa, ở thời đại chúng ta, nhân loại này, một mặt, dường như đang đạt tới những mục tiêu tích cực của tính đa dạng tự nhiên là nhất thống thế giới trong mạng lưới toàn cầu, thì mặt khác, con người lại rất nhạy cảm về tính đa nguyên trong xã hội và phải tôn trọng nét riêng của mỗi quốc gia cũng như lịch sử riêng của mỗi dân tộc; đồng thời cũng phải nói đến những tiến triển về khoa học và kỹ thuật, các cuộc đối thoại liên tôn, những thông tin được phát tán từ trung tâm của thế giới nhờ những công cụ ngày càng tân tiến, hiệu quả. Tuy nhiên, xét trên một phương diện khác, mỗi lãnh vực phát triển đang nói ở đây vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết nào đó như thời xa xưa, nay biểu hiện ở một hình thái mới và theo một cách thức mới: những thứ ngẫu tượng của nhân loại như bóc lột kinh tế, lạm dụng chức quyền, thái độ ngạo nghễ của khoa học, cuồng tín tôn giáo.

Giữa những biểu hiện như thế của nền văn minh đương thời, ánh sáng Tin Mừng sẽ giúp các Kitô hữu khám phá ra những “diễn đàn” (areopagi) mới, nơi đó chúng ta loan báo ơn cứu độ và nhận ra những dấu chỉ của một khát vọng sâu xa, vốn có khả năng dẫn đưa các tâm hồn về nhà Cha. Dường như chẳng có gì lạ lẫm khi chúng ta thấy rằng nhân loại này trải nghiệm một sự mệt mỏi nào đó trong dòng biến chuyển không ngừng của nó, và chính lúc ấy con người ước mong tìm được một nơi nào đó, như ngôi thánh đường, để có thể nghỉ ngơi và chiếm dụng một không gian tự do cho đối thoại – với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Các chuyến hành hương của người Kitô hữu sẽ trợ giúp cho việc tìm kiếm đó của nhân loại, giới thiệu cho nhân loại một đích đến an toàn, đảm bảo, với sự hiện diện của Chúa Kitô “vì Người đã đến viếng thăm và giải thoát dân Người ” [118].

25- Vài “cuộc di chuyển ở mức độ hoàn vũ” có tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta đề cập đến cuộc di chuyển trên diện rộng của những nhóm, những đoàn dân, và đôi khi là của toàn thể một dân tộc, phải đối diện với hy sinh và liều lĩnh, để chạy thoát khỏi cảnh nghèo đói, chiến tranh, thảm hoạ môi trường, mong tìm kiếm một nơi an toàn và may lành cho chính họ cũng như cho những người họ yêu thương. Không ai được phép thờ ơ trước những dòng biến chuyển mạnh mẽ này trong xã hội, chúng tác động đến toàn nhân loại, như những dòng chảy lan rộng khắp mặt đất. Không ai được vô cảm, trước những thứ bất công tự bản chất, trước những thảm kịch của cá nhân và cộng đồng, đồng thời cũng không được phép phớt lờ trước những niềm hy vọng đang nở rộ, mở ra một tương lai xán lạn, một viễn cảnh đối thoại và chung sống với nhau trong hoà bình. Đặc biệt, các Kitô hữu phải trở nên người Samaria nhân hậu trên con đường đi từ Giêrusalem tới Giêricô, phải sẵn sàng giúp đỡ và đưa người anh em chúng ta tới một quán trọ đầy tình bác ái huynh đệ, biết chung sống với mọi người trong liên đới, sẻ chia. Nhờ có “linh đạo lên đường”, chúng ta sẽ có khả năng hiểu biết, lắng nghe và chia sẻ kinh nghiệm với những kẻ sống đầu đường xó chợ, những kẻ không cửa không nhà, những kẻ lang thang vô định.

