Giáo Huấn Xã Hội Của Hội Thánh Công Giáo : Một Cái Nhìn Mới Từ Thông Điệp Rerum Novarum Đến Thông Điệp Laudato Si’ – Phần VII

0
643


GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO :

MỘT CÁI NHÌN MỚI

TỪ THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM ĐẾN THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

*************

                                                  

Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, O.P.
Tu sĩ Giuse Nguyễn Thái Bảo, O.P.
Tu sĩ Phêrô Vũ Nguyễn Minh Tiến, O.P.

chuyển dịch từ tác phẩm

CATHOLIC SOCIAL TEACHING :
A NEW SYNTHESIS
RERUM NOVARUM TO LAUDATO SI’

By Daniel Schwindt

 

 

PHẦN VII. MÔI TRƯỜNG

1. Mối bận tâm đã có từ lâu

“Chưa bao giờ chúng ta lại làm tổn thương nặng nề và đối xử tệ hại với ngôi nhà chung của chúng ta như trong suốt hai trăm năm qua.” Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết như thế trong Thông điệp Laudato Si’ của ngài. Và ngài không đơn độc. Năm 1971, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã phát biểu rằng: “Do khai thác thiên nhiên một cách thiếu cân nhắc mà nhân loại đi đến bờ nguy hiểm, đã phá huỷ thiên nhiên và lại trở thành nạn nhân của chính sự suy diệt đó.” Tiếp luồng tư tưởng ấy, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết:

“Mối tương quan giữa các cá nhân hay các cộng đồng với môi trường, về cơ bản, bắt nguồn từ mối tương quan giữa cá nhân hay cộng đồng với Thiên Chúa. Khi con người quay lưng với kế hoạch của Đấng tạo hoá, con người gây ra một sự rối loạn vốn có những tác động trở ngược không thể tránh khỏi cho trật tự thụ tạo.”[1]

Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, con người có trách nhiệm chăm sóc trọn vẹn mọi thụ tạo của Thiên Chúa. Đây là điều đặc biệt quan trọng ngày nay, khi xem xét những hồi đáp mà Đức Phanxicô nhận được khi bàn tới đề tài ấy. Ví dụ, dường như có vài tác giả nghĩ (như vẫn thấy đối với những người chưa từng bỏ thời gian đọc chính các thông điệp) rằng, Thông điệp Laudato Si’ của Đức Phanxicô tượng trưng cho vài dự án liều lĩnh trong vai trò của Giáo Hội – một bước lệch lạc ra khỏi truyền thống.

Đối lại, Giáo lý nói rằng “công trình tạo dựng, được phát sinh do lòng tốt lành của Thiên Chúa, nên nó được dự phần vào sự tốt lành này… vì Thiên Chúa đã muốn công trình tạo dựng là như một món quà dành cho con người, như một gia sản được gửi gắm và uỷ thác cho con người.”[2]Nhờ công trình tạo dựng mà chúng ta tìm thấy sự sống, nhận ra những tiềm năng của mình, đi vào mối tương quan với người khác, và, nhờ chiêm ngắm công trình tạo dựng mà chúng ta hướng đến được với Thiên Chúa.[3]

Để trở về nguồn gốc vấn đề xuyên suốt giữa các triều đại Giáo hoàng trước đây với Đức Giáo hoàng Phanxicô, chúng ta sẽ dừng lại ở vị tiền nhiệm gần nhất – Đức Bênêđictô XVI, người đã nhắc đi nhắc lại mối bận tâm của Giáo Hội về vấn đề môi trường. Chúng tôi chỉ lấy ra một trong số những phát biểu của các vị Giáo hoàng trước về điểm này mà thôi:

“Giữ gìn môi trường, đẩy mạnh phát triển bền vững và chú trọng đặc biệt đến biến đổi khí hậu là những vấn đề liên quan trực tiếp đến toàn thể gia đình nhân loại.”[4]

“Trật tự của công trình sáng tạo đòi buộc phải dành ưu tiên cho các hoạt động không gây ra bất cứ thiệt hại vĩnh viễn nào cho thiên nhiên, nhưng thay vào đó, các hoạt động ấy phải được đan kết trong một kết cấu của các cộng đồng riêng biệt giữa xã hội, văn hoá và tôn giáo. Theo cách đó, cân bằng giữa việc tiêu thụ với khả năng đáp ứng các tài nguyên là một cân bằng đúng đắn.”[5]

