Thần Học Về Chúa Thánh Thần (4/1)

0
1199


KHÁI LUẬN THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

Tác giả: Lm. Felipe Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

PHẦN IV: THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

 

Như đã thấy, thần học đang phải đối diện với những khó khăn đặc biệt trong việc xác định cho thích đáng và minh bạch “bản tính” và “sự sống” của Chúa Thánh Thần. Sở dĩ phải dùng đến các từ “bản tính” và “sự sống” ở đây là bởi vì tất cả mọi thuật ngữ được dùng để nói về Thiên Chúa đều mang tính cách loại suy; và ở đây, với đối tượng nhắm tới là Chúa Thánh Thần, phép loại suy lại càng phải hơn bao giờ hết, được dùng đến. Nói về Ngôi Hai, Kinh Thánh dùng một số danh hiệu như: Giêsu, Con, Kitô, Lời,… có thể giúp gầy dựng nên các dạng loại Kitô học khác nhau. Còn đối với Ngôi Ba, ngữ vựng được dùng để giới trình tỏ ra là phong phú hơn nhiều nhưng cũng mơ hồ hơn rất nhiều, như: gió, nước, hơi thở, dấu ấn, việc xức dầu, ân huệ, tình yêu, v.v., và từ đó cũng đã làm phát sinh nhiều dạng Thần khí học, tức rất nhiều cách hiểu về Chúa Thánh Thần. Chỉ có một đức tin duy nhất, song lại có nhiều dạng loại thần học khác nhau. Phương Đông cũng như phương Tây đều đề xuất nhiều cách hiểu khác biệt nhau về Ba Ngôi, cách riêng là về Chúa Thánh Thần. Giữa tình trạng bất đồng đó, vấn đề nhiệm xuất của Thánh Thần đã trở thành một chủ đề nổi bật, đưa đến những tranh luận gay gắt, và rốt cuộc, đã được dùng làm lý chứng thần học biện minh cho việc chia rẽ chính trị vốn đã ngấm ngầm âm ỉ từ lâu.[1]

I. CÁC HÌNH ẢNH VÀ DANH HIỆU CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Các hình ảnh cũng có thể được coi như là con đường dẫn tới chân lý. Cách hoạt động thông thường của lý trí con người là đi từ điều đã biết đến cái chưa biết, từ điều đã rõ đến cái mờ mịt, hoặc từ tình trạng khả giác đến cảnh giới khả tri, và cứ tiếp tục theo cung cách đó, v.v. Để nói về Chúa Thánh Thần, thì có thể vừa dựa vào những danh hiệu và hình ảnh được trình tả trong Kinh Thánh, vừa dựa vào những kinh nghiệm xuất phát từ Giáo hội và tâm hồn con người; và nhất thiết phải giải thích những danh hiệu, những hình ảnh và kinh nghiệm ấy làm sao để chúng trở thành sáng tỏ. Mỗi một hình ảnh, mỗi một danh xưng đều biểu thị một khía cạnh trong thực thể của Thánh Thần; thế nên, chỉ có một cách là đi qua con đường đối chiếu tất cả với nhau, rồi tổng hợp các cách cắt nghĩa lại, thì mới mong phác họa được một bức tranh tổng thể về thực thể muốn trình tả là Thánh Thần. Riêng đối với các kinh nghiệm, việc cắt nghĩa chúng lại càng tỏ ra khó khăn gấp bội, bởi các kinh nghiệm nội tâm có thể cho thấy một chứng cứ nào đó, song hiếm khi nào mang lại được một ý niệm rõ rệt về thực tại cảm nhận được qua kinh nghiệm. Do đó, thiết tưởng bao giờ cũng nên lưu ý rằng ở đây, ngôn ngữ biểu đạt luôn luôn mang tính cách ẩn dụ cao độ, phải được hiểu qua phép loại suy, nhất là khi đối tượng được giới trình là Mầu nhiệm Tuyệt đối;[2] đây là đối tượng mà trong những gì nhận thức được thì phần không đúng lớn hơn là phần đúng. Công đồng Latêranô thứ 4 (1215) đã dạy rằng, “giữa Đấng tạo hóa và các thụ tạo, không có một mức giống nhau lớn đủ để có thể làm cho mờ đi việc nhận ra rõ quãng cách khác biệt giữa đôi bên” (DH 806).
 

II. DANH HIỆU THÍCH ĐÁNG DÀNH CHO THÁNH THẦN

Chẳng hề có lấy một danh hiệu nào thích hợp và vừa vặn để biểu trình bản tính của Ngôi Ba Thiên Chúa cả. Dù vậy, dựa trên nền tảng Kinh Thánh, truyền thống đã dành cho Ngôi Ba một số danh hiệu nhất định, ngầm được coi là thích đáng; và thần học thường dùng đến ba trong các danh xưng đó: Chúa Thánh Thần, Tình Yêu, và Ân Huệ. Tự nó, từ ngữ Thần Khí cũng đã có thể được quy chiếu cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” – Đức Giêsu đã nói như thế với người phụ nữ Samari – và Người muốn được tôn thờ “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:24). Còn từ “thánh” thì chỉ về yếu tính của Thiên Chúa, và do đó, Cha, Con, và Thánh Thần đều chí thánh như nhau. Dù vậy, Tân Ước, đặc biệt là thánh Luca trong sách Công vụ Tông đồ, đã nhiều lần gọi Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần; dựa theo đó, truyền thống Giáo Hội cũng đã tuyên xưng danh hiệu đó, cả trong kinh nguyện – phụng vụ – lẫn trong thần học nữa.

Tình Yêu (Amor, Caritas)theo thánh Tôma Aquinô (I q.37 a.1), cũng như theo thần học phương Tây – là một danh hiệu dành riêng cho Chúa Thánh Thần. Trong Kinh Thánh, từ ngữ Tình Yêu xuất hiện như là một định nghĩa về chính Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Tình Yêu” – thánh Gioan viết (1Ga 4:8) – và Người đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 3:16; Rm 5:8). Tình Yêu Thiên Chúa hướng ngoại (ad extra), được dành cho con người và nhắm đến các vật thụ tạo của Người. Song, lúc thần học quy gán danh hiệu này cho Thần Khí, thì nó lại diễn tả tình yêu trong lòng Ba Ngôi (ad intra), tức là tình yêu mà Cha và Con dành cho nhau. Theo cách diễn tả của các Giáo phụ, như đóa hồng ngát tỏa hương thơm, như mật ong mang lại vị ngọt, chính tình yêu nội tại giữa Cha và Con đã “thở ra” Thánh Thần. Bởi đó, Thánh Thần được gọi là Tình Yêu của Cha và Con, là “hiệu quả” của mối tình sâu đậm đó. Với ý nghĩa ấy, Thánh Thần còn được gọi là Dây Se Tình Yêu – Vinculum Amoris – kết buộc Cha và Con lại với nhau. Thần học kinh viện – khi bàn về danh hiệu Tình Yêu cách “chuyên môn”– đã cho rằng: nói theo cách “cốt tính” (essentialiter), “Tình Yêu” được áp dụng ngang nhau cho cả Ba Ngôi; nói theo cách “biệt ký” (notionaliter), nó biểu thị mối tương ái sống động giữa Cha và Con, và trở thành nguồn phát xuất của Thánh Thần; và nói theo cách “ngôi vị” (personaliter), từ ngữ này được dành riêng để chỉ Thánh Thần.[3]

Ân Huệ – Donum – là một danh hiệu khác của Chúa Thánh Thần, bởi vì, như đọc thấy trong Kinh Thánh, Đức Giêsu đã hứa là Ngài, hoặc Cha, sẽ ban tặng Thánh Thần vì tình yêu. Thánh Âugutinô giải thích rằng, để biểu thị mối hiệp thông giữa Cha và Con, “Chúa Thánh Thần được coi như là ân huệ của cả hai”;[4] và ngài giải thích thêm rằng, xét theo tư thế là Đấng phát xuất từ nơi Cha, thì Thánh Thần là Đấng Được Ban, và xét theo tình trạng cư ngụ nơi các thánh, thì Người được gọi là Ân Huệ. Trong Ba Ngôi, Cha không thể được chuyển ban, bởi vì Ngài là nguồn gốc tuyệt đối của mọi sự; chỉ có Con và Thánh Thần là được trao ban, được gửi đến thế gian, mà thôi. Dù vậy, chỉ có một mình Thánh Thần mới được gọi là Ân Huệ bởi vì Người được trao ban bởi cả Cha và Con, và Người là Tình Yêu, là gốc nguồn của mọi thánh ân. Đức Gioan Phaolô II viết rằng: “Có thể nói rằng, trong Chúa Thánh Thần, đời sống mật thiết của Ba Ngôi Thiên Chúa đã trở nên một ân huệ trọn vẹn, một tình trạng chuyển thông của mối tương ái giữa các Ngôi Vị; và thông qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa ‘tồn tại’ trong dạng thức là ân huệ. Chúa Thánh Thần chính là hiện thân của ân huệ tự trao ban, của tình yêu hằng hữu. Người là Ngôi Vị-tình yêu. Người là Ngôi vị-ân huệ.”[5] Đó là lý do tại sao bài phụng ca Veni, Creator Spiritus gọi Đấng Bảo Trợ là “Ân huệ của Thiên Chúa Tối Cao.” Trong bài giảng đầu tiên sau ngày Lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã mời gọi thính giả nghe ngài hoán cải và đón nhận phép rửa, để “anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (x. Cv 2:38; 10:45);[6] qua lời mời gọi đó, thánh nhân muốn xác quyết rằng, “Chúa Thánh Thần chính là ân huệ.” Các người viết tiểu sử thánh thường đề cập nhiều hơn đến những ân huệ Chúa Thánh Thần trao ban; song, vì là Thiên Chúa và là Tình Yêu, nên Thánh Thần cũng tự thông ban chính Người qua các ân huệ đó nữa. Bởi thế, dù có coi ơn thánh hóa như là một ân sủng thụ tạo, thì thần học cũng luôn giả định về tình trạng có mặt của ân sủng vô tạo nữa, tức là sự hiện diện của chính Đấng ban ơn Thánh Hóa. Với nhãn quan này, thần học coi Chúa Thánh Thần như là ân huệ đầu tiên, bởi vì điều trước hết “được trao ban” trong bất cứ một ân huệ nào, luôn là tình yêu và là chính Đấng ban tặng.