26- Những người lữ hành trên thế giới cũng có thể là những kẻ nhắm đến những tiêu điểm khác nhau, như vì muốn đi du lịch, vì muốn khám phá khoa học, hoặc vì công việc thương mại. Đấy là những hiện tượng phức tạp, mà thông thường cũng là cội rễ sinh ra lắm hậu quả tai hại dưới nhiều chiều kích khác nhau. Không ai có thể phủ nhận rằng chúng thường là nguyên nhân của bất công, của những hình thức bóc lột con người, của sự xói mòn văn hoá hoặc huỷ hoại thiên nhiên. Dẫu những hệ quả tiêu cực có thể xảy ra đi nữa, nhưng bản chất của chúng vẫn mang những giá trị tích cực của việc nghiên cứu, phát triển và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; những điểm này đáng được phát huy. Đối với những ai tham gia những hành trình này, thì cần giữ gìn đời sống tinh thần và nhu cầu nội tâm. Các nhân viên du lịch và thương mại cũng cần phải lưu ý, tránh không để bản thân chỉ bị thống trị bởi những lợi ích kinh tế mà thôi, nhưng còn phải hiểu chức năng nhân bản và xã hội của mình.

27- Được kết nối với điều vừa nói ở trên và rất nổi bật trong thời đại chúng ta là những cuộc lữ hành của trí tuệ con người, trong lãnh vực tin học, hay còn gọi là cuộc lữ hành ảo, nó được lan truyền theo nhiều con đường viễn thông khác nhau. Những lộ trình trí tuệ như thế này cũng khả thể xảy ra méo mó, lệch lạc và sai trái, nhưng cũng có thể trở thành phương tiện loan báo đức tin và tình thương, phương tiện chuyển trao những thông điệp tích cực, và phương tiện tiếp cận rất hữu ích, hiệu quả. Vì thế, điều quan trọng là chúng ta phải thảo ra phương án hoạt động thích hợp cho những lộ trình trí tuệ này, hầu tránh phân tán và phá huỷ sự truyền thông chân thực trong sự ồn ào náo động, với vô số thông tin chằng chéo giống như câu chuyện tháp Babel thuở xưa.

28- Cũng nên để ý đến những “người hành hương phàm tục”, những người lên đường tham dự những chuyến đi văn hoá và thể thao. Những cuộc trình diễn văn nghệ, nhất là trong lãnh vực âm nhạc, quy tụ đông đảo các bạn trẻ; dòng người tham quan các viện bảo tàng, nơi thường chuyển biến thành ốc đảo chiêm niệm; các thế vận hội Olympic và các hình thức khác của đại hội thể thao; tất cả là những hiện tượng không thể bỏ qua, bởi vì chúng cũng chứa đựng những giá trị tinh thần cần được đảm bảo, bên trên những cảnh xô bồ của đám đông hoặc những lợi dụng nhằm mục tiêu thương mại.

29- Có những cuộc lữ hành mang đậm nét Kitô giáo hơn. Không phải chỉ các linh mục, nhưng cũng có nhiều gia đình và rất nhiều bạn trẻ tự ý lên đường hoặc chấp nhận được sai đến những vùng đất xa xôi, khỏi nơi ở của họ, để cộng tác với các nhà truyền giáo, vừa bằng công việc chuyên môn, vừa bằng chứng tá đời sống và lời loan báo Tin Mừng. Như một hồng ân của Chúa Thánh Thần, những người lữ hành theo hình thức này đang liên tục gia tăng. Họ tận dụng những kỳ nghỉ để lên đường; hoặc thậm chí họ trải qua suốt cuộc đời lên đường như thế. Hình ảnh biểu trưng cho những phong trào lên đường như thế của thời đại chúng ta, xét về không gian và trên hết xét về tinh thần, là những Hội nghị đại kết, ở đó những lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo hội đã quy tụ các Kitô hữu lại với nhau trong một hành trình. Thêm vào đó, một điều quan trọng không kém là các cuộc gặp gỡ liên tôn, quy tụ những người nam nữ thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau, nhưng cùng hướng về một đích chung là niềm hy vọng và tình thương, như đã xảy ra trong ngày đại hội các tôn giáo hiệp lời cầu nguyện cho hoà bình, được tổ chức ở Assisi năm 1986.

30- Vì thế một mạng lưới đúng thực của các cuộc lữ hành đang mở rộng trên toàn hành tinh. Vài cuộc lữ hành mang tính tôn giáo, xét trong ý nghĩa trực tiếp nhất của thuật ngữ “tôn giáo”. Đích đến của các cuộc lữ hành là các thành phố và các khu đền thánh, các đan viện và các trung tâm nổi tiếng trong lịch sử. Những trường hợp khác, cuộc tìm kiếm những giá trị thiêng liêng được biểu hiện qua hành trình đi tới các vùng tự nhiên có nhiều cảnh đẹp quý hiếm, như các hải đảo hay sa mạc, các lối mòn sâu tận đáy đại dương. Địa lý phức tạp của cuộc lữ hành nhân loại này chứa đựng trong chính nó một căn nguyên sâu xa là nỗi khát khao mãnh liệt hướng về một chân trời siêu việt của chân lý, công lý và hoà bình; cuộc lữ hành ấy không ngừng nghỉ, vì bến bờ của nó ở nơi Thiên Chúa vĩnh hằng, nơi mà con người có thể đổi mới chính mình, ra khỏi nỗi thống khổ trần thế [119].

