HUYỀN BÍ KITÔ GIÁO – THỜI CẬN ĐẠI

0
1823

Nguồn: “Chiều kích huyền bí trong các tôn giáo”
trích trong Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh tập IV
(Tp. HCM: Nhà sách Đức Bà Hòa Bình,  2015), trang 185-290.

Mục IV. Thời Cận đại

Vào thời cận đại, thần học huyền bí Kitô giáo mang nhiều đặc tính xem ra trái ngược nhau. Một đàng là sự xuất hiện của tác giả được mệnh danh là “cổ điển” của thần học huyền bí, đó là thánh Gioan Thánh giá; đàng khác là sự nổi lên những luồng chống đối huyền bí ở trong Giáo hội công giáo, và cách riêng là nơi Giáo hội Tin lành.

Chúng ta sẽ lần lượt trình bày cả hai trào lưu đối nghịch đó.

I. Những trào lưu huyền bí

Năm 1926, từ khi được đức Piô XI trao tặng tước hiệu tiến sĩ Hội thánh, thánh Gioan thánh giá quen được gán danh xưng là “tiến sĩ huyền bí” (doctor mysticus), bởi vì không những người đã lãnh nhận được cảm nghiệm huyền bí nhưng còn biết sử dụng ngôn ngữ thần học để diễn đạt nó. Trước khi giới thiệu đạo lý của thánh Gioan thánh giá, chúng tôi muốn nói đôi lời về thánh nữ Têrêxa Avila (1515-1582), một người đồng hương và đồng lao trong việc cải tổ Dòng Cát-minh.

Xét về khía cạnh học thuyết, thánh Têrêsa không có gì mới so với các tác giả đi trước thuộc khuynh hướng “huyền bí kết hôn” . Tuy nhiên, điểm độc đáo nằm ở chỗ  phân tích các cấp độ cũng như những hiện tượng kèm theo. Trong tác phẩm Castillo interior (lâu đài nội tâm), tác giả mô tả những chặng của đời sống huyền bí từ khởi đầu cho đến lúc kết hiệp[1].

Linh hồn được ví như một lâu đài với bảy căn hộ.  Nó bị bao vây bên ngòai bởi các rắn độc, tức là tội lỗi và quyến luyến với thế sự. Tình trạng này vẫn tồn tại khi rút vào căn thứ nhất, tức là nền của đời sống tâm linh, dựa trên sự biết mình và khiêm tốn. Lên tới những căn cao hơn ở căn thứ hai và ba, linh hồn cũng tiến tới trong đường cầu nguyện, từ khẩu nguyện cho đến suy niệm, mang theo nhiều lúc chia trí và khô khan. Linh hồn cần biết kiên trì khi đương đầu với những khó khăn, ngõ hầu có thể tiến tới.

Một khúc rẽ quan trọng bắt đầu từ căn thứ tư, khi chuyển sang tình trạng huyền bí, bởi vì Thiên Chúa giữ phần chủ động hơn. Linh hồn tiến đến “tĩnh nguyện”, cảm thấy được yên tĩnh và dịu ngọt khi gần gũi Chúa. Tuy vậy, sự kết hiệp vẫn chưa trọn vẹn, bởi vì các quan năng khác (đặc biệt là lý trí và óc tưởng tượng) chưa được chế ngự. Lên đến căn thứ năm, (tương ứng với “kết hiệp đơn giản”), thì linh hồn cảm nhận được việc Chúa đến và ngự ở trong mình. Sự kết hiệp này kéo dài không lâu lắm, khỏang chừng nửa giờ, trong đó các quan năng đều ngủ yên. Ở căn thứ sáu, sự kết hiệp với Thiên Chúa được diễn tả như cuộc “đính hôn thiêng liêng” được thuật lại khá tỉ mỉ, kèm theo nhiều hiện tượng huyền bí, cách riêng là sự xuất thần, khi mà tất cả các quan năng của con người hầu như bị tê liệt: họ không còn nói được, thân thể ra lạnh ngắt hầu như không còn sức sống. Sự xuất thần không kéo dài lâu, nhưng để lại nhiều dấu vết trong linh hồn, trong đó có “vết thương của tình yêu” gây nhiều đau đớn do lòng khao khát mến Chúa gây ra. Căn thứ bảy được mô tả như hôn phòng, nơi diễn ra cuộc “kết hôn thiêng liêng”, khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho linh hồn. Đây là tình trạng cao cấp nhất trên đời này, chỉ còn thua sự hưởng kiến trên trời mà thôi.