1. Chúa Thánh Thần

Như đã thấy, thuật ngữ “Thần Khí” mang một ý nghĩa rất dồi dào trong Kinh Thánh, từ ý chỉ gió cho đến nghĩa biểu thị sự hiện diện thánh thiêng. “Thánh” có nghĩa là thần linh, là thuộc về Thiên Chúa; và vì chỉ có Thiên Chúa mới được gọi là Đấng Thánh, nên Thánh Thần – cũng như Thần Khí – chính là Thiên Chúa.

Thần Khí là một thực tại vô hình, tựa như gió vậy. Nếu coi đó là một sự vật, thì sự vật đó vô hình; nếu coi đó là một con người, thì con người đó không thấy mang một bộ mặt cụ thể nào; và do đó, chỉ có thể quả quyết được một điều duy nhất là: Thần Khí không phải là sự này điều nọ; Ngài không phải là được tạo thành, không phải là vật chất. Trong Kitô giáo, có một số ý niệm chỉ về các thần khí thụ tạo, như: bậc thiên thần,[7] giới vong linh,[8] lớp thần dữ,[9] v.v.; song, những thực thể này không phải là thần linh; chúng bị giới hạn về mặt hiện hữu và năng quyền; vả lại, mức độ hiểu biết của con người về chúng thì rất mờ nhạt, thiếu chính xác và không có gì là chắc chắn.

Thánh Thần chính là Thiên Chúa và, do đó, có những phẩm tính tuyệt đối của Thiên Chúa, như: vô tạo, hằng hữu, vô biên, toàn năng. Bởi đó, hễ có bất cứ một phẩm tính nào được quy gán cho Thiên Chúa, tất nó cũng phải được quy gán cho chính Thánh Thần.

2. Các cách giải thích về danh hiệu Thánh Thần

Các tính ngữ khác nhau – thường thấy đi kèm với từ Thần Khí – đã giúp soi sáng để rõ thêm về đối tượng muốn tìm hiểu; có thể đọc thấy các cụm từ bổ túc ý nghĩa này trong Kinh Thánh và trong phụng vụ Giáo hội.

a. THẦN KHÍ SÁNG TẠO là tên của một bài phụng ca nổi tiếng (Veni, Creator Spiritus…), nêu bật vai trò của Thần Khí trong công cuộc sáng tạo. Văn đoạn Kinh Thánh mà bài phụng ca này dựa vào để triển khai là Thánh vịnh 104:30: “Sinh khí [Ruah=Khí] của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” Còn đối với văn đoạn St 1:2, dù nó mang ý nghĩa nước đôi, nhưng truyền thống Giáo hội và thần học kitô cũng đã nhìn thấy ở đó hoạt động của Thần Khí, trong tư cách vừa là “ngón tay của Thiên Chúa” – tức là “tiếp điểm” giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với các vật thụ tạo – vừa là tình yêu, bởi Thiên Chúa thực hiện mọi sự vì tình yêu. Bằng cặp mắt đức tin, người kitô có thể “nhìn ra” sự hiện diện của Thánh Thần trong hết thảy những gì đang tồn tại; nhờ Người, mọi thụ tạo được hiện hữu và trở nên sống động, cũng như mặc lấy vẻ đẹp rực rỡ, huy hoàng. Danh hiệu Thần Khí Sáng Tạo luôn đi đôi với các ý niệm về quyền năng và sự sống.

b. QUYỀN NĂNG ĐẤNG TỐI CAO: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Trong tư cách là “ngón tay” hay “bàn tay” của Cha, Thần Khí sẽ thực hiện những việc lạ lùng, làm nên những kỳ công, và tỏ cho thấy uy quyền của Thiên Chúa (mirabilia/magnalia Dei); trong đó, biến cố hàng đầu và cao cả nhất mà Thần Khí thực hiện chính là cuộc Nhập Thể của Ngôi Hai. Kế đến, hành động thứ hai tỏ rõ uy quyền của Thiên Chúa, như Giáo hội đã nhận ra, là ơn tha thứ tội lỗi, điều đọc thấy trong lời nguyện của Chúa nhật thứ 26 mùa thường niên: “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả…” Tiếp nữa, có thể kể đến các hành động can thiệp vào dòng lịch sử, chẳng hạn như là việc giải phóng dân tộc bằng “cánh tay uy quyền” của Thiên Chúa (Xh 32:11; Đnl 4:34; v.v.). Do đó, hễ nơi nào quyền năng Thiên Chúa được biểu lộ – cả trong cuộc sáng tạo, lẫn trong cuộc tái tạo (phép rửa, ơn thánh hóa, sự sống lại,…) – thì nơi đó, Thần Khí hiện diện.

c. THẦN KHÍ SỰ SỐNG, hoặc THẦN KHÍ BAN SỰ SỐNG, là danh hiệu biểu thị quyền năng Thiên Chúa trong hành vi sống động hóa mọi hữu thể tự nhiên lẫn siêu nhiên. Thánh Phaolô trình bày sơ quát về dạng sự sống mà Thần Khí ban tặng: Người không chỉ làm cho con người trở nên sống động, mà còn làm cho họ có thể sống tự do trong tư cách là con cái Thiên Chúa: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Ðức Kitô Giêsu, thì không còn bị lên án nữa. Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Ðức Kitô Giêsu, đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8:1-2). Trong văn đoạn vừa nêu, thần học đọc thấy hai phương diện: a) mặt tiêu cực, tức là việc tha thứ tội lỗi, và b) mặt tích cực, tức là việc nâng phẩm giá con người lên bậc nghĩa tử. Trong kinh Tin kính, Thánh Thần được tuyên xưng là “Chúa và là Đấng ban Sự sống” (vivificans); bởi đó, Ngôi Ba Thiên Chúa chuyển ban cho con người sinh khí của Người (x. St 2:7); hơn nữa, nhờ đó, con người còn được thông phần vào bản tính Người (x. 2Pr 1:4), Đấng là “Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16:16). Điều này cắt nghĩa việc có thể dành cho Ngôi Ba một tên gọi khác, đó là: “Thần Khí của Thiên Chúa Hằng sống” ( 2Cr 3:3). Dù vậy, hành động ban sự sống này đã đạt tới cực điểm của nó với cuộc phục sinh của Đức Giêsu và, do đó, của cả chúng ta nữa: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11).

d. THẦN KHÍ CỦA LỜI HỨA. Thánh Phaolô đã nói về “Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa hứa ban” (Ep 1:13), và về “lời hứa ban Thần Khí” (Gl 3:14). Trong lần đầu tiên đề cập đến việc “ban Thánh Thần đã hứa” – Thánh Thần mà Đấng Phục Sinh đã nhận lãnh từ nơi Cha (x. Cv 2:33) – thánh Phêrô đã xác định rõ ràng rằng Đấng ấy chính là Thần Khí mà các ngôn sứ đã từng hứa trong Cựu Ước, là Đấng được mong đợi sẽ xuất hiện vào thời Thiên Sai đến. Với ý nghĩa này, Thánh Thần gồm thâu nơi mình tất cả mọi ân huệ của Thiên Chúa, và trở thành Đấng hoàn tất mọi biến cố cứu độ của Thiên Chúa đã trải rộng suốt dòng lịch sử và nơi mỗi con người. Tất cả những gì Lời Thiên Chúa đã phán ra đều được hiện thực hóa trong Thánh Thần; mọi điều Thiên Chúa dự định làm cho và với con người, đều trở thành hiện thực nhờ Thánh Thần. Có thể lược trình ra đây một danh sách bao hàm các điều Thiên Chúa hứa: ơn tha thứ, ơn giải thoát, sự sống dồi dào, ơn làm nghĩa tử, việc Thiên Chúa hiện diện giữa con người – Emmanuen! – v.v., tất cả những lời hứa đó đều được hoàn tất trong Thánh Thần. Với việc ban tràn đầy Thánh Thần, thời cánh chung – tức vào thời gian cứu độ ấn định – đã xuất hiện; không một lời hứa nào, không một niềm trông đợi nào, không một hành vi trao ban nào, có thể vượt quá được thực tại ấy. Nhờ đó, tình huynh đệ phổ quát, nước Thiên Chúa, nền văn minh tình yêu, v.v. đều trở thành khả dĩ trong Chúa Thánh Thần.

