Thần Khí Với Giáo Hội (5/1)

0
678


KHÁI LUẬN THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

Tác giả: Lm. Felipe Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

PHẦN V: THẦN KHÍ VỚI GIÁO HỘI

 

Trong phần trước, thiên chuyên khảo đã lược trình một số khía cạnh thiết yếu trong nội dung thần học về Chúa Thánh Thần, giúp cho hiểu được phần nào thực trạng hướng nội (ad intra) của Thánh Thần trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Phần tiếp theo đây sẽ – thay đổi cách tìm hiểu vấn đề từ phương diện “Người là” sang phương diện “Người làm” – bàn về các hoạt động đối ngoại (ad extra), “dành cho chúng ta,” của Thánh Thần. Ở đây, chúng tôi sẽ dồn chú tâm để biểu trình về hoạt động của Thần Khí trong Giáo hội và, trong chương kế tiếp, sẽ bàn đến các hoạt động của Người nơi “linh hồn” hay “tâm hồn” các cá nhân. Khi viết rằng “đây luôn là những ngày (lưu ý số nhiều) Hiện xuống,”[1] Ôrigênê đã coi đời sống Giáo hội như là “một cuộc Hiện xuống bất tận”. Thụ tạo của Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo hội được triệt để cấu thành như là “dân tộc được làm cho nên một với hiệp nhất tính của Cha, Con và Thánh Thần.”[2] Thế nên, trong lãnh vực này, hoạt động của Thánh Thần cần phải được tìm hiểu trước tiên.

I. SỨ MẠNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Trong Tân Ước, có thể đọc thấy một số văn đoạn trình bày về một dạng “sứ mạng” của Thánh Thần. Sau khi đề cập đến sự việc Đức Giêsu hứa ban “dòng nước hằng sống”, thánh Gioan đã nhận định như sau: “bấy giờ, họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (7:39). Về sau, qua lời tâm sự trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu công bố rằng: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14:26); rồi Ngài quả quyết: “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (16:7; x. 15:26). Cuộc Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần được hiểu như là biến cố làm cho hoàn tất lời hứa ấy, như lời thánh Phêrô rao giảng: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe” (Cv 2: 33). Đây chính là sứ vụ hữu hình của Chúa Thánh Thần.

Tuy thế, một số văn đoạn kinh thánh khác cũng ám chỉ đến một sứ vụ vô hình của Người, như thấy khi thánh Phaolô quả quyết: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi!’” (Gl 4:6; x. Pr 1:12).

Qua những gì văn đoạn Ga 16:14-15 trình tả, có thể nhận ra rằng sứ mạng của Thần Khí luôn được liên kết với sứ mạng của Con. Vì lẽ đó, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã nhắc đến một “sứ mạng phối hợp” giữa Con và Thần Khí:

“Thần Khí của Con, Đấng mà Chúa Cha hằng tuôn ban vào lòng chúng ta, đích thực là Thiên Chúa. Đồng bản tính với Cha và Con, Thần Khí bất khả phân ly khỏi các Đấng ấy; Người hiện diện cả trong đời sống nội tại của Ba Ngôi, lẫn nơi ân huệ tình yêu dành cho thế giới… Lúc gửi Ngôi Lời đến thế gian, Chúa Cha cũng gửi cả “Sinh Khí” của Người đến nữa. Trong sứ mạng phối hợp của cả hai, Con và Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không phân ly khỏi nhau. Nói cách chắc chắn, Đức Kitô là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, nhưng chính Thần Khí là Đấng vén tỏ cho thấy [hình ảnh đó]” (số 689).

Và bởi vì được biểu lộ qua việc Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử con người, nên sứ mạng ấy đã mặc lấy các “dạng thái” khác nhau tùy vào từng giai đoạn lịch sử cứu độ; dựa theo đó, các thần học gia đã phân chia thành: một sứ vụ trong cuộc tạo dựng, một sứ vụ trong Cựu Ước, trong Tân Ước và trong Giáo hội. Về vấn đề này, Sách Giáo Lý đã giải thích như sau:

“Từ khởi nguyên cho đến “thời viên mãn,” sứ mạng phối hợp giữa Ngôi Lời với Thần Khí của Chúa Cha, dù bị che khuất, vẫn hằng tiến diễn. Thần Khí của Thiên Chúa chuẩn bị cho thời kỳ của Đấng Mêsia. Tuy chưa được mạc khải trọn vẹn, nhưng cả hai Đấng ấy đã được hứa ban để nhân loại sửa soạn mà đón nhận lúc các Ngài tỏ mình ra. Bởi đó, khi đọc Cựu Ước, Giáo hội để ý tìm kiếm trong đó những điều mà Thần Khí, ‘Đấng phán dạy qua các ngôn sứ,’ muốn trình bày cho chúng ta về Đức Kitô” (số 702).

Dùng phép loại suy cho hơi thở và lời nói, thần học đã đọc ra sứ vụ vô hình của cả Lời lẫn Thần Khí qua lệnh truyền của Cha: “Hãy có ánh sáng” (St 1:3). Như thế, hễ bất cứ lúc nào Lời của Thiên Chúa được gửi đến một ngôn sứ nào đó, thì Thần Khí cũng được gửi kèm theo; bởi đó, kinh Tin kính mới tuyên xưng rằng “Thần Khí đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy.” Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thần Khí đã ngự xuống trên Đức Maria và, nhờ đó, Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm.

Các sứ vụ ấy được coi như là các dấu hiệu mạc khải, nghĩa là, tiết lộ cho thấy một thực trạng nào đó nơi bản tính của các Ngôi Vị thần linh. Cha không bao giờ được sai đi – tức, Người không thể được sai – bởi Người chẳng phát xuất từ đâu cả… Con được Cha sai đi, vì Con được Cha sinh ra. Tương tự, Thần Khí được Cha và Con sai đi, bởi vì Người phát xuất từ cả hai. Thần học đã nỗ lực để tìm cho ra một vài nguyên do ẩn kín đằng sau thực kiện ấy, và thánh Tôma Aquinô đã cắt nghĩa như sau:

“Thiên Chúa đối xử với mọi sự tùy theo bản tính của chúng. Là thích hợp với bản tính con người việc dựa vào những điều hữu hình để giúp cho thấy những gì vô hình; do vậy, quả là thích đáng việc Thiên Chúa vô hình được mạc khải cho con người thông qua các thực tại hữu hình. Như thế, bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa cũng đã mạc khải cho con người về các cuộc nhiệm xuất đời đời của hai Ngôi Vị qua một số dấu chỉ nơi các thụ tạo hữu hình. Theo cách thức tương tự, cả những sứ mạng vô hình của các Ngôi Vị thần linh cũng đã được vén tỏ cho thấy qua một số thụ tạo hữu hình, dù là theo những cung cách biểu lộ khác nhau của Con và của Thần Khí. Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất theo tư thế là Tình Yêu, chính là ân huệ thánh hóa. Nguyên lý của Thánh Thần, Con chính là tác giả của ân huệ thánh hóa ấy. Bởi đó, Con đã được sai đến một cách hữu hình như là Tác giả của ơn thánh hóa; tuy vậy, Thánh Thần cũng đã được sai đến như là dấu chỉ của ơn thánh hóa đó.”[3]

