KHẢO LUẬN TRƯỜNG THIÊN VỀ ĐỨC KITÔ
Tác giả: Lm. F.Gómez Ngô Minh, SJ.
***
***
CHƯƠNG IV
NHỮNG DẠNG LOẠI KITÔ HỌC TRONG TÂN ƯỚC
VI. KITÔ HỌC CỦA PHAOLÔ
“Phaolô” ở đây có nghĩa là văn bộ Phaolô, tức là bộ các thư từ Rm cho đến Plm trong Tân Ước. Dù các học giả có tranh luận về tác giả của các ngục trung thư và các thư mục vụ, thì ai cũng đồng ý là về mặt tư tưởng, tất cả các thư trong văn bộ Phaolô đều thuộc về cùng một “trường phái.” Những quan niệm của các tác phẩm sau tiếp tục khai triển phần lớn quan niệm của các tác phẩm trước, tựa như các tiền đề từng bước dẫn đến kết luận một khi mức nhận thức đã đến độ trưởng thành. Là thần học gia tế nhị và đầy sáng kiến, Phaolô đã góp phần nhiều nhất trong việc phát triển thần học kitô. [52]
Tư tưởng của Phaolô mang tính chất “quy Kitô” (Christocentric), tức là đặt Ðức Kitô làm tâm điểm. Muốn nghiên cứu tư tưởng của Phaolô, thì trước hết, cần phải ý thức Ðức Kitô không chỉ là đối tượng học hỏi của tác giả, song hơn thế nữa, là ý nghĩa cuộc đời, là sự sống của chính tác giả: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2:20); và từ đó, tư tưởng phát sinh. Nên lưu ý để tránh cho khỏi hai thành kiến sau đây: thứ nhất, vì là “tông đồ của dân ngoại,” Phaolô đã phải xây dựng một dạng Kitô học khác với Kitô học của Giáo hội ở Giêrusalem; nhưng không phải vì thế mà Phaolô đã không tha thiết với truyền thống, như thấy rõ qua các tác phẩm của ngài; thứ hai, nghĩ rằng Phaolô không biết về “tiểu sử” của Ðức Giêsu là một ngộ nhận lớn: từ sau khi trở lại, Phaolô đã tham dự phụng vụ trong các cộng đoàn kitô, nơi mà “lời nói và việc làm” của Ðức Giêsu được thường xuyên kể lại.
Có lẽ là Phaolô không biết Ðức Giêsu lúc Ngài còn sống, nhưng ngài đã được chính Chúa Phục sinh tuyển chọn làm tông đồ một thời gian sau biến cố Hiện xuống. Vì thế, khởi điểm Kitô học của Phaolô không phải là đời sống dương thế của Ðức Giêsu, nhưng là kinh nghiệm về tác động biến đổi của Thánh tẩy và Thần Khí làm cho tín hữu trở thành con cái Thiên Chúa, nhờ mầu nhiệm tử nạn và sống lại của Ðức Kitô. Việc Phaolô gặp gỡ với Chúa Kitô đã xảy ra trong bối cảnh bách hại (ý nghĩa của thập giá) các kitô hữu (ý nghĩa về Thân thể Ðức Kitô).
Dù sao, về Ðức Giêsu, Phaolô cũng đã ghi rõ Ngài là con người sinh bởi một phụ nữ (x. Gl 4:4) và hoạt động mấy năm trước tại Paléttin. Ðức Giêsu thuộc dòng dõi Ðavít (x. Rm 1:3), và trước khi chết, đã ăn bữa với các môn đệ và thiết lập Lễ tạ ơn (x. 1Cr 11:23-27), rồi chịu chết trên thập giá (x. Pl 2:8) và đã sống lại (x. 1Cr 15:3-4). Cuối cùng, Ðức Kitô đã hiện ra với ông và mạc khải tin mừng ông rao giảng (x. Gl 1:12). Nội dung “Tin Mừng” này khá phức tạp. [53]
Ðức tin của Phaolô được tóm gọn trong tín quy: “Ðức Giêsu là Chúa.” Trong văn bộ Phaolô, “Kitô” không còn là một tước hiệu, nhưng đơn thuần là tên gọi Ðức Giêsu. [54] Dân ngoại không hiểu ý niệm về “Thiên sai” (messianism), vì thế Phaolô không đề cập đến; còn tước hiệu “Chúa” (Kýrios) thì rất có ý nghĩa đối với họ: trong Kinh Thánh bằng tiếng Hy lạp (LXX), Kýrios là từ tương đương với Yhwh của tiếng Hipri, tức là Thiên Chúa. Ðối với Phaolô, chẳng có gì cao trọng hơn “Chúa.” Quả vậy, “muôn vật trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, đều phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu” (Ph 2:10): thánh Danh ấy là Chúa. Thần Khí có ban ơn cho thì mới có thể tin Ðức Giêsu là Chúa (x. 1Cr 12:3). Ðó là thánh Danh mang lại ơn cứu độ cho mọi người: “Nếu miệng bạn tuyên xưng ‘Ðức Giêsu là Chúa,’ và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10:9). Phaolô thường dùng những thành ngữ điển hình như: “Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (44 lần), “Chúa Giêsu Kitô” (18 lần), “Chúa Giêsu” hoặc “Giêsu là Chúa” (24 lần) để minh giải thần học của mình, đặt nền móng trên danh tước “Chúa.” Phaolô có gọi Ðức Giêsu là “Thiên Chúa” không? Các học giả không đồng ý với nhau về điểm này. [55] Tuy nhiên, một số văn bản như: Cl 2:2-3; 2Tx 1:12; Tt 2:13; Rm 9:5 xem ra muốn nói lên như thế. Dù sao, có gọi như thế hay không là điều phụ thuộc; việc quan trọng là Phaolô nhận thức rõ Ðức Kitô là Thiên Chúa, tức là nguồn ơn cứu độ, nguồn sống, nguồn phát sinh tạo vật mới, với hệ luận là Ngài tiên hữu.