“Cuộc khủng hoảng môi sinh là cơ hội lịch sử để đề ra một câu trả lời tập thể nhằm biến cải kiểu mẫu phát triển hoàn vũ theo chiều hướng tôn trọng hơn đối với thiên nhiên và phát triển con người toàn diện, theo giá trị của đức bác ái trong chân lý.”[6]

“Tất cả chúng ta có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc môi trường. Trách nhiệm này hiểu là không có biên giới. Theo nguyên tắc bổ trợ, điều quan trọng đối với mọi người là phải dấn thân trong mức độ của mình để lướt thắng chủ trương chỉ tìm những lợi ích tư riêng.”[7]

“Việc huỷ hoại thiên nhiên thì… liên quan mật thiết đến nền văn hoá vốn hình thành nên sự chung sống giữa loài người: khi ‘sinh thái học nhân bản’ được xã hội coi trọng, sinh thái học môi trường cũng được hưởng lợi ích.” “Địa cầu quả thực là một món quà vô giá của Đấng tạo hoá, và theo đúng trật tự trong bản thiết kế, Đấng ấy đã ban cho chúng ta các cách thức nhằm chỉ dẫn chúng ta quản lý công trình sáng tạo của Ngài. Đúng theo khuôn khổ đó, Giáo Hội cân nhắc các vấn đề liên quan đến môi trường và việc bảo vệ môi trường vốn nối kết chặt chẽ với chủ đề về phát triển toàn diện con người.”[8]

Nếu xem ra chúng tôi nhấn mạnh quá đáng về điểm này thì chỉ vì nó không được một vài người đón nhận; chúng tôi muốn cung cấp tài liệu dồi dào để các tín hữu sử dụng khi phải bảo vệ lập trường của Giáo Hội. Bạn đọc hiếu kỳ sẽ khỏi phải thắc mắc nhiều đến vấn đề này khi tìm hiểu qua các tài liệu mà Vatican online cung cấp.

2. Một mối bận tâm chính đáng

Chúng ta nhận thấy có một sự đồng thuận giữa các vị Giáo hoàng, và Thông điệp Laudato Si’ của Đức Giáo hoàng Phanxicô là lời xác nhận mới nhất nhân danh Giáo Hội rằng, cuộc khủng hoảng môi trường là đề tài thực tế và chính đáng để bàn luận. Nó có thể không còn bị từ khước một vị trí chính đáng trong dự thảo chính trị, và thực tế nó đòi hỏi sự quan tâm của chúng ta nữa. Đức Phanxicô khởi đầu bài luận của mình bằng lời than vãn rằng, trái đất,“đang kêu khóc vì chúng ta đã tiêm nhiễm lên chị những mối nguy qua cách sử dụng vô trách nhiệm và lạm dụng của cải vật chất Thiên Chúa ban tặng. Chúng ta tự xem mình là chủ nhân của trái đất này và muốn bóc lột ra sao tùy ý. Bạo lực trong tâm hồn chúng ta do tội lỗi gây nên cũng phản chiếu trong những triệu chứng của bệnh tật nơi đất đai, nguồn nước, trong không khí và mọi dạng thức của sự sống.”[9]

Không thể trì hoãn việc phủ nhận vai trò chủ động của con người trong tiến trình này. Và chúng ta không thể dửng dưng trước bất cứ điều gì của thế giới.[10]Đó là trách nhiệm gắn liền với quyền cai quản trái đất của con người. Những yếu tố khác có thể đóng góp vào, nhưng yếu tố con người là trổi vượt hẳn cả về nguyên nhân lẫn giải pháp.[11]

3. Các thái độ đúng đắn với môi trường

Một cách nào đó, nhờ tiếp cận thảo luận về thiên nhiên và thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên, chúng ta đã tiếp cận được diễn giải cơ bản nhất về nguyên lý “ân sủng giả thiết thiên nhiên.” Vũ trụ thụ tạo và sự sống phát lộ trong đó là nền tảng của sự hiện hữu. Ân sủng sẽ không có ý nghĩa hoặc không có cách nào sinh hoa trái nếu không có hiện hữu. Trong viễn cảnh đó, chúng ta phải xem công trình sáng tạo như một điều thiện hảo, như một cái gì đó được trao ban để cho tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người được cụ thể. Chúng ta phải tôn trọng công trình sáng tạo theo viễn tượng đó, chứ đừng coi nó như một cái gì đó đã chết mà không có gì khác ngoài một giá trị thực dụng.