Vị Tiến sĩ Thiên thần giải thích rằng Con đã được sai đến trong tư thế là con người Đức Giêsu Kitô. Bên cạnh đó, Thần Khí cũng được sai đến, hiện diện qua các dấu chỉ hữu hình như là chim bồ câu nơi biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, hoặc như là áng mây trong cuộc biến hình; Người đã được sai đến với các Tông đồ như là hơi thở được thổi ra vào buổi chiều phục sinh, và như là lưỡi lửa cháy rực trong ngày lễ Ngũ Tuần xưa kia. Các sứ vụ vô hình của Thần Khí được biểu lộ lúc một tội nhân lãnh nhận ơn công chính hóa qua phép rửa, khi một tín hữu nhận lãnh các đặc sủng dành riêng qua việc đặt tay (nơi các bí tích Thêm sức và Truyền chức Thánh, hay lúc đọc kinh cầu khẩn Thánh Linh trước khi truyền phép), hoặc cũng có thể được biểu hiện theo một cung cách nào đó, âm thầm hay mãnh liệt, tùy ý Người lựa chọn hầu tỏ cho thấy sự hiện diện của mình nơi một tâm hồn.

Sứ mạng của Thần Khí, do Cha và Con, nhằm vào việc hiện tại hóa, giữ cho nguyên vẹn và đưa đến mức viên thành sứ mạng của Đức Kitô, bởi vì nguồn gốc của Người là ở nơi Đức Giêsu: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15), Người làm chứng cho Đức Kitô (x. Ga 15:26) và giải thích những lời Đức Kitô đã nói (x. 16:13-14). Việc Người ngự đến đã khai nguyên một thời đại mới cho Giáo hội.

Thần Khí cũng được sai đến thế gian như là nguyên cớ làm dấy lên cảnh trạng xung đột, giống như lửa tương khắc với nước vậy: “Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” (Ga 16:7tt); “thế gian” ở đây có nghĩa là thế giới con người dưới ách thống trị của tội lỗi. Tội lỗi ở đây chính là tình trạng cự tuyệt việc đón nhận Đức Giêsu, Tin mừng và sứ mạng của Ngài; còn đức công chính – tức là, vinh quang mà Cha ban tặng cho Con vì lòng tuân phục Con đã biểu lộ ra trên Thập giá – sẽ nhằm vào việc xét xử tên Đầu sỏ thế gian, tức Satan, hầu mang ơn cứu độ đến cho con người. “Thánh Thần – qua việc đặt tội lỗi vào tư thế đối nghịch với Thập giá Đức Kitô trong nhiệm cục cứu độ (do đó, có thể nói là ‘tội đã được cứu’) – giúp chúng ta có thể hiểu được rằng sứ mạng của Người cũng nhằm vào việc ‘kết án’ tội lỗi vốn dĩ đã bị xét xử (‘tội đã bị kết án’) cách dứt khoát rồi.”[4] Mối xung đột đó sẽ vẫn còn tiếp diễn cho đến cuộc Chúa quang lâm.
 

II. “LINH HỒN CỦA GIÁO HỘI”

Lễ Ngũ Tuần được coi như là sinh nhật của Giáo hội. Thánh Thần đã được gửi đến cộng đoàn tín hữu gồm cả thảy lối một trăm hai mươi người (x. Cv 1:15) – con số mang tính cách tượng trưng cho tính cách đầy đủ của đoàn thể tín hữu trong một cộng đoàn thờ phượng – và thánh Luca trình bày cho thấy rằng “tất cả” mọi người tụ tập ở một nơi, và “từng người một” đều đã lãnh nhận tràn đầy Chúa Thánh Thần (x. 2:1.3.4): biến cố toàn thể Giáo hội đã được sinh ra – “bằng sinh khí”, tức được Thần Khí “làm cho trở nên sống động” – không phải là một sự kiện riêng biệt chỉ xảy ra trong lần duy nhất ấy mà thôi, nhưng là một tình trạng kéo dài vĩnh viễn nhằm vào việc làm cho hoàn tất các điều Chúa đã hứa: Người sẽ ngự trong các môn đệ (x. Ga 14: 17), dạy dỗ họ (x. 14:26; 16:13), làm chứng cho Đức Kitô (x. 15:26). Bởi đó, công đồng Vaticanô II đã triển khai giáo huấn về việc Đức Kitô “cho chúng ta được thông phần vào Thần Khí của Ngài, Đấng duy nhất đang hiện hữu nơi Đầu và trong các chi thể, Đấng tuôn ban sự sống, tạo mối hiệp nhất và luân chuyển khắp cả thân mình. Các Giáo phụ thánh đã ví cung cách Người thi hành tác vụ ấy như là nguyên lý sự sống – tức là linh hồn – làm cho thân thể con người trở nên trọn vẹn” (LG 7).[5]

Thần học cảnh báo việc không nên đẩy phép ẩn dụ đi quá xa, tức không nên hình dung một dạng “ngôi hiệp” giữa Thần Khí với Giáo hội! Tuy vậy, nếu giữ được các giới mức của phép loại suy kiểu này, thì có thể vững vàng mà xác tín rằng Thánh Thần hoạt động như là năng lực dẫn dắt trong Giáo hội. Trong ngày Ngũ Tuần, Người đã hoạt hóa “thân mình” các môn đệ, giúp họ trở nên những nhân chứng sống động cho Đức Kitô trước thế giới. Ngày nay, theo lời nhận định của Đức Gioan Phaolô II, ý niệm đó giúp tránh được mối nguy hoặc quá thiên về chủ nghĩa tự nhiên cánh chung – tức quên đi khía cạnh siêu nhiên của Giáo hội – hoặc quá ngả về chủ thuyết thần nghiệm cánh chung – tức quên đi rằng Giáo hội là một đoàn thể của con người và, hơn nữa, của các tội nhân – để nhờ đó, giữ được một thế trung dung giữa các yếu tố thần linh và nhân loại trong Giáo hội.[6] Nếu phần hồn giữ cho phần xác khỏi bị kiệt quệ thể nào, thì Thần Khí cũng giữ cho Giáo hội luôn sống động và trung thành với Chúa của mình thể ấy; Người là nguyên lý “bất khả mai một” – như lời Đức Giêsu đã hứa (x. Mt 16:18). Người cũng là nguyên lý năng động của hành động, của các phong trào canh tân hay của các tác động nhẹ nhàng đối với công việc tông đồ hằng ngày.[7]

Sự hiện diện của Thần Khí làm cho Giáo hội trở nên một “thực thể thần nhân,” tức một xã hội bao hàm cả hai thực tại là thần linh và nhân loại. Các yếu tố “thần linh” vừa có tính cách hữu hình (Lời Chúa, các Bí tích…) vừa có tính cách vô hình (Đức Kitô là Đầu, Thần Khí, ân sủng, các đặc sủng…). Một thực thể như thế chỉ có thể được xác định rõ ràng qua việc dùng đến các hình ảnh và biểu tượng mà thôi; do đó, Kinh Thánh mới gọi Giáo hội là Thân mình Đức Kitô, Hiền thê Đức Kitô, Đền thờ Thần Khí. Chính Thần Khí nối kết Giáo hội vào Đức Kitô – ở đây, Người cũng được coi là “Dây se Tình yêu” – và truyền ban sinh lực giúp Giáo hội triển vươn đến “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (pleuroma) (Ep 1:23; 4:13). Là đền thờ, Giáo hội “được xây dựng trên nền móng là các Tông đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu” (2:20), và phát triển lên được là nhờ khả năng hiệp lực của tất cả các chi thể mình, như lời thánh Phêrô khuyên nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người nhờ Đức Giêsu Kitô” (1Pr 2:5); song dù gì đi nữa, chính Thần Khí mới là Đấng làm cho những “viên đá” ấy trở nên sống động, mang lại một hiệu lực siêu nhiên cho các hoạt động của từng chi thể Giáo hội và biến đổi các sinh hoạt hằng ngày của Giáo hội thành những “lễ tế thiêng liêng.” Và nhờ đó, bộ mặt tự nhiên xét về cơ cấu tổ chức cũng như các hoạt động trong Giáo hội mới trở nên một “bí tích” – dấu chỉ – trong đó, tiềm ẩn chiều kích hoạt động của Thần Khí.