Chính thế, trong ca vịnh Pl 2:6-11, Phaolô xác định Ðức Kitô đã có trước “trong bản dạng của Thiên Chúa.” [56] Có lẽ bản văn nói rõ nhất về chân lý đó là 2Cr 8:9, trong đó, Phaolô ca tụng “Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em…” Vì thần học giải thích nhiều cách khác nhau, hoặc chỉ chọn một khía cạnh làm quan điểm chủ chốt, nên có nhiều dạng Kitô học rút ra từ văn bộ Phaolô. Xin đan cử một vài thí dụ:
1. Kitô học Ađam (Adam Christology)
Trong Phúc Âm, Ðức Giêsu được gọi là “Con Người.” Về sau, tước hiệu này bị bỏ quên. [57] Hình bóng Ađam là hậu cảnh của gia phả Ðức Giêsu trong Lc, và của trình thuật về việc Ngài chịu cám dỗ trong hoang địa. Phaolô đã khai thác chủ đề này về mặt kitô học, nhân học và cứu độ học; các văn bản cơ bản là Rm 5 và 1Cr 15. “Ađam” có ba nghĩa: cá nhân tổ tiên của nhân loại; mỗi con người, và tập thể loài người. Trong Rm 5, Phaolô so sánh ảnh hưởng hành động của Ađam và của Ðức Kitô: từ Ađam phát sinh tội lỗi, còn từ Ðức Kitô thì ơn công chính hóa; cả hai đều “phổ quát,” cả ai đều tác động đến mọi người; chỉ khác là ơn thánh thì mạnh hơn tội lỗi (x. Rm 5:20). Trong1Cr 15:20-25.45-49, Phaolô đối chiếu “con người hay chết” (phát sinh từ Ađam) với “con người phục sinh” (từ Ðức Kitô mà sinh ra). Như Rm, các đoạn này cho thấy năng lực của sự sống thì mạnh hơn, khiến nó đủ sức “nuốt chửng” tử thần (x. 1Cr 15:54) và sinh ra “người mới.” Ađam đầu tiên là một sinh vật, và là gốc rễ của dòng dõi “động vật”; còn Ađam cuối cùng là “thần khí ban sự sống.”
Như Ðanien 7 cho thấy “Con Người” từ trời xuống, thì Ađam mới (con người mới) cũng từ trời mà đến để dẫn đưa nhân loại vào Nước của chư thánh. Tuy nhiên, để tránh giả thuyết ngộ giáo (và giả thuyết của Philô) chủ trương cho rằng thực ra, Con Người tiên hữu, nhưng vì phạm tội nên đã “rơi” xuống thế trần, Phaolô lưu ý rõ rằng “con người đầu tiên được tạo nên bằng đất” (1Cr 15:45). Và Phaolô không dựa vào một thứ thần thoại nào hết.
