Những Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Potissimum Institutioni

0
5471

NHỮNG CHỈ DẪN VỀ VIỆC HUẤN LUYỆN
TRONG CÁC HỘI DÒNG
(Potissimum Institutioni 02-02-1990)

Các văn kiện của Công Đồng Va-ti-ca-nô II và hậu Công Đồng đã nhiều lần đề cập đến việc huấn luyện các tu sĩ. Những lời chỉ dẫn quý báu đó nay được trình bày một cách có hệ thống dưới hình thức của một Huấn thị” theo nghĩa của đ. 34 Bộ giáo luật. Thực ra, Bộ tu sĩ đã bắt tay vào việc soạn thảo văn kiện này từ năm 1969 qua những cuộc tham khảo sâu rộng, nhưng phải chờ cho đến khi ban hành Bộ giáo luật mới thành hình rõ rệt hơn. Huấn thị nhắm trực tiếp tới các Dòng tu (chứ không phải các tu hội đời và tu đoàn tông đồ).

Văn kiện gồm 110 số, được chia ra thành sáu chương, có thể gom lại trong hai phần chính.

  1. Phần thứ nhất : Bàn về những yếu tố căn bản tổng quát.

Chương I : Thánh hiến trong đời tu và việc huấn luyện (6-18). Nhắc lại đạo lý về sự thánh hiến qua việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, văn kiện lưu ý tới tính cách sư phạm giáo dục trong thực hành các lời khấn cũng như mối tương quan giữa tận hiến cho Thiên Chúa và sứ mạng trong thế giới.

Chương II : Những khía cạnh chung cho tất cả các giai đoạn huấn luyện (19-41). Sau khi đã trình bày các tác nhân và môi trường huấn luyện (Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a, Giáo Hội, cộng đoàn, chính người tu sĩ, và các huấn luyện viên), văn kiện nói tới ba yêu sách hiện tại :

  1. nền tảng nhân bản và Ki-tô hữu (33-35) ;
  2. khổ chế (36-38) ;
  3. giáo dục giới tính (39-41).

Chương III : Những giai đoạn huấn luyện (42-71). Gồm bốn giai đoạn :

  1. tiền tập (42-44) ;
  2. tập viện (45-47) ;
  3. khấn tạm (58-65) ;
  4. khấn trọn đời và thường huấn (66-71).
  5. Phần thứ hai : Xét đến vài khía cạnh đặc biệt.

Chương IV : Việc huấn luyện trong các Dòng kín (72-85).

Chương V : Vài vấn đề riêng được nêu lên cho việc huấn luyện :

  1. Các thanh niên thời nay đứng trước ơn gọi đời tu (86-89).
  2. Huấn luyện và văn hoá (90-91) ;
  3. Những người vừa là thành viên của một phong trào vừa là phần tử của Dòng tu (92-93) ;
  4. Tác vụ giám mục và đời tu (94-97) ;
  5. Sự hợp tác liên dòng trong việc huấn luyện (98-100).

Chương VI : Việc huấn luyện các ứng sinh lãnh chức linh mục và phó tế (101-109).

(Lưu ý: Văn kiện này được bổ túc với Huấn thị Về sự hợp tác liên dòng trong việc huấn luyện, ngày 8-12-1998, được in trong tập II)

———————-

Tài liệu này được Bộ các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ ban hành, có giá trị như “huấn thị”, theo như giáo luật số 34. Đây là những quy định và đường hướng đã được Đức thánh cha châu phê và được Bộ đề ra để giải thích và áp dụng các quy tắc của giáo luật. Như vậy, các quy định và đường hướng này dựa vào các chỉ thị pháp lý đã có hiệu lực do giáo luật và tuỳ nghi quy chiếu vào đó, chứ không hề bãi bỏ bất cứ điều khoản nào.

DẪN NHẬP

Mục đích việc huấn luyện các tu sĩ

1. Việc canh tân các hội dòng tuỳ thuộc chính yếu vào việc huấn luyện các tu sĩ. Đời sống tu trì quy tụ các môn đệ Đức Ki-tô nhằm giúp họ tiếp nhận ơn Chúa mà Giáo Hội đã nhận từ Đức Ki-tô và nhờ ơn Người, Giáo Hội vẫn trung thành gìn giữ” (GH 43). Vì thế, những hình thức canh tân tốt nhất chỉ có thể đem lại kết quả nếu những hình thức đó được nuôi dưỡng nhờ sự canh tân sâu xa về đời sống thiêng liêng. Với mục đích trực tiếp là dẫn vào đời sống tu trì và giúp ý thức về tính cách đặc biệt của đời sống ấy trong Giáo Hội, việc huấn luyện các thỉnh sinh nhằm chủ yếu giúp các tu sĩ nam nữ thống nhất đời sống trong Đức Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần, qua việc hoà hợp các yếu tố thiêng liêng, tông đồ, đạo lý và thực hành (x. DT số 18).

Mối quan tâm thường xuyên của Toà Thánh

2. Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã luôn lưu tâm đến việc huấn luyện các tu sĩ (1). Trong chương VI Hiến chế tín lý Ánh sáng muôn dân và trong Sắc lệnh Đức ái hoàn hảo, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã đưa ra những nguyên tắc về đạo lý và những quy tắc tổng quát. Về phần mình, Đức giáo hoàng Phao-lô VI đã nhắc nhở các tu sĩ : Mặc dù có sự khác nhau về hình thức sống và đoàn sủng, nhưng tất cả các yếu tố của đời tu phải luôn quy về việc kiến tạo con người nội tâm” (2). Từ khi bắt đầu làm giáo hoàng, Đức Gio-an Phao-lô II vẫn thường đề cập tới việc huấn luyện các tu sĩ trong nhiều diễn từ của người (3). Sau cùng với những quy tắc rất rõ rệt, giáo luật đã cố gắng diễn tả những đòi hỏi cần thiết để canh tân thích hợp việc huấn luyện (GL 641-661).

Hoạt động của Bộ các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II

3. Từ năm 1969, trong huấn thị Đổi mới đời tu (Renovationis Causam), Bộ đã quảng diễn một số quy định của giáo luật hiện hành, nhằm thích ứng toàn bộ thời kỳ huấn luyện cho phù hợp hơn nữa với não trạng các thế hệ mới, với các điều kiện của nếp sống hiện tại cũng như với những đòi hỏi của sứ vụ tông đồ ngày nay, mà vẫn trung thành với bản chất và mục đích riêng của mỗi hội dòng” (RC, nhập đề).

Sau đó, Bộ đã phổ biến nhiều tài liệu khác, tuy không trực tiếp nói về việc huấn luyện các tu sĩ, nhưng cũng liên hệ đến vấn đề đó dưới khía cạnh này khía cạnh khác. Đó là các văn kiện : Các liên hệ hỗ tương (1978), Tu sĩ và việc thăng tiến con ngườiChiều kích chiêm niệm trong đời tu (1980), Những yếu tố cốt yếu của đời tu (1983). Nên nghiên cứu các tài liệu đó để việc huấn luyện các tu sĩ được hoà hợp với đường hướng mục vụ của Giáo Hội toàn cầu cũng như các giáo hội địa phương, đồng thời để cổ võ sự hoà hợp đời nội tâm với đời hoạt động” của các tu sĩ nam nữ hiến thân lo việc tông đồ (Chiều kích chiêm niệm… số 4). Như vậy hoạt động cho Chúa” sẽ không ngừng dẫn đưa họ đến với Chúa là nguồn mọi hoạt động” (4).

Lý do và đối tượng của tài liệu này

4. Bộ các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ nhận thấy rằng : nên và cũng cần gửi tài liệu này đến các bề trên cao cấp của các hội dòng, cũng như đến các tu sĩ nam nữ đảm trách việc huấn luyện, kể cả các đan sĩ, hơn nữa vì có nhiều vị yêu cầu Bộ ban hành tài liệu này. Theo chức năng, Bộ có bổn phận phải đưa ra đường hướng hầu có thể giúp các dòng tu soạn thảo quy chế huấn luyện riêng (ratio) như luật chung Giáo Hội đòi buộc (GL 659, 2 và 3). Đàng khác, các tu sĩ nam nữ có quyền được biết quan điểm của Toà Thánh về những vấn đề hiện nay liên quan đến việc huấn luyện, cũng như những gợi ý giải quyết các vấn đề đó. Tài liệu này dựa vào rất nhiều kinh nghiệm đã được đúc kết từ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II và cũng phát xuất từ các vấn đề mà các bề trên cao cấp đã nhiều lần nêu lên. Tài liệu này cũng nhắc nhở mọi người về một số quy định của luật pháp, theo những hoàn cảnh và nhu cầu hiện nay. Sau cùng, hy vọng nó sẽ giúp ích cho các hội dòng mới và các hội dòng hiện có ít phương tiện huấn luyện và thông tin.

5. Tài liệu này chỉ liên hệ đến các dòng tu, đề cập đến nét đặc biệt nhất của đời tu, và chỉ dành một chương nói về những điều kiện cần thiết để lãnh chức phó tế và linh mục. Những điều kiện đó đã được bàn đến trong những huấn thị rõ ràng của Bộ giáo sĩ. Những huấn thị đó cũng áp dụng cho các tu sĩ hướng đến các tác vụ ấy (x. Quy chế huấn luyện số I, 2. Bộ giáo dục Công Giáo 1985). Bản tài liệu này nhằm đưa ra đường hướng có giá trị cho toàn bộ đời sống tu trì. Sau đó mỗi hội dòng sẽ tuỳ nghi áp dụng theo đặc tính riêng của mình.

Nội dung của văn bản này có giá trị cho tu sĩ nam cũng như nữ, trừ khi nói rõ cách khác do mạch văn hay do bản chất sự việc (x. GL 606).

CHƯƠNG I : THÁNH HIẾN TRONG ĐỜI TU
VÀ VIỆC HUẤN LUYỆN

Căn tính đời tu và việc huấn luyện

6. Mục đích đầu tiên của việc huấn luyện là giúp các thỉnh sinh cũng như các khấn sinh trẻ trước tiên khám phá, rồi thủ đắc và đào sâu căn tính của tu sĩ. Chỉ trong những điều kiện đó, người hiến dâng mình cho Thiên Chúa mới hội nhập vào thế giới như một nhân chứng đầy ý nghĩa, hữu ích và trung thành (5). Vì vậy ngay từ những trang đầu của tập tài liệu này, cần phải nhắc lại quan điểm của Giáo Hội về ân sủng thánh hiến trong đời tu.

Đời sống tu trì và thánh hiến theo luật của Giáo Hội

7. Đời sống tu trì, xét vì là sự hiến dâng trọn vẹn con người, biểu lộ trong Giáo Hội cuộc hôn nhân huyền diệu mà Thiên Chúa đã thiết lập như dấu chỉ của cuộc đời mai sau. Như vậy, tu sĩ hoàn tất sự trao hiến toàn vẹn tựa như hy lễ dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc đời của họ trở nên sự thờ phượng Thiên Chúa một cách liên lỉ trong đức ái” (GL 607,1).

Đời sống thánh hiến qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm – từ đó làm nên đời tu – là một lối sống bền vững, nhờ đó các tín hữu theo Đức Ki-tô sát hơn, dưới tác động của Thánh Thần, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa như Đấng đáng yêu mến tột bậc, ngõ hầu một khi đã hiến thân, với một danh nghĩa mới và đặc biệt, cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho việc kiến tạo Giáo Hội và cho ơn cứu độ thế giới, họ nhắm tới đức ái hoàn hảo trong việc phục vụ Nước Thiên Chúa, và trở thành dấu chỉ rực rỡ trong Giáo Hội, tiên báo vinh quang trên trời” (GL 573,1. Xin coi thêm GH 44 ; DT 1 ; 5 ; 6).

Các tín hữu được tự do chấp nhận lối sống ấy trong các hội dòng sống đời thánh hiến đã được thẩm quyền Giáo Hội thiết lập theo giáo luật, bằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm : khiết tịnh, thanh bần và vâng phục, nhờ lời khấn hay các mối dây ràng buộc khác. Họ kết hợp với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội cách đặc biệt nhờ đức ái mà các lời khuyên đó đưa tới” (GL 573,2).

Được Thiên Chúa kêu gọi để thực hiện sứ vụ cứu độ

8. Khởi đầu của sự thánh hiến đời tu là tiếng Thiên Chúa kêu gọi mà không có gì giải thích nổi, ngoại trừ tình yêu Người dành cho kẻ được gọi. Tình yêu này hoàn toàn có tính cách nhưng không, cá vị và độc đáo. Tình yêu ấy bao trùm con người đến nỗi họ không thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Đức Ki-tô (x. 1 Cr 6,19), như thế tình yêu có tính cách giao ước. Cái nhìn của Đức Giê-su với người thanh niên giàu có diễn tả tính cách đó : Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến” (Mc 10,21). Ơn Chúa Thánh Thần cũng diễn tả và giải thích tính cách đó. Ơn huệ ấy thôi thúc người được gọi phải theo Đức Ki-tô, qua việc thực thi và tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm : Khiết tịnh, thanh bần và vâng phục. Đó là ân huệ của Thiên Chúa mà Giáo Hội đã nhận từ Đức Ki-tô và nhờ ơn Người, Giáo Hội vẫn trung thành gìn giữ (GH 43). Vì thế quy tắc tối hậu của đời tu” là : Theo Đức Ki-tô dựa trên giáo huấn của Tin Mừng” (6).

Lời đáp trả của cá nhân người được gọi

9. Lời mời gọi của Đức Ki-tô biểu lộ một tình yêu cứu độ bao trùm toàn thể con người : tâm hồn lẫn thể xác, nam cũng như nữ, trong bản ngã cá biệt và hoàn toàn độc đáo” (HA 3). Lời mời gọi đó được diễn tả ngay trong lòng của người được kêu gọi, qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm” (HA 8). Đến lượt mình, các tu sĩ nam nữ, qua việc tuyên khấn, lấy tình yêu đáp lời Đức Ki-tô cứu độ, một tình yêu hiến dâng trọn vẹn, không giữ lại một chút gì, tan biến trong hiến tế toàn thân, làm thành của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Chỉ có tình yêu ấy, tình yêu mang tính cách hôn ước, và thúc đẩy mọi tình cảm của con người, mới có khả năng khơi dậy và nâng đỡ để họ có thể chấp nhận những từ bỏ và những thập giá mà bất cứ ai muốn mất mạng sống vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng nhất thiết sẽ gặp” (x. Mc 8,35) (7). Lời đáp trả của mỗi cá nhân là thành phần toàn vẹn của sự thánh hiến trong đời tu.

Tuyên khấn tu trì : một hành vi của Giáo Hội để thánh hiến và sát nhập

10. Theo giáo huấn của Giáo Hội, do việc tuyên khấn, các phần tử khấn hứa công khai tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm : họ được thánh hiến cho Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo Hội, được sát nhập vào hội dòng, với những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định” (GL 654). Tác động của Thiên Chúa và sự đáp trả của con người gặp gỡ nhau trong hành vi tuyên khấn, một hành vi của Giáo Hội thông qua quyền bính của người nhận lời khấn (x. YT 13-17). Hành vi này sát nhập cá nhân vào hội dòng. Trong hội dòng này, các phần tử cùng sống đời huynh đệ” (GL 607,2) và hội dòng bảo đảm cho họ những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học thuyết vững chắc giúp đạt đến sự trọn lành, một mối hiệp thông huynh đệ trong đạo binh Đức Ki-tô, và một sự tự do được đức tuân phục củng cố. Thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành giữ lời khấn mà hoan hỷ tiến bước trên đường đức ái” (GH 43a).

Khi thuộc về hội dòng, các tu sĩ phải công khai làm chứng cho Đức Ki-tô và Giáo Hội về sự từ bỏ tinh thần thế tục” (1 Cr 2,12), về cách cư xử cũng như về sự hiện diện của họ giữa trần gian theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 2,7).

Nếp sống theo các lời khuyên Phúc Âm

11. Việc tuyên khấn ghi khắc trong tâm hồn mỗi tu sĩ tình yêu của Chúa Cha, cũng là tình yêu trong tâm hồn Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ trần gian. Đó là tình yêu ôm ấp cả thế giới và tất cả những gì đến từ Chúa Cha, đồng thời tìm cách phá huỷ tất cả những gì ở trần gian không đến từ Chúa Cha” (HA 9). Một tình yêu như thế phải phát xuất từ một hiến tế đặc biệt, đặt nền tảng trên bí tích thánh tẩy. Tình yêu ấy phải là khởi điểm cho đời sống mới của tu sĩ trong Đức Ki-tô và Giáo Hội, và là khởi điểm của một cuộc sáng tạo mới” (HA 8).

12. Chính đức tin, đức cậy, đức mến đã thúc đẩy các tu sĩ nam nữ, bằng lời khấn, cam kết thực thi và khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm, và như thế họ làm chứng cho thế giới về tính hiện thực và ý nghĩa của các mối phúc (x. GH 31). Các lời khuyên đó như là cột trụ nâng đỡ đời tu, vì diễn tả đầy đủ và sâu sắc tính triệt để của Tin Mừng, là nét đặc trưng của đời sống tu trì. Thật vậy, nhờ việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội, tu sĩ muốn thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm cho họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo ; và họ được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa cách mật thiết hơn” (GH 44). Các ngăn trở đó đụng chạm đến những điểm thiết yếu của đời sống và các mối liên hệ của con người : tình cảm, sở hữu và quyền hành. Nền tảng nhân học đó cho thấy tại sao truyền thống thiêng liêng trong Giáo Hội đã luôn nối kết ba điểm đó với ba dục vọng đã được thánh Gio-an nhắc tới (x. 1 Ga 2,15-17). Việc giữ đầy đủ các lời khuyên Phúc Âm giúp triển nở con người, phát huy tự do thiêng liêng, thanh luyện trái tim, khích lệ lòng yêu mến và giúp tu sĩ cộng tác vào việc kiến tạo đô thị trần gian (x. GH 46).

Việc nỗ lực sống những lời khuyên Phúc Âm một cách trung thực có ý nghĩa lớn lao đối với tất cả mọi người (x. GH 39,42-43), bởi vì mỗi lời khấn là một lời đáp trả đặc biệt trước những cám dỗ lớn lao của thời đại chúng ta. Qua những lời khuyên Phúc Âm, Giáo Hội tiếp tục bày tỏ cho thế giới biết những hình thức mà thế giới phải biến hình” (transfiguration) để tiến vào Nước Thiên Chúa. Vì thế cần quan tâm trình bày cho các thỉnh sinh thấy những đòi hỏi cụ thể của ba lời khấn, cả về phương diện lý thuyết lẫn thực hành.

Khiết tịnh

13. (a. Nội dung). Lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh, được chấp nhận vì Nước Trời, xét vì là dấu chỉ của thế giới tương lai và nguồn mạch phong nhiêu trong một con tim không chia sẻ, bao hàm nghĩa vụ tiết chế hoàn toàn trong sự độc thân” (GL 599). Thực thi lời khuyên này có nghĩa là người đã được thánh hiến bằng các lời khấn, phải đặt ở trung tâm đời sống tình cảm của mình một mối liên lạc trực tiếp hơn” (CT 13) với Thiên Chúa, nhờ Đức Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần.

(b. Trưởng thành tâm lý). Sự tiết dục trọn vẹn đụng chạm đến những khuynh hướng thâm sâu của bản tính con người, nên những người muốn giữ đức khiết tịnh chỉ nên quyết định và chỉ được chấp thuận sau một thời gian thử thách thật đầy đủ và đã thấy có sự trưởng thành tâm lý, tình cảm cần thiết. Không những phải căn dặn họ về những nguy hiểm hay xảy đến cho đức khiết tịnh, nhưng còn phải huấn luyện thế nào để họ đón nhận cuộc sống độc thân hiến dâng cho Thiên Chúa, mà đem lại lợi ích cho con người toàn diện của họ” (DT 12).

(c. Tự chủ và khiêm nhường). Tự bản năng, con người có khuynh hướng muốn tuyệt đối hoá tình yêu, khuynh hướng đó được biểu thị qua tình cảm ích kỷ, cho rằng mình có chủ quyền trên người mình yêu, như thể sự chiếm hữu đó có thể đem lại hạnh phúc. Đàng khác con người khó mà hiểu, nhất là thực hành, rằng vẫn có thể yêu trong sự dâng hiến chính mình cách trọn vẹn mà không nhất thiết phải có những biểu lộ dục tính. Như vậy việc huấn luyện đức khiết tịnh phải nhằm giúp các tu sĩ nam nữ kiểm soát và chế ngự những đòi hỏi của tính dục, đồng thời giữ mình khỏi tình cảm ích kỷ, kiêu căng tự mãn vì đã trung thành giữ đức khiết tịnh. Không phải tình cờ mà các giáo phụ đã coi đức khiêm nhường hơn đức khiết tịnh, bởi vì, như kinh nghiệm minh chứng, đức khiết tịnh vẫn có thể gắn liền với một con tim khô cằn.

(d. Trao hiến vô vị lợi). Đức khiết tịnh đặc biệt giải phóng tâm hồn con người (1 Cr 7,32-35), để tâm hồn hằng cháy lửa yêu mến Thiên Chúa và mọi người. Một trong những đóng góp lớn lao nhất mà tu sĩ có thể đem lại cho nhân loại ngày nay chắc chắn là : bằng đời sống hơn là bằng lời nói, họ chứng tỏ cho thấy có thể có một sự hiến dâng đích thực cũng như một thái độ rộng mở đối với tha nhân, qua việc chia sẻ niềm vui của họ, trong khi vẫn trung tín và kiên trì trong tình yêu, mà không có thái độ thống trị hay độc chiếm.

(đ. Giáo dục khiết tịnh). Vì vậy trong việc huấn luyện đức khiết tịnh thánh hiến, cần lưu ý :

– Duy trì thái độ vui tươi và lòng biết ơn vì tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhờ tình yêu đó, Đức Ki-tô đã nhìn đến và đã chọn họ.

– Khuyến khích năng lãnh bí tích hoà giải, thường xuyên bàn hỏi thiêng liêng, cũng như chia sẻ tình yêu chân thực và huynh đệ trong cộng đoàn, được cụ thể qua các giao tiếp thẳng thắn và thân ái.

– Giải thích giá trị và ý nghĩa của thân xác, vệ sinh cơ thể (ngủ nghỉ, thể thao, thư giãn, ăn uống).