Một đặc trưng của linh đạo Têrêsa Avila, khác biệt với thánh Gioan thánh giá, ở chỗ thánh nữ dành chỗ quan trọng cho Đức Giêsu, dưới cả khía cạnh nhân tính lẫn thiên tính. Đức Giêsu trở nên người bạn thân tình để hàn huyên trò chuyện, và là trung gian dẫn đến Thiên Chúa.

Dù sao, khi bàn về thánh Têrêsa Avila, chúng ta đừng nên quên rằng thánh nữ không ngồi yên trong căn phòng để chiêm ngắm, nhưng người phải đi lại đây đó để xúc tiến việc cải tổ các đan viện Cát-minh, với nhiều điều bận rộn trong tâm trí.

A. Thánh Gioan thánh giá

Thánh nhân thuật lại cảm nghiệm của mình khi bị giam trong ngục tu viện Toledo, dưới hình thức các bài thơ. Những tác phẩm viết sau đó ra như chú giải cho các bài thơ.

Con đường dẫn đến sự kết hiệp với Thiên Chúa được sánh với cuộc “trèo lên đỉnh núi Cát-minh”. Để đạt đến mục tiêu này, linh hồn phải từ bỏ không những là những gì ràng buộc với thế giới khả giác mà còn tất cả những gì không dẫn tới Thiên Chúa. Nơi thánh Gioan Thánh giá, ta thấy tái hiện luồng thần bí “đêm tối”. Hành trình lên núi bị bao phủ bởi nhiều đợt đêm tối.

Đợt một mang danh là “đêm tối giác quan”. Linh hồn phải từ bỏ tất cả những gì mà trước đây mình ưa thích. Họ phải khước từ không những là tội lỗi (bất kỳ tội trọng hay tội nhẹ), mà còn tất cả những khuyết điểm cũng như mọi ràng buộc với thọ tạo, tuy dù vô tội vô vạ chăng nữa. Tác gỉa ví các sự quyến luyến đó như là dây trói: dù lớn hay nhỏ, nó cũng ngăn cản con chim không thể bay lên cao được. Do đó, ai muốn bước vào hành trình huyền bí thì hãy học con đường từ bỏ. Hãy chọn cho mình không phải điều dễ nhất nhưng là điều khó nhất; không phải là điều mình thích nhất nhưng là điều ngại ngùng nhất; không phải là điều thỏai mái nhưng là điều cực nhọc. Thọat tiên xem những lời khuyên này mang tính cách tiêu cực, nhưng thực ra chúng chuẩn bị cho tâm hồn được mở rộng: chính vì không chiếm hữu gì hết cho nên ta mới có thể ôm ấp tất cả; chính vì ước ao không biết gì cho nên mới biết tất cả. Sự từ khước chỉ là phương tiện dẫn đến sự kết hiệp huyền bí mà thôi.

Phạm vi từ khước còn mở rộng đến những điều mà có lẽ nhiều nhà thần bí khác ước muốn, chẳng hạn như các thị kiến, mặc khải (được thánh Têrêsa Avila liệt vào những đặc củng của hành trình tâm linh). Đối với thánh Gioan, các hiện tượng đó không trực tiếp dẫn ta tới Thiên Chúa, bởi vì chúng có thể bắt nguồn từ Thiên Chúa, hoặc bởi ma quỷ hay do chính ta gây ra. Tuy nhiên lý do chính mà tác giả muốn cảnh giác các tín hữu  là bao lâu ta còn sống trên đời này thì ta chỉ có thể nắm bắt Thiên Chúa qua “đêm tối đức tin” mà thôi, chứ không phải bằng những hình tượng khả giác. Tác giả cũng khuyên ta đừng tọc mạch tìm kiếm những mặc khải riêng tư, bởi vì những gì Thiên Chúa muốn mặc khải cho nhân lọai  thì Ngài đã nói qua đức Kitô rồi.