Phép tiên trưng về Ađam (Adam typology) giúp Phaolô nhận ra được rằng Hội thánh là Thân thể Ðức Kitô. Như Ađam là “đầu” của nhân loại cũ, thì cũng thế, Ðức Kitô là Ðầu của nhân loại mới. Vì liên đới với Ađam mà mọi người phải chết, thì nhờ liên đới với Ðức Kitô, loài người nhận được sự sống (x. 1Cr 15: 22; Rm 5:17). Ðức Kitô là “tổ tiên” của nhân loại mới. Nhờ các bí tích Thánh tẩy (x. Gl 3:27-28) và Thánh thể (x. 1Cr 10:16-17) tất cả trở nên một thân thể trong Ðức Kitô. Thế mới hiểu tại sao “con người cũ đã bị đóng đinh vào thập giá với Ðức Kitô” (Rm 6:6; x. Cl 3:9), và mới thấy rõ ý nghĩa kế hoạch của Thiên Chúa là “tác tạo đôi bên (“tất cả”) thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Ngài” (Ep 2:15). Ðó là nguyên tắc cơ bản trong luân lý kitô (x. Ep 4:22-24). Mục đích của kế hoạch này là đặt Ðức Kitô làm Ðầu mới (recapitulatio) của hết thảy mọi tạo vật (x. Ep 1:10). Như thế, Phaolô nêu cho thấy tính chất duy nhất giữa công cuộc sáng tạo và công trình cứu độ. Ðức Kitô không chỉ là “con người mới,” nhưng còn là “con người cuối cùng” (x. 1Cr 15:45); vì thế, dòng dõi của “Ađam” mới này là nhân loại chung quyết, không còn gì thay thế nữa cả. Phaolô còn dùng một ẩn dụ khác với ý nghĩa tương tự, đó là: “con người bên ngoài” và “con người bên trong” (2Cr 4:16; Ep 3:16).
Hình bóng Ađam giúp cho hiểu một khái niệm then chốt trong Cứu độ học, là khái niệm “đại diện”: trong tư cách là đại diện của một tập thể, một cá nhân có thể quyết định số phận của cả nhóm: của gia đình, bộ lạc, chủng tộc, v.v. Như Ađam xưa đã quyết định vận mệnh của nhân loại tội lỗi, thì Ðức Kitô (Ađam mới) cũng quyết định vận mệnh của nhân loại được hòa giải. Hiểu là Ðức Kitô bao gồm tất cả, nên Phaolô đã có thể nói: “Nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết” (2Cr 5:14).
Từ dạng Kitô học này, đã phát sinh thần học về “hình ảnh Thiên Chúa,” cũng gọi là nhân chủng học kitô. Dựa theo hình ảnh tiên trưng về “Trưởng Tử,” Phaolô suy diễn rằng con người rồi sẽ nên giống như Ðức Kitô: “Những ai Thiên Chúa đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 5:29). Con người mới này là ơn nhưng không, chứ không phải là điều có thể tự sức chiếm hữu – “cướp lấy” (harpagmós) – được, tựa như Ađam cũ trong địa đàng đã cố “cướp lấy” cho được hình ảnh của Thiên Chúa. Trái lại, Ðức Giêsu đã trút bỏ hình dạng Thiên Chúa để mặc lấy thân nô lệ (x. Ph 2:6-7). [58] Ðức Kitô vốn dĩ là hình ảnh Thiên Chúa (x. 2Cr 5:4), hình ảnh Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1:15; Dt 1:3); còn các kitô hữu thì trở thành hình ảnh Ðức Kitô, một hình ảnh sẽ hoàn tất vào hồi Ngài quang lâm (x. Rm 8:29; 1Cr 15:49; Pl 3:21). Ðức Kitô phục sinh không chỉ là “mẫu mực” mà còn là “Cha” (như Ađam), tức là nguyên nhân của việc biến đổi này, nhờ Thần Khí (x. Ep 4:24; Cl 3:9t).
2. Dạng Kitô học [dựa theo ý niệm] Trưởng Tử
Ðối với Phaolô Ðức Kitô là Người Con (x. Gl 1:16; 1Cr 15:28). Các kitô hữu cũng được gọi là con cái Thiên Chúa, nhưng duy chỉ Ðức Kitô mới là “Trưởng Tử” (prôtótokos) (x. Rm 8:29; Cl 1:15.18), tức là “chính Con của Người” (Rm 8: 39), Người Con hằng chia sẻ tử tính với các em mình. Mẫu thần học này đã có sẵn trước (x. Rm 1:3-4). Dựa theo truyền thống, Phaolô đã tiếp tay khai triển cho phong phú hơn thêm. [59]
“Con Thiên Chúa” là tước hiệu, đâu đâu trong Tân Ước, các tác giả cũng quy áp cho Ðức Giêsu. Phaolô đã dùng đến tước hiệu theo quy cách đó 18 lần. Theo Phaolô, Người Con này tiên hữu (x. Rm 8:3; Gl 4:4), đã bị đóng đinh trên thập giá (x. Rm 5: 10; 8:32), được nâng cao lên trời và sẽ trở lại (x. 1Tx 1:10). Kitô học về Người Con phát sinh từ một kinh nghiêm của Phaolô (đặc biệt là ở trong Gl 2:20; 4:6), tương tự như kinh nghiệm của Ðức Giêsu về Abba là Cha Ngài. Người Con này tiên hữu trong hình dạng Thiên Chúa (x. Pl 2: 6), nghĩa là theo “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1:15), và được sai “đến mang thân xác giống như thân xác thịt tội lỗi” (Rm 8:3). Vì Ngài đã chịu khổ đau vì chúng ta, Chúa Cha hòa giải con người với Người và làm cho con người được sống nhờ sự sống của Ngài (x. Rm 5: 10). Quả vậy, Cha yêu thương con người đến nỗi đã “phó nộp chính Con của Người” (Rm 8:32, ám chỉ đến Abraham: St 22:16, và đến Mc 9:31) để cho con người được trở nên em của Trưởng Tử (x. Rm 8:29).