e. THẦN KHÍ BAN ÂN SỦNG ắt cũng mang một ý nghĩa tương tự: tác giả thư Do thái đã nghiêm khắc cảnh cáo những ai “đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng” (Dt 10:29). Lời lẽ đó dường như là một tiếng vẳng vọng lời tiên tri Dacaria đã từng nói: “Ta sẽ đổ xuống cho nhà Ðavít… thần khí của ân sủng, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện, và chúng sẽ ngước nhìn lên Ðấng chúng đã đâm thâu, và chúng sẽ khóc than Người như người ta khóc than đứa con một…” (Dcr 12:10). Trên đồi Canvê, Gioan đã thấy các lời tiên tri ấy được ứng nghiệm (x. Ga 19:37) qua sự việc nước và máu cùng đổ ra từ trái tim Đức Kitô: một dấu hiệu nói lên việc đổ dư tràn Thần Khí nhờ trung gian là người Tôi Trung đau khổ (x. Is 52:13-53:12) và việc khai mở thời đại ân sủng. Tất cả các lời hứa về giao ước mới (x. Gr 31:31-34) đều đã được hiện thực hóa trong ân huệ là Thánh Thần, được đảm bảo nhờ hy tế của Đức Kitô được dâng lên qua “Thánh Thần hằng hữu” (Dt 9:13-14). Qua hy tế này, và nhờ Thánh Thần này, giờ đây, mọi thánh ân đã sẵn sàng để được ban phát và con người được khuyến khích hãy mạnh dạn tiến gần đến “ngai ân sủng” (4:16), bước vào cung lòng Thiên Chúa đầy nhân ái và xót thương.

f. THẦN KHÍ SỰ THẬT – như lời Đức Giêsu đã nói trong Ga 14:17; 16:13 – chính là Thầy dạy của các ngôn sứ cũng như của các tác giả khác trong Kinh thánh; hành động dạy dỗ ấy thần học gọi là tác động “linh hứng.” Bên cạnh đó, Người còn là Đấng đảm bảo xác thực tính của các chân lý mạc khải trong Giáo hội, qua một cách thế quan phòng mà thần học gọi là tác động “hộ trợ.” Giải thích văn đoạn Kinh Thánh vừa trưng dẫn, thánh Tô­ma viết: “Nơi chúng ta, việc thụ nhận và suy tư chân lý làm cho lòng ta mến mộ chân lý; cũng tương tự như thế, trong Thiên Chúa, hành động thụ nhận (= tựa như thụ thai) chân lý tức là Con, dẫn đến sự việc Tình Yêu phát xuất; và bởi phát xuất từ chính Chân lý, nên Tình yêu ấy (=Thần khí) dẫn đến việc hiểu biết chân lý… bởi vì chính tình yêu mới vén tỏ những gì bí ẩn.”[10] Thánh Thần được gọi là “Thần Khí Sự Thật” bởi vì a) Người xuất phát từ Sự Thật (tức là từ Con; x. Ga 14:16), b) Người vén tỏ những gì bí ẩn nơi Thiên Chúa (1 Cr 2:10), và c) Người đối nghịch với tà khí/tà thần gian dối (Ga 8:44). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu bảo rằng thế gian không thể đón nhận Thần Khí này được (Ga 14:17) bởi vì sự thật của Người là hoàn toàn đối lập với các chuẩn mực của thế gian đến độ, trên thực tế, tình trạng đối nghịch đó sẽ dẫn đến sự việc thế gian bị lên án (16, 8:11). Trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã khai triển thêm về điểm này qua việc so sánh kiểu khôn ngoan thế gian với đường lối khôn ngoan của người kitô, rồi đưa ra kết luận như sau: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì thuộc Thần Khí Thiên Chúa, vì họ cho là sự điên rồ, và họ không thể hiểu được…” (1Cr 2:14). Do đó, có thể nói rằng, Thần Khí đang hành động tại điểm tiếp giao giữa đức tin với lý trí, giữa tôn giáo với khoa học, giữa Kitô giáo với các tôn giáo hay các ý thức hệ khác.

g. THẦN KHÍ BAN ƠN LÀM NGHĨA TỬ là một danh hiệu được thánh Phaolô giải thích trong văn đoạn sau đây: “Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi!’” (Rm 8:15); cũng với các lời lẽ tương tự, ở một văn đoạn khác, ngài viết: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi!’” (Gl 4:6). Sở dĩ chúng ta được nhận làm con cái Thiên Chúa – và quả là như vậy, như lời thánh Gioan đã xác quyết (x. 1Ga 3:2) – là do Thần Khí. Thần Khí ấy đã làm cho Lời của Cha thành người trong cung lòng Đức Maria thể nào, thì Người cũng làm cho chúng ta trở nên con cái của Cha trong lòng Giáo hội thể ấy. Nhờ Thần Khí, chúng ta mới được phép tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu là Chúa” (1Cr 12:3); nhờ Thần Khí, chúng ta mới có thể cầu nguyện mà thưa lên rằng “Lạy Cha chúng con.” Nếu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần chính là dây se tình yêu giữa Cha và Con, thì cũng tương tự như vậy, nơi chúng ta, Người là dây tình yêu thắt buộc chúng ta với Cha ở trên trời và với con cái Cha ở dưới đất.

h. THẦN KHÍ CỦA CHA, bởi vì Người phát xuất từ nơi Cha (x. Ga 15:26) và được Cha ban xuống thế gian (x. Ep 1:17). Văn đoạn trước làm cho liên tưởng đến Cha của Ngôi Lời và tình trạng nhiệm xuất đời đời của Thánh Thần; văn đoạn sau làm cho liên tưởng đến Cha của chúng ta và về sứ mệnh của Thánh Thần. Đức Giêsu nói rằng: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì; thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 19: 20). Danh hiệu THẦN KHÍ CỦA THIÊN CHÚA (x. Rm 8: 9.14; 15:19; 1Cr 6:11; 7:40) cũng mặc lấy một ý nghĩa tương tự, bởi vì trong Tân Ước, hầu như “Thiên Chúa” luôn có nghĩa là Cha. Dù thế, đôi lúc, cách diễn tả này cũng để lộ tính chất nước đôi; bởi vì, một đàng, danh hiệu này có thể được hiểu theo ý nghĩa của Cựu Ước – tức ám chỉ về quyền năng hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, v.v., như khi Đức Giêsu nói: “Còn nếu tôi dựa vào Thần khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12:28) – và đàng khác, nó cũng có thể được hiểu như là một lối nói vòng vo về chính Thiên Chúa, như thánh Phaolô viết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3:16). Nếu ra sức mà tạm để một bên những chỗ tỏ ra là thiếu rõ ràng, thì phần lớn những văn đoạn nói về Thần Khí của Thiên Chúa đều biểu thị rõ ràng thiên tính của Người, bởi vì mọi hành động của Người đều mang tính cách thánh thiêng, mà những hành động dạng đó chỉ duy nhất Thiên Chúa mới có thể làm được: “Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1Cr 2:11).