Đợt hai của sự thanh luyện mang danh là “đêm tối của tinh thần”. Đây là một cuộc thanh luyện rất đau đớn, bởi vì linh hồn cảm thấy mình bị Thiên Chúa và mọi người bỏ rơi hòan tòan. Họ rơi vào cảnh bị hủy diệt, ra như bị tiêu tan thành hư vô; sức lực hao mòn, không còn khả năng để thi hành việc bổn phận, còn nói chi đến cầu nguyện. Họ có cảm giác đau đớn như khi ở trong luyện ngục, và thời kỳ thanh lọc càng kéo dài nếu Thiên Chúa có ý định muốn đưa linh hồn đến cấp cao của huyền bí. Tuy nhiên, sau thời gian đêm tối dày đặc, linh hồn sẽ chẳng còn nhớ đến những đau đớn đã qua, bởi vì không sánh nổi với niềm hân hoan của sự kết hiệp huyền bí.

Thánh Gioan thánh giá giải thích bản chất của sự kết hiệp này bằng ngôn ngữ lấy từ sách Diễm ca. Sau những thời kỳ nhớ nhung tìm kiếm mòn mỏi, linh hồn tìm gặp được người yêu. Cuộc gặp gỡ này được gọi là “cuộc kết hôn với Ngôi Lời, Con Thiên Chúa”. Linh hồn được biến đổi nên giống Thiên Chúa (“thiên hóa”), cảm nhận sự kết hiệp với Thiên Chúa: trí tuệ được chiếu sáng bằng sự cao minh của Ngôi Lời, ý chí được kích thích bởi Thánh linh, và Chúa Cha. Linh hồn cảm nhận được Thiên Chúa đến trong linh hồn mình, và thu hút nó trong vòng tay âu yếm của mình.

Xét về ngôn ngữ, chúng ta biết rằng hình ảnh “đêm tối” đã được nhiều tác giả từ thời giáo phụ sử dụng (chẳng hạn như Grêgôriô Nyssa, Điônysiô Areopagita). Đặc trưng của thánh Gioan thánh giá là đề tài “đêm tối” được diễn tả thành hệ thống với nhiều cấp độ và lãnh vực:

– hai cấp độ: đêm tối “chủ động” (activa) và “thụ động” (passiva), tương ứng với hai giai đọan tiến đức. Đêm tối  “chủ động” tương đương với sự thanh luyện vào lúc khởi đầu, cho chính đương sự tự ý thi hành; đêm tối “thụ động” nằm ở cấp độ cao hơn khi chính Thiên Chúa ra tay thanh luyện linh hồn.

– hai lãnh vực: đêm tối “giác quan” và đêm tối “tinh thần”, áp dụng cho những quan năng của con người. Đêm tối “giác quan” nhằm chế ngự các giác quan là điều tương đối dễ hiểu. Đêm tối “tinh thần” tác dụng đến lý trí và thậm chí đến cả đức tin nữa.

Các nhà phê bình đã đặt câu hỏi: hành trình tâm linh vừa kể mang tính cách kinh nghiệm riêng tư của thánh Gioan thánh giá, hay có giá trị cho tất cả  mọi người? Thực khó quả quyết chắc chắn rằng tất cả các nhà huyền bí đều phải trải qua các đêm tối giác quan và tinh thần. Nhưng một vị thánh khác, thánh Phaolô thánh giá (1694-1775), vẫn tiếp tục sống tình trạng đêm tối kể cả sau khi đã đạt được sự kết hiệp huyền bí: ở đây “đêm tối” không chỉ có ý nghĩa thanh luyện mà còn có ý nghĩa thông hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu[2].

B. Những tác giả khác

Ngòai thánh Gioan thánh giá, thời cận đại cũng ghi nhận nhiều tác giả thần bí khác thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau. Chúng tôi chỉ xin dừng lại ở vài khuôn mặt điển hình: thánh Francois de Sales, trường phái Bérulle