Trong Người Con, con người được thông phần vào tử tính của Ngài. Quyền nghĩa tử vốn thuộc về dân Do thái (x. Rm 9: 4), nhưng bây giờ, nhờ Ðức Kitô “chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:5). [60] “Nghĩa tử” ở đây không phải là một thực tại pháp lý, nhưng là cuộc biến đổi trong thực thể nhờ Thần Khí Ngài (x. Rm 8:15). Chính đó là mục tiêu của kế hoạch (“tiền định”) của Chúa Cha đối với nhân loại (x. Ep 1:5); đó là cuộc “trao đổi kỳ diệu” mà các giáo phụ tán tụng: Con Thiên Chúa đã trở nên nô lệ ngõ hầu các nô lệ được trở thành con cái Thiên Chúa.
Cũng đừng quên: tình yêu là uyên nguyên của mọi sự. Ðức Kitô là “Thánh Tử chí ái,” và Chúa Cha đã đưa con người vào trong vương quốc của Ngài (x. Cl 1:13) vì muốn con người được hiệp thông với Con Một của Người, nghĩa là chia sẻ cùng một thiên phận và vận mệnh của Ðức Kitô (x. 1Cr 1:9). Vậy thì, cũng như Ðức Kitô, chúng ta được thừa kế các lời hứa của Cựu Ước (x. Gl 4:1-7). Thẳm sâu hơn nữa, các kitô hữu được hiệp nhất với Ðức Kitô một cách nhiệm mầu, và đó là điều kiện để trở thành con người viên mãn (x. Ep 4:13): theo thần học, thì đó là mục đích của cuộc biến hóa, và bối cảnh Thiên Chúa an bài cho công trình vĩ đại này chính là Giáo hội (x. Ep 1:22-23).
Cuối cùng, Con đầu lòng này phải trở nên đầu của mọi sự (x. Cl 1:15tt), vì thực ra, do bởi bản tính của Ngài là như vậy. Tư tưởng này dẫn tới chỗ hình thành mẫu Kitô học vũ trụ và giáo lý về vị trí hàng đầu của Ðức Kitô. Dù thế, bao giờ Phaolô cũng ở trong đại bối cảnh quy thần (theocentric), trong đó Người Con sẽ quy phục và trao lại mọi sự cho Chúa Cha, “ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (x. 1Cr 15:24-28).
Nguồn gốc của dạng Kitô học này là sự việc Cựu Ước quan niệm Ðấng Thiên Sai như là con Thiên Chúa (x. 2Sm 7:14; Tv 2:7), chứ không phải là do một thần thoại Hy lạp nào cả. Hơn nữa, ý niệm về tử tính này đâm rễ từ trong kinh nghiệm của Ðức Giêsu lúc sinh thời: trong “kinh nghiệm về Abba” là Cha, trong đời sống cầu nguyện của Ngài, trong lời nói và việc làm như các tông đồ đã chứng kiến; cũng như từ trong kinh nghiệm bí nhiệm của chính Phaolô (x. Gl 2:19-20; Ph 1:20-21).
3. Thần học Thập giá
Chướng ngại thập giá (scandal of the cross) là điều Phaolô đã muốn làm cho sáng tỏ (x. Gl 5:11; 6: 12; 1Cr 1:21tt; 2:2, v.v.). Trong thập giá, tiềm ẩn mầu nhiệm của tình thương Thiên Chúa và ơn cứu rỗi con người. Trí lực loài người hay nỗ lực suy tư không thể đạt tới chỗ hiểu thấu; duy chỉ đức tin mới đón nhận và cảm nghiệm được. [61]
Theo Phaolô, “thập giá” tóm gọn công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu ở trần gian. [62] Thập giá và Phục sinh đi đôi với nhau, không chia tách ra được (x. Rm 4:25), như là hai khía cạnh của cùng một thực tại mạc khải đã cho biết, tức là thực tại về: “mầu nhiêïm tội ác” (2Tx 2:7) và “mầu nhiệm của chân đạo” (1Tm 3:16); đó là trung tâm điểm tác động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử. Nơi thập giá (“máu”), Thiên Chúa đã tiền định chúng ta (x. Ep 1:4tt); nơi thập giá, Người đã hòa giải chúng ta (2Cr 5:18-9). Nếu biết sống trung thành, thì thập giá sẽ biểu hiện Ðức Kitô trong cuộc đời chúng ta (x. 2Cr 4:10-11). Chính vì thế, Kitô giáo gọi khổ đau là “thập giá” và xác tín rằng nó sẽ đưa ta tới gần Ðức Kitô hơn; trong ý nghĩa đó, thập giá trở thành công cụ của vinh quang; Phaolô thâm tín rằng chỉ có một điều duy nhất đáng hãnh diện, đó là thập giá (x. Gl 6:14).