i. THẦN KHÍ CỦA ĐỨC KITÔ là một danh hiệu khác của Thánh Thần, đồng nghĩa với “Thần Khí của Thiên Chúa”: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần khí chi phối, bởi vì Thần khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:9). Thánh Âugutinô đã bình luận về văn đoạn này như sau: “Anh em đã nghe chính miệng Chúa (=Kitô) công bố rằng: ‘Chẳng phải là anh em nói, song là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.’ Tương tự như thế, anh em cũng đã nghe lời thánh Tông đồ tuyên xưng như sau: ‘Thiên Chúa đã gửi Thần Khí của Con Ngài vào lòng anh em.’ Như thế, phải chăng là có đến hai thần khí: một thần khí của Cha, và một thần khí của Con? Chắc chắn là không. Nếu chỉ có một Cha duy nhất, một Con duy nhất, tất cũng chỉ có một Thần Khí duy nhất mà thôi, và do đó, Người là Thần Khí của cả hai… Thế thì, tại sao anh em lại từ chối tin rằng Người cũng xuất phát từ Con, vì Người cũng là Thần Khí của Con? Nếu Người chẳng xuất phát từ Con, thì Đức Giêsu, lúc hiện ra với các môn đệ của Ngài sau cuộc Phục sinh, hẳn đã không thở hơi trên họ và bảo rằng ‘hãy nhận lấy Thánh Thần.’ Quả vậy, hành động thở hơi này muốn nói gì nếu không phải là muốn nói lên rằng Thần Khí cũng phát xuất từ Ngài nữa?”[11] Ngoài ra, cũng có thể đọc thấy một số cách diễn tả khác, như: “THẦN KHÍ CỦA CON” (Gl 4:6), “THẦN KHÍ CỦA ĐỨC GIÊ­SU KITÔ” (Pl 1:9), “THẦN KHÍ CỦA ĐỨC GIÊSU” (Tv 16:7), và “THẦN KHÍ CỦA ĐỨC CHÚA” (2Cr 3:17-18); tất cả đều có nghĩa là quyền năng và mọi hoa trái xuất phát từ công trình cứu độ của Đức Kitô đã trổ sinh trong chúng ta nhờ bởi Thần Khí. Thánh Phaolô đã coi ơn công chính hóa như là công trình của cả Con lẫn Thánh Thần trong một hành vi bí tích duy nhất: “nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1Cr 6:11). Và tác động hiệp lực giữa hai Ngôi Vị vẫn tiếp tục diễn ra trong tiến trình đời sống thiêng liêng kitô hữu: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2Cr 3: 18). Suy diễn từ các danh hiệu đó, thần học Latinh sẽ rút ra các kết luận tương tự như các nhận định ở trên của thánh Âu­gu­­ti­nô; nhưng đó là chuyện khác, như sẽ đọc thấy trong phần tiếp theo sau đây.

j. THẦN KHÍ THÁNH là danh hiệu mà thánh Phaolô nhắc đến trong lời mở đầu thư gửi tín hữu Rôma: “Xét như một người phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thần Khí Thánh, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:3-4). Thần Khí “Thánh” có nghĩa là “Thánh” Thần; cách biểu đạt này có nguồn gốc từ Tv 51:13 và từ Is 63:10. Thuật ngữ này nhấn mạnh vào vai trò mà Thánh Thần đóng giữ trong biến cố tôn vinh đấng Mê­sia, hoặc trong cuộc xức dầu tấn phong Ngài (“Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người,” Cv 10:38). Đôi lúc, cuộc phục sinh của Đức Giêsu cũng được quy gán cho quyền năng Thánh Thần; “Thần Khí ban sự sống” và “Quyền Năng của Đấng Tối Cao” – như đã miêu trình ở trên – đều thấy hoạt động đồng thời trong Đức Kitô: Thần Khí ấy hoạt động trong biến cố Nhập Thể (x. Lc 1:32-35), trong cuộc biểu lộ phận thánh tử qua biến cố chịu phép rửa (x. Mc 1:10-11), và đặc biệt là trong cuộc phục sinh (x. Rm 8:11); chính nhờ “quyền năng phục sinh” (x. Pl 3:10) trong Thánh Thần mà, giờ đây, kế hoạch “đưa thời gian tới hồi viên mãn, quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” của Thiên Chúa đang đi đến chỗ thành tựu.

k. THẦN KHÍ QUYỀN NĂNG – hoặc là, quyền năng của Thần Khí – chính là sức năng động được biểu lộ suốt trong lịch sử cứu độ: “Thánh Thần… quyền năng của Đấng Tối Cao” hoạt động trong biến cố Nhập Thể (x. Lc 1:35); quyền năng ấy đã hướng dẫn Đức Giêsu trong sứ vụ của Ngài (x. Lc 4:14), quyền năng ấy cũng tiếp tục hướng dẫn  Giáo hội (x. Cv 1:8). Thánh Phaolô đã hăng say làm việc “bằng quyền năng của Thánh Thần” (Rm 15:19), rao giảng theo “bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng” (1Cr 2:4) nhờ đó, công trình ngài thực hiện đã sinh hoa kết trái (x. 1Tx 1:5). Cầu nguyện cho hết mọi ki­tô hữu, thánh Tông đồ đã xin Chúa Cha – “thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển – ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng” (Ep 3:16).

l. THẦN KHÍ VINH HIỂN là một danh hiệu có thể đọc thấy trong 1Pr: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1Pr 4:14). Trong các thời kỳ bách hại, Thần Khí luôn hiện diện để phù trợ cho các chứng nhân của Đức Kitô (x. Mt 10:20; Lc 12: 11-12; Ga 14:26; 16:7-15); và quả thực, việc bị bách hại vì đức công chính là việc đáng được tôn vinh (x. 1Pr 2:20; 3: 14.17). Kinh Thánh thường kết nối “vinh quang” với “Thánh Thần” (x. 2Cr 3:18; Ep 1:17; 3:16). Một số nhà bình luận cho rằng, ở đây, thư thứ nhất của thánh Phêrô đã tóm kết văn đoạn Is 11:2, nêu bật sự việc các ơn huệ phong phú của Thần Khí – mà các ngôn sứ đã hứa – giờ đây đã được trao ban đến các kitô hữu đang chịu cảnh bách hại.[12] Dường như thánh Phêrô cũng muốn nói rằng shekinah (thần cư, hoặc áng mây) biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa; do vậy, chính trong Thần Khí mà chúng ta có thể “đi vào đám mây” và ở lại với Thiên Chúa. Các Giáo phụ – cách riêng là thánh Grêgôriô thành Nixa và thánh Hilariô thành Poitier – đã đồng nhất hóa Thánh Thần với cảnh giới vinh quang.[13] Còn trong phụng vụ, bài phụng ca “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời…” được kết thúc bằng những ca từ như sau: “… cùng Đức Chúa Thánh Thần trong vinh quang Đức Chúa Cha.”

m. THẦN KHÍ LINH HỨNG CHO NGÔN SỨ là danh hiệu xuất hiện trong sách Khải Huyền: “Lời chứng của Đức Giêsu là Thần Khí linh hứng cho ngôn sứ” (Kh 19:10). Đây là lời chứng về Ngôi Lời Thiên Chúa mà Thần Khí – đã từng linh hứng cho các ngôn sứ thời xưa – vẫn tiếp tục linh hứng cho Giáo hội nhằm làm chứng cho Ngôi Lời đã thành xác phàm (x. Kh 1:2; 6:9; 12:17). Để rõ thêm, xin xem lại cách giải thích về danh hiệu “Thần Khí Vinh Hiển” ở trên.

n. THẦN KHÍ HẰNG HỮU, được nhắc đến trong Dt 9:14, biểu thị ý nghĩa sau đây: hy tế Đức Kitô đã dâng lên không thể được hiểu đơn giản như là một hành vi, hoặc biến cố mang tính cách lịch sử hay tôn giáo, nhưng phải được nhìn nhận như là một cuộc đền tội siêu việt nhờ Thần Khí của Ngài; trước tiên, danh hiệu này nói lên thần tính của Ngài chứ không chỉ tinh thần nhân tính của Ngài mà thôi.[14] Thần Khí giống như là một bầu không khí, trong đó, thiên tính sinh động hóa nhân tính, giúp cho mọi hành vi thờ phượng có thể diễn ra “trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4:23). Ý nghĩa biểu đạt của danh hiệu này còn mang tính chất mập mờ và không nhất thiết đòi phải hiểu “Thần khí” như là Ngôi Ba Thiên Chúa, nhưng chỉ như là một “phẩm chất” của vị Thượng Tế (là Đức Kitô) và của hy lễ mà Ngài trao hiến; nói cách khác, danh hiệu này chỉ phác họa cho thấy một tầm kích “vĩnh cửu” trong đó, Đức Kitô là Thiên Chúa và các hành động của Ngài vượt lên trên không gian và thời gian. Điều này làm cho nhớ lại rằng hoạt động của Đức Kitô và của Thần Khí là một – trong một tình trạng kết hiệp mật thiết đến độ bất khả phân ly, thậm chí là bất khả phân định – khiến cho thánh Tông đồ phải thốt lên rằng: “Chúa là Thần Khí” (2Cr 3:17).
 