Bởi mục đích cao quí nằm ẩn sau công trình sáng tạo mà thái độ của chúng ta đối với công trình ấy tác động đến thái độ của chúng ta đối với đời sống nói chung, bao gồm cả thái độ của chúng ta đối với chính mình:

“Cách thức con người xử sự với môi trường, sẽ ảnh hưởng đến cách thức con người xử sự với chính mình, và ngược lại… Mọi việc gây tổn thương tình liên đới và huynh đệ dân sự sẽ đưa đến tại hại cho môi trường, cũng như những tai hại môi trường đến phiên mình lại gây ra những khó khăn cho các mối liên hệ xã hội. Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hóa sâu xa đến độ không còn là một dữ kiện độc lập nữa.”[12]

Để hiểu sâu hơn nữa mối liên kết này, chúng ta có thể nói môi trường là một lợi ích tổ hợp,[13] do đó nó được gắn kết chặt chẽ với lợi ích chung, và vì vậy, công tâm mà nói: việc thiếu quan tâm đến môi trường là đi ngược lại với nguyên lý nền tảng của Giáo huấn Xã hội của Hội thánh Công giáo. Tôn trọng và chăm sóc môi trường là một bổn phận không chỉ vì hệ quả nó mang lại cho cuộc sống, nhưng còn bởi chúng ta cũng phải hành động như những vị quản gia đối với các thế hệ tương lai. Trong thực tế, quả không ngoa khi nói rằng chúng ta là một với trái đất, vì mỗi bộ phận trong chúng ta được tạo nên từ các yếu tố của trái đất. Nhờ mối liên kết này mà chúng ta có thể thẳng thắn nói rằng:

“Thiên Chúa nối kết chúng ta với thế giới xung quanh mật thiết đến độ chúng ta có thể cảm thấy sự hoang hoá đất đai như một chứng bệnh thể lý, và sự tuyệt diệt giống loài như một biến chứng của nỗi đau.”[14]

Chúng ta không được trao quyền cai quản trái đất để khai thác nó tùy thích. Việc diễn giải mệnh lệnh trong Kinh Thánh về việc “cày cấy và canh giữ đất đai”[15]như thế là xuyên tạc chân lý.[16]“Nếu trên đường đi, anh em gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh em không được bắt cả mẹ lẫn con.”[17] Việc tận dụng những tặng phẩm của thiên nhiên phải gắn liền với tính kiềm chế của một người nông dân chu đáo.

4. Cơn khủng hoảng của tính ích kỷ

Vấn nạn về môi trường xuất phát từ việc tự cho mình là trung tâm. “Việc lạm dụng công trình sáng tạo khởi nguồn khi chúng ta không còn nhận ra bất cứ một thẩm quyền nào cao hơn chính chúng ta, khi không thấy một cái gì khác hơn ngoài chính mình nữa.”[18]

Phán đoán đó chỉ rõ cho chúng ta biết giải pháp duy nhất là quay trở ngược lại hướng từ bản thân ta ra với thế giới. Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi tất cả mọi người thiện chí, “hãy ý thức một cách xót xa, để dám biến những gì đang diễn ra trong thế giới thành nỗi lo âu của cá nhân và nhận thức sự đóng góp của chúng ta có thể mang đến.”[19]Bao lâu chúng ta tự tách ly do tính ích kỷ thì chúng ta sẽ nhắm mắt trước những hậu quả từ các tác động của chúng ta và của xã hội lên trật tự thụ tạo. Điều đó cũng mang tính sống còn đối với chúng ta khi nhắc nhở rằng việc xác tín về bạo lực đối với môi trường thì không hoàn toàn là một thực tập mang tính tưởng tượng. Xã hội và môi trường được liên kết với nhau cách cụ thể, tức là điều chúng ta nhận thấy trước mắt không phải là một kiểu tách biệt giữa các khủng hoảng xã hội với môi trường, nhưng hơn hết nó là một cuộc khủng hoảng phức hợp của cả hai.[20]

5. Trách nhiệm không cân xứng

“Môi trường nhân loại và môi trường tự nhiên cùng xấu đi,”[21] và sự xấu đó sẽ luôn luôn đem đến thiệt hại lớn lao nhất cho các thành viên thấp kém nhất của xã hội. Ở đây, cũng như những nơi khác, nguyên tắc ưu tiên chọn người nghèo phải được đưa vào xem xét.[22] Không chỉ vì họ nằm ở vị thế kinh tế được xác định là yếu kém, mà đặc biệt ở một cấp độ toàn cầu, người nghèo cậy dựa trực tiếp hơn vào môi trường tự nhiên bởi kế sinh nhai của họ đến từ lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp…