Thập giá là khí cụ Thiên Chúa dùng để thực hiện cuộc “trao đổi kỳ diệu” ấy: “phạt” Con Một, nhưng lại tha thứ cho tội nhân (x. 2Cr 4:21; Rm 8:3), và như vậy, Thiên Chúa phán xét thế giới cùng nói lên sự công chính của Người (tư tưởng tương tự như Ga 12:20-36). Thập giá là khí cụ để giải phóng loài người khỏi ách của các quyền lực vũ trụ, và là biểu tượng của tự do (x. Cl 1: 20tt; 2:14tt; Ep 2:24tt).
Thập giá đánh dấu người kitô ngay từ đầu. Chịu phép Thánh tẩy là chìm sâu vào trong sự chết của Ðức Kitô (x. Rm 8:3.8-11), và quyết định lối sống kitô; thật thế, như thánh Lêô Cả nói, chúng ta đã biến thành “xác thịt của Ðấng bị đóng đinh;” [63] do vậy, Giáo hội là một “Giáo hội bị đóng đinh.” Ðó là ý nghĩa nghịch lý của thập giá; [64] tiêu biểu cho chân lý đó là lời sau đây của Phaolô: “Tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em; và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Ðức Kitô phải chịu vì Thân mình Ngài, tức là Hội thánh” (Cl 1:24): thần học về tử đạo bắt nguồn từ đây.
4. “Mầu nhiệm Ðức Kitô”: Khôn ngoan và Mạc khải
Danh từ “mầu nhiệm” (mystérion) tổng hợp tư tưởng của Phaolô về kế hoạch cứu độ, đặc biệt là về công trình của Ðức Kitô. Từ này gợi lên các đề tài khôn ngoan và khải huyền mà Phaolô khai triển theo tư tưởng và ý nghĩa kitô giáo. [65] Trong Cựu Ước, ngôn sứ Ðanien cũng dùng danh từ “mầu nhiệm” để chỉ về một ý định bí ẩn mà Thiên Chúa mạc khải khi ban khôn ngoan đặc biệt để tôi tớ Người hiểu ra được (x. Ðn 2:19tt). Trong thư Êphêsô, tông đồ dùng nhiều từ gần như đồng nghĩa: mysterion (1:9; 3:3t.9; 5:32; 6:19), thelêma (“ý định”: 1:1.5.9.11; 5:17; 6:6), euđokia (“dự án mến yêu”: 1:5), prothesis (“dự định”: 1:11; 3: 11)… Khôn ngoan của Thiên Chúa thì kỳ lạ, “chướng tai” đối với loài người (x. 1Cr 1:17tt), vì không thuộc về hoặc phát sinh từ thế gian này (x. 1Cr 2:6-8). Khôn ngoan ấy là phúc âm của Phaolô, tức “tin mừng” về Ðức Kitô bị đóng đinh (x. 1Cr 2:2). Những bản văn then chốt về ý niệm “mầu nhiệm” là: Ep, Cl và Rm 16:25-6.
Vì bất khả tri như thế, nên mầu nhiệm khôn ngoan ấy không ai được biết cho đến khi Thiên Chúa vén mở cho biết (x. Ep 3: 3), và cho thấy thành tựu trong Ðức Kitô (cũng nên lưu ý: trong Tân Ước, việc mạc khải và việc thực hiện điều mạc khải đi đôi với nhau như hai mặt của một thực tại). Thật vậy, hiện giờ, Thiên Chúa thông tri mầu nhiệm cho các thiên phủ và uy lực nhờ Hội thánh (x. Ep 3:10). Nhiều thế kỷ trước, Thiên Chúa đã giữõ “im lặng” (x. Rm 16:25; Cl 1:26); hiện nay, “Ðức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa, đã băng ra khỏi cảnh im lặng,” [66] để làm cho chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa (x. Ep 2:18; 3:12; Rm 5: 2). Phương cách thông tri mầu nhiệm là công cuộc truyền giáo của Giáo hội (x. Ep 3:8-10; 6:9.19, v.v.).