Suốt dòng lịch sử, Thần Khí bảo đảm tính liên tục cho sứ mạng của Đức Kitô: “Sứ mạng của Đức Kitô và của Thánh Thần được đưa đến mức thành tựu trong Giáo hội vốn là Thân thể Đức Kitô và là Đền thờ Thánh Thần. Từ nay trở về sau, sứ mạng phối hợp ấy mang đến cho các tín hữu của Đức Kitô khả năng dự phần vào mối hiệp thông của Ngài với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Thần Khí chuẩn bị cho con người và ban cho họ ân sủng Người hầu lôi kéo họ đến gần Đức Kitô. Thần Khí vén tỏ cho họ thấy dung mạo của Chúa Phục Sinh, nhắc cho họ nhớ lại lời Ngài đã nói với họ, soi lòng mở trí để giúp họ hiểu được biến cố Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Người hiện tại hóa mầu nhiệm Đức Ki­tô, biểu lộ cách tỏ tường nhất qua Thánh Lễ, để hòa giải họ và đem họ vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, hầu họ có thể “sinh hoa kết quả dồi dào.”[8] Do vậy, khi thấy Giáo hội – theo tư thế là một thân thể duy nhất – hoặc thấy các chi thể Giáo hội hành động đúng theo giáo lý và cung cách của Đức Kitô, thì có thể nói ngay được rằng: “Ngón tay của Thiên Chúa đang hiện diện ở đấy,” bởi vì chắc chắn rằng khi đó, Thần Khí có mặt ở đằng sau những biến cố hữu hình.

Qua kinh Tin kính, kitô hữu tuyên xưng Giáo hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”; đó là các “đặc điểm” của Giáo hội, hay nói cách khác, là các nét đặc trưng hữu hình giúp nhận diện được thực thể gọi là Giáo hội.

Duy nhất tính mang ý nghĩa tương đương với hữu thể; một mảnh vỡ của thực thể bị phân rẽ thì không còn là chính nó nữa. Bản tính, hay duy nhất tính, là nguyên lý của hành động; những thứ gẫy vỡ thì không thể hoạt động được nữa, những thực thể bị chia tách cũng không cách gì thể hiện được chức năng vốn có như lúc chúng còn nguyên vẹn. Một tấm gương nứt rạn muôn mảnh chẳng thể nào phản chiếu được hình ảnh trọn vẹn, ngoại trừ những mảnh phân tán, rời rạc của hình ảnh đó mà thôi. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã cầu nguyện để xin Cha củng cố tình trạng hiệp nhất giữa các môn đệ Ngài: họ phải trở nên một “để thế gian tin” (Ga 17:21). Tiêu đích Giáo hội nhắm đến là việc phải trở nên “bí tích ban ơn cứu độ” cho thế giới. Bí tích là dấu chỉ hay biểu tượng diễn tả và chuyển ban ân sủng; nếu dấu chỉ ấy bị rạn vỡ, thì nó sẽ không còn có thể biểu thị cho thích đáng điều gì được; và cứ như thế. Bởi vậy, hiệp nhất tính ấy là ân huệ do chính Thánh Thần ban tặng: “chỉ có một Thân thể duy nhất, một Thần Khí duy nhất” (Ep 4:4). Chính “linh hồn” đó làm cho tất cả các chi thể trong thân mình được hiệp nhất với nhau và cùng nhau hít thở một thứ Sinh khí duy nhất là Đức Ái. Nhưng tội lỗi – vốn là thứ loại trừ Đức Ái – đã ra sức hủy hoại hiệp nhất tính; và đó là điều từng thấy xảy ra suốt trong dòng lịch sử. Trong cảnh trạng tồi tệ của cuộc ly khai Kitô giáo, Thần Khí đã không hề khoanh tay thúc thủ, nhưng đã khuấy động lòng khao khát và sức hành động của người kitô trên bước đường tiến về lại với tình trạng hiệp nhất, như công đồng Vaticanô II đã xác quyết:

“Ở khắp mọi nơi, có rất nhiều người đã cảm nhận được sức thôi thúc do ân sủng Thánh Thần; và, nơi các anh em ly khai của chúng ta, cũng đã thấy một phong trào tái lập mối hiệp nhất giữa mọi kitô hữu với nhau đang trên đà tăng triển ngày một sâu rộng hơn” (UR 1).

Về vấn đề này, thiên khảo luận sẽ đề cập rộng hơn trong phần sau; còn ở đây, chỉ xin bàn về hiệp nhất tính trong lòng Giáo hội Công giáo mà thôi. Thánh Phaolô đã cầu nguyện cho các cộng đoàn kitô hữu được “đồng tâm nhất trí” (x. Rm 15:5) với nhau, “duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí mang lại” (Ep 4:3); tinh thần hiệp nhất ấy, các kitô hữu thường lơ là, bỏ quên, và đợi đến khi mọi sự đã trở nên muộn màng rồi mới giật mình sực tỉnh. Chính qua đời sống cầu nguyện, người kitô mới cảm nghiệm được cách thích đáng nhất, sự hiệp nhất ấy, bởi vì chính Thần Khí duy nhất ấy là Đấng khai mở mọi con đường tiến về với Cha (x. Ep 2:18). Mức độ phong phú của các ân huệ có thể trở thành nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ một khi chúng bị chiếm đoạt để làm của riêng cho các cá nhân hay cho một đoàn nhóm nào đó – như sự việc đã từng xảy ra thời trước trong giáo đoàn Côrintô – và sẽ dẫn đến việc phân chia thành các bè phái chống đối nhau; thánh Phaolô đã nghiêm khắc nhắc nhở các tín hữu Côrintô rằng hết thảy mọi ân huệ dồi dào đều phát xuất từ một Thần Khí duy nhất (x. 1Cr 12:11.13). Công đồng Vaticanô II cũng đã lên tiếng nhắc nhở rằng ngay cả việc phân bổ trong cơ cấu của Dân Thiên Chúa thành hàng giáo phẩm và giới giáo dân, cũng là một ân huệ do Thần Khí ban tặng:

“Thần Khí hướng dẫn Giáo trong chân lý toàn vẹn; Người hiệp nhất Giáo hội trong ơn hiệp thông và trong các thừa tác vụ; Người huấn luyện và dẫn dắt Giáo hội trong các ân huệ phẩm trật và đoàn sủng; Người tô điểm Giáo hội bằng hoa trái của Người” (LG 4).