– Trình bày những khái niệm căn bản về phái tính nam – nữ, với những nét riêng về thể lý, tâm lý, tinh thần.

– Giúp tự chủ trong phạm vi phái tính, tình cảm, cũng như trong những gì liên quan đến nhu cầu tự nhiên hay giả tạo (quà bánh, thuốc lá, rượu mạnh…).

– Giúp nhận định về những kinh nghiệm quá khứ, nếu là tích cực thì tạ ơn, nếu là tiêu cực thì sửa chữa những khuyết điểm, khiêm tốn hạ mình trước Thiên Chúa và đề phòng cho tương lai.

– Trình bày nét phong phú của đức khiết tịnh, việc sinh sản con cái thiêng liêng cho Giáo Hội (Gl 4,19).

– Tạo bầu khí tín nhiệm giữa tu sĩ với các nhà giáo dục. Các vị này phải sẵn sàng lắng nghe tất cả, và đón nhận với lòng yêu mến để hướng dẫn và nâng đỡ.

– Phải khôn ngoan trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, trong việc giao tiếp với những người có thể gây trở ngại cho việc thực hành thích hợp với lời khuyên khiết tịnh (x. GL 277,2 và 666). Các bề trên cũng như các tu sĩ đều cần sự khôn ngoan này.

Khó nghèo

14. (a. Nội dung). Lời khuyên Phúc Âm về đức khó nghèo để noi gương Đức Ki-tô, Đấng tuy giàu sang nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, ngoài một nếp sống nghèo cả về thực chất cũng như tinh thần, cần cù và đạm bạc, không dính bén của cải thế gian, lời khuyên ấy còn bao hàm sự lệ thuộc và hạn chế trong việc sử dụng cũng như định đoạt tài sản, chiếu theo quy tắc trong luật riêng của từng hội dòng” (GL 600).

(b. Nhạy cảm với cảnh nghèo trên thế giới). Nhạy cảm đối với sự nghèo khó không phải là điều mới mẻ trong Giáo Hội cũng như trong đời tu. Điều có thể gọi là mới đó là sự nhạy cảm đặc biệt đối với những người nghèo và sự nghèo khó trên thế giới, đó chính là nét đặc trưng của đời tu ngày nay. Hiện có những hình thức nghèo khó trên một quy mô lớn, nơi cá nhân hoặc trong nhiều quốc gia : đói kém, dốt nát, bệnh tật, thất nghiệp, bị tước đoạt những tự do căn bản, lệ thuộc về kinh tế và chính trị, thối nát trong guồng máy cai trị, nhất là một xã hội dường như được tổ chức để làm phát sinh và tái phát sinh những hình thức nghèo khó.

(c. Yêu sách của tình liên đới với người nghèo). Trong những hoàn cảnh trên, các tu sĩ bị thôi thúc đến gần những người nghèo khổ nhất, cùng khốn nhất, những người mà Đức Giê-su luôn yêu quý hơn, những người mà chính vì họ, Người được sai đến (x. Lc 4,16-21), và được đồng hoá với họ (Lc 7,18-23). Sự gần gũi này làm cho các tu sĩ chấp nhận một lối sống, cá nhân cũng như cộng đoàn, gắn liền hơn với lời cam kết theo sát Đức Ki-tô nghèo khó và khiêm nhường. Sự lựa chọn ưu tiên” (8) và Tin Mừng này của các tu sĩ đối với những người nghèo, bao hàm sự từ bỏ từ bên trong, khắc khổ trong nếp sống cộng đoàn, đôi khi cả sự chia sẻ đời sống và các cuộc đấu tranh của họ, nhưng vẫn không quên sứ vụ riêng của mình là làm chứng cách hùng hồn và cao quý rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc” (GH 31). Thiên Chúa yêu mến mọi người, và muốn quy tụ mọi người không trừ một ai (x. MV 32). Đối với các tu sĩ, đây cũng là một hình thức khó nghèo tức là không để mình đóng kín trong một khung cảnh hay một tầng lớp xã hội. Việc nghiên cứu giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề xã hội nhất là thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội (Sollicitudo rei socialis) và Huấn dụ Về tự do Ki-tô giáo và giải phóng (Bộ giáo lý đức tin, 22-3-1986), sẽ giúp cho các tu sĩ có được những nhận định để thực hiện cụ thể đức khó nghèo tông đồ.

(d. Giáo dục về sự khó nghèo). Việc huấn luyện về đức khó nghèo theo Tin Mừng phải lưu ý đến những điểm sau đây :

– Trước khi bước vào đời tu, nhiều thanh niên đã có sự tự lập nào đó về tài chánh, và đã quen tự lo liệu cho mình những gì họ muốn. Nhiều người khác lại thấy cộng đoàn tu trì có mức sống cao hơn mức sống của họ trong thời niên thiếu, trong những năm học tập hay làm việc. Việc huấn luyện về đức thanh bần phải để ý đến lịch sử của mỗi người. Cũng nên lưu ý rằng, trong một số nền văn hoá, nhiều gia đình muốn lợi dụng đời tu như là đường thăng tiến cho con cái họ.

– Thực hành đức khó nghèo là chấp nhận đời sống lao nhọc cần cù, bằng những hành động cụ thể và khiêm tốn, khước từ tư hữu và sẵn sàng từ bỏ để được tự do hơn trong sứ vụ ; biết thán phục và trân trọng những công trình sáng tạo cũng như những đồ dùng họ đang sử dụng ; hoà mình với cộng đoàn trong mức sống ; thành thực muốn để mọi sự làm của chung” và lãnh nhận tuỳ theo mức cần thiết” (Cv 4,32.35).

(đ. Tiêu chuẩn cuối cùng là Đức Giê-su khó nghèo). Tất cả những điều đó nhằm tập trung đời sống người tu sĩ vào Đức Giê-su nghèo khó, Đấng hằng được chiêm ngắm, yêu mến và noi theo. Nếu không, sự khó nghèo trong đời tu, dưới hình thức liên đới và chia sẻ, dễ mang màu sắc ý thức hệ và chính trị. Chỉ có một tâm hồn khó nghèo, sẵn sàng theo Đức Ki-tô nghèo khó, mới có thể là nguồn mạch cho sự liên đới đích thực và từ bỏ chân thành.

Vâng lời

15. (a. Nội dung). Lời khuyên Phúc Âm về vâng lời, được chấp nhận trong tinh thần đức tin và lòng yêu mến để theo Đức Ki-tô, Đấng đã vâng phục cho đến chết, bó buộc ý chí phải tùng phục các bề trên hợp pháp, khi các ngài thay mặt Thiên Chúa truyền khiến hợp theo hiến pháp riêng” (GL 601). Hơn nữa, tất cả mọi tu sĩ phải tuân phục quyền bính tối cao của Giáo Hội một cách đặc biệt… và các nghĩa vụ vâng lời Đức thánh cha, như bề trên tối cao, kể cả chiếu theo mối ràng buộc của đức vâng lời” (GL 590,1 và 2). Đức vâng lời trong đời tu chẳng những không giảm bớt phẩm giá nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa” (DT 14).

(b. Phục vụ sứ mạng cứu độ). Đức tuân phục trong đời tu vừa là noi gương Đức Ki-tô, vừa là tham gia vào sứ vụ của Người. Đó cũng là ân cần thi hành những gì Đức Giê-su đã làm cũng như những điều có lẽ Người sẽ làm trong hoàn cảnh cụ thể người tu sĩ đang sống. Trong mỗi hội dòng, dù thi hành quyền bính hay tuân phục, người tu sĩ không thể ra lệnh hay tuân phục mà không quy chiếu về sứ vụ. Khi tuân phục, người tu sĩ nối liền sự tuân phục của mình vào sự tuân phục của Đức Giê-su để cứu độ thế giới. Vì thế trong việc thi hành quyền bính hay tuân phục, bất cứ điều gì xuất phát từ một sự thoả hiệp, từ một giải pháp thương lượng, từ một áp lực hay từ bất cứ âm mưu nào của con người, đều phản bội tinh thần căn bản của đức tuân phục trong đời tu, là thứ tuân phục luôn hoà hợp với sứ mạng của Đức Giê-su, và đang hiện tại hoá sứ mạng đó, cho dù sự dấn thân này rất nặng nề.

(c. Huấn luyện vâng lời). Một bề trên biết cổ võ sự đối thoại sẽ dễ tạo nên sự tuân phục có trách nhiệm và tích cực. Tuy nhiên ngài vẫn phải thi hành quyền ấn định và truyền dạy những gì phải làm” (DT 14). Để huấn luyện đức tuân phục cần lưu ý rằng :

– Để dâng hiến trong đức tuân phục, trước hết phải hiện hữu. Các thỉnh sinh cần phải thoát khỏi sự vô danh của thế giới kỹ thuật ; họ phải nhận ra và được nhìn nhận như những nhân vị, được quý trọng và yêu mến.

– Chính các thỉnh sinh cần có tự do đích thực, để tự mình có thể tiến từ điều hợp ý riêng” đến điều hợp ý Chúa Cha”. Để được như thế, các cơ cấu của cộng đoàn huấn luyện, dù phải rõ ràng và cương quyết, nhưng vẫn phải dành nhiều chỗ cho những sáng kiến và quyết định có trách nhiệm.

– Thánh ý Thiên Chúa được diễn tả thông thường và tuyệt vời qua trung gian Giáo Hội và quyền giáo huấn. Riêng đối với các tu sĩ, còn qua hiến pháp riêng.

– Trong việc tuân phục, đối với các anh em trẻ, chứng tá của các anh em lớn tuổi trong cộng đoàn có giá trị hơn bất cứ suy tư lý thuyết nào. Tuy nhiên khi cố gắng tuân phục như Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, tu sĩ trẻ có thể vượt qua được những lối sống thiếu tính cách xây dựng. Như vậy việc huấn luyện đức tuân phục trong đời tu phải được thực hiện với tất cả sự sáng suốt và những đòi hỏi cần thiết, để không ai xa lạc con đường” là Đức Ki-tô thi hành sứ vụ (x. Ga 14,6).

Các hội dòng : những ân huệ khác nhau cần được vun trồng và duy trì

16. (Mỗi hội dòng có một cách thực hành các lời khuyên Phúc Âm). Sự khác biệt giữa các hội dòng được so sánh như một cây đâm chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi trong cánh đồng của Người” (GH 43). Qua các hội dòng, Giáo Hội biểu dương Đức Ki-tô cho tín hữu cũng như cho lương dân : Đức Ki-tô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những người đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự, luôn tuân phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến” (GH 46).

Sự khác biệt này được diễn tả qua các đoàn sủng khác nhau của các vị sáng lập” (CT 11), đoàn sủng ấy được tỏ ra như một kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần”, truyền lại cho các môn sinh để họ sống, gìn giữ, đào sâu và liên tục phát triển hoà nhịp với Nhiệm Thể Đức Ki-tô vẫn luôn tăng triển. Vì thế Giáo Hội bảo vệ và nâng đỡ đặc tính riêng của mỗi hội dòng” (LH 11).

Vì vậy không có một cách thức đồng nhất trong việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, nhưng mỗi hội dòng phải xác định cách thức riêng của mình, bằng cách lưu ý đến đặc tính và mục đích riêng” (GL 598,1). Điều đó không chỉ áp dụng trong việc thi hành các lời khuyên Phúc Âm, nhưng còn trong tất cả những gì liên hệ đến nếp sống của các phần tử, nhằm hướng tới sự trọn lành theo bậc mình (GL 598,2).

Một đời sống thống nhất trong Chúa Thánh Thần

17. (Đời sống được thống nhất từ bên trong nhờ lòng mến Thiên Chúa và tha nhân). Những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm đều phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì Người đã yêu chúng ta trước (1 Ga 4,10). Trong mọi hoàn cảnh, phải cố gắng phát triển đời sống ẩn náu trong Thiên Chúa với Đức Ki-tô (x. Cl 3,3), vì đó là nguồn mạch và động lực phát sinh lòng yêu mến đối với tha nhân, nhằm cứu độ nhân loại và xây dựng Giáo Hội” (DT 6). Đức ái đó chi phối và nuôi dưỡng việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, đồng thời chan hoà trong tâm hồn nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa là Thần Khí hiệp nhất, hoà hợp và hoà giải không chỉ giữa con người với nhau, nhưng cả ngay trong nội tâm mỗi người. Như vậy, trong đời sống cá nhân của tu sĩ, không thể có sự tách rời giữa mục đích chung của đời tu và mục đích riêng của hội dòng, giữa sự dâng hiến cho Thiên Chúa và việc được sai đến trần gian, giữa nếp sống tu trì và hoạt động tông đồ. Trong cụ thể, không có đời sống tu trì tự tại” rồi mục đích và đoàn sủng riêng của mỗi hội dòng được gắn thêm như đồ phụ tùng. Trong các hội dòng chuyện hoạt động tông đồ, không có vấn đề nên thánh, khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, đời sống tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ Người, mà lại không có mối liên hệ nội tại với việc phục vụ Giáo Hội và thế giới (x. DT 5). Hơn nữa, hoạt động tông đồ và việc từ thiện thuộc về bản chất của đời tu, đến nỗi toàn bộ đời tu phải thấm nhuần tinh thần tông đồ, và toàn thể hoạt động tông đồ phải được sinh động nhờ tinh thần tu trì” (DT 8). Việc phục vụ tha nhân không phân chia cũng không tách biệt tu sĩ ra khỏi Thiên Chúa. Nếu được thôi thúc bởi đức ái thực sự hướng tới Thiên Chúa, thì việc phục vụ đó có giá trị như là phục vụ Thiên Chúa (x. Th. Tô-ma, Theol. II-II, q.188 a.1 và 2). Có thể quả quyết cách chính xác rằng : Hoạt động tông đồ của các tu sĩ tiên vàn hệ tại chứng tá đời sống thánh hiến của họ” (GL 673).

18. (Bên ngoài, đời sống được thống nhất nhờ lòng trung thành với sứ mạng). Về phần mỗi người, họ phải kiểm chứng xem trong đời sống của mình, bằng cách nào đời sống hoạt động của họ phát sinh từ sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, đồng thời siết chặt và củng cố sự kết hiệp đó (x. DT 8). Từ quan điểm đó, việc tuân phục thánh ý Thiên Chúa được biểu hiện ở đây và lúc này, trong sứ vụ được trao phó, chính là phương thế trực tiếp qua đó có thể thực hiện được một sự thống nhất trong đời sống, sự thống nhất cần phải tìm kiếm cách kiên trì, nhưng không bao giờ đạt tới trọn vẹn. Sự tuân phục đó chỉ có thể giải thích được bằng ý muốn theo sát Đức Ki-tô hơn và ý muốn này lại được nuôi dưỡng và khích lệ nhờ tình yêu của mỗi người đối với Đức Ki-tô. Tình yêu này là nguyên lý thống nhất nội tại của toàn bộ đời sống thánh hiến.

Sự thống nhất đó được chứng thực qua bốn thái độ trung thành quan trọng :

– trung thành với Đức Ki-tô và với Tin Mừng ;

– trung thành với Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới ;

– trung thành với đời tu và đoàn sủng riêng của hội dòng ;

– trung thành với con người và thời đại (x. TT 13-21).

CHƯƠNG II : TỔNG QUÁT
VỀ CÁC GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN ĐỜI TU

A. Tác nhân và môi trường huấn luyện

Chúa Thánh Thần

19. Chính Thiên Chúa là Đấng kêu gọi con người sống đời tận hiến giữa lòng Giáo Hội, và trong suốt cuộc đời của một tu sĩ, cũng chính Thiên Chúa là Đấng luôn luôn có những sáng kiến đi đầu. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành : cũng chính Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5,23-24). Đức Giê-su đã không chỉ gọi các môn đệ, nhưng trong đời sống công khai, Người còn nhẫn nại giáo huấn các ông, và sau khi sống lại, Người đã nhờ Chúa Thánh Thần để tiếp tục dẫn đưa các ông vào chân lý toàn vẹn” (Ga 16,12). Hoạt động của Chúa Thánh Thần tuy khác với những dữ kiện của tâm lý hay lịch sử trần thế, nhưng Người vẫn hoạt động qua những dữ kiện ấy, và tác động nơi thâm tâm mỗi người chúng ta, để rồi biểu lộ ra bằng những hiệu quả rõ rệt : Người là Thần Khí chân lý, Người dạy dỗ”, nhắc nhở”, hướng dẫn” (Ga 14,26 ; 16,12). Người là Dầu Thánh” giúp ta cảm nếm”, thẩm định, đoán xét và lựa chọn (1 Ga 2,20-27). Người là Đấng bênh vực – ủi an, đến giúp chúng ta là những kẻ yếu hèn”. Người nâng đỡ và ban tinh thần nghĩa tử (x. Rm 8,15-26). Sự hiện diện tuy âm thầm nhưng quyết liệt của Chúa Thánh Thần đòi phải có hai thái độ căn bản : một là khiêm nhường phó thác cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa ; hai là hiểu biết và thực hành sự phân định trong đời sống thiêng liêng. Thật vậy, cần có khả năng nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong mọi khía cạnh của cuộc sống và lịch sử, cũng như qua những trung gian loài người. Trong số những trung gian đó, phải kể đến thái độ cởi mở với vị linh hướng, do ước vọng muốn thấy rõ mình và sẵn sàng đón nhận sự hướng dẫn để biết cách phân định đâu là thánh ý Thiên Chúa.

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a

20. (a. Đức Ma-ri-a được liên kết với công trình của Thánh Thần). Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ mọi chi thể của Dân Thiên Chúa, luôn hợp tác vào công trình của Chúa Thánh Thần. Chính nhờ Người, Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào cung lòng của Mẹ. Cũng chính Người là Đấng Mẹ đã mong đợi cùng với các tông đồ đang kiên trì cầu nguyện, sau khi Đức Ki-tô về trời (x. GH 52 và 59). Vì thế trong suốt quá trình thụ huấn, các tu sĩ nam nữ phải nhận ra sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

(b. Đức Ma-ri-a là gương mẫu hoàn hảo). Mẹ là người đầu tiên trong số những người tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thành Na-da-rét cũng là người đã tận hiến cho Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất và hoàn hảo nhất. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, tình yêu hôn nhân của Mẹ đã đạt tới tột đỉnh trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã bồng ẵm Đức Ki-tô trong tay, đồng thời Mẹ cũng đã trả lời cách hoàn hảo hơn hết cho lời mời gọi : Hãy theo tôi”. Mẹ đã theo Con của Mẹ như theo một bậc thầy về đức khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Nếu Đức Ma-ri-a là gương mẫu đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội, thì Mẹ càng là gương mẫu đầu tiên cho những người và những cộng đoàn tận hiến trong lòng Giáo Hội”. Mỗi tu sĩ được mời gọi làm tươi mới đời tận hiến theo mẫu thánh hiến của Mẹ Thiên Chúa” (HA 17).

(c. Đức Ma-ri-a là Mẹ). Các tu sĩ gặp gỡ Đức Ma-ri-a không chỉ như một mô phạm nhưng còn như một người Mẹ. Người là Mẹ các tu sĩ, vì Người là Mẹ Đấng đã được thánh hiến và được sai đi. Đời tu tìm thấy trong lời thưa xin vâng” và kinh Magnificat” của Mẹ trọn vẹn ý nghĩa của việc Mẹ phó thác cho tác động thánh hiến của Thiên Chúa và niềm vui do việc thánh hiến đó” (9).

Giáo Hội và cảm thức của Giáo Hội” (sensus Ecclesiae)

21. Có nhiều mối dây liên kết chặt chẽ giữa Đức Ma-ri-a và Giáo Hội, Mẹ là phần tử nổi bật hơn hết của Giáo Hội và cũng là Mẹ của Giáo Hội. Mẹ là mẫu gương của Giáo Hội về đức tin, đức mến và sự hiệp nhất trọn hảo với Chúa Ki-tô. Mẹ là dấu chỉ cho Giáo Hội về một niềm cậy trông vững vàng và một niềm an ủi, cho tới ngày Chúa lại đến (GH 53, 63, 68).

(Những mối dây liên kết giữa đời tu và Giáo Hội). Đời tu cũng liên kết đặc biệt với mầu nhiệm Giáo Hội. Đời tu thuộc về sự sống và sự thánh thiện của Giáo Hội (x. GH 44). Đó là một cách thế đặc biệt để tham dự vào bản chất bí tích của Dân Thiên Chúa” (LH 10). Sự tận hiến cho Thiên Chúa kết hiệp người tu sĩ với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội một cách đặc biệt, thúc đẩy người tu sĩ hoạt động với tất cả nhiệt tâm nhằm mưu ích cho toàn Nhiệm Thể Giáo Hội” (LH 10). Phần Giáo Hội, qua tác vụ của các mục tử, Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống thánh hiến cho Thiên Chúa” (GH 45 ; xx. LH 8).

22. (Giáo Hội, trung gian các ân huệ của Thiên Chúa). Trong Giáo Hội, các tu sĩ lãnh nhận được lương thực cần thiết để nuôi dưỡng sự sống đã lãnh nhận qua bí tích rửa tội, và nuôi dưỡng sự thánh hiến trong đời tu. Trong Giáo Hội, họ hưởng dùng bánh từ bàn tiệc Lời Thiên Chúa và Tiệc Mình Đức Ki-tô. Quả vậy, nhân một lần tham dự phụng vụ mà thánh An-tôn, người đáng được nhìn nhận là tổ phụ đời tu, đã nghe được một lời sống động và hữu hiệu khiến người từ bỏ mọi sự để theo Đức Ki-tô (10). Trong Giáo Hội, việc đọc Lời Thiên Chúa, đi đôi với lời cầu nguyện, làm nên cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và người tu sĩ (x. MK 25), khơi dậy nơi họ lòng quảng đại tiến bước và sự từ bỏ rất cần thiết. Chính Giáo Hội liên kết lễ phẩm là đời sống của người tu sĩ nam nữ với hiến tế Thánh Thể của Đức Ki-tô (x. GH 45). Sau cùng, nhờ việc thường xuyên lãnh nhận bí tích hoà giải, các tu sĩ nhận được từ lòng thương xót của Thiên Chúa ơn tha thứ tội lỗi, để họ giao hoà với Giáo Hội và với cộng đoàn đã bị tổn thương do tội lỗi của họ (x. GH 11). Như thế, phụng vụ của Giáo Hội, một cách tuyệt vời, trở nên đỉnh cao mà toàn thể cộng đoàn hướng tới, và cũng là nguồn tuôn đổ sức mạnh của Tin Mừng (x. PV 2 ; 10).