3. Đấng Bảo Trợ

Chỉ duy nhất thánh Gioan dùng đến thuật ngữ này. 1Ga 2:1 gọi Đức Giêsu là Parakle­tos, là Đấng bào chữa và là vị trung gian cho việc ban ơn tha thứ mọi tội lỗi, hiện đang ngự trên trời cùng với Cha. Trong Tin Mừng thứ tư, thuật ngữ trên còn được hiểu theo nghĩa chỉ về “một Đấng Bảo Trợ khác” (14:16), và Đấng này đang hiện diện giữa thế gian cùng với các môn đệ; bởi có nhiều cách hiểu khác nhau về các tác vụ của Thần Khí, nên thuật ngữ Parakletos được diễn dịch ra thành nhiều danh hiệu khác nhau, như: Đấng Bầu Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Cố Vấn (x. Ga 14: 16.26; 15:26; 16:7).[15] Một số người cho rằng thuật ngữ đó phải được hiểu theo ý nghĩa là Thầy, bởi vì Đức Giêsu đã nói rằng “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (14:26). Thuật ngữ đó cũng được hiểu như là Đấng An Ủi, bởi vì Đấng ấy mang lại niềm an ủi cho những kẻ lâm cảnh buồn phiền, côi cút… (14:18); Người cũng được gọi là Đấng Trung Gian, bởi vì “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8: 26). Người được Cha sai đến để cư ngụ giữa thế gian, nhưng lại ở trong một tư thế đối nghịch với thế gian.

Tác vụ Thần Khí thi hành tỏ ra đa dạng và phức tạp đến độ nhiều người đã đề xuất việc giữ nguyên thuật ngữ Parakletos, không diễn dịch nó thành các danh hiệu khác. Qua cuộc tâm sự của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly, Tin Mừng Gioan đã giới trình Vị Bảo Trợ như là Đấng sẽ đến – sau khi Đức Giêsu về cùng Cha – và ở với các môn đệ, theo cùng một cách thức như việc Giôsua tiếp nhiệm Mô­sê, hoặc Êlisa tiếp tục các hoạt động theo tinh thần của Ê­lia, v.v.. Ga 14:26 đã đồng nhất hóa Đấng Bảo Trợ với Thánh Thần; dù vậy, cung cách biểu trình này không hoàn toàn trùng khớp với thực tại Thánh Thần trong các phần còn lại của Tân Ước: Người không được gắn kết với phép rửa, với cuộc tái sinh, với ơn tha thứ tội lỗi, và với sự thánh hóa… Các văn đoạn trong cuộc tâm sự tiệc ly đề cập đến Đấng Bảo Trợ đã miêu trình Người như là một Đức Giêsu khác: cả hai đều phát xuất, và được sai đến thế gian, từ Cha; cả hai đều là Đấng Bảo Trợ; Đấng Bảo Trợ là Thần Khí sự thật, và Đức Giêsu là sự thật; Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, và Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa; v.v. Đối với các môn đệ: cả hai đều hiện diện, dạy dỗ và hướng dẫn họ. Còn đối với thế gian: cả hai đều không được thế gian nhận biết, đều bị từ rảy; cả hai đều làm chứng đối nghịch thế gian. Đức Giêsu về cùng Cha (Ga 14:12) và trở lại với các môn đệ (c.18): chính Đấng Bảo Trợ là Đấng trở lại và gánh vác sứ vụ của Đức Giêsu trên thế gian trong lúc Ngài đang ở trên trời. Bàn về sự việc, giữa hai lần đề cập đến sự thật (x. Ga 14:6.17), Đức Giêsu đã tiên báo cho biết là Đấng Bảo Trợ sẽ đến, Đức Gioan Phaolô II nhận định như sau: “Từ sự việc hai lần nhắc đến sự thật – tức là, việc Đức Giê­­su ám chỉ về chính Ngài và về Thánh Thần ‘sự thật’ – có thể suy diễn ra rằng, nếu Ngài gọi Đấng Bảo Trợ là ‘Thần Khí Sự Thật’, thì điều đó có nghĩa là sau cuộc ra đi của Đức Kitô, Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ giữ cho các môn đệ ở trong cùng một sự thật mà Ngài đã công bố và mạc khải, và, nói cho cùng, Ngài chính là sự thật đó. Đấng Phù Trợ, cũng như là chính Đức Kitô, là sự thật. Bởi đó, về sau, trong bức thư thứ nhất của mình (5:6), thánh Gioan sẽ viết như sau: ‘Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật’.”[16]

Dù cảnh huống lịch sử có ra sao đi nữa, thì các môn đệ – Giáo hội – vẫn yên lòng trong vòng tay bảo trợ, dạy dỗ, chở che và ủi an của Thánh Thần. Các lời hứa của Thiên Chúa trong Cựu Ước, cũng như các lời Đức Giêsu hứa trong Tân Ước đều đã được làm cho hoàn tất trong Thánh Thần, như phụng vụ hằng hát mừng qua bài phụng ca Veni Creator Spiritus (tk. 9):
 

Qui diceris Paraclitus,
 
altissimi donum Dei,
 

 
fons vivus, ignis, caritas, et spiritalis unctio.
 
Ôi, Đấng Bảo Trợ, chúng con kêu lên đến Ngài,

Ôi, ân huệ thiên cung Thiên Chúa Chí Tôn trao xuống,

Ôi, nguồn sống, ánh lửa tình yêu và dầu xức hoan lạc từ trên cao.


4. Các biểu tượng

Trong nhiều lần và bằng nhiều cách (x. Dt 1:1), Thiên Chúa đã mạc khải cho con người qua hai đường lối: sứ ngôn và hành động, như đọc thấy trong Hiến chế Mạc Khải Thánh của công đồng Vaticanô II; các hành động có thể mặc lấy thể dạng sự kiện, cảnh huống, biểu tượng, v.v. Vì Thánh Thần vô hình, vô dạng như gió, nên không một ngôn từ nào đủ sức miêu trình, không một danh hiệu nào khả dĩ biểu đạt thích đáng về Người; bởi đó, Kinh Thánh đã phải – căn cứ vào các hoạt động đa dạng của Thánh Thần – dùng đến nhiều cách biểu đạt khác nhau với việc đúc kết lại một bộ phân hạng các biểu tượng để phác tả khuôn mặt của Đấng vô hình. Các biểu tượng thường thấy mang tính cách đa nghĩa và khả dĩ dung nhận các cách hiểu khác biệt nhau. Chúng chỉ gợi ý, chứ không biểu trình minh bạch; chúng biểu thị một ý nghĩa nào đó, nhưng không loại trừ một ý nghĩa khác.[17]

Trong Kinh Thánh và truyền thống của Giáo hội, Chúa Thánh Thần được biểu tượng hóa thành nhiều dạng cách khác nhau; phần viết dưới đây sẽ khảo sát một số biểu tượng được coi là thích hợp nhất.[18]

5. Nước

Trong thông điệp về Chúa Thánh Thần, tựa đề Domi­num et vivificantem (Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, 1986), Đức Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta cùng với sự sống mới, như lời Đức Giêsu tiên báo và hứa trong ngày cuối long trọng của lễ Lều năm ấy: ‘Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống’ (Ga 7:37tt.). Và Phúc Âm gia giải thích điều này như sau: ‘Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận’ (7:39). Dòng nước đó (biểu thị ý nghĩa về cả mạc khải tối hậu lẫn về Thần Khí) đã tuôn trào từ trái tim của Người, trái tim bị lưỡi đòng đâm thủng trên đồi Canvê (x. 19:34). Đó chính là thứ nước mà Đức Giêsu đã từng nhắc đến trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ Samari, khi Ngài nói về ‘một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’ (4:14), hoặc trườc đó trong cuộc trao đổi với Nicôđê­mô về việc nhất thiết phải được tái sinh ‘bởi nước và Thần Khí’ để được ‘vào nước Thiên Chúa’ (3:5).” Trong Kinh Thánh, nước tượng trưng cho sự sống;[19] do đó, Thánh Thần được biểu tượng hóa thành dòng nước ban sự sống mới. Như lời Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô, sự sống ấy tiên vàn được ban cho qua phép rửa. Khi làm phép nước rửa tội, phụng vụ dâng lên lời cầu như sau: “Chúng con cầu xin Ngài, lạy Cha, nhờ Con của Ngài, xin hãy gửi Thánh Thần để Người ngự xuống trên giếng nước rửa tội này.”[20] Vì Thánh Thần là Đấng sinh ra người kitô, tất Người sẽ đồng hành cùng họ trên suốt con đường tăng triển thiêng liêng; Người sẽ ‘bón nước’ không ngừng để từng cây một có thể dồi dào sức sống mà trổ hoa kết trái, như Êdêkien đã tiên kiến (x. Ed 47). Chính Thần Khí ban sự sống ấy gắn kết mọi chi thể lại với nhau trong Nhiệm Thể Đức Ki­tô, dù các chi thể ấy có khác biệt nhau về chủng tộc, văn hóa, địa vị xã hội, tình trạng thiên bẩm, v.v.: “thật vậy, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12:13). Nhờ nguồn nước tuôn trào, sa mạc cằn cỗi bỗng hóa thành đất phì nhiêu (x. Is 41:18) thể nào, thì nhờ Thần Khí ban sự sống, linh hồn dẫy đầy tội nhơ của con người cũng trở nên chốn lạc viên thiên đường thể ấy; do đó, mới thấy sứ ngôn chép rằng: “Ta sắp đổ mưa xuống những vùng hạn hán và cho suối chảy trên mảnh đất khô cằn; trên dòng dõi ngươi, Ta sẽ đổ thần khí; trên con cháu ngươi, Ta ban muôn phước lành” (44:3). Và dấu chỉ của năng động lực thiêng liêng đó được ví von như sau: “Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến, vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv 42:2-3). Trong những giai đoạn mà nhiệt tâm thiêng liêng, hoặc sáng kiến tông đồ của Giáo hội dường như đang trở nên cạn kiệt, thì “dòng nước” ấy lại thấy làm trổ sinh những con người thánh thiện, hay các phong trào canh tân; và lịch sử đã chứng thực điều đó: chẳng hạn, các phong trào canh tân thánh kinh hay phụng vụ, các phong trào đại kết, đối thoại liên tôn, v.v. Chúng ta đang sống trong “thời đại của Thần Khí,” và, bởi đó, đang tắm mình “trong con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên…” (Kh 22:1). Thần Khí trở thành nguồn tín thác cho mọi kitô hữu trong hiện tại, và là niềm trông cậy hướng về một ngày mai huy hoàng.
 