Thánh thiện tính rõ ràng là một hiệu quả đặc thù do Thần Khí mang lại. Trước hết, có thể nói ngay rằng đặc tính thánh thiện của Giáo hội không phải là một phẩm chất do chính các chi thể tạo nên, mà là do việc Giáo hội lãnh nhận được ân huệ trở nên Thân thể Đức Kitô. Giáo hội mang trong mình các phương tiện ban ơn thánh hóa, như Lời Chúa, các Bí tích, và sứ mạng mà Đức Kitô đã ủy thác cho, như Công đồng Vaticanô II viết:

 “Chúng tôi tin Giáo hội – mà Thánh Công đồng tuyên xưng là mầu nhiệm – là thánh thiện một cách bất khả khuyết. Quả vậy, Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng cùng với Cha và Thánh Thần, được ca tụng là ‘Ðấng thánh duy nhất,’ đã yêu thương Giáo hội như hiền thê mình, và đã hiến thân để thánh hóa Giáo hội (x. Ep 5:25-26). Người kết hiệp với Giáo hội, coi đó như là thân thể duy nhất của Người và dẫn đưa Giáo hội tiến về sự hoàn thiện qua việc ban cho dư đầy ân huệ Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa” (LG 39).

Vì lẽ đó, “Dân Thánh của Thiên Chúa” (LG 12) được kêu gọi để nên thánh (x. LG ch.V). Những hoa trái thánh thiện do chính Thánh Thần ban tặng, có thể kể ra là việc có nhiều vị thánh trong Giáo hội – những vị được tôn phong, cũng như những vị vô danh nặc tánh – rồi, ân huệ giúp kitô hữu sống trung thành mỗi ngày với Thiên Chúa; ơn tha thứ mọi tội lỗi, mọi nơi và mọi lúc. Bên cạnh đó, còn có mặt bên kia của sự thánh thiện, là thực trạng tội lỗi và hàng ngũ các tội nhân; chỉ dõi sơ bước đường lịch sử Giáo hội đã đi qua thì cũng đã có thể liệt kê ngay được cả một danh sách dài về những khuyết điểm, lỗi lầm cũng như những thái độ bất trung; bởi đó, “Vì ôm ấp vào lòng những kẻ có tội, nên dù thánh thiện, bao giờ Giáo hội cũng vẫn thấy cần phải ra sức thanh tẩy chính mình. Do đó, Giáo hội không ngừng nỗ lực để sám hối và canh tân” (LG 8). Chính giữa tình huống căng thẳng như thế giữa ân sủng và tội lỗi, Thần Khí đã phái gửi các “ngôn sứ” của Người đến, tức là các thánh nhân, những nhà cải cách, các đấng sáng lập dòng tu, những vị khai sáng các phong trào. Mọi thứ ân huệ khác mà Thần Khí ban tặng đều chỉ nhằm vào một mục đích duy nhất: sự thánh thiện, vốn là tiêu đích tối hậu mà Giáo hội, cũng như từng chi thể Giáo hội, nhắm tới. Sự thánh thiện chính là ân huệ trác tuyệt nhất trong tất cả mọi ân huệ, bởi vì đó là ơn được thông dự vào bản thể Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất: “To solus sanctus”, “Chỉ có Ngài là Đấng Thánh” – như Phụng vụ Giáo hội hằng hát mừng. Và thánh Phaolô đã khích lệ cộng đoàn tín hữu của mình: “Ý muốn của Thiên Chúa là việc anh em nên thánh” (1Th 4:3).

Công giáo tính[9] biểu lộ tính chất đa dạng hết sức dồi dào mà Giáo hội thâu tập nơi mình, cũng như giới trình bộ mặt hữu hình của đoàn sủng vô hình với hết mọi vẻ phong phú của nó. Biến cố Ngũ Tuần làm hiện lộ rõ ràng đặc tính công giáo đó qua danh sách liệt kê các dân tộc khác nhau cùng tụ họp để lắng nghe sứ điệp Tin mừng (kerygma) thánh Phêrô công bố (x. Cv 2:9-11). Tính từ “công giáo” đã được bổ sung vào các công thức thánh tẩy của Giáo hội từ rất sớm (x. DH 2.3.4.5. v.v.) nhằm giúp phân biệt giữa Giáo hội đích thực của Đức Kitô với các giáo phái khác (từ Hy lạp haire­sis bao hàm các nghĩa sau đây: “phe” (x. Cv 5:17), “phái” (24:5), “sự chia rẽ” (x. 1Cr 11:19), “tà thuyết” (x. 2Pr 2:1) … Nói đến “Công giáo” là nói đến các đặc tính “phổ quát”, “trọn vẹn” và “toàn diện” của Giáo hội Chúa Kitô. Trong lịch sử, tính từ “công giáo” đã thấy mang các ý nghĩa bao quát hơn; về các ý nghĩa này, Sách Giáo Lý giải thích như sau:

‘Công Giáo’ là ‘phổ quát’ theo nghĩa ‘toàn diện’ hay ‘toàn vẹn’. Hội Thánh là Công Giáo theo hai nghĩa: Hội Thánh là công giáo vì Đức Kitô hiện diện trong Hội Thánh. ‘Ở đâu có Đức Kitô Giêsu, ở đó có Hội Thánh Công Giáo’ (th’ Inhaxiô Antiôkia 8.2). Nơi Hội Thánh hiện hữu Thân Thể Đức Kitô trọn vẹn, kết hợp với Đầu; (x. Ep 1:22-23), vì tiếp nhận từ Người ‘trọn vẹn các phương tiện cứu độ’ (x. AG 6) theo ý Người muốn: tuyên xưng đức tin chân thật và đầy đủ, đời sống bí tích toàn vẹn, và thừa tác viên được thụ phong để liên tục kế nhiệm các tông đồ. Theo ý nghĩa căn bản này, Hội Thánh là công giáo trong ngày Lễ Ngũ Tuần và mãi mãi là công giáo cho đến ngày Chúa quang lâm. Hội Thánh là công giáo vì được Đức Kitô sai đến với toàn thể nhân loại” (số 830).

“Công giáo” không những là một nét đặc trưng có tính cách xã hội của Giáo hội, mà còn là một chiều kích căn bản trong cấu trúc của Giáo hội nữa; bởi vì, nếu không có đặc tính đó, thì Giáo hội hẳn không còn là Giáo hội nữa; cũng như chính thực thể Giáo hội, đặc tính “công giáo” phát xuất từ nơi Thiên Chúa, như giáo huấn công đồng Vaticanô II dạy:

“Ðặc tính phổ quát ấy, sáng chói nơi Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên Chúa ban; nhờ đó, Giáo hội công giáo hằng nỗ lực cách hữu hiệu để quy tụ toàn thể nhân loại cùng với những gì tốt lành nơi họ dưới một Thủ Lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Thánh Thần. Nhờ đặc tính công giáo này, mỗi phần tử mang những ân huệ riêng tư mình đến các phần tử khác và cho toàn thể Giáo Hội; do đó, toàn thể và mỗi phần tử tăng triển nhờ hiệp thông với nhau, và nhờ nỗ lực tiến đến viên mãn trong sự hiệp nhất. Vì thế, Dân Thiên Chúa được tạo thành không những do các dân nước quy tụ lại với nhau, nhưng còn do các chức vụ khác nhau trong nội bộ nữa” (LG 13).