23. (Trong Giáo Hội hiệp thông hữu cơ). Vì thế, nhiệm vụ huấn luyện cần được diễn tiến trong sự hiệp thông với Giáo Hội mà tu sĩ là con cái, và trong sự tuân phục hiếu thảo đối với các vị chủ chăn. Giáo Hội đầy Chúa Ba Ngôi” như giáo phụ Ô-ri-giê-nê đã nói (PG 12,1265), nghĩa là Giáo Hội là sự hiệp thông phổ quát trong đức ái theo hình ảnh và phát xuất từ nguồn suối là Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhờ Giáo Hội, chúng ta đón nhận Tin Mừng, và cũng chính Giáo Hội giúp chúng ta khám phá ra ý nghĩa của Tin Mừng, qua truyền thống và qua giải thích chính thức của Huấn quyền (x. MK 10). Bởi vì sự hiệp thông trong Giáo Hội là một hiệp thông hữu cơ (x. LH 5), được duy trì nhờ các Tông Đồ và các đấng kế vị, dưới quyền thánh Phê-rô, nguyên lý và nền tảng hữu hình và bền vững của sự hiệp nhất trong đức tin và hiệp thông” (GH 18).

24. (Giáo dục để biết cảm nghĩ với Giáo Hội và trong Giáo Hội). Vậy phải triển khai nơi các tu sĩ nam nữ cách thức cảm nghĩ không những với”, nhưng còn – như thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la đã nói – trong” Giáo Hội (Linh thao số 351 và 352). Cảm thức đó hệ tại ý thức rằng mình thuộc đoàn dân đang lữ hành.

Dân này bắt nguồn từ mầu nhiệm hiệp thông của Chúa Ba Ngôi, và đang bén rễ trong một lịch sử ; một dân dựa trên nền tảng các Tông Đồ, và trên tác vụ mục tử của những người kế vị các ngài ; một dân nhìn nhận người kế vị thánh Phê-rô là đại diện Đức Ki-tô và là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội.

Dân này nhìn nhận Kinh Thánh, Thánh Truyền và Huấn Quyền, tuy là ba, nhưng chỉ là một giòng chảy duy nhất mang Lời Thiên Chúa đến cho họ, và họ hằng mong ước hiệp nhất hữu hình với các cộng đoàn Ki-tô hữu khác ngoài Công Giáo ; một dân mặc dù không phải không biết những đến những biến đổi xảy ra từ bao thế kỷ, cũng không phải không biết những khác biệt hợp lý hiện có trong Giáo Hội, nhưng vẫn cố gắng khám phá ra sự liên tục và hiệp nhất, là những điều còn có thực hơn nữa.

Dân này nhìn nhận mình là Nhiệm Thể Đức Ki-tô, và không tách rời lòng mến Chúa Ki-tô khỏi tình yêu mà họ phải có đối với Giáo Hội của Người. Họ ý thức rằng mình đang bày tỏ một mầu nhiệm : mầu nhiệm chính Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, qua Thần Khí của Người ; mầu nhiệm đó đang được thông ban cho nhân loại hiện nay và mãi mãi. Như thế đó là một dân không chấp nhận để cho mình được quan niệm và phân tích theo quan điểm xã hội hay chính trị, vì phần xác thực nhất trong đời sống của dân đó vượt khỏi tầm quan sát của những người khôn ngoan thế gian.

Sau hết, đó là một Dân truyền giáo, không bằng lòng với tình trạng đoàn chiên nhỏ bé”, nhưng chỉ ngừng hoạt động khi nào Tin Mừng được rao giảng cho mọi người, và khi nào thế giới biết rằng : Dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mới được cứu độ (Cv 4,12) ngoài danh Đức Giê-su Ki-tô” (x. GH 9).

25. (Giáo dục để trở thành những chuyên viên hiệp thông). Cảm nghĩ với Giáo Hội còn mang ý nghĩa là hiệp thông trong Giáo Hội. Có một tương quan mật thiết giữa đời tu và mầu nhiệm Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa Thánh Thần bảo đảm luôn hiệp nhất trong hiệp thông và phục vụ” (GH 4) ; nhờ mối tương quan đó, các tu sĩ, là một cộng đoàn Giáo Hội, được gọi để, trong Giáo Hội và giữa trần thế, họ trở nên những chuyên viên xây dựng hiệp thông, những nhân chứng và những người gầy dựng nên dự phóng hiệp thông ; dự phóng này, theo thánh ý Thiên Chúa, là chóp đỉnh của lịch sử loài người (TT 24). Sự hiệp thông này được thực hiện nhờ việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm, nhờ đó đức ái nồng nàn được giải phóng khỏi những ràng buộc, và người tu sĩ trở nên dấu chỉ mang tính ngôn sứ về sự hiệp thông thâm sâu với Thiên Chúa, là Đấng họ hằng yêu mến trên hết. Ngoài ra, sự hiệp thông đó cũng nhờ kinh nghiệm hằng ngày về đời sống chung, cầu nguyện và việc tông đồ, là ba yếu tố cốt yếu và nổi bật của đời sống thánh hiến, làm cho họ trở nên dấu chỉ của sự hiệp thông huynh đệ (nt).

Vì thế, nhất là trong giai đoạn huấn luyện sơ khởi, đời sống chung, đặc biệt xét như kinh nghiệm và bằng chứng của sự hiệp thông” (nt số 33c, xem thêm GL 602), phải được coi là một môi trường không thể thiếu, và là một phương thế ưu tiên trong việc huấn luyện.

Cộng đoàn

26. (Việc huấn luyện đi liền với phẩm chất của cộng đoàn). Trong lòng Giáo Hội, và hiệp thông với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, đời sống cộng đoàn giữ một vai trò ưu tiên trong việc huấn luyện, ở bất cứ giai đoạn nào. Việc huấn luyện tuỳ thuộc phần lớn vào phẩm chất của cộng đoàn. Phẩm chất này là kết quả của bầu khí chung và nếp sống của các phần tử trong cộng đoàn đó, phù hợp với đặc tính riêng và tinh thần của hội dòng. Nói như thế có nghĩa là cộng đoàn sẽ là những gì các phần tử trong đó làm nên, cộng đoàn đó có những đòi hỏi riêng, và trước khi được sử dụng như phương tiện huấn luyện thì nó đã đáng được yêu mến và được phục vụ, nguyên vì giá trị của nó, theo như Giáo Hội quan niệm.

(Một cái nhìn đức tin, một thái độ khiêm tốn chân thực). Hiển nhiên, nguồn cảm hứng căn bản vẫn phải là cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, hoa trái của Chúa Phục Sinh (x. Cv 2,42 ; DT 15 ; GL 602). Thái độ khiêm tốn chấp nhận thực tế và niềm tin là những yếu tố thúc đẩy nỗ lực huấn luyện đời sống huynh đệ. Một cộng đoàn được thiết lập và tồn tại, không phải do việc các phần tử cảm thấy hạnh phúc vì có cảm nghĩ, tính tình hay quan điểm giống nhau, nhưng vì Thiên Chúa đã quy tụ họ và gìn giữ họ hiệp nhất qua việc cùng thánh hiến và cùng lãnh nhận một sứ vụ trong Giáo Hội. Qua trung gian đặc biệt của bề trên, mọi người liên kết với nhau trong sự tuân phục theo đức tin (x. GL 601, 618, 619 ; DT 14). Ngoài ra, không nên quên rằng sự bình an và niềm vui phục sinh trong cộng đoàn luôn là hoa trái của sự chết bản thân mình và đón nhận Chúa Thánh Thần (Ga 12,24 ; Gl 5,22).

27. (Kiến tạo cộng đoàn huấn luyện). Một cộng đoàn trở thành cộng đoàn huấn luyện theo mức độ nó giúp cho các phần tử lớn lên trong sự trung thành với Thiên Chúa, theo đoàn sủng của hội dòng. Vì thế các phần tử phải cùng nhau làm sáng tỏ lý do hiện hữu và mục tiêu nền tảng của cộng đoàn mình, những liên hệ giữa họ với nhau phải đượm nét đơn sơ và tín cẩn, nhất là xây dựng trên đức tin và đức ái. Để được như vậy, cộng đoàn phải tự kiến tạo mỗi ngày, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bằng cách phê phán và đổi mới nhờ Lời Thiên Chúa, thanh tẩy bằng sám hối, kiến tạo bằng Thánh Thể, và nuôi sống bằng việc cử hành năm phụng vụ. Cộng đoàn làm tăng triển tinh thần hiệp nhất bằng việc quảng đại giúp đỡ nhau, và không ngừng trao đổi của cải vật chất cũng như thiêng liêng, trong tinh thần nghèo khó, và nhờ tình bằng hữu cũng như sự đối thoại. Cộng đoàn phải thể hiện cách sâu xa tinh thần của đấng sáng lập, và tuân giữ tu luật của hội dòng. Các bề trên phải coi việc nỗ lực xây dựng một cộng đoàn huynh đệ trong Đức Giê-su là sứ vụ riêng của mình (x. GL 619). Vì thế, ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đoàn, mỗi người được thúc đẩy phát triển, không chỉ cho riêng mình, nhưng vì lợi ích chung (x. CT 32-34 ; YT 18-22).

(Cộng đoàn phải cung cấp một sự huấn luyện trọn vẹn). Các tu sĩ nam nữ trong thời kỳ thụ huấn, phải tìm được trong cộng đoàn một bầu khí thiêng liêng, một nếp sống khắc khổ và một nhiệt tâm tông đồ thích hợp để lôi kéo họ theo Chúa Ki-tô, đúng như ý nghĩa triệt để của việc thánh hiến. Nên nhắc lại ở đây lời của Đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói với các tu sĩ ở Bra-xin rằng : Các tu sĩ trẻ trong thời kỳ huấn luyện cần phải sống trong các cộng đoàn, ở đó cần hội đủ các điều kiện cần thiết cho việc huấn luyện trọn vẹn, đó là : thiêng liêng, trí thức, văn hoá, phụng vụ, sống chung và mục vụ. Các điều kiện đó ít khi có đầy đủ trong các cộng đoàn nhỏ. Vì thế, trong một cộng đoàn thích hợp cho con người và ơn gọi tu sĩ hay ơn gọi linh mục của họ, luôn phải kín múc từ kinh nghiệm sư phạm của Giáo Hội, tất cả những gì giúp cho việc giáo dục được thành công và thêm phong phú.”

28. (Cộng đoàn ở trong môi trường nghèo). Ở đây cũng cần đưa ra vấn đề được đặt ra do việc thiết lập một cộng đoàn huấn luyện trong môi trường nghèo. Nhiều cộng đoàn tu trì nhỏ được thiết lập trong một khu bình dân, ở ngoại ô các thành phố lớn hay tại vùng hẻo lánh nghèo nàn miền thôn dã ; việc làm đó có thể mang ý nghĩa là lựa chọn ưu tiên người nghèo”. Vì làm việc cho người nghèo chưa đủ, còn phải sống với họ và, chừng nào có thể, còn như họ nữa. Đòi hỏi này phải được thi hành một cách uyển chuyển tuỳ hoàn cảnh nơi các tu sĩ nam nữ hiện diện. Tiên vàn, cần quả quyết rằng theo luật chung, các đòi hỏi của việc huấn luyện phải được ưu tiên hơn các lợi ích tông đồ do việc sống giữa người nghèo. Thí dụ : phải thực hiện và duy trì bầu khí thinh lặng và cô tịch, là những yếu tố không thể chuẩn chước trong thời huấn luyện sơ khởi. Đàng khác, trong thời kỳ huấn luyện, cũng có những giai đoạn hoạt động tông đồ, trong đó vẫn có thể diễn tả chiều kích đời tu, miễn là các cộng đoàn nhỏ rải rác trong các môi trường nghèo vẫn đáp ứng được những tiêu chuẩn bảo đảm tính trung thực của đời tu, nghĩa là các cộng đoàn đó tạo điều kiện để sống một đời tu đích thực, phù hợp với mục đích của hội dòng. Các cộng đoàn đó vẫn giữ kinh nguyện chung cũng như riêng, và do đó, có dành thời giờ và khu vực cho việc giữ thinh lặng. Động lực để các tu sĩ nam nữ hiện diện tại đó tiên vàn phải là động lực Tin Mừng. Các cộng đoàn đó luôn sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của các bề trên hội dòng. Hoạt động của tu sĩ không chỉ để thoả mãn lựa chọn cá nhân, nhưng là của hội dòng, hoà hợp với đường hướng mục vụ của giáo phận mà Đức giám mục là người trách nhiệm trên hết.

(Cộng đoàn đón tiếp khách). Sau cùng, đối với các nền văn hoá địa phương đề cao đặc biệt lòng hiếu khách, thì cộng đoàn tu sĩ đúng nghĩa phải trù liệu sao để được tự lập và không lệ thuộc vào việc tiếp khách, về phương diện thời giờ cũng như nơi chốn. Điều này có lẽ khó thi hành hơn đối với các cộng đoàn mà cơ sở còn chật hẹp, nhưng phải được lưu tâm khi cộng đoàn đặt chương trình cho đời sống chung.

Chính tu sĩ chịu trách nhiệm về sự huấn luyện của mình

29. Chính cá nhân tu sĩ là người chịu trách nhiệm trước tiên của lời thưa xin vâng” đáp lại tiếng Chúa kêu gọi họ, và chấp nhận mọi hậu quả của lời đáp trả đó. Lời thưa này trước hết không thuộc lãnh vực tri thức, nhưng đúng hơn thuộc lãnh vực đời sống. Lời mời gọi và hành động của Thiên Chúa cũng như tình yêu của Người luôn luôn mới mẻ, còn những hoàn cảnh lịch sử thì không bao giờ lặp lại. Do đó, người được gọi không ngừng được mời đáp lại bằng câu trả lời có ý thức, mới mẻ và đầy trách nhiệm. Cuộc lên đường của họ gợi lại cuộc lên đường của Dân Thiên Chúa trong cuộc Xuất Hành, cũng như sự tiến triển chậm chạp của các môn đệ chậm tin” (Lc 24,25), nhưng kết cuộc là lòng các ông bừng cháy lên khi Chúa Phục Sinh tỏ mình ra cho các ông (Lc 24,32). Như thế muốn nói người tu sĩ có trách nhiệm tới mức nào trong việc huấn luyện. Do đó phải thiết tha kêu gọi lương tâm và trách nhiệm cá nhân của họ, để họ đặt giá trị đời tu trong sâu thẳm lòng mình, cùng với luật sống mà các vị giám sư đã đề ra cho họ. Họ sẽ tìm thấy nơi chính mình lý do biện minh cho sự lựa chọn thực tiễn của họ, cũng như tìm được sức năng động căn bản của mình trong Thánh Thần sáng tạo. Như thế phải làm sao để có sự quân bình đúng mức giữa việc huấn luyện tập thể với việc huấn luyện từng cá nhân, giữa việc tôn trọng thời gian đã được trù liệu cho mỗi giai đoạn huấn luyện với việc thích nghi vào nhịp sống của mỗi người.

Các nhà giáo dục hay huấn luyện : các bề trên và các vị có trách nhiệm huấn luyện

30. (a. Trách nhiệm của các vị huấn luyện). Thánh Thần của Đức Giê-su phục sinh đang hiện diện và hoạt động qua toàn bộ các trung gian trong Giáo Hội. Các truyền thống đạo đức trong Giáo Hội đều xác nhận vai trò quyết định của người giáo dục trong kết quả của việc huấn luyện. Vai trò của các vị ấy là phân định xem có ơn kêu gọi tu trì hay không ở giai đoạn huấn luyện sơ khởi, và giúp tu sĩ biết tự mình đối thoại với Thiên Chúa, đồng thời khám phá ra những con đường mà Thiên Chúa muốn cho họ tiến bước. Các vị huấn luyện cũng là bạn đồng hành của các tu sĩ trên đường của Chúa (x. Tb 5,10.17.22) qua những cuộc đối thoại trực tiếp và đều đặn, tuy nhiên vẫn tôn trọng thẩm quyền của cha giải tội và vị linh hướng đúng nghĩa.

Mặt khác, một trong những nhiệm vụ chính của các vị có trách nhiệm huấn luyện là lo liệu để các tập sinh và khấn sinh trẻ có được thực sự một vị linh hướng. Các vị cũng phải cung cấp cho các tu sĩ một nền tảng vững chắc về đạo lý và thực hành, tuỳ theo các giai đoạn huấn luyện của họ. Sau cùng, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các vị phải xác minh và đánh giá dần dần đoạn đường đã qua của các tu sĩ đang thụ huấn, các vị thẩm định người được gọi có hội đủ những khả năng mà những hội dòng đòi hỏi ở từng giai đoạn hay không.

31. (b. Các đức tính cần thiết). Không kể sự hiểu biết chắc chắn về đạo lý công giáo liên hệ đến đức tin và phong hoá, các vị có trách nhiệm huấn luyện còn cần phải có những đức tính riêng sau đây :

– Khả năng trực giác và cởi mở theo phương diện con người.

– Kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa và về cầu nguyện.

– Khôn ngoan nhờ chăm chú lắng nghe và nghiền ngẫm Lời Thiên Chúa.

– Yêu mến phụng vụ và am hiểu vai trò của phụng vụ trong việc giáo dục đời sống thiêng liêng và theo tinh thần Giáo Hội.

– Có khả năng văn hoá cần thiết.

– Có thời giờ và thiện chí để chăm sóc tất cả và từng ứng sinh, chứ không chỉ tổng quát từng nhóm (CN 20).

Nhiệm vụ này đòi hỏi nhà giáo dục phải có sự thanh thản trong tâm hồn, thái độ sẵn sàng, nhẫn nại, hiểu biết và yêu mến chân thành đối với những người mà họ có trách nhiệm mục vụ giáo dục.

32. (Cần có sự cộng tác). Ngoài trách nhiệm cá nhân của vị phụ trách huấn luyện, nếu còn có một ban huấn luyện, thì các thành viên trong ban này phải làm việc nhất trí với nhau, ý thức mãnh liệt về trách nhiệm chung, dưới sự điều động của vị giám đốc, họ phải hiệp thông chặt chẽ trong tinh thần và hành động, để giữa họ với nhau và với những người thụ huấn làm nên một gia đình hiệp nhất” (ĐT 5b). Sự liên đới và hợp tác liên tục giữa các người hữu trách trong từng giai đoạn đào tạo cũng không kém phần quan trọng.

Công cuộc huấn luyện toàn diện là kết quả của sự hợp tác giữa các vị phụ trách huấn luyện và các môn sinh. Chắc chắn rằng người thụ huấn có trách nhiệm lớn hơn, nhưng trách nhiệm này chỉ có thể tiến hành trong một truyền thống riêng biệt, truyền thống của hội dòng, mà các vị phụ trách huấn luyện là những chứng nhân và là gương mẫu trực tiếp.

B. Chiều kích nhân bản và Ki-tô giáo trong việc huấn luyện

33. (a. Cần có nền tảng nhân bản và Ki-tô giáo). Công Đồng Va-ti-ca-nô II, trong tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, đã đưa ra mục đích và phương tiện của mọi nền giáo dục đích thực nhằm phục vụ gia đình nhân loại. Cần ghi nhớ những nhận định đó trong việc tiếp nhận và huấn luyện các ứng sinh vào đời tu. Yêu cầu trước tiên đối với ứng sinh là tư cách nhân bản và Ki-tô hữu. Thực vậy, nhiều thất bại trong đời tu có thể nói được là hậu quả của những khuyết điểm trong lãnh vực này, mà đã không được nhận ra hay không được sửa chữa. Nền tảng nhân bản và Ki-tô giáo đó không những cần được kiểm chứng khi bước vào đời tu, nhưng còn bảo đảm có những điều chỉnh hữu ích trong suốt khoá huấn luyện tuỳ theo sự phát triển của con người và những biến chuyển của biến cố.

34. (b. Các đòi hỏi trong bốn văn kiện Công Đồng). Việc huấn luyện toàn diện con người gồm các chiều kích : thể lý, luân lý, trí thức và tâm linh. Còn mục tiêu và các đòi hỏi của việc huấn luyện thì chúng ta đều biết. Công Đồng Va-ti-ca-nô II nhắc lại trong hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng (x. MV 12-22.61), trong tuyên ngôn về Giáo dục Ki-tô giáo (GD 1-2), sắc lệnh Đào tạo các linh mục đề ra những tiêu chuẩn nhận định mức trưởng thành nhân bản cần phải có đối với các ứng sinh lãnh chức linh mục (ĐT 11). Xét vì bản chất đời tu cũng như sứ vụ mà các tu sĩ được kêu gọi thi hành trong Giáo Hội, những tiêu chuẩn đó có thể áp dụng dễ dàng cho các ứng sinh vào đời tu. Sau cùng, sắc lệnh Đức ái hoàn hảo về việc canh tân đời tu cũng nhắc nhở rằng : Sự thánh hiến đời tu đã ăn rễ sâu từ trong bí tích rửa tội” (ĐT 5). Do đó, một cách mặc nhiên, hiểu là chỉ nên nhận vào tập viện những tuyển sinh đã thực hành các cam kết của bí tích rửa tội tương ứng với tuổi của họ. Cũng thế, việc huấn luyện đời tu hoàn hảo phải củng cố việc tuyên xưng đức tin và những cam kết của bí tích rửa tội, trong mọi giai đoạn của cuộc sống, nhất là trong những giai đoạn khó khăn nhất, khi phải tự do lựa chọn một lần nữa điều mình đã một lần lựa chọn dứt khoát.

35. (Ưu tiên cho chiều kích thiêng liêng). Mặc dù tài liệu này nhấn mạnh tới chiều kích văn hoá và trí thức trong việc huấn luyện, nhưng chiều kích tâm linh vẫn chiếm ưu tiên. Việc huấn luyện các tu sĩ trong những giai đoạn khác nhau : khởi đầu và liên tục, có mục đích chính là làm cho các tu sĩ có kinh nghiệm dồi dào về Thiên Chúa và giúp họ kiện toàn một cách tiệm tiến những kinh nghiệm ấy trong đời sống của họ” (CN 17).