Nội dung mầu nhiệm này là trước hết, chính sự việc Thiên Chúa đề xuất và thực hiện ý định cứu độ loài người (x. 1Cr 2:6-8). Với trọng tâm là Ðức Kitô, mầu nhiệm ấy có thể hiểu theo ba chiều kích: a) như là khôn ngoan của Thiên Chúa, nhưng bị thế gian cho là điên rồ, bởi đã dùng thập giá mà cứu độ (x. 1Cr 2:1.7-8; 1:21.24); b) nhằm tới tiêu đích là “quy tụ muôn loài trong trời đất dưới một đầu một mối là Ðức Kitô” (Ep 1:9-10), tức đặt Ngài làm tổng quản lý toàn bộ lịch sử tự nhiên cũng như siêu nhiên: “đặt mọi sự dưới chân Ngài” để Ngài làm Ðầu của Hội thánh (x. Ep 1:22); c) với nội dung là chính bản thân Ðức Kitô: ân huệ lớn là “am tường mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Ðức Kitô, trong Ngài có ẩn chứa mọi kho tàng khôn ngoan và trí tri hết thảy” (Cl 2:2-3). Vì thế thành ngữ “mầu nhiệm Ðức Kitô” có thể hiểu: “mầu nhiệm, tức là Ðức Kitô,” hoặc “mầu nhiệm (của Thiên Chúa) Ðức Kitô mạc khải.”
Mầu nhiệm cũng hàm dung một khía cạnh Giáo hội học (x. Ep 2:11-3:13): dân ngoại thừa tự lời hứa trong Ðức Kitô nhờ Tin Mừng. Giáo hội là môi trường sống của tình huynh đệ không biên giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, văn hóa, tôn giáo, v.v. Ðối với kitô hữu, mầu nhiệm là “Ðức Kitô đang ở trong anh em, Ðấng ban cho niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1:27; x. Ep 3:17), và biến “người cũ” thành “người mới” (x. Cl 3 9-10; Ep 4:22-24), để “không còn phải phân biệt Hy lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Ðức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3:11).
Cuối cùng, mầu nhiệm lại còn mang một chiều kích cánh chung. Phaolô nói về sự giàu có tuyệt vời, vô phương dò thấu, v.v. của Thiên Chúa (x. Ep 1:19; 2:7; 3:8.18.19), nghĩa là trong đời này không ai có thể thấu hiểu cho cùng; và như sách Khải huyền viết, chỉ ở bờ bên kia của lịch sử, mầu nhiệm Thiên Chúa mới sung mãn hoàn tất (x. Kh 10:7). Nơi trần thế này, chúng ta còn phải sống trong cảnh nghịch lý (đối với đầu óc hạn hẹp của con người) là khôn ngoan xem ra như điên rồ: một người phàm nhưng lại là Chúa tể càn khôn; chết đi trên thập giá để đem lại sự sống đời đời, v.v…
VII. NHỮNG DẠNG KITÔ HỌC KHÁC
Về các dạng Kitô học khác ở trong Tân Ước – tức là các dạng tiềm dung trong các thư: Do thái, Phêrô 1 và 2, Giacôbê và Giuđa – chúng tôi chỉ xin gợi lên sau đây một số nét chính.
– Tác giả của Giacobê tự giới thiệu là “tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô” (Gc 1:1) và gửi lời khuyên đến “anh em,” những kẻ “đã tin vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang” (Gc 2:1), để cổ vũ họ kiên tâm sống đạo qua việc làm trong khi “chờ ngày Quang lâm của Chúa” (Gc 5:7). Không nêu lên một chủ *đề [để] kitô học nào, nhưng bức thư cho thấy rõ đức tin chung của Giáo hội.
– Giuđa cũng tự giới thiệu là “tôi tớ của Ðức Giêsu Kitô” (Gđ 1), “Vị Chúa tể duy nhất” (Gđ 4), và nói lên mục đích là “gửi lời thăm những người được… Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành riêng cho Ðức Giêsu Kitô” (Gđ 1). Gđ xác quyết là nhờ lòng thương xót của Ngài chúng ta sẽ được sống đời đời (x. Gđ 21), và “Chúa” Kitô là Ðấng trung gian cứu độ (x. Gđ 25). Gđ lên tiếng cảnh cáo chống lại một học thuyết kitô học sai lạc, nhưng không rõ là học thuyết nào.