6. Xức dầu

Tựa như nước và Thần Khí cấu thành bí tích rửa tội thế nào, thì việc xức dầu và Thần Khí cũng cấu thành bí tích Thêm sức như vậy. Mẫu điển hình của việc xức dầu này là chính Đức Giêsu, Đấng đã trở thành “Mêsia”, “Kitô” – tức là, Đấng được xức dầu – nhờ Thánh Thần (x. Lc 4: 18). Sự xức dầu của Đức Kitô, giờ đây, được chia sẻ với hết thảy mọi thành viên trong Nhiệm Thể của Ngài.[21] Hành động xức dầu mang một số ý nghĩa: trước tiên, đây là hành động thánh hiến cho sứ vụ Thiên Chúa trao phó; có thể đọc thấy ý nghĩa này trong Cựu Ước, chẳng hạn trong trường hợp của Đavít, hoặc của các ngôn sứ; đó là xức dầu để trao sứ vụ ngôn sứ, như Is 61:1-2 đã ghi: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn …”; chính đó là ý nghĩa của việc “rao truyền tin mừng.” Tiếp đến, việc xức dầu còn được coi như là bước chuẩn bị để sẵn sàng bước vào trận đấu, hệt như các tay đấu bôi dầu lên người trước khi lên vũ đài; ý nghĩa này được ám chỉ đến trong Cv 1:8: “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em; bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy…” (x. 10:38; Tv 92:11). Sau nữa, việc xức dầu còn mang ý nghĩa chữa lành, tựa như lúc thân thể Đức Kitô làm như phát ra một năng lực chữa lành (x. Lc 6:19; 8:46). Có thể đọc thấy trong thư thứ nhất của thánh Gio­an, sự việc các tín hữu lãnh nhận được dầu, do tự Đấng Thánh,[22] và thứ dầu đó vẫn lưu tồn mãi trong họ; kết quả là, họ có được ơn hiểu biết, bởi vì “dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự, mà dầu ấy dạy sự thật, chứ không phải sự dối trá” (2:20.27). Đức Gioan Phaolô II đã giải thích điều đó như sau: “Như thế, Thần Khí chính là nguồn ban ơn thâm hiểu và minh luận, là sức năng thiết yếu giúp làm chứng cho chân lý thần thiêng. Thần Khí cũng chính là nguồn xuất phát của cảm thức đức tin (sensus fi­dei), một thứ bản năng siêu nhiên mà công đồng Vatican II đã coi như là di sản của Dân Thiên Chúa” (LG 12).[23] Trong suốt đời mình, người kitô được xức dầu nhiều lần: trong phép Rửa tội, trong phép Thêm sức, trong phép Truyền chức thánh đối với các linh mục, trong phép Xức dầu bệnh nhân; điều này nêu bật sự việc Thần Khí, Đấng Bảo Trợ, luôn đồng hành với người kitô từ thuở họ còn nằm nôi cho đến lúc họ nghỉ yên trong mộ phần vĩnh viễn. Tiến trình đồng hành thiêng liêng đó giúp đem lại niềm hoan hỷ trải dài suốt cuộc đời dương thế của người kitô; đó là ý nghĩa của “dầu thơm hoan lạc” mà Tv 45:8 muốn ám chỉ.
 

7. Lửa

Sở dĩ dùng biểu tượng này để chỉ về Thần Khí là vì, dịp Lễ Ngũ Tuần, Người đã “xuất hiện giống như lưỡi lửa tản ra rồi đậu xuống từng người một; và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần…” (Cv 2:3-4). Trong Kinh Thánh, lửa tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 3:1tt), sức mạnh của Thiên Chúa (1V 18:38-39), sức năng che chở và hướng dẫn của Thiên Chúa (Xh 13:21), cũng như việc phán xét của Thiên Chúa (x. Dt 12:29; Lc 3:16-17). Các giáo phụ đã coi biểu tượng này như là một hình ảnh tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.[24] Lửa là một dấu hiệu từng thấy đi kèm với cuộc thần hiển trên núi Sinai (x. Xh 19:8) và trong cuộc mở màn giao ước với Môsê; bởi đó, qua biến cố Hiện Xuống, Giao Ước mới và Dân mới của Thiên Chúa được giới thiệu ra mắt thế gian. Với một tầm nhìn khác, Gioan Tẩy giả đã công bố rằng Đấng Mêsia sẽ làm phép rửa cho dân “trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3:11). Lửa tượng trưng cho năng lực thanh tẩy mọi thứ ô uế và gian tà; chính Gioan Tẩy giả đã xuất hiện “đầy thần khí và uy quyền của Êlia” (Lc 1:17) –  là vị ngôn sứ đã “xuất hiện chẳng khác nào ngọn lửa” với “lời nói ra tựa đuốc cháy bừng bừng” (x. Hc 48:1) – vốn được coi là vị ngôn sứ lửa. Thánh Gioan Tẩy giả “là ngọn đèn cháy sáng” (x. Ga 5:35) nhưng đã sớm bị dập tắt; còn Đức Giêsu là ánh sáng thật và đã đến để “ném lửa vào mặt đất” (x. Lc 12:49); sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã dùng văn đoạn vừa trưng để ám chỉ về Chúa Thánh Thần (x. số 696).[25] Với ý nghĩa đó, Thần Khí là năng lực thần thiêng làm biến đổi tận căn bộ mặt của Giáo hội và của mỗi người kitô, ban cho ơn tha thứ và giúp canh tân, thanh tẩy mọi điều uế nhơ do tội đã gây ra trong quá khứ. Lửa ấy sẽ đặc biệt phát huy công năng của nó qua lời nói (lưỡi lửa); do vậy, đặc sủng ngôn sứ là một ân huệ do chính Thánh Thần ban cho.

Lửa cũng là biểu tượng của tình yêu. Thánh Gioan Thánh Giá đã viết một bài thơ nổi tiếng, tựa đề Ngọn lửa Tình bỏng rực, với ý nghĩa như sau: là Tình Yêu giữa Cha với Con trong lòng Ba Ngôi, Thần Khí đã được sai đến để làm dây tình kết hiệp trong Giáo hội, giữa từng linh hồn với Thiên Chúa. Vì lửa nhen lên sức ấm nồng, nên tình yêu nồng nàn phát xuất nơi Thần Khí cũng biểu thị các thái độ quy về Thiên Chúa và hướng đến tha nhân.[26] “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, nhóm trong con ngọn lửa tình Ngài.”

Hildegard thành Bingen đã viết một bài thánh ca, với trích đoạn như sau: “O ignis Spiritus Paracliti, vita vite omnis creature, sanctus es vivificando formas.” Tạm dịch là: “Ánh lửa Thần Khí Phù Trì, là nguồn sự sống mọi loài thọ sinh; khen Ngài Đấng thánh uy linh, Đấng Ban Sự Sống sinh linh muôn loài.”
 
8. Áng mây và ánh sáng

Áng mây và ánh sáng là hai biểu tượng đi đôi với nhau, tượng trưng cho Thánh Thần; các biểu tượng này tỏ lộ việc Thiên Chúa hiện diện, cả trong đêm u huyền lẫn trong ngày sáng chói, để hướng dẫn dân Ítraen trong bước lưu ly băng dòng sa mạc; các biểu tượng ấy cũng xuất hiện trên Đức Maria trong biến cố truyền tin, trên núi Tabo với lời Cha phán xuống, hay trong cuộc Thăng Thiên của Đức Kitô sau ngày sống lại. Biểu tượng đó cũng giúp nhận biết rằng Thần Khí vừa là Đấng hiện diện chở che, là ánh sáng, là giọng nói ủi an, thêm sức, vừa là tiếng sấm gầm vang, ánh chớp chói lòa, hay ngọn lửa hừng hừng thiêu đốt… Tựa như áng mây được coi là ân huệ cao vời ban xuống cho dân Ítraen (x. Xh 12:17-22; 14:19-20), thì cũng thế, Thánh Thần chính là một ân huệ được trao đến những người con biết đặt lòng cậy trông nơi Thiên Chúa; xưa kia, áng mây đã hiện diện cùng dân Ítraen trong hoang địa thể nào, thì nay – như lời Đức Giêsu đã hứa – Cha cũng sẽ gửi Thần Khí xuống, để Người mãi mãi “cư ngụ” trong lòng các kẻ tin  như vậy (x. Ga 14: 16).