C. Khổ chế

36. (a. Luôn cần có khổ chế theo tinh thần của “mầu nhiệm Vượt Qua). Việc theo Đức Ki-tô giúp tham dự ngày càng ý thức và cụ thể hơn vào mầu nhiệm thương khó, chết và sống lại của Người. Mầu nhiệm phục sinh phải là trung tâm của các chương trình huấn luyện, vì đó là nguồn mạch đem lại sức sống và trưởng thành. Chính trên nền tảng đó sẽ hình thành con người mới, con người tu trì và con người tông đồ” (11). Điều đó nhắc chúng ta nhớ rằng khổ chế là yếu tố không thể thiếu trong việc huấn luyện và trong đời tu. Trước một thế giới của khoái lạc, hưởng thụ và lạm dụng quyền hành dưới nhiều hình thức, cần phải có những nhân chứng về mầu nhiệm phục sinh của Đức Ki-tô, mà giai đoạn đầu phải là giai đoạn thập giá. Quá trình này đòi hỏi trong chương trình huấn luyện toàn diện phải có khổ chế hằng ngày của cá nhân. Sự khổ chế này giúp các ứng sinh, tập sinh, khấn sinh thực hành các nhân đức tin, cậy, mến, khôn ngoan, công bằng, can đảm, tiết độ. Chương trình này không lệ thuộc thời đại và không bị lỗi thời, nhưng luôn hiện đại và cần thiết. Không chấp nhận khổ chế thì người ta không thể sống theo bí tích rửa tội và càng không thể trung thành với ơn gọi tu trì. Khổ chế sẽ dễ dàng được đón nhận hơn nếu, cũng như toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, nó được thúc đẩy bởi lòng yêu mến Chúa Ki-tô và niềm vui phụng sự Người. Hơn nữa dân Ki-tô hữu cần những người thủ lãnh, giúp họ bước theo con đường vinh quang của thập giá”. Họ cần nhân chứng là những người đã khước từ những gì mà thánh Gio-an tông đồ gọi là thế gian” và các dục vọng của nó”, họ cũng khước từ ngay cả cái thế giới” đã được tình yêu của Đấng Tạo Hoá sáng tạo và gìn giữ, và một số giá trị của nó. Nước Thiên Chúa mà đời tu làm chứng rằng vượt trên mọi sự trần thế” (GH 44), Nước ấy không thuộc về thế gian này. Cần phải có những chứng nhân nói lên điều đó. Dĩ nhiên điều đó giả thiết rằng trong thời kỳ huấn luyện phải có sự suy tư về khổ chế theo tinh thần Ki-tô giáo và những xác tín dựa trên Thiên Chúa cũng như những tương quan của Người với thế giới do Người sáng tạo. Vì một đàng phải tránh thuyết lạc quan ngây ngô và duy nhiên, đàng khác cũng phải tránh thuyết bi quan, bỏ quên mầu nhiệm Đức Ki-tô là Đấng sáng tạo và cứu chuộc thế giới.

37. (b. Khổ chế cần thiết ngay cả ở bình diện con người). Đàng khác, khổ chế, là sự khước từ theo đuổi những động lực thúc đẩy và những bản năng tự phát và sơ đẳng, đó là một đòi hỏi của con người trước khi là một đòi hỏi riêng biệt của Ki-tô giáo. Các nhà tâm lý lưu ý rằng, để rèn luyện nhân cách, các thanh niên rất cần có những lực cản (chẳng hạn nhà giáo dục, kỷ luật…). Nhưng điều đó không phải chỉ cần cho thanh niên, vì sự đào luyện không bao giờ kết thúc. Khoa sư phạm trong việc đạo tạo tu sĩ nam nữ, là phải giúp họ biết nhiệt tình chấp nhận hành trình đòi hỏi ít nhiều cố gắng. Chính Thiên Chúa cũng dẫn dắt con người mà Người đã tạo dựng như thế.

38. (c. Cần tập sống thinh lặng và cô tịch). Việc khổ chế được gắn liền với đời tu đòi hỏi, ngoài các yếu tố khác, phải tập quen sống thinh lặng và cô tịch, kể cả trong các hội dòng chuyên việc tông đồ”. Phải trung thành cẩn thủ luật đó, luật của mọi đời sống thiêng liêng trong các hội dòng. Luật này tạo nên trong cuộc sống một sự phân bổ hài hoà : có thời gian dành để sống cô tịch với Thiên Chúa, có thời gian dành cho các hoạt động khác và những quan hệ con người do các hoạt động đó đòi hỏi” (RC 5). Sự cô tịch, nếu tự do chấp nhận, sẽ đưa đến thinh lặng nội tâm, và thinh lặng này lại đòi phải có thinh lặng bên ngoài. Không riêng các cộng đoàn huấn luyện, nhưng trong mọi cộng đoàn, buộc phải trù liệu thời gian và nơi chốn dành cho việc giữ cô tịch và thinh lặng, để dễ lắng nghe và nghiền ngẫm Lời Thiên Chúa đồng thời giúp tạo nên sự trưởng thành tâm linh của con người và hiệp thông huynh đệ thực sự trong Đức Ki-tô.

D. Phái tính và việc huấn luyện

39. (Cần huấn luyện để có những tương quan với mọi giới). Các thế hệ ngày nay thường lớn lên trong môi trường giáo dục chung cả nam nữ, nhưng thanh niên nam nữ lại không được giúp đỡ để hiểu biết sự phong phú cũng như những giới hạn của mình. Những cuộc tiếp xúc dưới nhiều hình thức khác nhau vì lý do tông đồ, việc cộng tác chặt chẽ giữa các tu sĩ nam nữ cũng như những trào lưu văn hoá hiện thời khiến cho việc huấn luyện trong lãnh vực này trở nên đặc biệt hữu ích. Thật vậy, sự chung đụng quá sớm và sự cộng tác chặt chẽ thường xuyên không nhất thiết là bảo đảm cho sự trưởng thành trong giao tiếp của cả hai phía. Vì thế, nên sử dụng những phương tiện giúp thăng tiến và củng cố sự trưởng thành đó, nhằm tập luyện giữ đức khiết tịnh hoàn hảo.

(b. Đồng tính luyến ái). Hơn nữa, người nam và người nữ cần ý thức vị trí mình trong chương trình cứu độ. Vì thế, phải cung cấp cho các tu sĩ tương lai khả năng suy tư về vị trí của phái tính trong ý định của Thiên Chúa khi sáng tạo và cứu độ. Trong bối cảnh đó, cần trình bày và am hiểu lý do đúng đắn tại sao phải loại trừ khỏi đời tu những người nam cũng như người nữ không có khả năng làm chủ những xu hướng đồng tính luyến ái hoặc những người cho rằng có thể sống đường lối thứ ba là sống trong tình trạng ấm ớ vừa độc thân vừa hôn nhân” (Tài liệu đúc kết Thượng hội đồng giám mục Hà Lan. Osservatore Romano 2-2-1980).

40. (c. Huấn luyện sống khiết tịnh trong sự tôn trọng tương quan nam nữ). Thiên Chúa không tạo dựng một thế giới dửng dưng, không phân biệt phái tính. Khi sáng tạo con người theo hình ảnh và giống như Người (St 1,26-27), nghĩa là một tạo vật có khả năng suy nghĩ và tự do, có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, thì Thiên Chúa không muốn cho con người sống cô đơn, nhưng có quan hệ với một ngôi vị khác, một người phụ nữ (St 2,18). Giữa hai người có một tương quan hỗ tương, tương quan giữa người nam và người nữ và ngược lại” (Phẩm giá phụ nữ số 7). Người nữ là cái tôi thứ hai trong cùng một nhân tính” (nt số 6). Vì thế, ngay từ nguyên thuỷ, người nam và người nữ được mời gọi không những để sống bên cạnh nhau hay sống chung với nhau, nhưng còn là để sống cho nhau” (nt số 7). Chúng ta dễ hiểu được lợi ích của những nguyên tắc nhân chủng đó khi bàn về việc huấn luyện những người nam nữ, nhờ ơn sủng đặc biệt, đã tự do tuyên khấn khiết tịnh trọn vẹn vì Nước Trời.

41. (d. Căn tính của người nữ tu dưới ánh sáng của Đức Ma-ri-a). Việc nghiên cứu nghiêm chỉnh và sâu xa những nền tảng nhân học về thân phận nam giới cũng như nữ giới, giúp xác định căn tính của người nữ trong tương quan khác biệt và hỗ tương với người nam. Việc nghiên cứu đó không chỉ liên hệ đến những vai trò phải thi hành, những chức năng phải đảm nhận, nhưng sâu xa hơn còn liên hệ đến cơ cấu ngôi vị và ý nghĩa của cơ cấu đó” (Tông huấn Ki-tô hữu giáo dân, số 50). Lịch sử đời tu minh chứng rằng có nhiều phụ nữ sống trong đan viện hay giữa lòng đời, đã tìm thấy ở đó một môi trường lý tưởng để phục vụ Thiên Chúa và con người. Họ cũng tìm được những điều kiện thích hợp cho sự triển nở nữ tính riêng của họ, và nhờ đó, hiểu rõ hơn căn tính của mình. Vấn đề này cần được đào sâu hơn nhờ các suy tư thần học và những đóng góp của các nền văn hoá và khoa học nhân văn khác nhau” (Ki-tô hữu giáo dân, 50).

Sau hết, để có quan niệm đúng đắn hơn về nét riêng biệt trong ơn gọi nữ tu, phải nhớ rằng dung mạo của Đức Ma-ri-a thành Na-da-rét soi sáng cho chính thân phận người nữ qua việc Thiên Chúa, trong biến cố nhập thể cao cả của Con Người, đã tín nhiệm vào sự phục vụ tự do và chủ động của một người phụ nữ. Như thế, có thể quả quyết rằng người phụ nữ khi hướng về Đức Ma-ri-a, tìm thấy nơi Mẹ bí quyết để sống xứng đáng nữ tính của mình, và thực thi sự thăng tiến đích thực của mình. Dưới ánh sáng của Đức Ma-ri-a, Giáo Hội khám phá ra nơi dung mạo của người phụ nữ những nét phản chiếu một vẻ đẹp như tấm gương dọi lại những tâm tình cao đẹp nhất mà tâm hồn con người có thể có : đó là việc hiến thân hoàn toàn vì tình yêu, đó là sức mạnh chịu đựng những đau khổ lớn lao nhất, đó là trung tín vô hạn và sức hoạt động không mệt mỏi, đó là khả năng hài hoà trực giác sâu sắc với lời nói nâng đỡ và khích lệ” (thông điệp Thân Mẫu Đấng Cứu Chuộc 46).

CHƯƠNG III : CÁC GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN TU SĨ

A. Giai đoạn tiền tập

Lý do

42. Trong hoàn cảnh hiện tại và xét một cách tổng quát, có thể nói, nhận định của huấn thị Renovationis Causam vẫn còn mang tính thời sự : Phần lớn các khó khăn gặp phải trong thời đại chúng ta khi huấn luyện các tập sinh là do họ chưa có sự trưởng thành cần thiết tối thiểu khi được nhận vào tập viện” (RC 4). Tất nhiên không đòi hỏi phải đảm nhận ngay tất cả các bổn phận của người tu sĩ, nhưng phải xem họ có khả năng tuần tự đáp ứng các bổn phận ấy hay không. Để thẩm định được khả năng này, cần phải có thời gian và phương tiện. Đó là mục tiêu của giai đoạn chuẩn bị vào khoá tập, cũng được gọi là giai đoạn thỉnh tu hay tiền tập… Những cách thức thực hiện giai đoạn này được ấn định bởi luật riêng của mỗi dòng, tuy rằng không ai được thâu nhận mà không được chuẩn bị thích đáng” (GL 597,2).

Nội dung

43. Căn cứ vào những điều sẽ nói từ số 86 về tình trạng giới trẻ trong thế giới ngày nay, đừng ngại phải kéo dài thời gian chuẩn bị, mà phải làm thế nào để thời gian đó chứng minh và làm sáng tỏ một số điểm giúp các bề trên định đoạt về sự thích hợp và thời điểm để thâu nhận vào khoá tập. Không nên rút ngắn hoặc kéo dài vô lý giai đoạn này, miễn là làm sao có được một phán đoán chắc chắn về tư cách xứng đáng của ứng sinh.

(Bốn điều kiện để nhận vào tập viện). Luật chung ấn định những điều kiện thâu nhận, và luật riêng có thể thêm vào những điều kiện khác (x. GL 641-645). Dưới đây là những điểm quan trọng nhất :

– Mức độ trưởng thành nhân bản và Ki-tô giáo (coi số 90-91) cần có để được nhận vào khoá tập phải cao hơn mức huấn luyện căn bản phổ thông hay chỉ đủ cho người tân tòng. Trong thực tế đã có những thỉnh sinh chưa hoàn tất chương trình huấn luyện khai tâm Ki-tô giáo (bí tích, giáo lý và luân lý), đồng thời chưa hội đủ những yếu tố của đời sống Ki-tô hữu bình thường.

– Có một trình độ văn hoá phổ thông cơ bản, tương đương với trình độ văn hoá của một thanh niên đã học xong chương trình phổ thông trong nước. Nhất là các tập sinh tương lai phải thông thạo ngôn ngữ sử dụng trong khoá tập : khi nói đến văn hoá cơ bản, cũng cần phải lưu ý đến hoàn cảnh của một số quốc gia cũng như các môi trường xã hội mà tỉ lệ những người đến trường còn tương đối thấp, thế nhưng Thiên Chúa lại muốn kêu gọi họ bước vào đời sống tu trì. Khi đó, phải lưu tâm thăng tiến nền văn hoá mà đồng thời không đồng hoá với một nền văn hoá ngoại lai. Chính trong nền văn hoá riêng của các ứng sinh nam cũng như nữ mà họ nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa và đáp lại theo cách thế của mình.

Quân bình về mặt tình cảm, nhất là quân bình về phái tính, điều này giả thiết là chấp nhận người khác dù là nam hay nữ mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của họ. Đôi khi cũng phải nhờ đến các phương pháp trắc nghiệm tâm lý nhưng phải tôn trọng quyền bảo vệ bí mật của họ (x. GL 220).

– Có khả năng sống cộng đoàn dưới quyền bề trên trong hội dòng đó. Đã hẳn, khả năng này sẽ được thẩm định kỹ hơn trong khoá tập, nhưng vấn đề ấy phải được đặt ra trước. Các thỉnh sinh cần phải ý thức đặc biệt rằng ngoài con đường tu dòng còn có nhiều con đường khác dành cho người muốn hiến dâng trọn đời mình cho Chúa.

Các hình thức thực hiện

44. Có thể có nhiều hình thức khác nhau :

– Thâu nhận vào trong một cộng đoàn hội dòng mà không tham gia trọn vẹn nếp sống của cộng đoàn. Riêng cộng đoàn có tập viện thì không nên làm như vậy (trừ trường hợp các đan viện nữ).

– Có những giai đoạn tiếp xúc với hội dòng hoặc với một đại diện của hội dòng.

– Sống chung trong một nhà dành cho các thỉnh sinh v.v… Nhưng đừng để một hình thức nào có thể khiến cho thỉnh sinh nghĩ rằng mình đã là phần tử của hội dòng. Và dù sao đi nữa, việc đi sát với từng thỉnh sinh còn quan trọng hơn những cơ chế thu nhận.

Các bề trên sẽ chỉ định một hay nhiều tu sĩ có đủ tư cách để theo sát các thỉnh sinh và để thẩm định về ơn gọi của họ. Các vị này cộng tác tích cực với vị giám sư tập sinh.

B. Tập viện và tuyên khấn lần đầu

Mục đích

45. Tập viện là nơi khởi đầu cuộc sống trong hội dòng, để các tập sinh ý thức rõ hơn ơn Thiên Chúa kêu gọi, cách riêng ơn gọi đặc biệt của hội dòng, thử nghiệm lối sống của dòng, rèn luyện tâm trí theo tinh thần dòng, cũng như được trắc nghiệm về ý định và khả năng của mình” (GL 646). Tuy có những đoàn sủng và những hội dòng khác nhau, nhưng vẫn có thể định nghĩa mục đích của khoá tập là thời kỳ khai tâm toàn diện để bước vào lối sống mà Con Thiên Chúa đã ôm ấp và trình bày cho chúng ta trong Tin Mừng (x. GH 44), qua khía cạnh này hay khía cạnh khác trong sự phục vụ của Người cũng như qua mầu nhiệm này hay mầu nhiệm khác của Người (GH 46).

Nội dung

46. (a. Nội dung tổng quát theo Giáo Luật). Các tập sinh phải được hướng dẫn để vun đắp những đức tính nhân bản và Ki-tô giáo. Họ được dẫn vào con đường trọn lành hơn nhờ việc cầu nguyện và từ bỏ chính mình. Họ được huấn luyện cách chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc, cách đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Họ được chuẩn bị để thờ phượng Thiên Chúa trong phụng vụ thánh. Họ được học hỏi về cách thức sống đời tận hiến cho Thiên Chúa và cho nhân loại trong Đức Ki-tô, qua các lời khuyên Phúc Âm. Họ được huấn luyện về đặc tính, tinh thần, mục đích, kỷ luật, lịch sử, đời sống của hội dòng ; và thấm nhuần lòng yêu mến Giáo Hội cũng như các vị chủ chăn (GL 652,2).

47. (Bốn khía cạnh của việc khai tâm toàn diện). Căn cứ theo luật chung đó, sự khai tâm toàn diện, đặc tính của khoá tập, còn vượt xa hẳn một việc giảng dạy suông, tức là :

– Khai tâm để có được nhận thức sâu xa và sống động về Đức Ki-tô và về Chúa Cha. Muốn vậy, phải miệt mài học hỏi Kinh Thánh, cử hành phụng vụ theo tinh thần và đặc tính của hội dòng, học hỏi và thực hành việc cầu nguyện cá nhân, cũng như luyện tập thói quen và hứng thú trong việc tiếp xúc với các tác giả thời danh thuộc truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội, chứ không chỉ giới hạn vào việc đọc sách thiêng liêng theo thị hiếu thời đại.

– Dẫn vào mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô qua việc từ bỏ chính mình, nhất là qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm theo tinh thần của hội dòng, vui tươi thực hành khổ chế theo Tin Mừng và can đảm chấp nhận mầu nhiệm thập giá.

– Dẫn vào đời sống huynh đệ theo Tin Mừng. Bởi vì, chính trong cộng đoàn mà lòng tin được đào sâu và trở thành mối hiệp thông và cũng trong cộng đoàn, đức mến có rất nhiều hình thức biểu lộ ngay trong đời sống cụ thể hằng ngày.

– Dẫn vào lịch sử, sứ vụ riêng cũng như tinh thần hội dòng. Đối với các hội dòng chuyên việc tông đồ, ngoài các yếu tố khác, còn cần lưu ý : Để kiện toàn việc huấn luyện các tập sinh, hiến pháp có thể quy định thêm vào thời gian nói ở triệt một (tức là phải qua mười hai tháng trong chính cộng đoàn tập viện) một hay nhiều giai đoạn thực tập tông đồ ở ngoài cộng đoàn tập viện” (GL 648,2). Những giai đoạn này nhằm giúp các tập sinh thực hành một cách tiệm tiến trong đời sống của mình những điều kiện làm nên một sự thống nhất hài hoà giữa chiêm niệm và hoạt động tông đồ, sự thống nhất thuộc về những giá trị nền tảng của các hội dòng” (RC 5). Khi quy định những giai đoạn thực tập ấy, phải lưu ý đến mười hai tháng sống trong chính cộng đoàn tập viện. Trong thời gian này, các tập sinh không phải bận tâm đến việc học hành và những công tác không trực tiếp góp phần vào việc huấn luyện mình (GL 652,5).

Chương trình huấn luyện tập sinh phải do luật riêng ấn định (GL 650,1).

(c. Trong bối cảnh văn hoá và ngôn ngữ riêng). Không nên tổ chức năm tập tại một môi trường xa lạ với văn hoá và ngôn ngữ bản xứ của tập sinh. Quả vậy, tốt hơn, nên có những tập viện nhỏ miễn là các tập viện ấy vẫn bám rễ sâu trong nền văn hoá địa phương. Lý do chính yếu là để tránh tăng thêm nhiều vấn đề trong giai đoạn huấn luyện cần đến sự quân bình căn bản của con người, và phải tạo điều kiện dễ dàng cho mối liên hệ giữa tập sinh và giám sư, nhờ đó họ trình bày cho nhau một cách cặn kẽ qua con đường thiêng liêng lúc khởi đầu cũng như khi đã tiến bộ. Hơn nữa, sự chuyển đổi sang một nền văn hoá khác trong khoá tập có nguy cơ tiếp nhận những ơn gọi sai lầm cũng như không nhận ra được những động cơ giả tạo đôi khi có thể có.

Việc theo đuổi nghề nghiệp trong khoá tập

48. Cần phải nhắc đến ở đây vấn đề theo đuổi nghề nghiệp trong khoá tập. Tại nhiều nước kỹ nghệ hoá, đôi khi vì những lý do phù hợp với ý hướng tông đồ của mình, hoặc theo sự đòi buộc của luật pháp xã hội trong những quốc gia đó, các thỉnh sinh có nghề chuyên môn và được trả lương, thì họ xin nghỉ phép một năm để lo việc riêng” trước khi bước vào khoá tập, đề phòng họ khỏi mất việc làm nếu hồi tục và tránh nguy cơ thất nghiệp. Như thế đôi khi họ tiếp tục nghề nghiệp trong năm tập thứ hai dưới danh nghĩa thực tập hoạt động tông đồ.

Về vấn đề này, chúng tôi thiết nghĩ phải nêu lên nguyên tắc sau : trong những hội dòng có hai năm tập, các tập sinh chỉ được đi làm trọn thời gian với những điều kiện sau :

– Việc làm ấy thực sự đáp ứng được mục đích tông đồ của hội dòng.

– Việc làm ấy được thực hiện trong năm tập thứ hai.

– Việc làm ấy đáp ứng được những đòi hỏi của giáo luật số 648,2, tức là giúp hoàn bị việc huấn luyện các tập sinh để sống trong hội dòng, và thực sự đó là một công tác tông đồ.