Do vậy, dẫu có nhiều căng thẳng và mâu thuẫn, nhưng cuộc lữ hành của nhân loại này vẫn tham dự vào cuộc lữ hành tất yếu hướng về Vương Quốc Thiên Chúa. Giáo hội đã được trao phó để công bố và hoàn trọn Vương Quốc ấy với lòng can đảm, trung tín và kiên trì. Chúa Kitô mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta trở nên muối, men cho đời, trở nên ánh sáng cho trần gian và trở nên thành phố trên đỉnh núi cao. Chỉ với cách thức đó, nhiều con đường sẽ mở ra, những con đường của “tín nghĩa, ân tình nay hội ngộ; hoà bình, công lý đã giao duyên” [120].  

Trong hành trình này, Giáo hội trở thành một lữ khách cùng với tất cả những ai chân thành tìm kiếm chân lý, công lý và hoà bình; và thậm chí Giáo hội cũng đồng hành cả với những ai lang thang đó đây, bởi vì – như thánh Phaolô, trích dẫn lời ngôn sứ Isaia, nhắc nhớ chúng ta về điều Thiên Chúa khẳng định: “Những kẻ không hỏi Ta, thì Ta đã cho gặp; những kẻ không tìm Ta, Ta đã xuất hiện cho chúng thấy” [121].

31- Vì thế, mọi dân tộc và mọi cá nhân đều có thể định hướng đời mình về mục tiêu Vương Quốc này. Mọi người đều có thể biểu lộ khát vọng của bản thân bằng hành động mang tính biểu tượng và sáng tỏ, là đi hành hương đến nhiều “thánh đô” khác nhau trên mặt đất, đến những địa điểm mà thông điệp về cái siêu việt và tình huynh đệ vang lên mạnh mẽ nhất. Trong số những địa điểm ấy, cũng phải kể đến những vùng đất đã bị đổ vỡ bởi tội lỗi, và sau đó đã được thánh hiến bởi những cuộc hành hương của con người, gần như xuất phát từ một bản năng sửa chữa nào đó. Đơn cử, chúng ta thử suy nghĩ về Auschwitz, một nơi biểu tượng cho sự diệt chủng (Shoa) dân tộc Do thái ở Châu Âu, hoặc nghĩ về Hiroshima và Nagasaki, là vùng đất bị phá huỷ tàn bạo bởi chiến tranh nguyên tử.

Nhưng, như đã nói ở trên, có hai thành phố mang giá trị là dấu chỉ cho thời đại, không chỉ cho những người Kitô hữu mà còn cho tất cả mọi người: đó là Rôma, thành phố biểu tượng cho sự hiệp nhất sứ vụ toàn cầu của Giáo hội; và Giêrusalem, là thánh địa và là nơi được tôn kính bởi tất cả những ai đi theo con đường của các tôn giáo bắt nguồn từ tổ phụ Abraham; Giêrusalem là thành phố mà từ đó Lề Luật và sấm ngôn của Yahweh lan truyền cho muôn dân [122]. Điều này nói lên đích điểm cuối cùng của hành trình nhân loại, là “thành thánh … từ Thiên Chúa, từ trời mà đến” [123]. Chúng ta sẽ đi đến nơi đó với niềm hy vọng và miệng ca hát rằng: “Chúng ta là đoàn dân đang tiến bước/ và khi nhịp bước cùng nhau, chúng ta ước mong sẽ đi đến/ một thành đô không bao giờ cùng/ một thành đô không có buồn phiền và đau khổ/ một thành đô vĩnh cửu muôn đời” [124].