Áng mây đóng giữ một vai trò đặc biệt trong các cuộc thần hiển (biến cố Thiên Chúa tỏ lộ uy nhan) Cựu Ước trình thuật:[27] trên núi Sinai, lúc Môsê tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19-20), trong lều hội ngộ (x. 33:9-10), tại buổi cung hiến Đền Thờ Đức Chúa trong cung điện vua Salomon (x. 1V 8:10-12); người Do thái gọi áng mây là Shekinah (tức, thần cư); kinh nghiệm về shekinah có thể coi là một kinh nghiệm đáng khiếp sợ đối với con người, song lại đem đến ơn cứu độ, như đọc thấy trong Tv 18:8-20. Áng mây vừa vén lộ (ánh sáng) mà cũng vừa che giấu (bóng tối), biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa; và bởi việc Thiên Chúa hiện diện mang tính chất huyền nhiệm, nên chỉ có thể dùng đến các biểu tượng thì mới đủ sức trình tả mà thôi. Trong cuộc đời của Đức Ki­tô, bóng phủ của áng mây xuất hiện trong biến cố Nhập thể (x. Lc 1:35), lúc Ngài mạc khải vinh quang trong cuộc biến hình (9:34-35), khi Ngài lên trời với Cha và lúc Ngài sẽ trở lại trong vinh quang (21:27). Quả thực, Giáo hội đã nhìn thấy nơi áng mây che phủ trong sa mạc ngày ấy, hành động cứu độ của Đức Kitô: “Ta đã dẫn đường cho các ngươi qua cột mây vây phủ, song các ngươi lại dẫn ta đến tòa Phlatô”: trong bài ta thán ca (Impro­peria) của Thứ sáu Tuần Thánh, phụng vụ hát lên như thế. Tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ ấy đều có quan liên với chúng ta bây giờ; chúng đã trở thành các hình ảnh “tiên trưng” cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi Dân mới của Người. Trong cuốn sách nổi tiếng của ngài về Chúa Thánh Thần, thánh Baxiliô đã bình luận về văn đoạn 1Cr 10:2 như sau: “Dân ấy [Ítraen] đã từ biển mà đi lên cách bình an vô sự; cũng vậy, chúng ta nhờ nước mà được tái sinh như từ giữa kẻ chết, được cứu sống nhờ ân sủng của Đấng đã kêu mời chúng ta. Và áng mây là hình bóng về ân huệ của Thần Khí, Đấng làm nguôi bớt ngọn lửa dục tình của chúng ta qua việc hãm mình của các chi thể chúng ta.”[28]

9. Dấu ấn

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết rằng: “dấu ấn là biểu tượng gắn liền với biểu tượng xức dầu. Quả vậy, chính ‘Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận’ trên Đức Kitô và trên cả chúng ta nữa, nhờ Con của Người (x. Ga 6:27). Bởi vì ấn tín đó tỏ cho thấy một hiệu quả không bao giờ phai nhạt của phép xức dầu ban Thánh Thần trong các bí tích Rửa tội, Thêm sức, và Truyền chức Thánh, nên biểu tượng dấu ấn (sphragis) đã được một số truyền thống thần học dùng đến để biểu đạt về ‘ấn tích’ không thể xóa nhòa, vốn đã được in hằn do bởi ba bí tích không thể ban lại đó” (số 689). Bình luận về sách Diễm Ca, Thêôđôrétô thành Cyrhus (Syria, tk. 5) đã viết như sau: “Những ai đã được tẩy rửa… sẽ lãnh được, như là một ấn tín vương giả, phép xức dầu thần linh; và dưới dấu chỉ [hữu hình] của dầu này, họ nhận được ân sủng vô hình của Chúa Thánh Thần.” Dấu ấn biểu thị việc một người kitô thuộc về Đức Kitô; bên cạnh đó, nó cũng nêu bật cho thấy tính chất chắc chắn của các lời hứa: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2Cr 1:21-22). Một ý nghĩa tương tự cũng thấy lặp lại trong Ep 1:13-14: “Một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” Bởi đó, Thần Khí chính là Đấng mang lại, cũng như đảm bảo, căn tính của người kitô. Thánh Thần đã được gửi đến cộng đoàn các tông đồ – và do đó, đến Giáo hội thuộc mọi thời kỳ – như là một ấn tín của Giao Ước mới mà các ngôn sứ đã loan báo (x. Gr 31:31-34; Ed 36:24-27). Chúa Thánh Thần là nền tảng hiện hữu cho niềm cậy trông của người kitô.
 

10. Bàn tay

Thánh Irênêô đã từng đề cập đến hai bàn tay của Thiên Chúa, tức là Con và Thánh Thần. Thần Khí là “Thiên-Chúa-tiếp-xúc” với con người.[29] Biểu tượng này ám chỉ hữu hiệu tính và trực tiếp tính của việc Thiên Chúa hoạt động trong con người thông qua Thánh Thần. Cử chỉ tiếp xúc đã từng là cách thế đặc thù trong việc chữa lành và chúc lành của Đức Giêsu; đó cũng là một cử chỉ biểu hiện tình yêu. Các thánh Tông đồ đã coi việc đặt tay như một dấu hiệu nói lên việc truyền ban Thánh Thần, và ngày nay, trong phụng vụ, phần kinh cầu Thánh Linh (epiclesis) trong các nghi thức phụng vụ bí tích luôn thấy đi đôi với việc đặt tay tượng trưng đó.

Sách Giáo lý diễn tả điều đó như sau: “Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân và chúc lành các trẻ nhỏ qua cử chỉ đặt tay trên họ. Nhân danh Người, các tông đồ cũng làm như vậy. Hơn nữa, nhờ việc đặt tay của các tông đồ, Thánh Thần được thông ban. Thư Do thái coi nghi thức đặt tay như là một yếu tố trong ‘các thành phần căn bản’ của công tác giáo huấn. Giáo hội đã lưu tồn cử chỉ biểu thị việc ban tràn đầy năng quyền của Thánh Thần này trong các kinh nguyện Thánh Thần lúc cử hành phụng vụ các bí tích” (số 699).
 
11. Ngón tay

Biểu tượng này luôn thấy đi đôi với biểu tượng bàn tay. Hát bài phụng ca Veni Creator Spiritus,  Giáo hội gọi Thần Khí là “ngón tay phải của Chúa Cha.” Hình ảnh mang tính cách ẩn dụ đó diễn tả các cách thức bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa tiếp xúc với thế giới: trong cuộc Tạo dựng, như Tv 8:4 đã trình tả về việc “ngón tay Thiên Chúa…” làm ra các tầng trời; trong cuộc mạc khải cho Môsê với sự kiện lề luật Thiên Chúa được viết trên bia đá “do ngón tay Thiên Chúa” (x. Đnl 9:10); trong công trình cứu chuộc, với việc Đức Giêsu trừ quỷ “bằng ngón tay Thiên Chúa” (Lc 11: 20); và đặc biệt, trong ơn thánh hóa, với việc thánh Phaolô ví người kitô như là “bức thư của Đức Kitô,… không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống; không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3:3). Bởi đó, thánh Isiđôrô thành Sêvilla đã viết như sau: “Lề Luật Thần Khí Thiên Chúa viết đã được ban ra năm mươi ngày sau cuộc sát tế con chiên; và năm mươi ngày sau cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Thánh Thần đã được ban xuống. Người được gọi là ngón tay của Thiên Chúa nhằm biểu thị năng quyền hoạt động mà Người có cùng với Cha và Con.”[30] Trước đó, thánh Âugutinô – qua việc bình luận văn đoạn Dt 10:16-17 – đã cho thấy một cảm thức sâu xa hơn trong quan niệm ngài có về biểu tượng ấy: “Lề luật mà Thiên Chúa đã khắc vào lòng trí con người là gì nếu không phải là sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng là ngón tay của Thiên Chúa, và là Đấng, qua thực trạng hiện diện đó, đổ đầy vào tâm hồn chúng ta thứ tình yêu biểu thị cho tính chất trọn vẹn của lề luật, cũng như cho mục đích nhắm tới của các huấn chỉ…? Lúc Thiên Chúa phán rằng ‘Ta sẽ đặt các lề luật của Ta’ v.v., Người muốn bảo con người đừng tỏ thái độ sợ sệt đối với bất cứ một luật lệ nào của thế gian, vốn dĩ là do bên ngoài áp đặt vào, nhưng hãy tỏ lòng mến yêu tính chất công chính từ bên trong của lề luật vốn đang cư ngụ trong tâm hồn họ.”
 