Một số điều kiện phải giữ

49. Để thâu nhận vào khoá tập phải nghiêm túc tuân thủ các điều khoản giáo luật liên hệ đến việc hợp pháp và thành sự, về phía ứng sinh cũng như về phía vị có thẩm quyền thâu nhận. Làm như thế để tránh nhiều bất trắc sau này (GL 597,1 và 2 ; 641-645). Đối với các ứng sinh lãnh chức phó tế và linh mục, ngay từ lúc này phải đặc biệt bảo đảm không có ngăn trở bất hợp luật nào ảnh hưởng việc lãnh nhận các chức thánh sau này, dĩ nhiên các bề trên cao cấp của hội dòng tư giáo thuộc quyền giáo hoàng có thể chuẩn miễn các bất hợp luật không dành cho Toà Thánh (x. GL 134,1 và 1047,4). Cũng nên nhớ rằng trước khi nhận một giáo sĩ triều vào tập viện, các bề trên phải hỏi ý kiến đấng bản quyền của đương sự và xin chứng nhận (GL 644 ; 645,2).

50. (Yêu cầu vững bền, nghiêm chỉnh và bầu khí suy niệm). Luật pháp đã quy định những gì liên quan đến thời gian và nơi chốn tổ chức khoá tập. Nhưng phải thi hành một cách uyển chuyển, nên nhớ rằng vẫn có thể giải quyết theo khôn ngoan những gì luật pháp không bó buộc (x. GL 647-649 ; 653,2). Các bề trên cao cấp cũng như các vị có trách nhiệm huấn luyện hãy ý thức rằng những hoàn cảnh hiện nay đòi hỏi hơn xưa phải tạo cho các tập sinh có đầy đủ những điều kiện yên ổn, giúp cho việc triển nở đời sống thiêng liêng được diễn ra một cách sâu xa và bình thản. Và điều này càng rất cần thiết, vì nhiều ứng sinh đã trải qua một nếp sống nào đó ở thế gian. Thực vậy, các tập sinh cần phải tập luyện việc cầu nguyện lâu giờ, tập sống cô tịch và thinh lặng. Để được vậy, yếu tố thời gian đóng một vai trò quyết định. Họ có thể cảm thấy nhu cầu cần phải rút khỏi” thế gian hơn là đi vào” thế gian, và nhu cầu ấy không thuần tuý mang tính cách chủ quan. Cho nên thời gian và nơi chốn của khoá tập sẽ phải tổ chức làm sao để các tập sinh có thể tìm được ở đó một bầu khí thuận lợi để bén rễ sâu trong cuộc sống với Đức Ki-tô. Điều này chỉ có thể thực hiện được qua việc từ bỏ mình và khước từ tất cả những gì thuộc về trần gian, phản nghịch với Thiên Chúa, ngay cả những giá trị của trần gian, những giá trị mà rõ ràng là đáng thận trọng (GH 46). Vì thế dứt khoát không nên tổ chức khoá tập trong những cộng đoàn vào đời”. Như đã nói ở số 28, những đòi hỏi của việc huấn luyện phải được ưu tiên hơn một số những lợi ích tông đồ do việc thiết lập cộng đoàn giữa dân nghèo.

Khoa sư phạm

51. (Chú ý đến từng người). Tất cả các tập sinh khi bước vào khoá tập không có cùng một trình độ về văn hoá nhân bản cũng như Ki-tô giáo. Vì thế phải đặc biệt lưu ý đến từng tập sinh để gần gũi với họ cũng như đưa ra một nội dung và phương pháp sư phạm thích nghi với họ.

Các vị giám sư tập sinh và các cộng tác viên

52. Việc hướng dẫn tập sinh chỉ dành cho vị giám sư, dưới quyền các bề trên cao cấp. Vì thế, ngài phải được miễn tất cả các nhiệm vụ khác cản trở việc chu toàn trách vụ huấn luyện. Nếu có những cộng tác viên thì họ cũng phải tuỳ thuộc vào ngài trong những gì liên quan đến chương trình huấn luyện cũng như việc điều hành khoá tập. Cùng với vị giám sư, các cộng tác viên có một phần quan trọng trong việc nhận định và quyết định (GL 650-652,1).

Nếu có các linh mục triều hay các tu sĩ khác ở ngoài và ngay cả giáo dân vào trong tập viện để giảng dạy hay để giải tội thì phải hết sức thận trọng về mọi mặt trong việc cộng tác với vị giám sư. Ngài là người dẫn đường thiêng liêng được uỷ nhiệm để thi hành công việc đó đối với tất cả và từng tập sinh. Tập viện là nơi ngài thi hành tác vụ, và như thế ngài luôn phải sẵn sàng giúp đỡ những người được uỷ thác. Ngài chỉ có thể dễ dàng chu toàn trách vụ nếu các tập sinh tỏ ra hoàn toàn tự do thoải mái cởi mở với ngài. Tuy nhiên, trong các dòng tư giáo vị giám sư tập sinh cũng như các vị phụ tá không được giải tội cho các tập sinh, trừ những trường hợp đặc biệt do các tập sinh tự ý xin (GL 985).

Sau cùng, các vị giám sư tập sinh hãy tâm niệm rằng, các phương pháp tâm lý sư phạm không đủ để thay thế một sự đồng hành đích thực về mặt thiêng liêng.

53. Các tập sinh, ý thức trách nhiệm của mình, hãy cộng tác tích cực với vị giám sư để đáp lại ơn Thiên Chúa gọi một cách trung thành” và các phần tử của hội dòng hãy vui lòng và theo cách thức riêng, hợp tác vào việc huấn luyện tập sinh bằng gương mẫu đời sống và bằng lời cầu nguyện” (GL 652, 3 và 4).

Khấn dòng

54. (a. Ý nghĩa của việc cử hành phụng vụ). Giáo Hội, qua các bề trên, nhận lời khấn của các tu sĩ trong lúc cử hành phụng vụ và kết hợp sự dâng hiến của họ vào hy lễ tạ ơn (GH 45). Sách Nghi thức khấn dòng đã đưa ra một lược đồ để cử hành, nhưng vẫn tôn trọng những truyền thống chính đáng của các hội dòng. Lễ nghi phụng vụ đó cho thấy việc tuyên khấn là một hành động bén rễ sâu trong Giáo Hội. Qua việc cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, ta có thể hiểu được ý nghĩa của việc thánh hiến một cách sống động và sâu xa hơn.

55. (Tầm quan trọng của việc tự do dâng hiến trót bản thân). Trong khoá tập, phải đồng thời nêu rõ sự cam kết trọn đời phục vụ Chúa thật là cao quý và có thể thực hiện được. Đức Gio-an Phao-lô II nói : Ta có thể nhận định về phẩm chất của một người dựa vào những mối dây liên hệ của họ. Vì thế, người ta có thể hân hoan nói lên được rằng anh em tự do liên kết sự tự do của mình với Thiên Chúa qua việc tình nguyện phục vụ, trong một tinh thần phục vụ đầy yêu thương. Và khi đính kết như thế, nhân cách của anh em đạt được sự sung mãn. Trong thông điệp Đấng cứu chuộc con người, tôi đã giải thích rằng nhân cách được triển nở” có nghĩa là sử dụng trọn vẹn ơn huệ tự do mà Đấng Sáng Tạo đã ban tặng khi tạo dựng nên con người theo hình ảnh và giống như Người. Người ta có thể thể hiện đầy đủ ân huệ ấy qua việc dâng trọn cả con người mình theo tinh thần của tình yêu hôn nhân với Đức Ki-tô và, cùng với Đức Ki-tô, với tất cả những ai mà các tu sĩ nam nữ tận hiến cho Người theo những lời khuyên Phúc Âm, được Người sai tới” (phát biểu tại Madrid ngày 2-11-1982). Họ không dâng thử” đời mình cho Đức Ki-tô. Đàng khác, chính Người khởi xướng việc kêu gọi chúng ta dâng hiến đời mình cho Người. Các tu sĩ chứng thực rằng điều đó có thể thực hiện được, nhờ lòng trung tín của Thiên Chúa trước hết, và điều đó đem lại tự do và hạnh phúc nếu được tái diễn hằng ngày.

56. (Khấn tạm là chuẩn bị để khấn trọn). Khấn trọn đời cần phải chuẩn bị lâu dài và kiên trì tập sự. Đó là lý do tại sao Giáo Hội truyền phải có một thời gian khấn tạm trước. Dù mang tính cách thử”, vì là việc tuyên khấn tạm, nhưng việc tuyên khấn lần đầu cũng đã ràng buộc các thỉnh sinh vào việc thánh hiến riêng của bậc tu trì (RC 7). Vì thế, cho dù họ có thoả mãn hay không trong cuộc sống theo Chúa Ki-tô” hằng ngày, thời gian khấn tạm đó vẫn nhằm củng cố lòng trung tín của các khấn sinh trẻ.

(Phụng vụ khác nhau cho hai lần tuyên khấn). Việc cử hành phụng vụ phân biệt rõ ràng việc khấn trọn với khấn tạm, vì khấn tạm không được tổ chức long trọng đặc biệt” (Nghi thức khấn dòng số 5), trong khi khấn trọn phải được tổ chức long trọng và có sự hiện diện của các tu sĩ và giáo dân” (nt số 7) vì khấn trọn là dấu chỉ sự hiệp nhất bất khả phân ly giữa Đức Ki-tô và Giáo Hội, hiền thê của Người (GH 44) (nt).

57. Phải cẩn thận tuân giữ những khoản luật về những điều kiện để thành sự (valide) và kỳ hạn của việc khấn tạm cũng như khấn trọn (GL 655-658).

C. Việc huấn luyện các tu sĩ khấn tạm

Qui định của Giáo Hội

58. Về việc huấn luyện cho các tu sĩ khấn tạm, Giáo Hội quy định rằng : Trong mỗi hội dòng, sau khi khấn lần đầu, việc huấn luyện cho tất cả các phần tử phải được tiếp tục, nhằm giúp họ sống đời sống riêng của dòng cách sung mãn hơn và chu toàn sứ mạng của dòng cách thích nghi hơn. Vì vậy, luật riêng phải ấn định chương trình và thời gian huấn luyện trong khi vẫn lưu ý tới nhu cầu của Giáo Hội, hoàn cảnh của con người và thời đại, theo như mục đích và đặc tính của hội dòng đòi hỏi” (GL 659,1 và 2).

Việc huấn luyện phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý cũng như thực hành, nếu thấy tiện có thể cho lấy các bằng cấp đạo đời. Trong suốt thời gian huấn luyện này, đừng nên trao cho các phần tử những chức vụ hay công tác nào cản trở việc huấn luyện” (GL 660,1-2).

Ý nghĩa và những đòi hỏi của giai đoạn này

59. Khấn lần đầu khai mở cho một giai đoạn mới của việc huấn luyện mang tính năng động cũng như vững bền do việc tuyên khấn. Như thế, tu sĩ khấn lần đầu phải thu hoạch những kết quả của những giai đoạn trước và tiếp tục theo đuổi sự tăng trưởng về mặt nhân bản cũng như thiêng liêng qua việc can đảm thực hiện những gì đã cam kết. Trong các hội dòng chuyên việc tông đồ, việc duy trì hứng khởi thiêng liêng do năm tập đem lại càng cần thiết hơn nữa, vì việc chuyển sang một nếp sống cởi mở hơn và có những sinh hoạt rất bận rộn, thường có nguy cơ gây lạc hướng và đưa đến khô khan nguội lạnh. Còn trong các hội dòng chuyên chiêm niệm, thì có nguy cơ nhàm chán, mệt mỏi, lười biếng về mặt thiêng liêng, Đức Giê-su đã giáo dục các môn đệ qua những cơn khủng hoảng của họ … Qua các lần loan báo cuộc thương khó, Người đã chuẩn bị cho họ trở thành những môn đệ đích thực hơn (x. Mc 8,31-37 ; 9,31-32 ; 10,32-34). Vì thế, phương pháp sư phạm trong giai đoạn này sẽ nhắm đến việc giúp các tu sĩ trẻ thực sự tiến bước qua tất cả những kinh nghiệm của mình theo một thể nhất thống về hướng đi và về cuộc sống, tức là sự nhất thống của ơn gọi riêng trong giai đoạn hướng đến khấn trọn đời.

Nội dung và phương tiện huấn luyện

60. (a. Cộng đoàn thích hợp và các người huấn luyện có khả năng). Hội dòng có trách nhiệm lớn lao phải trù liệu cách tổ chức cũng như thời gian của giai đoạn huấn luyện này và cung cấp cho các tu sĩ trẻ những điều kiện thuận lợi giúp tăng trưởng thực sự cho việc hiến dâng cho Chúa. Trước hết, phải dành cho họ một cộng đoàn đào tạo gương mẫu và các vị huấn luyện có khả năng. Quả thực, khác với những điều đã nói về khoá tập (x. số 47), trong giai đoạn huấn luyện này, cần phải có một cộng đoàn đông hơn, được trang bị đầy đủ những phương tiện huấn luyện cũng như được hướng dẫn tốt, hơn là trong một cộng đoàn nhỏ có nguy cơ thiếu người giảng huấn đích thực. Vì trong suốt đời tu, người tu sĩ phải nỗ lực hiểu biết hơn, cách thực tiễn, tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn theo ơn gọi riêng của hội dòng mình, cố gắng chấp nhận thực tế của nếp sống ấy và lợi dụng những cơ hội giúp tăng triển, tôn trọng những người khác ngay trong sự khác biệt của họ và tự cảm thấy mình có trách nhiệm với cộng đoàn. Người có trách nhiệm huấn luyện các khấn sinh khấn tạm là do các bề trên chỉ định một cách đặc biệt, có trách nhiệm tiếp tục sứ vụ của vị giám sư tập sinh sao cho đúng với trình độ và theo cách thế riêng. Giai đoạn huấn luyện này kéo dài ít nhất ba năm.

61. (b. Chương trình thần học và triết học). Những chương trình đề xuất sau đây có giá trị hướng dẫn và còn nhắm xa hơn, vì xét thấy cần phải huấn luyện các tu sĩ nam cũng như nữ ngang tầm mức với sự mong chờ và đòi hỏi của thế giới ngày nay. Các hội dòng cũng như các vị phụ trách huấn luyện phải đưa ra những thích ứng do những đòi hỏi của con người, của thời gian và không gian.

Trong chương trình học, phải ưu tiên cho thần học Kinh Thánh, tín lý, tu đức và mục vụ, đặc biệt đào sâu về mặt đạo lý của đời sống thánh hiến cũng như đoàn sủng của hội dòng. Khi soạn chương trình học cũng như khi đem ra thực hành, phải lưu ý đến sự thống nhất sâu xa trong việc giảng dạy cũng như sự hài hoà giữa các môn học khác nhau. Các tu sĩ cần ý thức rằng : không phải học nhiều môn nhưng chỉ có một môn duy nhất : khoa học về đức tin và Tin Mừng. Về phương diện này, hãy tránh những môn học cũng như những khoá học chồng chéo nhau. Hơn nữa, để tôn trọng các cá nhân, đừng vội đưa các tu sĩ vào những cách đặt vấn đề mang tính phê bình gay gắt, nếu họ chưa có kinh nghiệm cần thiết để tiếp thu một cách bình thản.

Hãy cung cấp cho họ một sự huấn luyện về triết học nền tảng thích ứng với họ để giúp hiểu biết Thiên Chúa và có một cái nhìn Ki-tô giáo về thế giới gắn liền với những vấn đề sôi động trong thời đại chúng ta, nhờ đó có được sự hài hoà giữa hiểu biết của lý trí và hiểu biết của đức tin trong khi đi tìm kiếm một chân lý duy nhất. Trong những hoàn cảnh ấy, các tu sĩ phải đề phòng những thử thách luôn đe doạ giữa một bên là óc duy lý phê phán, và bên kia là lòng sùng đạo tình cảm và cực đoan.

Chương trình thần học phải được soạn thảo cho hợp lý và chia ra thành nhiều phần khác nhau sao cho ăn khớp, để cho thấy có một phẩm trật” giữa các chân lý của giáo lý Công Giáo, vì chúng có những tương quan khác nhau với nền tảng của đức tin Ki-tô giáo (HN số 11). Việc soạn thảo chương trình đó cũng phải đối chiếu với những chỉ dẫn của Thánh bộ giáo dục Công Giáo trong việc huấn luyện các ứng sinh lãnh tác vụ linh mục (Quy chế huấn luyện, 70-81, ghi chú 148 ; 90-93), phải rất cẩn thận đừng bỏ qua những môn giúp hiểu rõ đức tin và đời sống Ki-tô giáo trong Giáo Hội đó là : lịch sử, phụng vụ, giáo luật v.v…

62. (c. Dấn thân làm việc tông đồ và xã hội). Sau cùng, trong giai đoạn này, sự trưởng thành của người tu sĩ đòi họ phải dấn thân vào việc tông đồ và tham gia tiệm tiến vào những kinh nghiệm của Giáo Hội và xã hội, theo đoàn sủng của hội dòng mình cũng như lưu tâm đến năng khiếu và ước vọng cá nhân. Khi đề cập đến những kinh nghiệm đó, các tu sĩ nam nữ hãy tâm niệm rằng tiên quyết họ chưa phải là những cán bộ mục vụ chuyên nghiệp, nhất là trong giai đoạn huấn luyện sơ khởi, và cũng nhớ rằng việc dấn thân của họ để phục vụ Giáo Hội và nhất là xã hội nhất thiết phải tuân theo những tiêu chuẩn để phân định (x. số 18).

63. (d. Vị cố vấn về đàng thiêng liêng). Tuy các bề trên được gọi đúng danh hiệu là thầy hướng dẫn thiêng liêng theo dự phóng Tin Mừng của hội dòng mình” (LH 13a), các tu sĩ còn cần phải có những vị quen gọi là linh hướng hay cố vấn tinh thần về vấn đề lương tâm dù không phải là giải tội. Theo truyền thống của các vị tổ phụ trong sa mạc cũng như tất cả các vị sáng lập thời danh, mỗi hội dòng đều có những phần tử có khả năng đặc biệt và được chỉ định để giúp đỡ các anh em khác về lãnh vực này. Vai trò của họ thay đổi theo cấp độ tiến triển trên đường thiêng liêng của các tu sĩ. Trách nhiệm chính của họ là : phân định tác động của Thiên Chúa, hướng dẫn các tu sĩ đi theo con đường của Chúa và nuôi dưỡng đời sống của họ bằng một nền đạo lý chắc chắn và bằng thực hành việc cầu nguyện. Đặc biệt trong những giai đoạn đầu, cần thẩm định con đường người tu sĩ đã trải qua” (YT 47).

Việc hướng dẫn thiêng liêng đó không thể được thay thế bằng những phương pháp tâm lý sư phạm, và trong việc này Công Đồng Va-ti-ca-nô II đòi phải để cho họ có sự tự do thích đáng” (x. DT 14 ; GL 630), vì vậy việc hướng dẫn tinh thần phải được hỗ trợ bằng việc chuẩn bị sẵn nhiều người có khả năng và thành thạo (CN II, 11).

Những quy định trên đây, đặc biệt dành cho giai đoạn huấn luyện này của các tu sĩ, sẽ còn giá trị mãi trong cả cuộc đời của họ. Trong các cộng đoàn tu trì, nhất là những cộng đoàn có đông phần tử và đặc biệt là những cộng đoàn có những tu sĩ khấn tạm, cần thiết phải chỉ định ít nhất một tu sĩ chính thức để hướng dẫn và cố vấn về mặt thiêng liêng cho những anh em ấy.

64. (đ. Chuẩn bị gần để khấn trọn). Nhiều hội dòng đã trù liệu, trước khi khấn trọn, một thời kỳ chuẩn bị kỹ càng hơn bằng việc rút khỏi những bận rộn thường ngày. Thói quen này đáng cổ võ và phổ biến.

65. (e. Ý nghĩa của việc học chuyên môn). Như luật đã dự liệu, nếu có những khấn sinh trẻ được bề trên cử đi học (x. GL 660,1) thì họ phải hiểu rằng họ được đi học không phải vì những mục tiêu cá nhân của họ, nhưng để họ đáp ứng được những đòi hỏi trong các dự phóng tông đồ của gia đình tu trì của họ phù hợp với những nhu cầu của Giáo Hội” (LH 26). Tiến trình các môn học này cũng như việc chuẩn bị lấy bằng là do quyết định của những bề trên cao cấp và có trách nhiệm huấn luyện, sao cho hài hoà với phần còn lại của chương trình đã được trù liệu cho giai đoạn huấn luyện này.

D. Việc huấn luyện liên tục cho tu sĩ khấn trọn

66. Các tu sĩ hãy chăm chỉ tiếp tục việc huấn luyện thiêng liêng, đạo lý và thực hành trong suốt cuộc đời. Các bề trên hãy cung cấp cho họ các phương tiện và thời gian cần thiết cho việc ấy” (GL 661). Vì thế, mỗi hội dòng có trách vụ dự thảo và thực hiện một chương trình huấn luyện liên tục thích đáng với mọi phần tử. Một chương trình không chỉ nhắm đến huấn luyện về mặt trí thức, nhưng còn nhắm đến toàn diện con người, nhất là trong sứ vụ thiêng liêng của họ sao cho mỗi tu sĩ có thể sống một cách viên mãn cuộc đời tận hiến cho Chúa, trong sứ mạng đặc biệt mà Giáo Hội uỷ thác cho họ” (diễn từ Đức Gio-an Phao-lô II với các tu sĩ Bra-xin 1986 số 6).

Lý do của việc huấn luyện liên tục

67. Việc huấn luyện liên tục được thúc đẩy trước tiên bởi sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng vẫn đang kêu gọi mỗi người trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Đoàn sủng của đời sống tu trì trong một hội dòng là một ân huệ sống động, ân sủng này cần phải được đón nhận và sống trong những điều kiện, thường là mới mẻ. Đoàn sủng của các vị sáng lập (CT 11) chính là kinh nghiệm của Thần Khí được truyền lại cho các môn đệ của các ngài để các môn đệ sống, giữ gìn, đào sâu, không ngừng phát triển đoàn sủng đó, phù hợp với Nhiệm Thể Đức Ki-tô đang không ngừng tăng triển (…). Tính cách đoàn sủng riêng của mỗi hội dòng đòi hỏi vị sáng lập cũng như các môn đệ phải không ngừng chứng tỏ về lòng trung thành đối với Chúa ; về sự sẵn sàng lắng nghe Thần Khí Chúa ; về sự sáng suốt chú ý đối với những hoàn cảnh và những dấu chỉ của thời đại ; về ý chí muốn sống giữa lòng Giáo Hội ; về sự sẵn sàng tuân phục phẩm trật Giáo Hội ; về lòng can đảm trong những sáng kiến ; về sự kiên trì trong đời hiến dâng ; về sự khiêm tốn chịu đựng những nghịch cảnh (…). Thời đại chúng ta đặc biệt đòi hỏi các tu sĩ phải có tính trung thực theo đoàn sủng, sống động và khôn ngoan trong các khám phá của thời đại, tính trung thực này đã nổi bật nơi các vị sáng lập” (LH 11b, 12b, 23e). Việc huấn luyện liên tục đòi hỏi phải đặc biệt lưu tâm đến những dấu chỉ của Thần Khí trong thời đại chúng ta và phải nhạy bén với những dấu hiệu ấy để có thể đưa ra lối giải đáp thích đáng.