Nếu đức tin là một ân huệ do Thần Khí ban cho, thì tình trạng trọn vẹn của đức tin đó diễn tả mức độ dồi dào của ân huệ. Tính chất phong phú của các đoàn sủng là nét đặc trưng rõ rệt nhất của công giáo tính, bao hàm trong vô số những nghi lễ phụng vụ, các dạng loại thần học, các thừa tác vụ, các ơn gọi, các phong trào… Một dạng ân huệ đặc thù mà Thần Khí ban cho là khả năng Giáo hội có thể đâm rễ vào hết thảy mọi nền văn hóa (công cuộc hội nhập văn hóa), khả năng cử hành việc thờ phượng bằng hết mọi ngôn ngữ, cũng như việc đủ sức giữ vững bản sắc của mình qua mọi thời đại. Đặc tính đó diễn tả tính năng động của Giáo hội, không ngừng được tái tạo nhờ sức tác động của Thần Khí. Thần Khí giữ cho mọi cánh cửa Giáo hội luôn ở thế rộng mở – tiếp sức để Giáo hội nới rộng các giới hạn của mình ra – trước sức thúc bách của sứ mạng được trao phó. Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Vì phát nguyên từ chính sứ mạng của Con và Thánh Thần, theo kế hoạch Cha đã định, nên Giáo hội lữ hành mang trong mình bản chất truyền giáo” (AG 2); sứ mạng truyền giáo của Giáo hội “được thúc bách do chính công giáo tính của Giáo hội” (AG 1). Thần Khí là Đấng linh ứng các ơn gọi truyền giáo (AG 23) và, trên thực tế, Người đóng giữ vai trò chủ đạo – tức như tác nhân chính yếu – đối với sứ mạng truyền giáo của Giáo hội. Chính nhờ Thần Khí, Đấng truyền ban các ý muốn của Người, mà đặc tính “công giáo” của Giáo hội mặc lấy ý nghĩa, để mở lòng ra mà sẵn sàng bước vào cuộc phiêu lưu khám phá những điều mới mẻ và bất khả tiên lượng, để mở lòng ra trước những điều kỳ diệu, trước tha nhân, trước cảnh giới thẳm sâu của mầu nhiệm…

Tông truyền tính – biểu lộ thực trạng của việc Giáo hội khởi đầu với các Tông đồ, tiếp tục sứ mạng của các Tông đồ và gìn giữ kho tàng đức tin do các Tông đồ truyền lại.[10] Tầm trọng yếu của đặc tính tông truyền cốt ở tiến trình “kế nhiệm tông đồ,” tức là, ở thực trạng và ý nghĩa của việc giám mục đoàn trở thành đoàn thể kế nhiệm các Tông đồ trong tác vụ quản trị, giáo huấn và thánh hóa. Ở đây, thiên khảo luận sẽ không bàn sâu vấn đề này, nhưng chỉ muốn nêu bật cho thấy rằng sở dĩ Giáo hội vẫn duy trì được sự sống của mình qua mọi thời đại, kể từ thời các tông đồ cho đến nay, là nhờ Chúa Thánh Thần, “linh hồn” Giáo hội. Chúa Phục Sinh – qua hành động thổi Thần Khí Ngài vào các Tông đồ – dường như muốn tái tạo một cộng đoàn nhân loại mới: như khi xưa, Yahvê đã ‘thổi sinh khí vào lỗ mũi’ Ađam (St 2:7) thể nào, thì giờ đây, Đức Giêsu cũng “thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’…” (Ga 20: 22) thể ấy; rồi Ngài sai họ lên đường để tiếp tục sứ mạng Ngài đã khởi sự. Điểm cốt lõi trong đặc tính “tông truyền” là ở chỗ Giáo hội mang nơi mình sức sống của Thần Khí Đức Kitô. Do đó, Giáo hội được tạo dựng với tính chất tông truyền và, qua biến cố Thần Khí ngự xuống trên các Tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội được giới thiệu và ra mắt thế gian; Giáo hội ấy triển nở dần lên nhờ các chứng nhân tông đồ và nhờ có Thần Khí đồng hành: “Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5:32); nhờ sức phối hiệp giữa các Tông đồ với Thần Khí, thừa tác vụ của Giáo hội đã được làm cho phong phú thêm lên: “Thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó” (6:3); Giáo hội được các Tông đồ và Thần Khí chuẩn nhận (x. 8:15-17), được hướng dẫn qua tiến trình hợp lực Tông đồ-Thần Khí: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (x. 15:28); v.v.. Chính Thần Khí là Đấng gìn giữ để Giáo hội hằng trung thành với đức tin, là Đấng “trợ giúp” để Giáo hội có khả năng hiểu biết và thích nghi được với các nền văn hóa và các thời đại khác nhau (x. Ga 14:26; 16:7-14). Cách riêng, tông truyền tính trong thừa tác vụ được biểu lộ qua – cũng như có được hiệu quả là nhờ – cử chỉ đặt tay để, qua đó, trao ban đặc sủng Thánh Thần (x. 1Tm 4:14; 2Tm 1:6). Đoàn sủng tông truyền ấy được kêu cầu cách đặc biệt khi có những biến cố mang một tầm hệ trọng lớn lao, chẳng hạn như lúc các cộng đồng đại kết nhóm họp, hoặc khi Giáo hội tuyên bố những định tín bất khả ngộ; Đức Phaolô VI đã dùng công thức như sau để chuẩn ký vào bản Hiến chế Tín lý của công đồng Vaticanô II: “Tất cả và mỗi điều đã được xác định trong bản Hiến chế Tín lý này đều đã được các Nghị phụ Công đồng chấp thuận. Và, dùng quyền tông đồ mà Đức Kitô đã trao ban, cùng với các Nghị phụ Khả kính, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quy định và xác lập tín chế này, và truyền ban hành những gì đã được Công đồng quyết nghị, vì vinh danh Thiên Chúa.”
 

III. CƠ CẤU ĐOÀN SỦNG?

Có người nghĩ rằng Giáo hội cũng được thiết chế theo một cơ cấu đoàn sủng, tạo nên thế đối trọng tương ứng với cơ cấu phẩm trật;[11] về mặt giáo hội học, vấn đề này còn đang nằm trong vòng tranh luận. Một cách thức đặt vấn đề khác cũng được lưu ý đến là việc phân định rõ giữa các yếu tố thuộc hai khía cạnh, tức là “thuộc Phêrô” hay “thuộc Phaolô.” Ở đây, thiên chuyên khảo không đi vào các tranh điểm thuộc phạm vi giáo hội học, nhưng chỉ dồn hết chú tâm vào việc minh trình về thực trạng hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong đời sống Giáo hội mà thôi.