12. Chim bồ câu

Đây là biểu tượng phổ biến dành để chỉ về Thần Khí. Lúc Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa trong sông Gio­đan, Thánh Thần đã ngự xuống trên Ngài qua hình chim bồ câu (x. Mc 3:16), và từ đó trở về sau, khoa ảnh tượng kitô đã dùng biểu tượng chim câu để tượng trưng cho Thần Khí; biểu tượng này đóng giữ một vai trò quan trọng trong nghi thức rửa tội. Tại sao Thần Khí lại xuất hiện trong hình chim câu? – Vì không ai biết được lý do, nên chỉ có thể dò dẫm mà tra tìm vết dấu nơi các nguồn liệu Kinh Thánh, hoặc nơi các áng thơ hư cấu, mà thôi. Trong Kinh Thánh, có thể thấy chim câu được Nôê thả ra khỏi tàu và đã mang về một nhành ôliu (x. St 8:8-12); sau đó, mỗi khi Kinh Thánh nhắc đến chim câu thì đều là trong bối cảnh hy lễ hiến tế. Óc tưởng tượng đã nhìn thấy nơi hình ảnh chim câu nét dịu dàng, song lại không kém phần mạnh mẽ, của các tác vụ Thánh Thần. Chim câu là một con vật hiền lành, không hề biết nổi xung thiên với bất kỳ ai; trong truyền thống, người ta tưởng nó không có mặt. Và do đó, ngày nay, nó được dùng làm biểu tượng cho tính thuần khiết và tinh thần hòa bình. Nhìn về biến cố phép rửa nơi sông Giođan, thánh Gioan đã kết nối biểu tượng chim Bồ Câu với hình ảnh Con Chiên (x. Ga 1:29-34); với một số đặc điểm chung nhau, cả hai biểu tượng đó cùng chỉ về: tính hiền lành, tính thuần khiết và hiến lễ hy sinh. Vai trò của chim câu – tức là, sứ vụ của Thần Khí hướng đến con người – cũng cốt ở việc làm cho nhận ra Con Chiên, giúp khám phá ra hình ảnh Đức Kitô. Thần Khí là Thiên Chúa vô hình tuyệt đỉnh; Đức Kitô là Thiên Chúa-trở-nên-hữu-hình. Thần Khí, Đấng bay là là trên mặt đất, sưởi ấm cõi đất bằng sức dịu dàng lan tỏa; trong khi đó, Ngôi Lời soi sáng, minh định, cùng biểu lộ cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa trong một dạng thức cụ thể, hữu hình. Chẳng hạn, có thể thấy rằng, Thần Khí cầu nguyện trong chúng ta “bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8:26), và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng “kinh Lạy Cha.” Tương tự, trong phép rửa, qua hành vi tẩy rửa hữu hình, Thần Khí ban ơn công chính hóa cách vô hình; về điều này, Téctulianô đã viết như sau: “Thánh Thần lấy hình chim câu mà ngự trên người lãnh nhận phép tẩy rửa các tội xưa kia và mang đến bình an tự trời cao của Thiên Chúa;
                                 



[1] Bao hàm cả hậu cảnh của nền thần học Ba Ngôi; xem W. Kasper, The God of Jesus Christ, New York: Crossroad, 1984; G. O’Collins, The Tripersonal God; Understanding and Interpreting the Trinity, New York, 1999; D. Coffey, Deus Trinitas: The Doctrine of the Tri­une God, New York, 2000.

[2] Xin xem [tác phẩm chung] Metafore dell’invisibile, Brescia 1984.

[3] Thánh Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học, I q.37 a.1.

[4] De Trinitate, V. xi.12; x. Joseph Ratzinger, “Retrieving the Tradition. The Holy Spirit as Communio: Concerning the Relationship of Pneu­­matology and Spirituality in Augustine,” Communio 25 (1998) 324-337. 

[5] Thông điệp Dominum et Vivificantem, số 10.

[6] Xin xem Dt 6:4; Ga 4:10; 7:39.

[7]  “Người làm cho thiên thần của Người nên những luồng gió, và thuộc hạ của Người thành những ngọn lửa.” … “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc thần thiêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?” (Dt 1:7.14).

[8] “Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nôê đóng tàu…” (1Pr 3:19-20).

[9] “Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Ðức Giêsu. Người nói một lời là trừ được các thần dữ …” (Mt 8:16).

[10] In Joannem, XIV, 4

[11] In Joan., tr. xcix, 6, 7 trong P.L., XXXV, 1888.

[12] Xin xem Donald P. Senior, 1 Peter, Sacra Pagina 15, Collegeville: The Li­turgical Press, 2003, tt. 129-130.

[13] Xem Marie-Dominique Molinié, Le Saint Esprit et la Gloire, Paris : Téqui, 1998; Ladaria Luis F., “La ‘unción de la gloria celeste’. Gloria y Espíritu Santo en Hilario de Poitiers”, Revista catalana de teología, 25 (2000) tt. 131-140

[14] Xin xem McGrath, John J. S.J, Through the Eternal Spirit: An Historical Study of the Exegesis of Hebrews 9: 13-14, Rome: Prontificia Univ. Gregoriana, 1961.

[15] Xin xem Raymond Brown, The Gospel according to John, Appendix V: “The Paraclete.”

[16] Catechesis 17-V-89.

[17] Về điểm này xin xem Paul Avis, God and the creative imagination: Metaphor, Symbol and Myth in Religion and Theology, Routledge, 1999.

[18] Khoa ảnh tượng kitô giáo thường phác họa Thánh Thần trong biểu tượng ba con người, dựa theo thị kiến của Abraham ở Mamrê (x. St 18:2). Lối trình họa về Thánh Thần theo dạng thể con người đã bị Đức Bêniđíctô XIV (1745) cấm chỉ; và luật cấm này đã được Thánh bộ Giáo lý Đức tin nhắc lại vào năm 1928. Chúa Thánh Thần phải được miêu trình theo dạng biểu tượng, chẳng hạn như là hình ảnh chim bồ câu, hoặc ngọn lửa.

[19] Xin xem J. Daniélou, “Le symbolisme de l’eau vive,“ Rech. Sciences Rel. 32(1958) tt. 335-346; Benedict XVI, Jesus of Nazareth, New York: Doubleday, 2007, pp. 238-248.

[20] Lời nguyện ban phép lành trên nước rửa tội trong nghi thức Canh thức Vượt qua.

[21] Lời nguyện trong nghi thức làm phép dầu, vào ngày thứ Năm Tuần thánh, có đoạn như sau: “Lạy Cha, nhờ quyền năng của Thánh Thần, Cha đã xức dầu cho Con một Cha để Người trở nên Đấng Thiên sai và Chúa của công trình sáng tạo; Cha đã cho chúng con được thông phần vào tác vụ hiến thánh của Người trong Giáo hội. Xin Cha giúp chúng con biết trung thành làm chứng hầu thế gian có thể nhận biết ơn cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện cho toàn thể nhân loại.”

[22] “Đấng Thánh” có thể mang ý nghĩa chỉ về Đức Kitô, hoặc về Thánh Thần, nhưng hiệu quả của việc xức dầu thì vẫn giống như nhau.

[23] Buổi tiếp kiến ngày 22 tháng 10 năm 1990.

[24] Nhưng biểu tượng này cũng ám chỉ về Ngôi Lời Hằng Hữu, như thánh Éphrem đã hiểu khi ngài biểu trình biến cố Nhập Thể như sau: “Một điều lạ lùng và gây hoang mang đối với tai nghe: lửa đã đi vào lòng; mặc lấy một hình hài và tiến ra!”: xem Hymns, 14.22.

[25] Đức Giêsu coi cái chết của mình như là một ngọn lửa phán xét, như lời các ngôn sứ đã tiên báo (x. Dcr 13:9; Ml 3:2-3) và thánh Gioan Tẩy Giả đã nhắc lại (x. Lc 3:16-17). Văn đoạn này biểu lộ tính chất mập mờ, dù vậy, được áp dụng cho biến cố Hiện Xuống.

[26] Donald J. Goergen, Fire of Love: Encountering the Holy Spirit, Pau­list Press, 2006.

[27] Xin xem Jesús Luzárraga, Las tradiciones de la nube en la Biblia y en el judaísmo primitivo, Roma: Pontificio Istituto Biblico, 1973; L. Sabourin, “The Biblical Cloud Terminology and Traditions,” Bibl. Theol. Bull. 4(1974) tt. 290-311.

[28] Xin xem Michael A. G. Haykin, “‘In the Cloud and in the Sea’: Basil of Caesarea and the Exegesis of 1Cor 10:2”, Vigiliae Christianae, 40, số 2 (1986) 135-144.

[29] Xin xem Kilian McDonnell, The Other Hand of God: The Holy Spirit As the Universal Touch and Goal, Michael Glazier Books, 2003.

[30] Etymologies, Book VII.3.