– Hai thư của Phêrô ghi lại công thức của kitô học sơ khai, có liên quan với các bài giảng của Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ. Các thư này không nhằm mục đích thần học, song là mục vụ, [67] vì thế tác giả chú ý đến cộng đồng kitô hơn là đến bản thân Ðức Kitô. [68] Tước hiệu dùng cho Ðức Kitô là “Vị Mục tử, Ðấng chăm sóc (episkopos) linh hồn anh em” (1Pr 2:25). Dẫu vậy, 1Pr 1:2 cũng dùng đến một công thức về Tam Vị chứng tỏ cho thấy thần học thời đó đã đạt đến một mức triển phát rất cao. Tác giả tự giới thiệu “là Phêrô, tông đồ của Ðức Giêsu Kitô” (1Pr 1:1), và khuyến khích “những người đã được Thiên Chúa kén chọn” (ibid.) kiên trì bắt chước Ðức Kitô đã chịu khổ đau (x. 1Pr 4:2tt. 12tt): “Dù Ngài không hề phạm tội, nhưng đã chịu nạn chịu chết vì anh em, trối lại cho anh em một gương mẫu… (1Pr 2:21tt). Tương tự như Rm 1:3-4, 1Pr 3:18 nói là: “Chính Ðức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi, Ðấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” Tác giả trình bày giáo lý về việc cứu chuộc bằng máu: “Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Ðức Kitô” (1Pr 1:19). Rồi để chứng tỏ tầm hiệu lực vô biên của công cuộc cứu độ, tác giả đã nhắc đến việc Ðức Kitô xuống âm phủ giảng Tin mừng cho kẻ chết, [69] và đến ngày quang lâm đang gần kề (x. 1Pr 4:7). Vấn đề này đã gây xao động trong cộng đoàn; vì thế, 2Pr phải nói rõ thêm rằng: “Thiên Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa,” song muốn tạo cơ hội cho mọi người có đủ thì giờ hối cải hầu được cứu rỗi (x. 2Pr 3:8-10). [70]
– Thư Do thái trình xuất một mẫu Kitô học hoàn toàn nhất đọc thấy trong Tân Ước. [71] “Ðức Giêsu Kitô,” trước hết, là Người Con Thiên Chúa. Lời tựa đề xuất một giáo lý hệt như trong Lời tựa của Ga: Con Thiên Chúa là “phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa,” [72] và nhờ Ngài mà vũ trụ được tạo dựng (x. Dt 1:2). Ngài tiên hữu (x. Dt 10:5tt): Ngài là Thiên Chúa (x. Dt 1:7-12). Nhưng Ngài cũng là người phàm và sống như người phàm đến nỗi đã trải qua thử thách và đau khổ (x. Dt 2:18), như chúng ta trong mọi sự, trừ ra tội lỗi (x. Dt 4:15). Dù là Người Con, Ngài cũng đã phải nhờ kinh nghiệm khổ đau mà học cho biết vâng phục (x. Dt 5:8), và nhờ đó, đã trở nên hoàn hảo (x. Dt 2:10). Ngài là gương mẫu của lòng tin (x. Dt 12:2). Giáo thuyết của Dt tỏ ra độc đáo ở chỗ giới thiệu Ðức Kitô như là Vị Thượng tế. [73] Tác giả viết: “Ðiểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một Vị Thượng tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Ðấng uy linh ở trên trời” (Dt 8:1); nghĩa là Ngài có quyền để muôn đời can thiệp cho chúng ta (x. Dt 7:25), để “làm cho những kẻ Ngài đã thánh hóa được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Và Dt cho thấy đặc tính nổi bật và đáng kể nhất của Vị Thượng tế này là lòng xót thương (x. Dt 4:15): Ngài nhân hậu vì có cùng một huyết nhục với con người, vì là “đồng bào” của chúng ta (x. Dt 2:11-18). Vị Thượng tế “theo dòng Menkisêđê” này (x. Dt 5:10) đã dâng lễ chỉ một lần và thế là đủ (x. Dt 7:27; 9:12.28; 10:10); thế nên, trong Kitô giáo chỉ có một “linh mục” duy nhất, chỉ có một Lễ tế duy nhất. Nhờ Lễ tế ấy, Ðức Kitô đã thiết lập giao ước mới (x. Dt 9:15) hoàn hảo và tốt đẹp hơn giao ước cũ (x. Dt 7:22; 8:6), và đó là giao ước trường tồn, không bao giờ qua đi, vì Ðức Kitô không “dâng lễ” trong quá khứ, song là ở trên trời, nơi Ngài hằng sống vĩnh cửu (x. Dt 7:25). Ðó là nền móng vững chắc của niềm cậy trông kitô: “Ðức Giêsu Kitô hôm qua và hôm nay vẫn là một, và cho đến muôn đời!” (Dt 13:8).