Hơn nữa, việc huấn luyện liên tục cũng còn là một dữ kiện của khoa xã hội học, dữ kiện này có ảnh hưởng trên mọi ngành sinh hoạt nghề nghiệp. Việc thường huấn thường định đoạt rất nhiều đến việc tiếp tục theo đuổi một nghề nghiệp hay buộc phải đổi sang một nghề khác.

Trong khi việc huấn luyện sơ khởi nhắm đến việc cá nhân đạt được một sự tự quyết đầy đủ để sống trung thành với những cam kết của đời tu trì, thì việc huấn luyện liên tục lại giúp cho người tu sĩ ấy có được sự sáng tạo trong sự trung thành. Vì ơn gọi Ki-tô hữu cũng như ơn gọi tu trì đòi hỏi một sự tăng triển năng động và một lòng trung thành trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Điều đó đòi buộc phải có một sự huấn luyện thiêng liêng đem lại sự nhất quán nội tâm, nhưng cũng phải uyển chuyển và lưu tâm đến những biến cố hằng ngày trong đời sống cá nhân cũng như thế giới. Theo Chúa Ki-tô” có nghĩa là luôn luôn phải lên đường”, tránh sự ù lì và cứng nhắc, để có thể là một nhân chứng sống động và chân thực cho Nước Thiên Chúa trên trần gian này.

Nói cách khác, có thể tóm lại ba lý do cơ bản thúc đẩy việc huấn luyện liên tục :

– Trước hết, do chính chức năng của đời sống tu trì giữa lòng Giáo Hội. Chức năng ấy có tính đoàn sủng về cánh chung rất ý nghĩa, đòi buộc các tu sĩ nam nữ phải đặc biệt lưu tâm đến đời sống của Thánh Thần, trong lịch sử riêng của mỗi người nam cũng như nữ, và trong niềm hy vọng và lo âu của các dân tộc.

– Thứ đến, do những thách đố mà tương lai của niềm tin Ki-tô giáo đề ra trong một thế giới đang biến chuyển thần tốc (x. DT 2d).

– Sau cùng, do chính đời sống của các dòng tu và nhất là tương lai của họ. Đời sống và tương lai ấy tuỳ thuộc một phần vào việc huấn luyện liên tục cho các phần tử của mình.

Nội dung của việc huấn luyện liên tục

68. (Tiến trình tổng quát gồm bốn khía cạnh). Việc huấn luyện liên tục là một quá trình đổi mới toàn diện nhắm đến mọi khía cạnh của con người tu sĩ và của toàn thể hội dòng. Khi huấn luyện, cần lưu ý rằng các khía cạnh khác nhau nơi con người không thể tách rời nhau nhưng ảnh hưởng lẫn nhau trong đời sống của mỗi tu sĩ và mỗi cộng đoàn. Sau đây là những khía cạnh nên lưu ý :

Đời sống theo Thần Khí hay đời sống tâm linh : phải ưu tiên cho đời sống ấy vì nó bao gồm việc đào sâu đức tin và đào sâu ý nghĩa của việc tuyên khấn tu trì. Vì thế, những việc linh thao hằng năm và những thời gian hồi tâm dưới nhiều hình thức cũng phải được ưu tiên.

Tham gia vào đời sống của Giáo Hội theo đoàn sủng của hội dòng và nhất là cập nhật hoá các phương thức cũng như nội dung của những sinh hoạt mục vụ, trong khi cộng tác với những người thi hành mục vụ tại địa phương.

Bồi dưỡng đạo lý và nghiệp vụ, bao gồm việc đào sâu Kinh Thánh và thần học, nghiên cứu những tài liệu của huấn quyền trung ương và địa phương, am hiểu các nền văn hoá tại những nơi mình đang sống và hoạt động, nếu được, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ thuật.

Trung thành với đoàn sủng riêng, qua việc luôn tìm hiểu sâu xa về đấng sáng lập, về lịch sử của hội dòng, về tinh thần và sứ vụ của hội dòng và cùng hỗ trợ nhau sống đoàn sủng ấy, xét về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn.

69. (Trách nhiệm của mỗi hội dòng). Phần lớn việc huấn luyện liên tục của các tu sĩ được tổ chức trong khung cảnh huấn luyện liên dòng”. Trong trường hợp đó, hãy nhớ rằng một hội dòng không thể uỷ thác cho những tổ chức ở bên ngoài tất cả trách vụ huấn luyện liên tục các phần tử của mình, một trách vụ, xét theo nhiều phương diện, rất liên hệ với những giá trị riêng của đoàn sủng của hội dòng mình. Do đó, mỗi hội dòng tuỳ theo nhu cầu và khả năng, phải khơi dậy và thực hiện những sáng kiến và những cơ cấu khác nhau.

Những thời điểm quan trọng trong việc huấn luyện liên tục

70. Những giai đoạn trên phải được hiểu một cách rất uyển chuyển. Nên phối hợp các giai đoạn đó một cách cụ thể với các giai đoạn do sáng kiến của Chúa Thánh Thần khơi lên mà ta không thể dự kiến được. Những giai đoạn sau đây cần lưu ý đặc biệt :

Thời chuyển tiếp từ giai đoạn huấn luyện sơ khởi sang kinh nghiệm đầu tiên của đời sống tự lập hơn ; trong thời điểm ấy, người tu sĩ phải khám phá ra một cách thức mới để trung thành với Thiên Chúa.

Khoảng mười năm sau khấn trọn, tức là thời gian thấy có nguy cơ sống máy móc” và mất đi tất cả nhiệt tình ban đầu. Ở thời điểm này, cần một thời gian dài để rút lui khỏi cuộc sống bình thường nhằm đọc lại” đời sống ấy dưới ánh sáng Tin Mừng và ý hướng của vị sáng lập. Đó là thời gian đào sâu mà một số hội dòng dành cho các phần tử của mình trong năm thứ ba” cũng còn gọi là khoá tập thứ hai” hay kỳ thử thứ hai”, v.v… Thời điểm này nên được tổ chức trong một cộng đoàn của hội dòng.

– Sự trưởng thành đầy đủ thường có nguy cơ phát triển chủ nghĩa cá nhân, nhất là nơi những người có tính cương quyết và hiệu năng.

– Vào lúc có những khủng hoảng trầm trọng có thể xảy ra cho mọi lứa tuổi do những yếu tố ngoại lai (đổi nơi ở, đổi việc làm, thất bại, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi…) hay do những yếu tố trực tiếp nơi cá nhân hơn (bệnh tật về thể lý hay tâm lý, khô khan trong đời sống thiêng liêng, bị thử thách nặng nề, khủng hoảng về đức tin hay tình cảm hoặc cả hai v.v…). Trong những trường hợp đó, người tu sĩ phải được nâng đỡ để lướt thắng được những khủng hoảng đó trong đức tin.

– Trong thời gian rút dần khỏi các công việc, các tu sĩ nam nữ cảm nghiệm thật sâu xa nơi chính bản thân mình kinh nghiệm mà thánh Phao-lô diễn tả trong bối cảnh con đường hướng về phục sinh : Chúng tôi không nản lòng thất vọng, mặc dù con người xác thịt bên ngoài chúng tôi có tiều tuỵ, nhưng con người tinh thần bên trong chúng tôi càng ngày càng mới mẻ trẻ trung hơn” (2 Cr 4,16). Chính thánh Phê-rô khi đã nhận trách nhiệm lớn lao là chăn dắt đoàn chiên của Chúa, cũng được nhắc nhở : Khi nào anh già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21,15-19). Người tu sĩ có thể sống những khoảnh khắc đó như là một cơ may duy nhất cho phép họ cảm nghiệm kinh nghiệm phục sinh của Chúa Giê-su đến độ muốn chết đi để ở với Chúa Ki-tô”, phù hợp với sự chọn lựa muốn ra đi để ở với Người : Cho tôi nhận biết Đức Ki-tô, biết quyền phép sống lại của Người, và được giống Người trong sự chết, để nhờ đó, ngày kia cũng sẽ sống lại từ cõi chết như Người” (Pl 3,10 x. 1,20-26 và GH số 48). Cuộc sống tu trì không đi theo con đường nào khác con đường này được.

71. (Trách nhiệm và sự giúp đỡ). Trong một hội dòng, các bề trên sẽ chỉ định một vị có trách nhiệm huấn luyện liên tục. Nhưng cũng phải lưu ý rằng các tu sĩ nam nữ trong suốt đời tu của mình, có thể chọn lựa vị hướng dẫn hay cố vấn thiêng liêng, theo những phương pháp sư phạm đã được thi hành trong suốt quá trình huấn luyện sơ khởi và theo những phương thức thích hợp với sự trưởng thành đã lãnh hội được cũng như cho những hoàn cảnh họ đang trải qua.

CHƯƠNG IV : VIỆC HUẤN LUYỆN
TRONG CÁC HỘI DÒNG CHUYÊN VỀ CHIÊM NIỆM
ĐẶC BIỆT CÁC NỮ ĐAN SĨ (DT 7)

72. Những điều đã nói trong các chương trên đây cũng được áp dụng cho các hội dòng nói trong chương IV này, trong khi vẫn tôn trọng đoàn sủng, truyền thống và luật pháp riêng của họ.

Vai trò của các hội dòng này trong Giáo Hội

73. Trong các hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và thinh lặng, trong việc chuyên tâm cầu nguyện và hân hoan vui tươi hãm mình ; cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, thì các hội dòng ấy vẫn phải luôn giữ địa vị cao quý nơi Nhiệm Thể Đức Ki-tô, trong đó, mỗi chi thể có chức năng riêng” (Rm 12,4). Thực vậy, họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang Dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh bằng việc tông đồ âm thầm phong phú. Như thế, họ là vinh dự của Giáo Hội và là nguồn mạch tuôn trào các ơn thiêng” (DT 7).

Giữa lòng một Giáo Hội địa phương, đời sống chiêm niệm của họ trước tiên và cơ bản là một hoạt động tông đồ ; vì theo ý định đặc biệt của Thiên Chúa, đó chính là kiểu sống tiêu biểu và đặc trưng của họ để thuộc về Giáo Hội, sống trong Giáo Hội, để hiệp thông với Giáo Hội và để chu toàn sứ mạng trong Giáo Hội” (CN 26 và 27).

Vì những lý do kể trên, các hội dòng đó phải chú tâm đặc biệt đến việc huấn luyện các phần tử, cả trong giai đoạn huấn luyện sơ khởi cũng như trong giai đoạn thường huấn.

Tầm quan trọng của việc huấn luyện

74. Ở những nơi mà các phần tử đã chọn quy hướng toàn bộ đời sống của mình để ưu tiên, nếu không muốn nói là tuyệt đối, tìm kiếm Thiên Chúa, thì không thể coi thường việc học hỏi Lời Thiên Chúa, truyền thống của các giáo phụ, các tài liệu của huấn quyền và việc suy tư thần học có hệ thống. Các tu sĩ nam nữ này, hoàn toàn chuyên tâm vào việc chiêm niệm, sẽ học biết trong Kinh Thánh tại sao Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm tạo vật để ký kết giao ước với họ và, ngược lại, cũng tìm hiểu tại sao toàn bộ đời sống con người chỉ là cuộc tìm kiếm ấy. Tạo vật, do nhiều giới hạn, phải mò mẫm nhưng đồng thời Thiên Chúa cũng giúp họ có được lòng say mê tìm kiếm.

Vì vậy, cần phải giúp các tu sĩ tiến gần đến mầu nhiệm về Thiên Chúa mà vẫn để ý đến đòi hỏi có tính cách khắt khe của lý trí con người. Cũng phải nêu lên những điểm chắc chắn phát xuất từ mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, nhưng vẫn phải luôn khiêm tốn trước kết quả của cuộc tìm kiếm, một công cuộc chỉ hoàn tất khi chúng ta diện đối diện trực tiếp với Thiên Chúa. Mối quan tâm đầu tiên của các tu sĩ chiêm niệm không phải và không thể là để đạt được một kiến thức rộng rãi hay tìm kiếm những bằng cấp khoa bảng, nhưng là và phải là để củng cố đức tin, là nhân đức bảo đảm những sự tốt lành ta hy vọng sẽ được và chứng thực những thực tại ta không trông thấy” (Dt 11,1). Nhờ đức tin, sự chiêm niệm đích thực có được nền tảng và những hoa trái. Chắc chắn đức tin đó sẽ dấn bước vào những nẻo đường mờ tối : Áp-ra-ham ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8), nhưng đức tin làm cho ta vững vàng trong thử thách như xem thấy Đấng không thể xem thấy (x. Dt 11,27). Đức tin điều chỉnh, đưa vào chiều sâu và mở rộng nỗ lực của lý trí đang tìm kiếm và chiêm ngắm điều mà bây giờ chỉ trông thấy như trong gương, cách mường tượng” (1 Cr 13,12).

Vài điểm cần nhấn mạnh

75. Sau khi đã nhận thức về tính cách loại biệt của các hội dòng này cũng như những phương thức được đưa ra để trung thành với tính cách đó, trong quy chế huấn luyện của các hội dòng này, cần phải lưu ý đến vài điểm quan trọng để dần dần áp dụng vào các giai đoạn kế tiếp của việc huấn luyện. Ngay từ đầu, phải ghi nhận rằng, vì số phần tử trong các hội dòng này cố định và không có hoạt động bên ngoài đan viện, nên diễn tiến việc huấn luyện sẽ ít tính cách gắt gao và ít tính cách hình thức hơn. Sau cùng, phải thêm rằng : theo bối cảnh của thế giới ngày nay, người ta mong rằng các tu sĩ của các hội dòng này phải có trình độ văn hoá liên quan đến con người và tôn giáo tương ứng với những đòi hỏi của thời đại.

Việc đọc và suy niệm Kinh Thánh (Lectio divina)

76. Hơn các anh chị em chuyên lo việc tông đồ, các phần tử trong các hội dòng chuyên việc chiêm niệm dành phần lớn thời giờ hằng ngày để học hỏi Lời Thiên Chúa cũng như đọc và suy gẫm Kinh Thánh, qua bốn hình thức sau đây : 1) đọc ; 2) suy gẫm ; 3) cầu nguyện và 4) chiêm niệm (lectio, meditatio, oratio, contemplatio). Dù từ ngữ được sử dụng và ý nghĩa người ta gán cho nó có khác nhau tuỳ theo những truyền thống tâm linh, mỗi giai đoạn đó vẫn có sự cần thiết và tính độc đáo riêng : việc đọc Kinh Thánh được nuôi dưỡng bằng Lời Thiên Chúa, khởi đi từ Lời Thiên Chúa và quy hướng về Lời Thiên Chúa. Vì vậy, việc học hỏi Kinh Thánh nghiêm túc sẽ bảo đảm phần nào cho việc đọc” được phong phú. Dù đọc một bản văn Kinh Thánh hoặc một bản văn phụng vụ hay một trang sách thiêng liêng của truyền thống Công Giáo, thì cũng phải lắng nghe được tiếng vang trung thành hay tiếng thầm thì của Lời Thiên Chúa, theo như cách của người xưa. Bước đầu này đòi phải can đảm luyện tập trong suốt thời gian huấn luyện và rồi mọi giai đoạn kế tiếp sẽ dựa vào đó.

Phụng vụ

77. Phụng vụ, nhất là việc cử hành Thánh lễ và Các giờ kinh phụng vụ, chiếm một vị thế ưu tiên trong các hội dòng này. Nếu các vị tiền nhân thích so sánh đời sống đan tu với đời sống các thiên thần, đó là vì ngoài các lý do khác, các thiên thần là những vị cử hành phụng vụ” trước nhan Thiên Chúa (12). Phụng vụ, vì là nơi Trời và Đất nối kết nhau và do đó cho ta được cảm nếm trước phụng vụ trên trời, nên là chóp đỉnh mà toàn thể Giáo Hội hướng tới, là nguồn mạch phát xuất mọi sức mạnh của Giáo Hội. Phụng vụ không phải là tất cả mọi sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng đối với những người chỉ chuyên lo những gì thuộc về Thiên Chúa”, thì phụng vụ là nơi và là cách thức đặc biệt để nhân danh Giáo Hội, cử hành công trình cứu độ của Đức Ki-tô, trong tâm tình tôn thờ hân hoan và cảm tạ, mà diễn tiến năm phụng vụ giúp giúp ta tưởng nhớ từng giai đoạn của công trình đó (x. GH 49,50 ; PV 5,8,9,10). Vì vậy, không những phải cẩn thận cử hành phụng vụ theo như truyền thống và những lễ nghi riêng của mỗi hội dòng, nhưng còn phải nghiên cứu lịch sử, các hình thức khác biệt và ý nghĩa thần học của phụng vụ.

78. (Đời tu chiêm niệm và tác vụ linh mục). Theo truyền thống của một số hội dòng, một số tu sĩ lãnh nhận tác vụ linh mục và cử hành bí tích Thánh Thể hằng ngày, dù họ không được chỉ định làm việc tông đồ. Điều này là chính đáng trong những gì liên quan đến tác vụ linh mục cũng như trong những gì liên quan đến bí tích Thánh Thể. Thực vậy, một đàng, vẫn có sự hoà hợp nội tại giữa sự thánh hiến trong đời tu và sự thánh hiến để thi hành tác vụ ; các tu sĩ này được phép lãnh chức linh mục, ngay cả khi họ không phải thi hành tác vụ bên trong cũng như bên ngoài đan viện. Trong cùng một con người, sự hiệp nhất giữa tính cách thánh hiến tu trì làm nên một hiến lễ cho Thiên Chúa, và ấn tích linh mục làm cho họ nên giống đặc biệt Đức Ki-tô, Đấng vừa là linh mục, vừa là hy lễ” (13).

Đàng khác, Thánh lễ, dù không có giáo dân tham dự, vẫn là một hành vi của Đức Ki-tô và của Giáo Hội” (14). Do đó, tự nó vẫn đáng được cử hành, vì những lý do để dâng Thánh lễ không phải chỉ vì phía giáo dân, là những người lãnh nhận các bí tích, nhưng cốt yếu là vì Thiên Chúa, Đấng ta phải dâng hiến lễ trong việc cử hành bí tích này (15). Sau hết, cần lưu ý tới mối liên hệ chặt chẽ giữa ơn gọi chiêm niệm và mầu nhiệm Thánh Thể. Quả vậy, trong số những công việc thuộc về đời chiêm niệm, những việc chính yếu nằm trong việc cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (16).

Việc lao động

79. Lao động là một luật chung. Các tu sĩ nam nữ biết rằng mình cũng chịu luật đó chi phối. Trong thời gian huấn luyện, cần trình bày ý nghĩa của lao động, bởi vì trường hợp chúng ta nói đây là lao động trong nội vi đan viện. Lao động để sống không có nghĩa là cản trở sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng quan tâm cả những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống của chúng ta ; nhưng lao động như vậy là đi vào trong chương trình quan phòng của Người. Lao động có thể được coi như một việc phục vụ cộng đoàn, một phương thế để thực thi một trách nhiệm nào đó và để cộng tác với những người khác. Lao động giúp phát triển kỷ luật cá nhân và làm quân bình những khía cạnh thâm sâu hơn của thời khoá biểu hằng ngày. Trong những hệ thống bảo hiểm xã hội đang phát triển mạnh trong nhiều quốc gia khác nhau, thì lao động giúp các tu sĩ góp phần liên đới với quốc gia mà không một công dân nào được miễn chước. Nói chung, lao động là một yếu tố liên đới với tất cả mọi người lao động trên thế giới. Như vậy, lao động không những đáp ứng những nhu cầu kinh tế và xã hội, nhưng còn đáp ứng một đòi hỏi của Tin Mừng. Trong cộng đoàn, không ai có thể gắn chặt với một công việc nhất định với nguy cơ là coi như của riêng mình, nhưng tất cả phải sẵn sàng với mọi công việc khi được yêu cầu.

Trong thời gian huấn luyện sơ khởi, nhất là trong tập viện, thời giờ dành cho việc lao động không được lấn át thời giờ thường dành cho việc học hành hay các hoạt động khác liên hệ trực tiếp đến việc huấn luyện.

Khổ chế

80. (Kết hợp với toàn thể Giáo Hội và toàn thể thế giới). Khổ chế có một vai trò đặc biệt trong các hội dòng chuyên việc chiêm niệm, trong đó, các tu sĩ nam nữ cần phải hiểu biết tại sao việc thánh hiến trong đời tu lại làm cho họ hiện diện trước mặt con người và thế giới một cách sâu xa hơn trong trái tim Đức Ki-tô” (GH 46), dù họ vẫn có những đòi hỏi riêng là tách ra khỏi thế giới. Đan sĩ là người tách biệt với mọi người nhưng lại hiệp nhất với mọi người” (17). Hiệp nhất với mọi người bởi vì họ hiệp nhất với Đức Ki-tô. Hiệp nhất với mọi người bởi vì họ mang trong trái tim mình tâm tình thờ lạy, tạ ơn, ca ngợi cùng những khắc khoải và đau khổ của con người cùng thời. Hiệp nhất với mọi người bởi vì Thiên Chúa kêu gọi họ vào một nơi mà, tại đó, Người mặc khải cho con người những điều bí nhiệm của Người. Các tu sĩ hoàn toàn chuyên chú vào việc chiêm niệm không những hiện diện giữa thế gian, nhưng còn hiện diện trong lòng Giáo Hội nữa. Phụng vụ họ cử hành là chu toàn một chức năng cốt yếu của cộng đoàn Giáo Hội. Đức ái khích lệ họ và họ cố gắng làm cho đức ái đó nên hoàn hảo, đồng thời cũng làm cho toàn Nhiệm Thể của Đức Ki-tô được sống động. Trong tình yêu đó, họ đạt tới nguồn suối đầu tiên của tất cả những gì hiện hữu – Tình Yêu Suối Nguồn (Amor fontalis) – và do đó họ hiện diện giữa lòng thế giới và Giáo Hội. Tôi sẽ là tình yêu trong lòng Giáo Hội, Mẹ của tôi” (18), đó là ơn gọi và sứ vụ của các đan sĩ.