1/ Thánh Francois de Sales (1567-1622) được coi như một nhà cách mạng về thần học tâm linh, bởi vì người muốn cho ơn gọi thánh thiện thâm nhập vào cả đời sống của các gíao dân chứ không chỉ đóng khung trong các nhà dòng[3]. Người đã viết hai tác phẩm căn bản: Introduction à la vie dévote (Dẫn nhập vào đời sống đạo đức) và Traité de l=amour de Dieu (Khảo luận về lòng mến Chúa). Quyển thứ nhất gồm những chỉ dẫn về việc cầu nguyện và thực tập nhân đức ở mọi hòan cảnh cuộc sống. Quyển thứ hai dành cho những linh hồn muốn tiến triển trên đường trọn lành, trong đó tác giả trình bày vài quan điểm cá nhân về sự kết hiệp huyền bí. Tuy rằng bản chất của sự trọn lành và đời sống huyền bí đều nằm ở lòng mến Chúa, nhưng cấp độ trọn hảo của lòng mến được diễn tả qua thái độ hòan tòan phó mặc để cho Thiên Chúa dẫn dắt, được tóm lại trong công thức “dửng dưng thánh thiện” (sainte indifférence). Nó không những ám chỉ sự tín thác hòan tòan vào sự dẫn dắt của Chúa quan phòng, tựa như trẻ thơ nép mình trong lòng mẹ, nhưng còn dám đi tới chỗ không thể nào xảy ra được. Tác giả bị ám ảnh với việc làm theo ý Chúa đến nỗi sẵn sàng xuống hỏa ngục nếu Chúa muốn như vậy (livre 9, ch.2). Thực là một khẳng định quá đáng, khi biết rằng bản chất của hình phạt hỏa ngục không phải lửa nung đốt nhưng là xa cách Chúa! Đời nào Chúa lại muốn cho một linh hồn yêu mến Chúa phải chịu cảnh đày đọa phải xa cách Ngài? Ta chỉ hiểu được theo nghĩa của huyền bí “đêm tối”, nghĩa là Chúa đòi chúng ta phải thanh luyện những hình ảnh cảm giác về Ngài, chứ không thể nào đi tới chỗ lánh xa Ngài.

Khi so sánh thánh Francois de Sales với thánh Têrêsa Avila, người ta thấy một sự khác biệt không nhỏ. Đối với thánh Têrêsa, sự xuất thần (ngất trí: extasis) là hiện tượng xảy ra ở cấp cao của đời sống cầu nguyện, còn thánh Francois thì cho rằng đó là những phản ứng tâm lý thường tình, khi linh hồn được nâng lên chiêm ngắm hoặc khát khao những thực tại quá mức thực hiện. Mặt khác, một vị thánh khác cũng mang tên Têrêsa sẽ mang ra thực hành đạo lý của thánh Francois, đó là thánh nữ Terêsa hài đồng Giêsu (1873-1897) tông đồ của con đường nhỏ, con đường phó thác.

2/ Trường phái Bérulle, – mang danh của vị sáng lập Pierre de Bérulle (1575-1629), cũng còn gọi là “Trường phái Pháp quốc” (Ecole Francaise) – nhắm đến việc đào tạo hàng giáo sĩ thánh thiện để canh tân Hội thánh. Một đặc trưng của học phái này là gắng tiến tới việc hòa hợp cuộc đời linh mục với cuộc đời của Chúa Giêsu, vị Thượng tế và hiến lễ. Sống đời huyền nhiệm có nghĩa là sống kết hiệp với Chúa Kitô, nhờ việc suy gẫm Kinh thánh và thông dự bí tích Thánh thể (chứ không dựa theo các thị kiến, xuất thần). Một hình thức biểu lộ sự hòa đồng với Chúa Kitô là hiến dâng trót đời làm hiến-lễ giống như Người. Nên biết là tinh thần “hiến lễ” (victime) được cổ động không chỉ trong hàng linh mục (những người dâng thánh lễ hằng ngày), mà ngay cả trong hàng tu sĩ và giáo dân nữa.

II. Những trào lưu phản huyền bí

Thế kỷ XVI-XVII được đánh dấu với sự xuất hiện những tác giả sâu sắc về Thần học huyền bí, đồng thời với sự nổi lên những phong trào chống lại huyền bí, từ trong nội bộ Giáo hội công giáo và từ Giáo hội Tin lành

A. Luồng chống đối huyền bí

Vào thế kỷ XVI, tại nước Tây-ban-nha (quê hương của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan thánh giá) diễn ra một cuộc bài trừ nhóm alumbrados, khiến cho những tác phẩm viết về sự chiêm niệm và phó thác bị nghi ngờ là lạc đạo. Cuộc tranh luận này được kéo dài sang thế kỷ XVII dưới hình thức của thuyết quietismus (cha Miguel de Molinos, bà Guyon, và cuộc tranh luận giữa Bossuet với Fénelon), đưa đến sự luận phi dưới thời đức Innocentê XII (12/3/1699)[4].  Khuyết điểm của nhóm này là đề cao sự kết hợp với Chúa bằng cầu nguyện tâm tình, thái độ phó-mặc thụ-động, đến nỗi bỏ rơi kinh nguyện phụng vụ và các công việc khổ chế. Thậm chí có người khẳng định rằng ai đã đạt được cảm nghiệm huyền bí (= trọn lành) thì không còn có thể phạm tội nữa: dù họ có làm một điều xấu đi nữa nhưng vì họ đã đắm chìm trong Chúa cho nên các việc đó không phải là điều xấu.