Tương tự thế, vì lượng tiêu thụ quá mức tìm gặp thấy ở những khu giàu sang nhất thế giới, và trong thực tế cũng nhắm vào điều đó, nên chỉ có thể có công bằng khi công nhận có những trách nhiệm được phân biệt tuỳ thuộc vào các nhu cầu, lối sống và khả năng của một xã hội.[23]

Thực tại của sự mất cân đối này đối với tác động của cuộc khủng hoảng môi trường biện minh cho xu hướng của các quốc gia giàu có hoàn toàn phủ nhận hay phớt lờ vấn đề này. Trong thực tế, vì công nhận vấn đề này sẽ dẫn đến một bổn phận cho hành động của họ, nên họ tìm cách phủ nhận sự hiện hữu của nó.[24] Chính người nghèo, chứ không chỉ môi trường tự nhiên, cũng trở thành mối nguy hại thêm vào cho sự thờ ơ, dửng dưng của họ.[25]Và vì thế, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng các vấn đề xã hội và hệ sinh thái không thể tồn tại tách rời, nhưng cả trái đất và người nghèo đồng thanh thét lên nỗi đau chung.[26]

6. Chống lại chủ nghĩa duy kinh tế và sự thiển cận

Rất nhiều vấn đề khởi phát từ xu hướng của nền kinh tế loại bỏ bất kỳ một cân nhắc dài hạn mà chỉ đặt ưu tiên cho các lợi ích ngắn hạn.[27]Khi mà lợi ích kinh tế nắm được quyền ưu tiên vượt trên lợi ích chính trị và xã hội thì điều đó xảy ra cũng là chuyện bình thường. Kết quả là, “bất cứ cái gì mỏng manh như môi trường chẳng hạn thì không được bảo vệ trước những lợi ích của một thị trường được sùng bái, nó trở thành quy luật độc nhất.”[28]Điều đó làm cho chính các công chức của chính phủ, các doanh nhân và mọi thành phần khác tham gia kinh tế ra mù quáng trước thực tại trong hoàn cảnh của họ.

“Thái độ thoái thác này cho phép chúng ta tiếp tục vẫn giữ được lối sống cũng như thói quen sản xuất và tiêu thụ. Đó là cách con người cho tất cả đều tốt đẹp, nhưng lại gây thêm những gánh nặng tự huỷ hoại chính mình: con người cố không nhìn thấy tình trạng đó, không công nhận, không đưa ra những quyết định quan trọng, cứ xem như không có gì quan trọng đang diễn ra.”[29]

7. Những giá trị đi liền với công trình sáng tạo

a. Giá trị của các tài nguyên xét như nguồn vốn

Những thiếu hụt rất thực trong ý thức hệ tư bản trở nên hiển nhiên cách đặc biệt khi xem xét chính công trình sáng tạo. Nếu chúng ta phỏng đoán rằng có một điều gì đó mà chủ nghĩa tư bản có thể hiểu được thì chỉ có thể là vốn, thế nhưng chúng ta thấy ngay rằng nếu áp dụng ở đây phỏng đoán đó sẽ sai ngay tức khắc. Ví dụ, các tài nguyên thiên nhiên có hai loại: phục hồi và không phục hồi. Các tài nguyên không phục hồi đi theo các quy luật về vốn – điều đó đúng dù là chúng ta không xem nó như một loại vốn nhưng là một loại thu nhập. Điều đó có nghĩa rằng, bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào đều đòi hỏi một lượng vốn chắc chắn để duy trì doanh nghiệp, cũng vậy việc vận hành bất kỳ một nền công nghiệp nào đều giả định trước nguồn vốn đó có trên trái đất. Lúc đó, nếu như kế hoạch kinh doanh của chính doanh nghiệp đòi hỏi phải liên tục dùng đến nguồn vốn của nó, và lại không có bất kỳ một phương thức khả dĩ nào để xoay vốn thì việc kinh doanh đó tức khắc rơi vào tình trạng báo động. Chúng ta sẽ thấy rằng doanh nghiệp đó tất phải thất bại vì phải dùng sạch nguồn vốn nó có. Chúng ta cũng thấy được mô hình kinh doanh như thế là “không khả thi.” Tương tự, bất kỳ thuyết kinh tế nào chọn cách không chấp nhận các nguồn tài nguyên không thể phục hồi như là một hình thức của nguồn vốn, nhưng lại chọn cách đối xử với các tài nguyên đó như một loại thu nhập để sử dụng theo ý muốn của mình, thì thật không thể chấp nhận được.