Thực hiện

81. Theo quy tắc chung, toàn bộ các giai đoạn huấn luyện, cả thời kỳ sơ khởi lẫn liên tục, phải được thực hiện trong đan viện. Với các tu sĩ này, đó là nơi thuận tiện nhất để họ có thể đi trong con đường hoán cải, thanh luyện và khổ chế, nhằm làm cho đời sống nên đồng hình với Đức Ki-tô. Đòi hỏi này cũng có lợi cho sự hoà hợp trong cộng đoàn. Thực vậy, toàn thể cộng đoàn chứ không phải chỉ một vài người hay một nhóm người am hiểu hơn được hưởng những lợi ích của việc huấn luyện được tổ chức chu đáo.

82. Khi một đan viện không thể tự túc, vì thiếu người huấn luyện hay không đủ số ứng sinh, nên tổ chức những khoá huấn luyện (mở lớp, hội thảo v.v…) chung cho nhiều đan viện cùng một liên hiệp (fédération), cùng một dòng hay cùng một ơn gọi nền tảng, tại một trong các đan viện, theo định kỳ phù hợp với tính chất chiêm niệm của các đan viện liên hệ. Khi những yêu cầu của việc huấn luyện có liên quan đến luật nội vi, phải tuân theo luật pháp hiện hành (x. GL 667), cũng có thể mời những người ngoài đan viện hoặc ngoài dòng cộng tác vào việc huấn luyện, miễn là họ hoà nhập vào đường hướng riêng biệt của các tu sĩ mà họ phải rèn luyện.

83. Việc kết nạp các đan viện nữ vào các hội dòng nam theo giáo luật số 614 có thể cũng hữu ích cho việc huấn luyện các nữ đan sĩ. Việc kết nạp đó bảo đảm được sự trung thành với đoàn sủng, với tinh thần và các truyền thống của cùng một gia đình thiêng liêng.

84. Mỗi đan viện hãy lưu tâm tạo những điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi của cá nhân và tham khảo sách vở, nhờ có thư viện phong phú, luôn hợp thời, và cũng có thể theo các lớp hàm thụ.

85. Xin các dòng và hội dòng nam đan tu, các liên hiệp nữ đan sĩ và các đan viện biệt lập… hãy cùng nhau soạn thảo một quy chế huấn luyện, quy chế này sẽ được đưa vào luật riêng và có những nguyên tắc áp dụng cụ thể theo đúng các khoản luật 650, 659-661.

CHƯƠNG V : NHỮNG VẤN ĐỀ THỜI SỰ
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC HUẤN LUYỆN CÁC TU SĨ

Những vấn đề và những quan điểm được thu thập ở đây, một số là kết quả của việc phân tích ngắn gọn, do đó có lẽ cần được tranh luận, thêm bớt và bổ sung. Một số khác là những hướng dẫn và nguyên tắc để các Giáo Hội địa phương áp dụng cụ thể tuỳ hoàn cảnh của mình.

A. Các ứng sinh trẻ bước vào đời tu. Mục vụ ơn gọi.

86. (a. Các ứng sinh : những người trẻ “hiện đại”). Giới trẻ là hy vọng của Giáo Hội” (GD 2), Giáo Hội có nhiều điều để nói với giới trẻ, và giới trẻ cũng có nhiều điều cần thưa với Giáo Hội” (19). Dù hiện nay có các người trẻ xin vào tu, nhưng phần lớn cũng ở lứa tuổi 18-25. Tuỳ theo mức độ họ chịu ảnh hưởng bởi cái có thể gọi được là tính hiện đại”, người ta có thể rút ra được khá chính xác, một số nét chung chân dung còn chịu ảnh hưởng của khuôn mẫu Bắc Âu, cả về giá trị lẫn nhược điểm, nhưng khuôn mẫu này đang có khuynh hướng trở nên phổ biến, và mỗi nền văn hoá lại sửa đổi chút ít cho hợp với nét đặc sắc riêng của mình.

87. (b. Những điểm tích cực). Giới trẻ có một cảm quan bén nhạy để nhận ra những giá trị như công bình, bất bạo động và hoà bình. Họ có một tâm hồn cởi mở tiếp nhận tình huynh đệ, tình bằng hữu và tình liên đới. Họ nhiệt thành đấu tranh cho những giá trị liên quan đến phẩm giá đời sống và bảo vệ thiên nhiên” (Ki-tô hữu giáo dân số 46). Họ cũng khao khát tự do và sự chân thực. Cách chung, họ mong ước, đôi khi một cách mãnh liệt, có một thế giới tốt đẹp hơn và không thiếu những người trong họ đã gia nhập các đoàn thể chính trị, xã hội, văn hoá và từ thiện, nhằm góp phần cải thiện tình trạng con người hiện nay. Phần lớn trong họ, nếu không bị lạc đường do những ý thức hệ theo kiểu độc tài chuyên chế, thì họ là những người nhiệt thành muốn giải phóng con người khỏi chủ nghĩa chủng tộc, khỏi tình trạng chậm phát triển, chiến tranh, bất công. Thái độ đó không phải luôn luôn, và đôi khi hoàn toàn không do ảnh hưởng của những động lực tôn giáo, triết học và chính trị, nhưng không thể chối bỏ được sự chân thành cũng như lòng quảng đại của họ. Trong số họ, nhiều người nổi bật về tâm tình tôn giáo sâu xa, nhưng chính tâm tình tôn giáo đó đang cần được Tin Mừng biến đổi. Sau cùng, có những người – số này không nhất thiết phải là thiểu số – đã sống đời Ki-tô hữu khá gương mẫu, và đã dấn thân hoạt động tông đồ một cách quả cảm, họ đã kinh nghiệm thế nào là theo Đức Ki-tô sát hơn”.

88. (c. Những khuyết điểm. Những điểm tiêu cực). Trước tình trạng như vậy, họ có khuynh hướng tương đối hoá những quy chiếu về giáo lý và đạo đức, đến độ không phải lúc nào họ cũng biết rõ có những điểm mốc chắc chắn để nhận biết chân lý về con người, về thế giới và về sự vật. Sự thiếu sót trong việc giảng dạy triết học trong chương trình trung học cũng thường ảnh hưởng phần nào. Họ do dự không dám nói mình là ai và mình được gọi trở nên cái gì. Nếu như họ có một vài xác tín về sự hiện hữu của sự lành sự dữ, thì ý nghĩa của các từ ấy hình như đã khác so với ý nghĩa của những từ ấy ở những thế hệ trước. Thường có sự chênh lệch giữa những kiến thức đời, đôi khi rất chuyên môn, của họ với sự tăng triển về tâm lý và đời sống Ki-tô hữu của họ. Họ đã không có một kinh nghiệm may mắn ở trong gia đình, vì cơ chế gia đình đang trải qua những khủng hoảng tại những nền văn hoá chưa được thấm nhuần Ki-tô giáo một cách sâu xa, hoặc trong những nền văn hoá theo kiểu hậu Ki-tô giáo đang cần cấp tốc tái Tin Mừng hoá, hoặc trong những nền văn hoá đã được giảng Tin Mừng từ lâu. Họ học nhiều bằng hình ảnh, phương pháp sư phạm thịnh hành trong các nhà trường hiện nay đôi khi thích dùng phương tiện này, nhưng lại đọc ít. Văn hoá của họ có một nét đặc biệt là hầu như thiếu chiều kích lịch sử, như thể thế giới của chúng ta bắt đầu từ ngày hôm nay. Họ cũng chịu ảnh hưởng của một xã hội tiêu thụ cùng với những thất vọng của nó. Khi đạt tới một địa vị xã hội đôi khi rất vất vả, một số đã bị băng hoại do bạo lực, ma tuý và dâm ô. Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên.

89. (d. Phân định các động lực. Huấn luyện lòng trung thành). Vì thế, người ta cảm thấy những vấn đề do tính cách đa dạng và phức tạp của bối cảnh nhân văn đặt ra cho vấn đề mục vụ ơn gọi, đồng thời đặt ra cho việc huấn luyện. Ở đây chỉ đề cập đến vấn đề phân định ơn gọi. Có lẽ, nhất là tại một số nước, các ứng sinh nam nữ xin vào đời tu là để, một cách có ý thức không nhiều thì ít, tìm được sự thăng tiến về mặt xã hội và có được một tương lai bảo đảm ; một số khác lại coi đời tu như là nơi lý tưởng cho việc dấn thân có tính cách ý thức hệ để hoạt động cho công bằng. Sau cùng một số khác, với đầu óc khá bảo thủ, lại tìm ở đời tu một nơi để gìn giữ đức tin của mình một cách an toàn, giữa một thế giới bị coi là thù nghịch và hư hỏng. Những động lực trên cho thấy mặt trái của một số giá trị, và đòi phải được thanh lọc và uốn nắn lại.

Trong những nước được mệnh danh là những nước phát triển, vấn đề cần cổ võ hơn cả có lẽ là sự quân bình nhân bản và thiêng liêng, đặt căn bản trên sự từ bỏ, lòng trung thành son sắt, lòng quảng đại hiền hoà và kiên trì, niềm vui chân thật và lòng bác ái. Đó là chương trình đòi hỏi cao, nhưng lại cần thiết đối với những nam nữ tu sĩ có trách nhiệm trong việc mục vụ ơn gọi và trong việc huấn luyện.

B. Huấn luyện tu sĩ và văn hoá

90. (a. Tương quan giữa đời tu và văn hoá). Một cách tổng quát, từ ngữ văn hoá dường như muốn tóm lược toàn bộ các dữ kiện liên quan đến con người và xã hội ghi dấu ấn trên con người, giúp con người đảm nhận và làm chủ được thân phận và định mệnh của mình” như hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng đã đưa ra (MV ss. 53-62) (20). Chính vì thế có thể nói văn hoá là cái nhờ đó con người trở nên người hơn”, và luôn có liên quan thiết yếu tới bản chất con người” (21). Đàng khác, việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được quý trọng, sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn mang lại lợi ích rất lớn cho con người” (GH 46). Như vậy, giữa đời tu và văn hoá có một sự liên hệ mật thiết.

91. (b. Tương quan giữa Tin Mừng và văn hoá. Bốn hệ luận). Cụ thể, sự liên hệ mật thiết đó còn đòi chúng ta phải lưu ý về một số điểm. Đức Giê-su và Tin Mừng của Người trổi vượt trên mọi nền văn hoá, cho dù sự hiện diện của Đức Ki-tô phục sinh và Thánh Thần của Người đã thấm nhập vào tận bên trong các nền văn hoá (22). Đàng khác, nền văn hoá nào cũng cần phải được Tin Mừng hoá, nghĩa là phải được thanh lọc và được chữa cho khỏi mọi thương tích do tội lỗi gây nên. Đồng thời sự khôn ngoan tích chứa nơi mỗi nền văn hoá đã bị sự khôn ngoan của thập giá vượt qua, được sự khôn ngoan của thập giá giúp cho nên phong phú và kiện toàn (23). Vì vậy trong mọi phạm vi, cần phải :

– chú ý xem xét mức độ văn hoá chung của các ứng sinh, đừng quên rằng văn hoá không giới hạn ở chiều kích tri thức của con người ;

– xác minh xem các tu sĩ nam nữ đã cố gắng hội nhập đức tin của mình vào nền văn hoá gốc của mình hay chưa, và giúp họ trong việc đó. Nhưng đừng vì đó mà đem những nhà huấn luyện đời tu biến thành những thứ phòng thực nghiệm về hội nhập văn hoá. Nhưng những người có trách nhiệm huấn luyện không thể thiếu sót bổn phận này trong việc đồng hành với riêng từng người đồ đệ của mình ! Đó chính là giáo dục từng người về đức tin và làm cho đức tin ăn rễ sâu vào nếp sống của từng người, những người có trách nhiệm huấn luyện không thể quên rằng, trong một nền văn hoá, Tin Mừng dẫn tới chân lý cuối cùng của những giá trị trong nền văn hoá đó ; đàng khác nền văn hoá diễn tả Tin Mừng theo thể thức đặc sắc riêng và biểu lộ những khía cạnh mới của Tin Mừng (24).

– hướng dẫn các tu sĩ nam nữ đang sống và làm việc trong một nền văn hoá xa lạ với nền văn hoá gốc của họ, giúp họ nhận biết và quý trọng nền văn hoá này theo những khuyến cáo của sắc lệnh truyền giáo (TG 22).

– cổ võ tại những Giáo Hội non trẻ, trong tinh thần hiệp thông với toàn thể Giáo Hội địa phương và dưới sự hướng dẫn của vị chủ chăn, một nếp sống tu trì đã được hội nhập vào nền văn hoá, phù hợp với sắc lệnh truyền giáo (TG 18).

C. Đời tu và các phong trào trong Giáo Hội

92. (a. Tương quan rất chặt chẽ giữa tu sĩ với giáo dân). Trong Giáo Hội – hiệp thông, các bậc sống liên kết với nhau rất mật thiết đến độ bậc sống này quy hướng về bậc sống kia. Ý nghĩa sâu xa của những bậc sống ấy thì như nhau, độc nhất cho tất cả các bậc : bình đẳng về phẩm giá Ki-tô hữu và ơn gọi phổ quát phải nên thánh trong đức ái trọn hảo. Các hình thái sống đồng thời vừa khác nhau vừa bổ túc cho nhau đến nỗi mỗi hình thái có diện mạo độc đáo riêng, không thể lẫn lộn, và đồng thời mỗi hình thái đó đều có tương quan và phục vụ cho những hình thái khác (Ki-tô hữu giáo dân, 55).

Điều đó đã được xác nhận qua biết bao kinh nghiệm hiện nay trong việc chia sẻ, không phải chỉ chia sẻ việc làm mà thôi, nhưng đôi khi cả cầu nguyện, cơm nước giữa các tu sĩ nam nữ và giáo dân. Ở đây chúng tôi không nhằm bắt đầu nghiên cứu toàn bộ tình trạng mới mẻ này, nhưng chỉ xem xét nhưng tương quan giữa tu sĩ với giáo dân dưới khía cạnh những phong trào trong Giáo Hội, phần lớn do giáo dân khởi xướng.

(Nhiều phong trào mới của giáo dân). Từ lâu, đã xuất hiện trong lòng Dân Thiên Chúa những phong trào trong Giáo Hội, cảm hứng từ sự ao ước sống Tin Mừng cách mãnh liệt hơn và loan báo Tin Mừng cho mọi người. Một số phong trào này đã liên kết khá chặt chẽ với những hội dòng và chia sẻ linh đạo riêng của hội dòng đó. Ngày nay, và đặc biệt là từ vài thập niên gần đây, đã xuất hiện những phong trào mới, độc lập hơn những phong trào trước về cơ cấu tổ chức và cách sống ; các phong trào này đã gây được ảnh hưởng tốt cho Giáo Hội, và được nhắc đến nhiều lần trong Thượng hội đồng giám mục về ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân (1987), miễn là các phong trào ấy tuân thủ một số tiêu chuẩn có tính Giáo Hội (Ki-tô hữu giáo dân, 30).

93. (b. Ba yêu cầu để hiệp thông trung thành). Muốn duy trì sự hiệp thông tốt đẹp giữa các phong trào trên với các hội dòng, và hơn thế nữa, vì có những ơn gọi sống đời tu xuất phát từ những phong trào này, cho nên cần phải suy nghĩ về những yêu cầu sau đây cũng như về những hệ quả cụ thể do những yêu cầu đó đối với các phần tử trong các hội dòng.

– Một hội dòng, như đấng sáng lập đã muốn và như Giáo Hội đã phê chuẩn, có một sự nhất quán mạch lạc chặt chẽ từ nội tại mà hội dòng đó nhận được từ bản chất, mục đích, tinh thần, nét đặc sắc riêng và truyền thống của mình. Toàn thể gia sản đó làm thành một cái trục : căn tính, sự thống nhất của chính hội dòng (x. GL 578), và sự thống nhất đời sống của mỗi phần tử trong hội dòng đứng vững chung quanh cái trục đó. Đó là một hồng ân Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và Giáo Hội không chấp nhận bất cứ sự chồng chéo, pha trộn nào. Đối thoại và chia sẻ giữa lòng Hội Thánh phải giả thiết là mỗi người đã ý thức mình là ai.

– Mỗi ứng sinh muốn sống đời tu, xuất thân từ phong trào này phong trào nọ, khi vào thời kỳ tập, phải chấp nhận một cách tự do quyền của các bề trên và những người huấn luyện đã được uỷ quyền hợp pháp để huấn luyện mình. Vì thế, họ không thể đồng thời thuộc quyền một vị hữu trách ngoài hội dòng mà từ nay trở đi họ là phần tử, cho dầu trước khi vào hội dòng họ có là phần tử của phong trào ấy. Điều đó liên can đến sự thống nhất của hội dòng và sự thống nhất đời sống của các tập sinh.

– Những yêu cầu trên vẫn còn hiệu lực kể cả sau khi họ khấn dòng, như thế để tránh mọi hiện tượng thuộc về nhiều quyền (pluri-appartenance) cả trên bình diện sứ vụ. Thiếu tôn trọng những yêu cầu trên, sự hiệp thông rất cần thiết giữa tu sĩ với giáo dân có nguy cơ biến thành hỗn độn, cả trên hai bình diện vừa kể.

D. Tác vụ giám mục và đời tu

94. (a. Không có sự đối chọi giữa tác vụ của giám mục và tác vụ của bề trên). Vấn đề này trở thành thời sự hơn kể từ khi văn kiện “Các liên hệ hỗ tương” được công bố và từ khi Đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nhấn mạnh, trong nhiều hoàn cảnh, ảnh hưởng của trách nhiệm mục vụ của các giám mục đối với đời tu.

Tác vụ của vị giám mục và tác vụ của một bề trên dòng không ở trong tư thế cạnh tranh với nhau. Quả thật, có một trật tự nội tại của các hội dòng ; trật tự ấy có một lãnh vực thẩm quyền riêng nhằm duy trì và tăng triển đời tu. Trật tự nội tại đó được hưởng quyền tự trị thực sự. Tuy nhiên, cần phải thực thi quyền này trong khuôn khổ của sự hiệp thông trong một Giáo Hội có cơ cấu (x. GM 35,3 và 4 ; LH 13c).

95. (b. Sự tự trị chính đáng của hội dòng, kể cả trong việc huấn luyện). Thật vậy, mỗi hội dòng được nhìn nhận là có quyền tự trị chính đáng về nếp sống, nhất là về việc quản trị, nhờ đó họ được hưởng một kỷ luật riêng trong Giáo Hội và có thể gìn giữ gia sản mình cho toàn vẹn (…). Các đấng bản quyền địa phương có nhiệm vụ tôn trọng và bảo đảm sự tự trị ấy” (GL 586). Trong khuôn khổ sự tự trị này, luật riêng (của các hội dòng) phải ấn định chương trình và thời hạn của việc huấn luyện, lưu ý đến các nhu cầu của Giáo Hội và các điều kiện của con người và hoàn cảnh của thời đại, theo như mục đích và đặc tính của hội dòng đòi hỏi” (GL 659,2 ; x. GL 650,1 về những gì liên quan đến tập viện).

Về tác vụ giảng dạy, các bề trên dòng có thẩm quyền và quyền bính của những bậc thầy về đàng thiêng liêng”, tuỳ theo dự phóng Tin Mừng của hội dòng mình. Trong phạm vi ấy, các bề trên phải lo cho tu hội của mình và mỗi cộng đoàn có sự hướng dẫn thiêng liêng thực sự, phù hợp với quyền giáo huấn đích thực của hàng giáo phẩm” (LH 13a).

96. (c. Giám mục gìn giữ sự trung tín của các tu sĩ). Đàng khác, các giám mục, xét như là bậc thầy đích thực” và chứng nhân của chân lý thần linh và Công Giáo” (GH 25), có trách nhiệm về việc giảng dạy giáo lý đức tin trong các trung tâm lo nghiên cứu cũng như trong việc sử dụng những phương tiện để truyền đạt” (LH 33, x. GL 753 và 212,1). Các giám mục cũng là những thầy dạy đích thực và là người hướng dẫn đường trọn lành cho mọi phần tử trong giáo phận của các ngài (GM 12 ; 15 ; 351 ; GH 25,45) ; các ngài cũng là những người gìn giữ sự trung tín với ơn gọi tu trì trong tinh thần của mỗi hội dòng” (25), theo những quy tắc giáo luật (x. GL 386. 591. 593. 678).

97. (c. Giám mục săn sóc con đường thánh thiện của các tu sĩ). Quyền tự trị về nếp sống và nhất là về việc quản trị chính đáng của các hội dòng không hề đối nghịch với trách nhiệm của các giám mục như vừa nói trên. Nếu khi hành sử quyền tài phán, giám mục có bị hạn chế do việc phải tôn trọng quyền tự trị này, thì không vì thế mà các ngài được miễn khỏi phải săn sóc cho sự tiến bước của các tu sĩ đến sự thánh thiện. Quả thật, người kế vị các tông đồ, xét như là một thừa tác viên Lời Thiên Chúa, có nhiệm vụ phải kêu gọi các Ki-tô hữu nói chung theo Đức Ki-tô, và nhất là những người được ơn theo Đức Ki-tô sát hơn” (GL 753,1). Hội dòng tự nó, cũng như đối với các tu sĩ, đã là một trường dạy sự hoàn thiện và là con đường dẫn đến sự thánh thiện, nhưng bởi vì đời tu là một thiện hảo của Giáo Hội và cũng chính vì thế nó thuộc trách nhiệm của giám mục. Nói chung, tương quan giữa giám mục với nam nữ tu sĩ trên bình diện tông đồ, phải đâm rễ sâu hơn vào trách vụ thừa tác viên Tin Mừng, để giúp Giáo Hội nên thánh thiện và đức tin được vẹn toàn.