Trong bối cảnh đó, người ta hiểu được vì sao Dòng Tên, một dòng tu lớn nhất vào thời cận đại đã không cổ động thần học huyền bí.

Thực vậy, không ai chối được rằng thánh Inhaxiô Loyola (1495-1556) đã có những cảm nghiệm huyền bí, đặc biệt là tại Manresa (gần Barcelona) và La Storta (gần Rôma). Tác phẩm Linh thao là kết quả của những cảm nghiệm đó.  Dù vậy, sách Linh thao không nhằm hướng dẫn người đọc tiến đến sự kết hiệp huyền bí, cho bằng trở thành một tông đồ họat động để phục vụ Nước Chúa. Tuy tác giả nói đến những cấp độ tiến triển về tu đức, nhưng chóp đỉnh của sự trọn lành không phải là sự chiêm niệm kết hiệp với Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Danh Chúa qua việc giúp đồng lọai tin kính Ngài. Có học giả muốn xem như là một khuynh hướng huyền bí mới: “huyền bí họat động” (mystique de l=action), thể hiện qua phương châm Contemplativus in actione.

Tuy nhiên, lịch sử của Dòng Tên không thiếu những nhân vật nổi tiếng về “huyền bí” theo nghĩa cổ truyền, chẳng hạn như thầy Alphonsus Rodriguez (1533-1617), cha Louis Lallemant (1587-1635), cha Jean-Pierre de Caussade (1675-1751).

Ngòai ra, trên phương diện học thuyết, cần ghi nhận một sự chuyển hướng trong thần học tâm linh do cha Battista Scaramelli (1687-1752), với việc xuất bản hai quyển sách Direttorio asceticoDirettorio mistico (Kim-chỉ-nam khổ chế và huyền bí). Kể từ đó thần học tâm linh được phân chia thành hai phần: “khổ chế” (hay tu đức: ascetica) dành cho tất cả mọi tín hữu; “huyền bí” (mystica) dành riêng cho một số linh hồn ưu tuyển. Một cách vô tình, đề tài “huyền bí” bị gạt ra khỏi cuộc sống đạo của đại đa số các Kitô hữu.

B. Tin lành

Các nhà thần học Tin lành chống đối sự kết hiệp huyền bí, bởi vì trái ngược với nguyên tắc căn bản của họ, tức là “con người được nên công chính hóa nhờ đức tin, chứ không phải nhờ việc thiện”. Ngược lại, các tác phẩm về đời sống tâm linh lại cỗ vũ nỗ lực của con người (công tác khổ chế, luyện tập nhân đức, cầu nguyện chiêm niệm) như là phương tiện dẫn tới sự thánh thiện và kết hiệp với Thiên Chúa.

Điều trớ trêu là nguyên tắc căn bản vừa nói đã được chín mùi nhờ việc làm quen các tác phẩm huyền bí. Ông Martin Luther (1483-1546) đã thú nhận rằng  ông từng say mê đọc các tác phẩm của Eckhart và Tauler cũng như một tác phẩm vô danh tựa đề Theologia Teutsch (Thần học Đức). Như đã biết, những tác phẩm này thuộc khuynh hướng thần học phủ định, nhấn mạnh đến khỏang cách vô biên giữa thọ tạo với Thiên Chúa. Từ đó mà Luther đã đào sâu cảm nghiệm về tình trạng tội lỗi và thân phận hư-vô của thọ tạo, hòan tòan bất lực trước mặt Thiên Chúa. Vì thế con người hòan tòan thụ động, không thể làm được việc lành gì, mà chỉ còn biết tín thác vào công trạng của Chúa Kitô.