Công đồng Vaticanô II đã ra sức làm sáng tỏ chiều kích đoàn sủng của Giáo hội.[12] Trưng dẫn thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Hiến chế Tín lý về Giáo hội trình bày rõ ràng như sau:

“Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Người và tùy nhu cầu của công việc (1Cr 12:1-11)… Cũng chính Thánh Thần ấy, do bản tính tự nhiên của mình, hợp nhất thân thể bằng thần lực Người và bằng sự liên kết tinh thần các chi thể lại với nhau; như thế, Người làm phát sinh và hun đúc đức ái giữa các tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn, thì tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn; và nếu một chi thể nào được vinh dự, thì tất cả các chi thể khác cũng chung phần hân hoan (x. 1Cr 12:26)” (số 7).

Liên quan đến cơ cấu đoàn sủng của Giáo hội, Công đồng một mặt, làm sáng tỏ về hoạt động của Thần Khí trong tác vụ của các Giám mục (x. LG 21.24.27), cách riêng là qua quyền giáo huấn của Giáo hội (x. LG 25); và mặt khác, thì nhấn mạnh đến cảm thức đức tin của hết thảy các tín hữu (x. LG 12.35) cũng như về cách thức, qua Thánh truyền, suốt cả tiến trình lịch sử Giáo hội, Thần Khí đưa dẫn hết mọi kẻ có lòng tin vào trong chân lý (x. DV 8). Bởi đó, trong Giáo hội, không có bất kỳ một thứ quan hệ nào xác lập theo kiểu một chiều từ trên xuống dưới, giữa hàng giám mục với hàng linh mục (x. LG 28; PO 7; CD 16.28), hoặc giữa giới giáo dân với hàng linh mục và giám mục (x. LG 37; PO 9; AA 25). Dù Giáo hội không phải là một thể chế dân chủ – xét theo ý nghĩa hiện thời của thuật ngữ này – nhưng kết quả phát sinh từ hoạt động của Thần Khí lại làm cho Giáo hội có được một cách thức sinh hoạt dân chủ hơn nhiều.

Giáo hội là một đoàn thể, trong đó, các đoàn sủng khác nhau tương tác lẫn nhau theo một cung cách phối hợp chặt chẽ, góp phần hài hòa đẩy mạnh sức tăng triển cho Thân thể. Hiện hữu theo cách thức ấy, Giáo hội được gọi là “Giáo hội hiệp thông”; nếu “Giáo hội hiện diện như ‘một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’” (LG 4), thế tất, Giáo hội chính là “mối hiệp thông của Thánh Thần” theo một cung cách năng động nhất. Các chức vụ khác nhau, kiến lập nên cơ cấu bên trong Giáo hội (x. LG 13), hằng được Chúa Thánh Thần duy trì và củng cố để luôn ở trong tình trạng hài hòa (x. LG 22). Do vậy, có thể nói được rằng Giáo hội không hề bị phân đôi giữa một bên là hàng giáo phẩm và bên kia là giới giáo dân; toàn bộ thân thể – tức Dân Thiên Chúa – mang tính chất vừa phẩm trật, mà cũng vừa đoàn sủng. Các “cấp bậc” trong Giáo hội, nói theo một cách nào đó, là hệ thống phân cấp giữa hàng giáo phẩm và giới giáo dân hay, nói theo một cách khác, giữa hàng giáo phẩm, giới giáo dân và bậc tu sĩ. Nhưng, tất cả đều thấm đượm sâu đậm ân sủng tiếp sinh lực của Thánh Thần. Nói cho cùng, ngay cả các đoàn sủng cũng được xếp theo hệ thống phân bậc.

Có thể suy tư về thực trạng đó theo một cung cách khác qua việc dồn hết nỗ lực để đào sâu điều đọc gọi là ba tác vụ của Đức Kitô: kỳ thực, chỉ có một tác vụ duy nhất – làm  Đấng Trung gian – với những chức năng khác nhau. Theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, mọi dân tộc phải hợp nhất thành một. “Chính vì mục đích này mà Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, Ðấng mà Ngài đã đặt làm thừa kế vũ trụ (x. Dt 1:2), hầu trở nên Thầy, Vua và Tư Tế cho mọi người, và nên Thủ Lãnh của dân tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa” (LG 13). Phần tiếp theo sẽ trình bày chi tiết về các chức năng vừa nêu.
 
IV. CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ

Thánh Thần đã xức dầu tấn phong Đức Giêsu để Ngài trở nên Kitô, Đấng Thiên sai-Vua mà dân Ítraen trông chờ. Giờ đây, Ngài đang ngự trên ngai vinh hiển, bên hữu Chúa Cha, nắm trong tay hết thảy mọi uy quyền trên trời và dưới đất. Ngài là Đầu của Giáo hội, tức là Đầu của Thân thể, của Hiền thê, của Dân Ngài (x. Ep 1:22; 4:15; Cl 1:18; 2:19; Pl 2:6-11). Qua các tông đồ, Ngài hằng dõi theo từng bước đi – cũng như luôn ra sức che chở cho – đoàn con cái Ngài. Ngài đặt các tông đồ làm mục tử để họ tiếp tay Ngài trong nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên; và dù giờ đây đã ngự trên thiên đàng, nhưng các ngài vẫn tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên Giáo hội.[13] Thuộc dân tộc vương giả, hết thảy mọi kitô hữu đều được dự phần vào chức năng đó: “Các kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, thì trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mỗi người” (LG 31). Nền tảng việc dự phần đó có là các bí tích: bí tích Thánh tẩy đối với tất cả mọi tín hữu và bí tích Truyền chức thánh đối với hàng giáo sĩ. Nơi bí tích Thánh tẩy, mọi Kitô hữu được nhận ơn xức dầu của Chúa Thánh Thần, và kết quả là mang lấy một mức độ trách nhiệm hết sức lớn lao đối với toàn thể Dân Thiên Chúa.

Song trước hết, đó là trách nhiệm mỗi kitô hữu phải có đối với chính mình. Đề cập đến đời sống thiêng liêng cá nhân, thánh Ambrôxiô đã viết như sau: “Đích thực được gọi là vua, kẻ làm cho thân xác mình trở nên một chủ thể tuân phục và – qua việc làm chủ chính mình theo mức độ nghiêm túc thích đáng – nhất quyết không để các dục vọng làm phát sinh tình trạng nổi loạn trong tâm hồn; như thế, kẻ đó đang thực sự hành sử một dạng năng quyền vương giả trên chính bản thân mình. Và do nắm được cách thức cai trị con người mình theo tư thế của một vị vua, kẻ đó cũng được ngồi vào vị trí quan tòa trong việc xét xử chính mình. Kẻ đó sẽ không để mình bị cầm hãm trong ngục tù tội lỗi, hay phải đâm đầu vào chỗ ô trọc, hiểm nguy.”[14] Việc dự phần vào quyền thống trị của Đức Kitô trên hết muôn loài, mang đến cho người kitô một mức tự do lớn lao, một nhãn quan đích thực về các giá trị: “Tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3:23), và một sức giải phóng khỏi nỗi lo sợ ác thần cùng quyền lực sự dữ (x. Ep 6:16; Cl 1:16; 2:15).