Thế nhưng luật thị trường, cụ thể trong khung luật tư bản, vẫn chưa giải thích được các tài nguyên không thể phục hồi giống như một loại vốn. Do đó, các tài nguyên ấy phải được sử dụng bằng mọi cách cho đến khi cạn kiệt: đó chỉ là vấn đề thời gian. Đó là bởi vì chủ nghĩa tư bản giả định có một vũ trụ vô hạn, hoặc chí ít là không có một phương thức thực tiễn nào có thể tự giới hạn mình lại theo như vũ trụ hữu hạn đòi hỏi. Vì chủ nghĩa tư bản không có khả năng biết được thực tại như chúng ta đã thấy – tức phải nói, bị giới hạn – nên không có được cách thức để xử lý các nguồn tài nguyên không thể phục hồi, nhưng lại đối xử với tất cả các tài nguyên như nhau: như loại nhiên liệu dùng cho sản xuất, phải được sử dụng cực lực và nhanh chóng theo lợi nhuận và khả năng cho phép. Không có một giới hạn nào trong việc tính toán cho đến khi nó buộc phải chấp nhận do thực tại. Chẳng có gì được gọi là thấy trước theo một não trạng nào đó – tức là chẳng có gì được gọi là suy xét trong tương lai – nhưng chỉ có luật thị trường mà thôi, và luật này chỉ hoạt động ở hiện tại, một giao dịch ở một thời điểm nào đó. Nếu xảy ra mâu thuẫn giữa một sự suy xét không mang tính kinh tế, chẳng hạn sự thịnh vượng trong tương lai của một nền văn minh, và lợi ích hiện tại, thì yếu tố sau (tức là lợi ích hiện tại) sẽ luôn được ưu tiên hơn. Vì lẽ đó K. L. Kenrick đã có lần suy tư thế này: “chúng ta không nhận thấy rằng, tư bản chủ nghĩa được chuẩn bị để phá huỷ nhân loại ngõ hầu cứu lấy chính mình.”

b. Giá trị xét dưới khía cạnh vẻ đẹp

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận xét rằng “mối tương giao giữa chúng ta với thiên nhiên có một sức mạnh hồi sinh rất lớn; việc chiêm ngắm vẻ đẹp nguy nga của thiên nhiên mang lại cho chúng ta sự bình an và thanh thản.”[30]Khả năng chiêm ngắm đó truyền một tác động tích cực cho trái đất như một thứ trị liệu, mà chính Chúa Giêsu đã nhìn nhận việc đó.[31] Khi vẻ đẹp thiên nhiên bị biến dạng thì hiệu lực đó bị xóa nhòa, thậm chí quay ngược lại chính vẻ đẹp ấy. “Ngôi nhà trái đất của chúng ta, càng ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ.”[32]“Chúng ta đâu muốn bị chết nghẹt vì xi-măng, dầu đường, các tấm kiếng, kim loại…”[33]

Một trong những cách thức nền tảng mà sức mạnh và vẻ đẹp của công trình sáng tạo được biểu lộ là tính đa dạng của công trình này. Tính đa dạng đó đang ngày càng bị suy giảm đi vì sự lạm dụng thiên nhiên cũng như bóc lột thiên nhiên của con người:

“Mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cái của chúng ta cũng chưa thấy được, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn. Phần đông chúng chết là do hoạt động nào đó của con người. Vì lỗi lầm của chúng ta, mà hàng ngàn giống loài không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa nữa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp nào của chúng. Chúng ta không có quyền làm như thế.”[34]

Lối sống của các quốc gia phát triển trên thế giới đang gầy dựng nên một di sản xấu xí và nghèo nàn cho các thế hệ tương lai. Như thể vẻ đẹp duy nhất mà chúng ta nhận biết là do chúng ta làm ra và sẽ mãi tất thiết là do con người tạo ra:

“Nhìn vào thế giới, chúng ta phải xác nhận, mức độ can thiệp của con người… đã làm cho thế giới chúng ta đang sống bớt phong phú và mất đi vẻ đẹp, luôn bị hạn hẹp lại và xáo trộn… Xem ra, khi chúng ta cố gắng thay thế một vẻ đẹp không thể thay thế được, và không thể bù đắp bằng cái gì do bàn tay con người tạo ra.”[35]