Ông Jean Calvin (1509-64) cũng chấp nhận nguyên tắc “con người được nên công chính nhờ đức tin”, nhưng dựa trên tiền đề khác với Luther. Ông Luther khởi hành từ cảm nghiệm về thân phận tội lỗi của con người. Ông Calvin khởi hành từ thuyết tiền định: có những người được tiền định lên thiên đàng, và có những người được tiền định xuống hỏa ngục. Tiền đề này gây ra nỗi lo lắng sợ sệt nơi con người, bởi vì nó không biết được ý định khôn dò của Thiên Chúa. Thái độ này đặt con người trong thái độ run sợ trước Thiên Chúa uy nghi, và ngăn cản lòng ước ao đạt đến sự kết hiệp huyền bí.Thực ra, chủ trương bài trừ huyền bí còn bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nữa, trong số đó không thể nào bỏ qua thái độ bài bác Giáo hội công giáo: những gì được Giáo hội công giáo đề cao (chẳng hạn: các bí tích, Đức Maria, bậc tu trì) thì bị hạ thấp trong Giáo hội Tin lành. Ta cũng có thể nói ngược lại: những gì được đề cao về phía Tin lành thì cũng gặp dị ứng nơi Giáo hội công giáo (chẳng hạn: việc đọc Kinh thánh, vai trò họat động của các giáo dân). Dù sao, tuy các nhà khởi xướng Tin lành tuyên bố cắt đứt với truyền thống Công giáo thời đó, nhưng dần dần, người ta nhận thấy sự phục hồi của những trào lưu huyền bí dưới những dạng khác nhau.

– Một đàng, có thể nói được là chính ông Luther cũng mở ra một khuynh hướng huyền bí, dựa trên thánh Phaolô: huyền bí của “niềm tin vào ân huệ cứu độ” do quyền năng của Thiên Chúa, một niềm tin mang tính cách cảm nghiệm tín thác chứ không chỉ là chấp nhận đạo lý. Đối với ông Luther, tin vào Đức Kitô không hệ tại tuyên xưng Ngài có hai bản tính trong một ngôi vị, cho bằng tin rằng Đức Kitô đã yêu thương tôi và cứu chuộc tôi (sự phân biệt “Christus in se” và “Christus pro me”)[5].

– Đàng khác, truyền thống Tin lành đã sớm chứng kiến sự xuất hiện của phong trào “sùng mộ”- piétisme (Johann Arndt, Philip-Jakob Spener, George Fox, Gerald Tersteegen, John và Charles Wesley) -, đề cao khía cạnh tâm tình trong đời sống đạo, cách riêng khi suy gẫm Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, một chủ đề quan trọng trong thần học Luther (Theologia crucis). Thí dụ như bá tước Nicolas-Louis Zindendorf (1700-1760) sau khi nhìn ngắm tượng Chúa chịu nạn, ông nghe như tiếng Chúa phán: Hoc feci pro te, quid facis pro me?  (Ta đã làm như vậy  cho con, con làm gì cho Ta?), và ông đã xin Chúa hãy cưỡng bách mình chia sẻ  đau khổ với Người, nếu mình chưa đủ khả năng tình nguyện.  Một luồng đạo đức tâm tình khác dựa trên niềm tin về tác động của Thánh linh trong các tín hữu, khởi điểm cho phong trào Ngũ tuần (Pentecostal movement).

– Sau giai đọan tẩy chay nảy ra trong bầu khí tranh biện, dần dần các tác phẩm huyền bí lại được lưu hành giữa vài nhóm tín hữu Tin lành, nối kết lại với truyền thống xưa kia. Mục sư Pierre Poiret (1646-1719) chuyển dịch các tác phẩm huyền bí sang tiếng Pháp.

Ngòai ra khi nói đến truyền thống huyền bí của các giáo hội Tin lành, chúng ta không nên dừng lại ở các tác phẩm thần học, nhưng còn chú ý đến các thánh thi, thánh ca nữa. Johann Sebastian Bach đã diễn tả ra cảm nghiệm huyền bí ra các hợp tấu nổi tiếng.

————————————————————

[1] Xc. Đời sống tâm linh, tập III, trang 325-328.

[2] Xc. Đời sống tâm linh, tập II, trang 331.

[3] Xc. Đời sống tâm linh, tập II, trang 302-306.

[4] Xc. Đời sống tâm linh, tập II, trang 286-288 (Alumbrados), 322-326 (Quietismus).

[5] Xc. Chú giải II Moyses, c.12. Một câu nói tương tự của Philipp Melanchton diễn tả trung thực quan điểm của Luther: “Hoc est Christum cognoscere, beneficia eius conoscere”: Biết Đức Kitô có nghĩa là biết các ân huệ của Người.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here