[52] Cerfaux, L., Le Christ dans la théologie de St. Paul, Paris: Cerf 19542; Gibbs, J. G., Creation and Redemption. A Study in Pauline Theology, Leiden: E. J. Brill 1971; Ridderbos, H., Paul: an outline of his theology, London 1977; Kim, Seyoon, The Origins of Paul’s Gospel, Grand Rapids, Eerdmans 1981; Furnish, V. P., Jesus According to Paul, Cambridge Univ. Press 1994; Sinclair, S. G., Jesus Christ according to Paul: The Christologies of Paul”s Undisputed Epistles and the Christology of Paul, D&F Scott Publ. 1988; Aletti, J.-N., “Paulinienne (Théologie)” trong Dict. Crit. de Théol., 886-872 .
[53] Bruce, F. F., Paul: Apostle of the Free Spirit, The Paternoster Press 1977, ch 11: “Paul and the Historical Jesus” 95-112.
[54] Hengel, M., Between Jesus and Paul, Fortress Press 1983, ch. 4: “‘Christos’ in Paul,” 65-77.
[55] Xin xem, Brown, R. E., An Introduction to N.T. Christology, Appendix III, tt. 171-195.
[56] Xin xem Martin, R. P., Carmen Christi, Grand Rapids: Eerdmans 1967; Howard, G., “Phil 2:6-11 and the Human Christ,” Cath. Bibl. Quart. 40 (1978) 368-387.
[57] Scroggs, R., The Last Adam. A Study in Pauline Anthropology, Philadelphia 1966; Dunn, J.D.G., Christology in the Making, Ch. IV “The Last Adam”; Hooker, M. D., From Adam to Christ. Essays on Paul, Cambridge U. P. 1990.
[58] Xin xem Neyrey, J. H., Christ is Community, ch. 7, “Philippians: Jesus as the New Adam.”
[59] Xin xem Dunn, J. D. G. Christology…, ch. II; Hengel, M. Jesus, Fils de Dieu, Paris 1977.
[60] Scott, J. M., Adoption as Sons of God. An Exegetical Investigation into the Background of UIOQESIA in the Pauline Corpus, Tuebingen: Mohr 1992.
[61] Wilkens, U., Weisheit und Torheit. Eine exegetische-religions-geschichtliche Untersuchung zu 1 Kor. 1,18-2,16, Beitraege zur hist. Theol. 26, 1959. Feuillet, A., Le Christ Sagesse de Dieu, d’après les épitres pauliniennes, Paris: Gabalda 1966; Crosgrove, C.H., The Cross and the Spirit: A Study in the Argument and Theology of Galatians, Macon: GA: Mercer U.P. 1988.
[62] Bandas, R.G., La Redenzione, idea centrale in S. Paolo, Roma 1961.
[63] Trong P. L. 54.357.
[64] Hanson, A.T., The Paradox of the Cross in the Thought of St. Paul, Sheffield 1987.
[65] Caragounis, C.C., The Ephesian Mysterion. Meaning and Content, Lund 1977; Penna, R., Il “mysterion” paolino: traiettoria e costituzione, Brescia: Paideia 1978.
[66] Lời của Ignaxiô Antiokia, trong Ad Magnesios 8.2.
[67] Xin xem Perrot, C. et alii, Éudes sur la première lettre de Pierre, Paris 1980; Tunõí, J., “Jesus of Nazareth in the Christology of 1Peter,” Heythrop Journal 28 (1987) 192-304; Marshal I.H., 1 Peter, Intervarsity Press 1991.
[68] Elliott, J. H., A Home for the Homeless. A Social-Scientific Criticism of 1 Peter, It’s Situation and Strategy, Minneapolis: Fortress 1990.
[69] Xin xem Cothenet, E., “La portée salvifique de la résurrection du Christ d’après I Pierre,” trong La Pâque du Christ, Mystère de salut, Paris: Cerf 1982; Dalton, W. J., Christ’s Proclamation to the Spirits. A Study of 1 Peter 3:18-4:6, Roma: Biblicum 1989.
[70] Von Allmen, D., “L’apocalyptique juive et le retard de la parousie en II Pierre 3,1-13,” trong Revue de Théol. et de Philos. 99 (1966) 255-274.
[71] Vanhoye, A., Situation du Christ: épýtre aux Hébreux 1-2, Paris: Cerf 1969; Moule, H. C. G., Studies in Hebrews, Grand Rapids: Kregel Publ. 1977. Casey, J., Hebrews, Dublin: Veritas 1980; Swetnam, J., Jesus and Isaac. Study of the Epistle to the Hebrews in light of the Aqebah, Rome: Biblicum 1981; Attridge, H. W., Hebrews, Philadelphia: Fortress 1989.
[72] Bởi đó, Kinh tin kính có câu: “Ánh sáng bởi Ánh sáng.”
[73] Zimmermann, H., Die Hohepriester-Christologie des Hebraeerbriefes, Paderborn: Schưningh 1964; Vanhoye, A., Prêtres anciens, Prêtre nouveau selon the N. T., Paris 1980.