Thái độ như thế là hoàn toàn ngông cuồng, xấc xược và ngu ngơ. Chúng ta phải nhìn nhận giới hạn của mình. Tỷ dụ, chúng ta phải nhận thấy rằng ngay trong những tình cảnh mà chúng ta biết chúng ta hành xử cưỡng bức thì đôi khi việc phục hồi thương tổn đó không nằm trong tầm tay của chúng ta nữa. Chúng ta có thể thay thế vùng đất bị khai phá bằng cách trồng nhiều cây cối, thế nhưng sự màu mỡ mà nó đem đến sẽ không bằng được với ban đầu bởi cây cối mà chúng ta trồng trên đó không giống với những cây chúng ta chặt phá đi.[36]Sự mong manh của vẻ đẹp tự nhiên được làm ví dụ minh hoạ khi mà những giống loài khác biến mất: nó chỉ đi chỉ lại cho chúng ta thấy rằng những vẻ đẹp cụ thể ấy không thể nào thay thế được và vô giá trong ý nghĩa nào đó. Giá trị của chúng không thể đong đếm được.[37]

Trong khi giải quyết hay bàn về vấn đề thiên nhiên, chúng ta luôn phải để tâm đến nguyên lý mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II phát biểu, đó là những hậu quả khôn lường trong các hành xử của chúng ta sẽ luôn luôn lớn hơn những điều chúng ta dự tính được.[38]

c. Giá trị xét dưới khía cạnh chân lý

Thế giới thụ tạo còn có một giá trị sâu xa hơn nữa, ở chỗ là nếu như chúng ta đánh giá đúng được giá trị đó, thì nó có thể và sẽ dẫn chúng ta đến với tri thức về những điều cao hơn nữa. Thụ tạo là một cách diễn đạt chân lý.[39] “Vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người.”[40]“Như thế, có một ý nghĩa nhiệm mầu nào đó được tìm thấy trong một trang giấy, trên một con đường, trong sương mai, trong gương mặt của người nghèo.”[41]Thực vậy, trong một nghĩa thực thụ nào đó thì “mọi sự đều là Chúa.”[42]

Theo Thánh Tôma Aquinô, không nên coi điều đó như một thứ tình cảm mông lung, nhưng là một chân lý tất yếu về tri thức nhân loại. Từ thế giới vật chất, chúng ta có thể được chỉ dẫn đến những chân lý vô hình. Hơn nữa, nó mời gọi chúng ta xem xét mọi khía cạnh về công trình sáng tạo và giá trị biểu tượng của công trình đó: giống như con người và mọi sinh vật, môi trường có những giai điệu thuộc về tự nhiên mà chúng ta không thể ngó lơ đi khi hạ thấp nó;[43]đất đai phải được nghỉ ngơi và không bị lạm dụng cho đến khi cằn cỗi như thể đất đai là một mặt hàng có thể dùng rồi bỏ đi;[44]trái đất, cùng với chính sự sống của nó, ca tụng quyền năng Thiên Chúa,[45] là điều tốt đẹp,[46]và được chính Thiên Chúa yêu mến trong sự quan phòng của Người.[47]

8. Việc tôn trọng công trình sáng tạo không phù hợp với lối sống ngày nay

Lối sống của chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa tiêu thụ, và lợi ích tối đa nằm theo hướng đối nghịch với việc định đúng giá trị về tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái,[48] hoặc là chúng ta bàn về việc xem xét tài nguyên như một nguồn vốn, như sự phong nhiêu mà vẻ đẹp của nó mang lại, hoặc tài nguyên đó minh chứng cho vinh quang Thiên Chúa. Trong những điều đó, hai điều sau (tức sự phong nhiêu và chứng nhân) mang những giá trị không liên quan đến kinh tế cách cụ thể, điều mà lý luận thị trường không thể lý giải được theo bất cứ cách thức nào.[49]Trong thực tế, thật khó để có thể hiểu được vấn nạn môi trường nếu đặt ngoài khung cảnh những lầm lẫn kinh tế hiện thời, chẳng hạn như lợi ích tối đa và tư tưởng tiêu thụ.[50] Nói cụ thể, lý thuyết về tư lợi không có chỗ đứng trong một xã hội tôn trọng môi trường,[51] một xã hội không thể chịu đựng được sự bóc lột mang tính cơ hội mà không quan tâm đến tình trạng hiện thời cũng như tương lai của nhân loại. Lo lắng về thế giới thụ tạo là một bổn phận của chúng ta – một tài sản mà Thiên Chúa ban tặng cho toàn thể nhân loại[52] – và phải được xem xét như hệ quả của nguyên tắc về mục tiêu phổ quát của các tài sản. Lãng phí tài nguyên và làm ô nhiễm đất đai không chỉ là có tội khi hành động vô trách nhiệm mang tính cá nhân, nhưng còn ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền lợi của nhiều người khác nữa:

“Môi trường này được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người. Đối với chúng ta, việc sử dụng môi trường đặt chúng ta trước một trách nhiệm đối với người nghèo, với thế hệ tương lai và toàn thể nhân loại… Những trách nhiệm của chúng ta đối với môi trường liên kết với các trách nhiệm mà chúng ta phải có đối với con người tự tại và trong liên hệ với những kẻ khác. Người ta không thể đòi hỏi một số nghĩa vụ đang khi giẫm đạp lên các thứ nghĩa vụ khác.”[53]

9. Sinh thái nhân bản

Sự song song giữa thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên và điều mà chúng ta biểu lộ đối với chính chúng ta xét như những con người đã được các Giáo hoàng nói đến như một hệ sinh thái nhân bản.

“Việc huỷ hoại thiên nhiên thì… liên quan mật thiết đến nền văn hoá vốn hình thành nên sự chung sống giữa con người: khi ‘sinh thái nhân bản’ được xã hội coi trọng, sinh thái môi trường cũng được hưởng lợi.”[54]

Khi dùng cụm từ trên, các Giáo hoàng có ý muốn minh hoạ rằng, các tiến trình và sự thịnh vượng của loài người sẽ được thúc đẩy nhờ sự tôn trọng những tiến trình và sự thịnh vượng của thiên nhiên. Nếu chúng ta thiếu quan tâm đến cái này thì vô tình chúng ta cũng sẽ khinh miệt cái kia:

“Nếu như có một sự thiếu tôn trọng nào đó đến quyền được sống và quyền có một cái chết tự nhiên, nếu việc thụ thai, mang thai và sinh con của con người đều do nhân tạo, nếu phôi thai của con người bị hy sinh để nghiên cứu, thì đạo đức của xã hội đưa đến việc đánh mất đi khái niệm hệ sinh thái nhân bản và, cùng với điều đó, đánh mất luôn khái niệm hệ sinh thái môi trường. Thật là mâu thuẫn khi khăng khăng cho rằng, các thế hệ tương lai sẽ tôn trọng môi trường tự nhiên khi mà những hệ thống giáo dục và luật pháp của chúng ta lại không giúp gì để chúng tôn trọng chính chúng. Quyển sách thiên nhiên là một và không thể chia tách ra được: trong đó không chỉ là môi trường nhưng còn là sự sống, tính dục, hôn nhân, gia đình, các mối tương quan xã hội: tắt một lời, sự phát triển nhân loại cách trọn vẹn.”[55]

Việc dạy trẻ những quy tắc đạo đức chẳng hạn như kế hoạch hoá gia đình theo tự nhiên, và tiếp theo đó lại cho thấy việc thiếu quan tâm tuyệt đối đến thế giới xung quanh, vốn nói cho biết về các quy tắc đó, là huỷ hoại đi chính bài học bởi đã phân tách kết luận ra khỏi chứng cớ hợp lý của quy tắc đó. Làm sao mà lời khuyên tuân theo luật tự nhiên được nghiêm túc đón nhận khi mà người giảng dạy về các quy tắc lại không bận tâm đến chính thiên nhiên?

10. Kiểm soát dân số không là đáp án

Đối với xã hội không đón nhận đời sống con người thì không thể nào biết tôn trọng các hình thức sống khác trên hành tinh này. Bên này không cần phải hy sinh cho bên kia, nhưng cả hai phải được tôn trọng theo vị thế phù hợp với họ. Những ai đề xuất các giải pháp kiểm soát việc sinh sản hay phá thai như những phương tiện đúng đắn để giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường đều đang chọn con đường dễ dãi và làm giảm giá trị đời sống con người.[56]Giải pháp như vậy chỉ cố gắng khắc phục vấn đề mà không cần kỷ luật và không phải thay đổi quá nhiều lối sống của họ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận đi các nguyên nhân thực sự, vốn nằm ở chỗ khác: “Kết án việc gia tăng dân số mà lại không đụng đến việc tiêu thụ quá mức của một thiểu số người là một cách để tránh né vấn đề.”[57]