Chính vì Giáo hội tôn trọng đời sống khất sĩ của Đức Phật, con đường chiêm niệm của Đạo giáo, con đường thánh về Hằng Hà của Ấn giáo, “cột trụ” của hành trình đi về cội nguồn đức tin của Hồi giáo, và những lộ trình khác cũng hướng về Tuyệt Đối, hoặc hướng về anh chị em đồng loại, thế nên Giáo hội hiệp lực với tất cả những ai thành tâm thiện chí dâng hiến chính mình để phục vụ những người đau yếu bệnh tật, những kẻ mồ côi nghèo khổ, những người lưu đày, những kẻ bất hạnh, và đồng hành với những người ấy trong “hành trình của tình huynh đệ”. Đây là ý nghĩa của Năm Toàn xá của lòng thương xót, xuất hiện ở chân trời của Thiên niên kỷ III, tiêu điểm của cuộc kiến tạo một xã hội loài người ngày càng công bằng hơn, nơi đó các món nợ công của những quốc gia đang phát triển sẽ được xoá bỏ, và mọi người tiến hành việc phân phối các tài sản trái đất cách công bằng hơn, theo tinh thần của Kinh Thánh [125].

*************

 Thân Phận Lữ Hành – Phần Cuối

 

 

Chú thích

[90] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sứ điệp gửi nhân loại (20/10/1962). 

[91] X. ĐGH GIOAN XXIII, Diễn văn khai mạc Công đồng Vaticanô II (11/10/1962); ĐGH PHAOLÔ VI, Diễn văn khai mạc khóa II của Công đồng Vaticanô II (29/9/1963): AAS 55 (1963) tr. 842.  

[92] ĐGH PHAOLÔ VI, Diễn văn kết thúc khóa III của Công đồng Vaticanô II (21/11/1964):  AAS 56 (1964) tr. 1013. 

[93] ĐGH PHAOLÔ VI, Diễn văn tại Đại Hội Đồng LHQ (4/10/1965): AAS 57 (1965) tr. 878. 

[94] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Các sứ điệp ngày bế mạc (8/12/1965). 

[95] X. ĐGH PHAOLÔ VI, Diễn văn bế mạc khóa II của Công đồng Vaticanô II (4/12/1963): AAS 56 (1964) tr. 39.  

[96]CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 2. 

[97] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Lumen Gentium, 7-9. 

[98] X. ibid.,3; 13. 

[99] X. ibid., 3. 

[100] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5. 

[101] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7; 10. 

[102] X.Xh 12, 1-14. 

[103] X.Gs 5, 10-12. 

[104] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2; Hiến chế Lumen Gentium, 17. 

[105]Mt 28, 19. 

[106] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Dei Verbum, 7. 

[107] X. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Gaudium et Spes, 38. 

[108] X. ibid., 1-7. 

[109] X. ibid., 3; 11. 

[110] X. ibid., 43. 

[111] X. ibid., 44. 

[112] X. Tông huấn Nobis in animum của ĐGH Phaolô VI, 25/3/1974, về sự tăng gia các nhu cầu của Giáo Hội ở Đất Thánh; Tông thư Apostolorum limina của ĐGH Phaolô VI, 25/5/1974, công bố Năm Toàn xá 1975; Tông huấn Gaudete in Domino của ĐGH Phaolô VI, 9/5/1975, về niềm vui Kitô giáo trong Năm Toàn xá; Tông thư Aperite portas Redemptori của ĐGH Gioan Phaolô II, 6/1/1983, công bố năm Toàn Xá 1983; Tông thư Redemptionis anno của ĐGH Gioan Phaolô II, 20/4/1984, về Gierusalem, gia sản của mọi tín hữu, nhân dịp bế mặc năm Toàn Xá 1983; Tông thư Tertio Millennio Adveniente của ĐGH Gioan Phaolô II, 10/11/1994.  

[113] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tiếp kiến chung, 9/4/1997, kể lại chuyến viếng thăm mục vụ tại Sarajevo. 

[114] X. Lv 25. 

[115]Tv 104, 13. 

[116]Cv 2, 44-45. 

[117] Đnl 15, 4.7. 

[118]Lc 1, 68. 

[119] X. T. AUGUSTINÔ, Confessions I, 1: CCL 27, 1; PL 32, 661; XIII, 38, 53: CCL 27, 272ff.; PL 32, 868. 

[120] Tv 85, 11. 

[121]Rm 10, 20; x. Is 65, 1. 

[122] X. Is 2, 3. 

[123] Kh 21, 2. 

[124]“Somos un pueblo que camina / y juntos caminando queremos alcanzar / una ciudad que no se acaba / sin pena ni tristeza / ciudad de eternidad” (Dân ca Mỹ châu Latinh) 

[125] X. Lv 25.