Trong tinh thần đó và dựa trên những nguyên tắc đó, các bề trên cao cấp ít là phải thông báo cho các giám mục tại giáo hội địa phương biết về những chương trình huấn luyện đang được áp dụng trong các trung tâm hoặc những khoá huấn luyện tu sĩ ở trên địa hạt thuộc thẩm quyền mục tử của các ngài. Những khó khăn liên quan đến trách nhiệm của giám mục và sinh hoạt của các nơi hoặc các trung tâm ấy sẽ được giám mục và bề trên cao cấp xem xét, theo giáo luật và những hướng dẫn của văn kiện Các liên hệ hỗ tương, các số 24-35, và tuỳ nghi nhờ sự giúp đỡ của những cơ quan phối hợp do cũng chính tài liệu trên chỉ dẫn ở các số 52-67.

E. Cộng tác liên dòng trong phạm vi huấn luyện

98. (a. Cộng tác là điều cần). Theo luật, trách nhiệm huấn luyện tu sĩ trước tiên thuộc về mỗi hội dòng, và chính các bề trên cao cấp, với sự giúp đỡ của các vị hữu trách có năng lực, có bổn phận quan trọng phải quan tâm đến vấn đề đó. Đàng khác, mỗi hội dòng phải tuỳ theo luật pháp quy định mà soạn thảo quy chế huấn luyện (ratio) riêng (26).

Tuy nhiên, vì nhu cầu đòi buộc, một số hội dòng, trong khắp các lục địa, bắt đầu tập trung các phương tiện huấn luyện (nhân sự và cơ sở) nhằm cùng nhau cộng tác vào công trình rất quan trọng mà mình không thể chu toàn một mình được.

99. (b. Trung tâm học khác với cộng đoàn huấn luyện). Có thể thực hiện sự cộng tác này nhờ những trung tâm thường huấn hoặc những khoá định kỳ.

Người ta gọi một trung tâm học dành cho các tu sĩ, đặt dưới trách nhiệm tập thể của các bề trên cao cấp của các hội dòng có tu sĩ đến học, là trung tâm liên dòng. Mục đích của trung tâm này là bảo đảm việc huấn luyện đạo lý và thực hành mà sứ vụ riêng của mỗi hội dòng đòi hỏi cũng như phù hợp với bản chất của hội dòng. Trung tâm này khác với cộng đoàn huấn luyện riêng của mỗi hội dòng, nơi người tập sinh và người tu sĩ bắt đầu bước vào sinh hoạt cộng đoàn, thiêng liêng và mục vụ của hội dòng. Khi một hội dòng tham gia vào trung tâm liên dòng, thì cần có sự bổ sung đúng mức giữa cộng đoàn huấn luyện và trung tâm để cho việc huấn luyện được hài hoà và đầy đủ.

Những trung tâm huấn luyện của một liên hiệp nhiều hội dòng phải tuân theo các quy tắc đã được quy chế liên hiệp ấn định mà không được nói đến ở đây. Cả các trung tâm hoặc những khoá học do một hội dòng chịu trách nhiệm nhưng tiếp nhận các tu sĩ nam nữ các hội dòng khác đến trọ học cũng thế.

100. (c. Đối với tập sinh, chỉ nên có những khoá định kỳ). Việc hợp tác liên dòng nhằm huấn luyện các khấn sinh nam nữ trẻ, huấn luyện liên tục và đào tạo các nhà huấn luyện có thể thực hiện trong một trung tâm. Trái lại việc huấn luyện các tập sinh chỉ được tổ chức theo hình thức những khoá định kỳ, bởi vì cộng đoàn đúng nghĩa của tập viện phải là một cộng đoàn thuần nhất, riêng biệt của hội dòng.

Thánh bộ sẽ công bố sau này một tài liệu chi tiết và có tính cách quy phạm liên quan đến việc thực thi hợp tác liên dòng trong lãnh vực huấn luyện.

CHƯƠNG VI : CÁC TU SĨ MUỐN LÃNH NHẬN
THỪA TÁC VỤ LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

101. Những vấn đề liên quan đến các tu sĩ này cần được trình bày riêng, vì nó có tính cách đặc biệt. Các vấn đề này thuộc về ba lãnh vực :

– Những vấn đề chỉ thuần tuý liên quan đến việc huấn luyện các thừa tác vụ ;

– Những vấn đề khác lại nói đến đặc tính tu trì của các tu sĩ làm linh mục và phó tế ;

– Sau cùng là những vấn đề liên quan đến việc hoà nhập vào linh mục đoàn của giáo phận.

Việc huấn luyện

102. (a. Phải học đầy đủ). Trong một số hội dòng mà luật riêng xác định là dòng giáo sĩ, đôi khi người ta đề nghị một chương trình huấn luyện chung dành cho các anh em tu sĩ giáo dân (frères laics) và các anh em muốn lãnh nhận các thừa tác vụ có chức thánh. Khi còn ở tập viện thì việc huấn luyện chung cho cả hai đôi lúc xem như do chính đặc sủng riêng biệt của hội dòng đòi hỏi. Nhờ đó có những hệ quả ích lợi xét về phẩm chất cũng như hoàn bị trong việc huấn luyện đạo lý cho các anh em tu sĩ giáo dân và xét về việc họ hội nhập vào cộng đoàn. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, những quy tắc liên quan đến thời hạn và nội dung việc học tập để chuẩn bị lãnh nhận thừa tác vụ linh mục phải được tuân giữ và thực hiện thật cẩn thận.

103. (b. Việc huấn luyện được chi phối do luật chung và luật riêng). Việc huấn luyện các phần tử chuẩn bị lãnh chức thánh được chi phối bởi luật chung và bởi chương trình học vấn riêng của dòng” (GL 659,3). Vì thế các tu sĩ xin lãnh thừa tác vụ linh mục phải tuân theo những quy tắc trong Quy chế huấn luyện linh mục căn bản (Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis) (27), và các tu sĩ xin lãnh thừa tác vụ phó tế vĩnh viễn phải tuân theo những điều kiện đã được luật riêng của hội dòng trù liệu. Ở đây không lặp lại toàn bộ quy chế này ; những nét chính yếu đã được ghi trong giáo luật (x. GL 242-256). Chỉ nhắc lại một số giai đoạn trong tiến trình” huấn luyện để các bề trên cao cấp thi hành.

104. (c. Học triết lý và thần học). Các môn triết lý và thần học, học kế tiếp nhau hay song song với nhau, phải có ít nhất là 6 năm trọn, 2 năm trọn dành cho các môn triết lý và 4 năm trọn dành cho các môn thần học. Các bề trên cao cấp phải cẩn thận tuân giữ những quy định này, đặc biệt khi các ngài gửi các tu sĩ trẻ đến học trong các trung tâm liên dòng hoặc đến các đại học.

105. (d. Huấn luyện mục vụ). Dù tất cả việc huấn luyện các ứng sinh lãnh thừa tác vụ linh mục phải nhằm mục đích mục vụ, nhưng cũng phải có việc huấn luyện mục vụ đúng nghĩa thích ứng với mục đích của hội dòng. Chương trình huấn luyện này phải theo sắc lệnh Đào tạo linh mục. Còn đối với các tu sĩ được gọi làm việc trong những nền văn hoá xa lạ với nền văn hoá gốc của mình, thì phải theo sắc lệnh Truyền giáo (x. ĐT 4 và 19-21 ; TG 25-26).

106. (đ. Huấn luyện mục vụ cho các đan sĩ). Các tu sĩ linh mục sống đời chiêm niệm, đan sĩ hay không, được các bề trên của mình trao cho việc tiếp đón khách đến xin xưng tội hoặc linh hướng, cũng phải được huấn luyện mục vụ thích hợp với thừa tác vụ này. Họ cũng phải theo những hướng dẫn mục vụ của Giáo Hội địa phương nơi họ đang sống.

107. (e. Đối với những người xin lãnh chức thánh). Phải tuân giữ tất cả các quy định giáo luật đòi hỏi nơi người tiến chức và những vấn đề liên quan đến họ. Cần lưu ý đến bản chất và những bổn phận riêng của bậc tu trì (x. GL 1010-1054).

Đặc tính tu sĩ nơi các tu sĩ làm linh mục và phó tế

108. Một linh mục tu sĩ đang hoạt động mục vụ bên cạnh các linh mục địa phận phải chứng tỏ một cách rõ rệt qua các thái độ mình là tu sĩ” (28). Để lúc nào nơi người tu sĩ – linh mục hoặc phó tế cũng hiện rõ nét riêng biệt cũng như khuôn mặt” của đời tu và của người tu sĩ (29) thiết tưởng phải chu toàn nhiều điều kiện ; thật hữu ích nếu các điều kiện này được các tu sĩ, ứng sinh thừa tác vụ linh mục và phó tế, năng tự hỏi suốt thời gian huấn luyện sơ khởi và trong thời gian huấn luyện liên tục :

– Phải có một nhận thức rõ rệt và những xác tín vững chắc về bản chất của thừa tác vụ linh mục và phó tế (thuộc về cơ cấu của Giáo Hội) và của đời tu (thuộc về sự thánh thiện và sự sống của Giáo Hội) (x. GH 44) nhưng họ phải giữ nguyên tắc này là thừa tác vụ mục vụ của mình là thành phần của bản chất đời tu (x. DT 8).

– Phải nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình từ các nguồn suối của hội dòng mà mình là phần tử, và đón nhận cho mình hồng ân riêng của hội dòng ấy trong Giáo Hội.

– Phải làm chứng bằng kinh nghiệm bản thân về đời sống thiêng liêng mà họ đã đón nhận từ lời chứng và giáo huấn của đấng sáng lập.

– Phải sống hợp với quy luật đời sống mà họ đã cam kết tuân giữ.

– Phải sống trong cộng đoàn theo như luật pháp quy định.

– Phải luôn sẵn sàng và lưu động trong việc phục vụ Giáo Hội phổ quát, mỗi khi các bề trên của hội dòng kêu gọi.

Nếu các điều kiện nói trên được tôn trọng, thì người tu sĩ làm linh mục hoặc phó tế sẽ có thể hài hoà một cách tốt đẹp hai chiều kích của một ơn gọi duy nhất.

Vị trí của người tu sĩ linh mục trong hàng linh mục địa phận

109. Trong khi huấn luyện người tu sĩ – linh mục cần phải lưu ý đến việc sau này họ sẽ hoà nhập vào linh mục một đoàn của Giáo Hội địa phương, nhất là trong trường hợp họ phải thi hành một tác vụ tại đó, tuy vẫn lưu ý đến tính chất riêng của mỗi hội dòng” (GM 35,2). Quả vậy, Giáo Hội địa phương là một không gian lịch sử trong đó một ơn gọi được diễn tả ra trong thực tế và thực hiện một bước dấn thân làm việc tông đồ” (LH 23d). Các tu sĩ – linh mục có thể coi một cách chính đáng Giáo Hội địa phương là quê hương của ơn gọi của mình” (nt 37). Các nguyên tắc chi phối việc hoà nhập này đã được nêu lên trong sắc lệnh Nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong Giáo Hội của Công Đồng Va-ti-ca-nô II (s. 34-35). Các tu sĩ – linh mục là những cộng tác viên của hàng giám mục” ; trên danh nghĩa đích thực nào đó, các ngài thuộc về hàng giáo sĩ địa phận, xét vì các ngài tham gia vào việc chăm sóc các linh hồn và vào các việc tông đồ dưới quyền của các giám mục” (30). Liên quan đến vấn đề gia nhập này, văn kiện Các liên hệ hỗ tương (LH 15-23) nêu bật ảnh hưởng hỗ tương giữa các giá trị phổ quát và địa phương. Nếu như đòi các tu sĩ, kể cả khi họ thuộc về một hội dòng thuộc quyền giáo hoàng, phải cảm thấy mình thực sự là thành phần của gia đình giáo phận” (nt 18b) thì giáo luật cũng nhìn nhận quyền tự trị chính đáng của họ (x. GL 586,1 và 2) để duy trì được tính chất phổ quát và thừa sai của họ (x. GL 591 ; LH 23). Theo cách thông thường, vị thế của một tu sĩ – linh mục hoặc của một hội dòng được giám mục uỷ thác một sứ vụ hoặc một công tác mục vụ trong Giáo Hội địa phương, phải được quy định bằng hợp đồng trên giấy tờ (LH 57-58, x. thêm GL 520,2), giữa giám mục và bề trên có thẩm quyền của hội dòng hoặc của tu sĩ liên hệ. Điều đó cũng áp dụng đối với tu sĩ – phó tế có cùng một hoàn cảnh.

KẾT LUẬN

110. (a. Văn kiện này là kết quả của kinh nghiệm, là lời nhắc nhớ đến luật và là lời mời gọi hiệp thông). Văn kiện này muốn lưu ý đến những kinh nghiệm đã được thử nghiệm từ Công Đồng, đồng thời nêu ra những vấn đề đã được các bề trên cao cấp đề lên. Văn kiện này nhắc nhở mọi người một vài yêu sách của luật pháp liên hệ đến những hoàn cảnh và những nhu cầu hiện nay. Sau cùng, tài liệu này hy vọng sẽ giúp ích cho các dòng tu để tất cả cùng tiến lên trong sự thông hiệp trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Đức giáo hoàng và các giám mục, là những người có thừa tác vụ phân định và điều hoà ; do đó mà có được nhiều hồng ân đặc biệt của Chúa Thánh Thần cũng như đoàn sủng riêng biệt nơi việc phân phối nhiều chức vụ khác nhau, đúng theo sự chỉ dạy của Thánh Thần duy nhất là Đấng ban sự sống” (LH 6).

(Một số điểm được văn kiện nhấn mạnh). Trước hết, văn kiện đã cho thấy rằng việc huấn luyện các tu sĩ nhằm mục đích trước tiên hướng dẫn họ bước vào đời tu và giúp họ ý thức về căn tính của những người được thánh hiến nhờ các lời khuyên Phúc Âm : khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời, trong một hội dòng. Trong số các tác nhân huấn luyện, Chúa Thánh Thần có địa vị ưu tiên trên hết, vì việc huấn luyện các tu sĩ là một công trình chủ yếu mang tính cách đối thần, cả trong nguồn mạch lẫn trong các chủ đích. Tài liệu cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đào tạo những nhà huấn luyện có năng lực, không cần phải đợi cho những người hiện đang giữ trách nhiệm hết nhiệm kỳ. Vai trò hàng đầu mà chính tu sĩ và cộng đoàn của mình đảm trách làm cho nhiệm vụ này trở thành một nơi thực tập đặc biệt về trách nhiệm cá nhân cũng như cộng đoàn. Nhiều vấn đề hiện tại đã được nêu lên, nhưng không phải tất cả đều đã được giải quyết dứt khoát, tuy nhiên ít nữa nó cũng khiến cho phải suy nghĩ. Các hội dòng hoàn toàn dấn thân sống đời chiêm niệm được dành cho một vị trí riêng, vì họ có một vị thế giữa lòng Giáo Hội cũng như vì tính cách đặc biệt của ơn gọi của họ.

(Noi gương và nhờ sự che chở của Đức Ma-ri-a). Vấn đề còn lại bây giờ là xin cho mọi người, các bề trên, các nhà giáo dục và huấn luyện, các tu sĩ, được trung thành với ơn gọi của mình, theo gương và nhờ sự che chở của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong hành trình của mình suốt dòng thời gian, Giáo Hội tiến bước theo lộ trình đã được Đức Ma-ri-a hoàn tất. Người đã tiến bước trong hành trình của lòng tin, trung thành duy trì sự hiệp nhất với Con của Người cho đến tận dưới chân thánh giá” (TM 2). Thời gian huấn luyện giúp các tu sĩ đi theo lộ trình ấy dưới ánh sáng của mầu nhiệm Đức Ki-tô, mầu nhiệm soi sáng một cách đầy đủ” (nt 4) cho mầu nhiệm Đức Ma-ri-a, đồng thời mầu nhiệm Đức Ma-ri-a đối với Giáo Hội cũng như là một dấu ấn làm cho mầu nhiệm `nhập thể”được chân thực” (nt), như Công Đồng Ê-phê-xô cho thấy. Đức Ma-ri-a hiện diện từ lúc một ơn gọi sống đời tu nảy sinh cũng như trong thời gian giáo dục. Người được nối kết một cách thâm sâu với tất cả sự tăng triển của ơn gọi đó trong Chúa Thánh Thần. Sứ mạng mà Người đã hoàn tất bên cạnh Đức Giê-su, Người cũng hoàn tất vì lợi ích của Thân Thể Đức Ki-tô tức là Giáo Hội, và mỗi người Ki-tô hữu, đặc biệt nơi những ai quyết tâm theo Đức Giê-su Ki-tô sát hơn” (GH 42). Chính vì thế, một bầu khí có sự hiện diện của Đức Ma-ri-a, dựa trên nền tảng thần học đúng đắn, sẽ bảo đảm cho việc huấn luyện tu sĩ được chân thực, vững chắc và vui tươi mà nếu thiếu, có lẽ người tu sĩ sẽ không thể hoàn thành sứ mạng của mình trong thế giới.

Ngày 10 tháng 11 năm 1989, nhân một buổi tiếp kiến dành cho Hồng y chủ tịch ký tên dưới đây, Đức thánh cha đã phê chuẩn văn kiện này của Bộ các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, và đã cho phép phổ biến với tựa đề Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các hội dòng.

Rô-ma, ngày 2 tháng 2 năm 1990,
lễ dâng Chúa vào đền thờ.
Hồng Y Jérôme Hamer, Tổng Trưởng
Tổng giám mục Vincentius Fagiolo, Tổng thư ký

———————-

Chú thích

(1) Theo thứ tự thời gian : Bộ tu sĩ, sắc lệnh : Quo efficacius ngày 21-1-1944, Thư luân lưu Quantum conferat ngày 10-6-1944, Tông hiến Sedes Sapientiae ngày 31-5-1956, và các quy chế tổng quát kèm theo.

(2) CT số 32, x. 2 Cr 4,16 ; Rm 7,22 ; Ep 4,24.

(3) Các diễn từ của Đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, : – tại Porto Alegre 5-7-1980 ; – tại Bergamô 26-4-1981 ; – tại Manila 17-2-1981 ; – với các tu sĩ dòng Tên tại Rô-ma 27-2-1982 ; – với các giám sư tập sinh dòng Capuxinô tại Rô-ma 28-7-1984 ; – tại Lima 1-2-1985 ; – tại hội nghị quốc tế các bề trên tổng quyền dòng, Rô-ma 7-5-1985 ; – tại Bombay 10-2-1986 ; – tại hội nghị quốc tế các bề trên tổng quyền dòng 22-5-1986 ; – tại đại hội tu sĩ ở Bra-xin 11-7-1986.

(4) Đức Gio-an Phao-lô II, huấn từ cho Bộ tu sĩ và tu hội đời 7-3-1980.

(5) Xem diễn từ của Đức Gio-an Phao-lô II tại hội nghị quốc tế các bề trên tổng quyền dòng 7-5-1985.

(6) DT 2a ; về ơn thiên triệu, xem thêm GH 39 ; 43b ; 44a ; 47, DT 1c ; RC : phần dẫn nhập, 2d ; nghi thức khấn dòng I : 57, 62, 67, 85, 140, 142 ; II : 65,72 ; phần phụ trương ; nghi thức thánh hiến trinh nữ : 17,21 ; CT 3, 6, 8, 12, 19, 31, 55 ; LH 8a ; GL 514,2, 575 ; YT 2, 5, 6, 7, 12, 14, 23, 44, 53 ; HA 3c, 6b, 7d, 10c, 16a.

(7) Về lời đáp trả cá nhân, xem thêm GH 44a, 46b, 47, DT 1c, RC 2a, c, 13, nghi thức khấn dòng : 1, 7, 80. CT 1, 4, 7, 8, 31 ; GL 573,1 ; YT 4, 5, 30, 44, 49 ; HA 7a, 8b, 9b.

(8) “Option préférentielle” Tài liệu Puela, các số 733-735 ; Đức Gio-an Phao-lô II nói về “tình yêu ưu tiên” (amour préférentielle) (Phát biểu tại gia đình Prado, Lyon 7-10-1986).

(9) YT 53 ; x. GH 53 và GL 663,4 ; TM 42-45 ; NTM.

(10) X. Hạnh thánh An-tôn, theo thánh Athanaxiô. PG 26,841-845.

(11) Huấn từ của Đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II với các tu sĩ tại Bra-xin ngày 11-7-1986.

(12) Ô-ri-giê-nê, Peri Arkhôn 1,8,1.

(13) Đức Phao-lô VI với các bề trên cao cấp tại I-ta-li-a AAS 58 (1966) 1180. Xem thư gửi các đan sĩ Chartreux 18-4-1971. AAS 63 (1971) 448-449.

(14) LM 13 ; x. Đức Phao-lô VI : thông điệp Mysterium fidei AAS 57 (1965) 761-762.

(15) Th. Tô-ma, Summa Theologica III, q.82,a.10.

(16) Th. Tô-ma, Summa Theologica II-II, q.189, a.8, ad 2.

(17) Huấn thị Venite Seorsum (1969).III, phần dẫn nhập và ghi chú 27.

(18) Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Manuscrits autobiographiques 1957, trang 229.

(19) Tông huấn Ki-tô hữu giáo dân 46 ; xem thêm kiến nghị 51 và 52 của thượng hội đồng giám mục lần 7 (1987).

(20) Uỷ ban quốc tế thần học ngày 8-10-1985, số 4.1.

(21) Đức Gio-an Phao-lô II phát biểu tại Unesco 1980, số 6 và 7.

(22) Uỷ ban quốc tế thần học : Đức tin và hội nhập văn hoá số 8-22.

(23) nt số 4 – 2 ; xem thêm Ki-tô hữu giáo dân số 44.

(24) nt số 4 – 2.

(25) LH 28 ; về vị giám mục “hoàn thiện hơn”, x. Summa Theologica II,II. q.184.

(26) GL 650,1 và 659. X. thêm Sứ điệp của Đức Gio-an Phao-lô II gửi các tu sĩ tại Bra-xin ngày 11-7-1986 số 5.

(27) Xuất bản lần 1 : 6-1-1970 ; lần 2 : 19-3-1985.

(28) Đức Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp cho các tu sĩ tại Bra-xin ngày 3-7-1980.

(29) nt.

(30) GM 34 ; x. 35 : “ut Episcopis auxiliatores adsint et subsint”.

 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here