Chức năng vương giả ấy cũng đòi phải đóng một vai trò tích cực trong việc điều hành Giáo hội.[15] Những đường nét có tính cách mục vụ của vai trò này đã được Giáo luật trình bày rõ (đk. 129 §2). Dù theo Giáo luật, vai trò chính yếu có thuộc về hàng giáo phẩm đi nữa, thì nguyên tắc phân quyền cũng đòi hỏi cần phải biết lưu ý đến và dung nhận các sáng kiến cũng như khả năng của hết thảy mọi thành phần khác trong Giáo hội.[16] Vả, “những dấu chỉ thời đại” (GS 4) – do bởi sức tác động của Thánh Thần – cũng đòi hỏi việc tham gia rộng rãi hơn của hết mọi liên hệ vào việc điều hành các tổ chức; các Giám mục Á châu dùng thuật ngữ “Giáo hội thông phần”[17] để biểu trình mô hình kiểu ấy của Giáo hội. Theo tinh thần hiệp thông và việc dự phần như thế (x. G. luật, đk. 228), một số chức năng đã được mở rộng để qua đó, giáo dân có thể tham gia vào các công tác quản trị giáo phận, chẳng hạn như: chưởng ấn (đk. 483 §2), quản lý (đk. 494), thẩm phán (đk. 1421 §2), hội thẩm (đk. 1424), kiểm toán (đk.1428 §2), thụ ủy và biện hộ (đk. 1483). Ở các quy mô cả giáo phận lẫn giáo xứ, giáo dân phải có tiếng nói trong Ủy ban Tài chính (đk. 492 §1; 537), trong Hội đồng Mục vụ (đk. 536), v.v.[18] Rõ ràng là nhờ được Thần Khí hướng dẫn, vai trò lãnh đạo của giáo dân đã trở nên nổi bật trong các Cộng đoàn Cơ bản, trong các phong trào canh tân, cụ thể là trong phong trào canh tân đặc sủng.

Chức năng vương giả của Đức Kitô chủ yếu được thể hiện qua hàng giáo phẩm trong Giáo hội, vốn dĩ là hàng ngũ được thiết lập để trước hết, kế thừa trách vụ này. Công đồng Vaticanô II đã dạy rằng:

“Chúa Giêsu Kitô, Mục Tử vĩnh cửu đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện khi sai các Tông Ðồ như Chúa Cha đã phái Người (x. Ga 20:21), và Người đã muốn các đấng kế vị, tức các Giám Mục, làm chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế ” (LG 18).

Ở đây, thiên chuyên khảo chỉ dồn chú tâm vào việc nêu bật điểm này là chức vụ vương giả ấy phát xuất từ ân huệ của Thánh Thần. Công đồng đã làm sáng tỏ một điểm giáo lý – về bản chất đoàn sủng của mọi “năng quyền” trong Giáo hội – vốn đã được thần học bàn cãi rất nhiều:

“Ðể chu toàn nhiệm vụ cao trọng ấy, các Tông Ðồ được Chúa Kitô đổ tràn Thánh Thần cách đặc biệt (x. Cv 1:8; 2: 4; Ga 20:22-23). Và các ngài thông truyền các ơn thiêng ấy cho các cộng sự viên khi đặt tay trên họ (x. 1Tm 4:14; 2Tm 1:6-7). Và qua việc tấn phong Giám Mục, ơn thiêng ấy được thông truyền cho đến chúng tôi.[19] Thánh Công Ðồng dạy rằng, khi được tấn phong, các Giám Mục nhận lãnh sự trọn vẹn của bí tích Truyền Chức Thánh… của chức linh mục tối cao và nhận lãnh thực tại toàn vẹn của thánh vụ.[20] Việc tấn phong Giám Mục trao ban nhiệm vụ thánh hóa cũng như nhiệm vụ giảng dạy và quản trị…” (LG 21).

Giáo huấn của công đồng về việc Thần Khí ban phát “các ân huệ theo phẩm trật” cho Giáo hội (x. LG 4) làm cho nhớ lại lời thánh Phaolô từng giảng dạy: trong Giáo hội, Thần Khí “đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị…” (1Cr 12:28). “Tông đồ đoàn” hiện diện trong “giám mục đoàn”, đặc biệt là qua cử chỉ đặt tay, một nghi thức trao ban Thánh Thần (x. 1Tm 4:14; 5:22; 2Tm 1:6). Trong các nghi thức truyền chức phó tế, linh mục và giám mục, lời nguyện truyền phép mà truyền thống dùng đến là lời nguyện epiclesis (kinh cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống); mọi năng quyền trong Giáo hội đều phát xuất từ Thần Khí; chính vì lẽ đó mà công đồng mới đề cập đến dạng “ân huệ thiêng liêng mà các linh mục nhận lãnh qua việc thụ phong” (PO 10). Và do sự việc mọi quyền hành đều bắt nguồn từ đoàn sủng như thế, nên trong Giáo hội, không một chi thể nào được phép tỏ thái độ lạm quyền, trái lại, tất cả đều có bổn phận phục vụ lẫn nhau. Thánh Phêrô đã lên tiếng nhắc nhở các vị cầm quyền trong Giáo hội như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy” (1Pr 5:2).
 
V. CHỨC NĂNG NGÔN SỨ

Đức Kitô là vị Ngôn sứ Cả, được Thần Khí xức dầu tấn phong, như chính Ngài đã công bố (x. Lc 4:17-21); việc xức dầu ấy phát xuất từ nơi Ngài – như từ Đầu của Giáo hội – và được truyền ban đến hết mọi chi thể. Từ thuở sơ khai của Giáo hội, đoàn sủng ngôn sứ đã được liên kết cách đặc biệt với Thần Khí. Có thể nhận thấy rõ rằng chức năng ấy được thông ban cho hết thảy những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, và mức độ thông phần vào chức năng đó được gia tăng thêm lên qua mỗi nghi thức xức dầu, tức là qua các bí tích Thêm sức và Truyền chức Thánh. Thêm vào đó, đoàn sủng này được nối kết cách đặc biệt với sứ ngôn, bởi vì hơi thở và lời nói, tức Thần Khí và Đức Kitô, luôn đi đôi với nhau. Thần Khí chính là Đấng mạc khải chân lý của Thiên Chúa (các mầu nhiệm), như lời thánh Phaolô diễn tả: “còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mạc khải [những điều đó] cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, vì Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa… nên chúng ta có thể nhận biết được những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta; để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí” (1Cr 2:9-13).

Nên phân biệt rõ giữa đoàn sủng ngôn sứ và tác vụ ngôn sứ; đoàn sủng ngôn sứ là thực trạng không thể tiên đoán và được thể hiện qua hành động; còn chức năng ngôn sứ thì có tính cách cố định như một chức vụ. Có thể đọc thấy trong Cv 21:9-10 một thí dụ điển hình về hai thực trạng vừa nêu: ở câu trước, thánh Luca trình bày sự việc ông Philípphê có bốn người con gái được ơn nói tiên tri, nhưng ngay trong câu sau, ngài nhắc đến ông Agabô, một ngôn sứ. Giờ đây, chức năng ngôn sứ, xét như một thể chế riêng biệt, không còn hiện diện trong Giáo hội nữa. Dù vậy… Thần Khí vẫn tiếp tục duy trì chức năng ấy theo một cung cách khác.