11. Thiếu quan tâm đến thiên nhiên sẽ dấn tới một phản ứng ngược lại (hậu quả)

Không phải là họa hiếm khi vẫy tay gạt bỏ đi mọi lời cảnh báo trên, thay vào đó là tin tưởng ở tài khéo của con người, tin rằng con người vẫn tiếp tục thích nghi, phát triển và “chinh phục” bất kể vấn đề nào xảy đến ở tương lai. Niềm tin tưởng tuyệt đối như thế nằm trong ý thức hệ về “sự phát triển tất yếu,” mà chung qui chỉ là niềm tin vào con người và phủ nhận đi những giới hạn. Nhưng Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra một khuyến cáo:

“Thay vì mang lấy vai trò của mình như cộng tác viên với Thiên Chúa trong việc sáng tạo, con người lại đặt chính mình vào vị trí của Thiên Chúa, và vì vậy dẫn đến việc thúc đẩy một sự nổi loạn của thiên nhiên, vốn tàn bạo hơn là khi được con người cai trị.”[58]

Và Đức Bênêđictô XVI đã xác nhận điều này: “Mối tương quan giữa các cá nhân hay các cộng đồng với môi trường, về cơ bản, bắt nguồn từ mối tương quan giữa cá nhân hay cộng đồng với Thiên Chúa. Khi con người quay lưng với kế hoạch của Đấng tạo hoá, con người gây ra một sự rối loạn vốn có những tác động trở ngược không thể tránh khỏi cho trật tự thụ tạo.”[59]

 

 

 


[1] Đức Bênêđictô XVI, Thư gửi Đức Thượng Phụ Constantinople nhân dịp Hội thảo lần thứ bảy về Phong trào Tôn giáo, Khoa học và Môi trường,01/11/ 2007.

[2] GLHTCG, 299.

[3] GLHTCG, 287-307.

[4] Đức Bênêđictô XVI, Thư gửi Đức Thượng Phụ Constantinople nhân dịp Hội thảo lần thứ bảy về Phong trào Tôn giáo, Khoa học và Môi trường,01/11/ 2007.

[5] Sứ điệp gửi ông Tổng Giám Đốc Cơ quan Lương Nông nhân Ngày Thực phẩm Quốc tế, 16/10/2006.

[6] Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình, 01/01/2010.

[7] Ibid.

[8] Tiếp kiến chung, 26/08/2009.

[9] LS, 2.

[10] LS, 3.

[11] LS, 23.

[12] CV, 51; LS, 92.

[13] HTXHCG, 466.

[14] EG, 215.

[15] St 2,15.

[16] LS, 66-67.

[17] Đnl 24,6.

[18] Benedict XVI, Address to the Clergy of the Diocese of Bolzano-Bressanone (6 August 2008).

[19]LS, 19.

[20]LS, 139.

[21]LS, 48.

[22]LS, 25,48.

[23]LS, 52.

[24] LS, 26.

[25] LS, 49, 123.

[26] Ibid.

[27] LS, 54.

[28] EG, 56.

[29] LS, 59.

[30] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình năm 1990, 14.

[31] LS, 97.

[32] LS, 21.

[33] LS, 44.

[34] LS, 33.

[35] LS, 34.

[36] LS, 39.

[37] LS, 36.

[38] VS, 77.

[39] CV, 49.

[40] Rm 1,20.

[41] LS, 233.

[42] St. John of the Cross, Cantico Espiritual, XIV, 5.

[43] SRS, 26.

[44] Lv 25,1-7.

[45] Dn 3,56-82.

[46] St 1,1-31.

[47] Mt 6,25-34.

[48] CV, 51.

[49] CA, 40.

[50] CA, 37.

[51] SRS, 34.

[52] Lv 25,23.

[53] CV, 48, 51.

[54] Đức Bênêđictô XVI, Tiếp kiến chung, 26/08/2009.

[55] CA, 37.

[56] LS, 117; 120.

[57] LS, 50.

[58] Ibid.

[59] Đức Bênêđictô XVI, Thư gửi Đức Thượng Phụ Constantinople nhân dịp Hội thảo lần thứ bảy về Phong trào Tôn giáo, Khoa học và Môi trường,01/11/ 2007.