“Tinh thần tiên tri” (PO 2) được trao ban cho hết mọi thành phần Dân Chúa – tùy cương vị riêng của mỗi người trong Giáo hội – hầu “sứ mạng ngôn sứ” của Đức Kitô có thể được duy trì cho đến ngày tận cùng lịch sử (x. LG 35). Việc dự phần có tính cách căn bản này vào tác vụ ngôn sứ của Đức Kitô tạo ra một khả năng dung nhận hết thảy mọi dạng ân sủng tiên tri cần thiết cho việc thi hành tác vụ của lời và làm chứng tá cho Đức Giêsu Kitô. Thánh Thần ứng đáp trước mọi thách đố của lịch sử (hoặc của Tội lỗi, Sự dữ và Thế gian) bằng cách kêu gọi một số chi thể thuộc đoàn thể ngôn sứ, tức Giáo hội, đứng lên để “nói tiên tri” – theo cung cách êm thấm nhẹ nhàng hoặc chấn động quyết liệt. Các ngôn sứ đi theo cung cách nhẹ nhàng, như: Mẹ Tê­rêxa Calcutta, Đức cha Romero ở El Salvador, v.v.; hoặc là theo cung cách quyết liệt, như: Cha Daniel Berrigan, S.J., Đức tổng Giám mục Desmond Tutu, v.v.

Đoàn sủng ngôn sứ có thể được thiết lập thành cơ chế,  tựa như các ngôn sứ chuyên nghiệp trong Giáo hội sơ khai, hoặc như các Dòng tu hiện đang thấy. Các vị sáng lập dòng thường là những cá nhân được Thần Khí linh hứng để khởi xướng các công cuộc canh tân trong Giáo hội (chẳng hạn như thánh Phanxicô Átxidi, thánh Inhã Loyola, v.v.), và rồi, các dòng tu đã chào đời như là kết quả của các đoàn sủng đó. Đoàn sủng ngôn sứ mà các vị sáng lập dòng tu lãnh nhận tiếp tục được duy trì trong cộng đoàn của các ngài. “Các Nghị phụ công đồng đã đặc biệt nhấn mạnh đến đặc tính ngôn sứ của đời sống thánh hiến. Đặc tính ấy mặc lấy một dạng thể đặc biệt của việc dự phần vào chức năng ngôn sứ của Đức Kitô mà Chúa Thánh Thần đã chuyển thông cho toàn thể Dân Thiên Chúa.”[21]

Các phong trào là những khí cụ của thần khí ngôn sứ thường được dùng để đẩy mạnh đà triển phát của một công cuộc canh tân nào đó trong Giáo hội. Thử nhớ lại chẳng hạn các phong trào khác nhau, như phong trào canh tân Phụng vụ, các nguồn liệu vốn có về Kinh thánh và kho tàng giáo huấn của các Giáo phụ, thậm chí cả chủ nghĩa tân đại nữa, v.v. để thấy chúng đã có thể được coi như là những bước sửa soạn cho Công đồng Vaticanô II; và rõ ràng hơn cả, phong trào canh tân đoàn sủng là bước hợp tác hữu hiệu nhất để Chúa Thánh Thần “thích nghi” với bầu khí Giáo hội hiện thời.

 


[1] Contra Celsum, 8; SC 150:224.

[2] LG 4, đây là câu trưng dẫn lời thánh Cyprianô, De oratione dominica 23, PL 4.553. Công đồng cũng dẫn lại lời thánh Âugutinô phát biểu như sau, trong Sermo 71. 20.33, PL 38.463: Giáo hội… “là – có thể nói như vậy – công trình đích thực của Chúa Thánh Thần, đương nhiên là với sự hiệp tác của cả Cha và Con, bởi vì Thánh Thần, nói theo một ý nghĩa chắc chắn, là một đoàn thể gồm chính mình, Cha và Con (Societas est quodammodo Patris et Filii ipse Spiritus Sanctus) … Thánh Thần kết liên chặt chẽ với Cha và Con, vì Người là Thần Khí duy nhất của cả hai Đấng ấy.”

[3] Thánh Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học, I q. 43 a. 7.

[4] Thông điệp Chúa và là Đấng ban Sự sống, số 28.

[5] Công đồng đề xuất một danh sách phong phú về các nguồn liệu tham khảo; xin xem: Leo XIII, Epist. Encycl Divinum illud, 9 maii 1897: AAS 29 (1896-97) tr. 650. Pius XII, Litt Encyl. Mystici Corporis, 1. c., tt. 219-220; Denz. 2288 (3808).S. Augustinus, Serm. 268, 2: PL 38 232, ct alibi. S. Io. Chrysostomus in Eph. Hom. 9, 3: PG 62, 72. Didy­mus Alex., Trin. 2, 1: PG 39 49 s. S. Thomas, In Col. 1, 18 cet. 5 ed. Marietti, II, n. 46 (Sicut constituitur unum corpus ex unitate animae, ita Ecelesia ex unitate Spiritus…).

[6] Đức Gioan Phaolô II, bài Huấn giáo ngày 8 tháng 7 năm 1998.

[7] Xin xem Karl Rahner, The Dynamic Element in the Church (Quaes­tiones Disputatae, 12), Herder and Herder, New York, 1964; xin cũng xem Opsahl, Paul D. ed.,  The Holy Spirit in the Life of the Church, Augsburg, Minneapolis, 1978.

[8]  Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 737.

[9]Avery Dulles, SJ, The Catholicity of the Church, Oxford: Clarendon, 1985.

[10] John J. Burkhard, OFMConv. Apostolicity Then And Now: An Ecumenical Church In A Postmodern World, Collegeville: Liturgical Press, 2004.

[11] Hans Küng, The Church, New York: Sheed and Ward, 1968; “The Charismtic Structure of the Church” trong: Concilium, Vol. 1 (London 1965) Issue 4, tt. 23-33.

[12] Xem, chẳng hạn, LG 4; 12; 49; AA 3; AG 4; 29.

[13] Xem Kinh Tiền tụng các Tông đồ I, sách Lễ Rôma.

[14] Thánh Ambrôxiô, In Psalm. 118. 14,30, PL 15.1403A.

[15] Xem Yves Congar, Jalons pour une théologie du laïcat, Paris : Cerf 19542, Ch.V, tt. 314-366.

[16] Xem Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1994.

[17] FABC VI (1995), số 7.

[18] Xem chẳng hạn trong Dr. Zeni Fox, Laity in Leadership Roles in the Church in the United States Today: A Theological and Pastoral Over­view, Washing­ton: FADICA, 2000.

[19] CÐ Trentô, khóa 23, ch. 3, trích 2Tm 1:6-7 để chứng minh phép truyền chức thánh thực sự là một bí tích: Dz 959 (1766).

[20] Trong Trad. Apost. 3, x.b. Botte, Sources Chrétiennes, tt. 27-30, Giám Mục có chức linh mục cao nhất (primatus sacerdotii). Xem Sacramentarium Leonianum, x.b. C. Mohlberg, Sacramentarium Veronense, Roma, 1955, tr. 119: “ad sum­mi sacerdotii ministerium… Comple in sacerdotibus tuis mysterii tui sum­mam”… n.t., Liber Sacramentorum Romanae Ecclesiae, Roma, 1960, tt. 121-122: “Lạy Chúa, xin ban cho họ ngai giám mục để họ điều khiển Giáo Hội Chúa và toàn dân”: x. PL 78, 224.

[21] Tông huấn Vita Consecrata, số 84.