Giáo Hội Học Từ Sau Công Đồng Vatican II

0
1470


Kim Thao, OP.

 
 
Một trong  những chương thần học được viết lại liền  sau khi công  đồng Vaticano  II bế  mạc là  Giáo-hội-học (=GHH). Thực vậy, xem ra  tất cả những văn kiện của  Vaticano II được soạn ra nhằm  trả lời cho câu  hỏi: Hỡi Giáo hội,  ngươi nói gì về mình,  hướng  nội  và  hướng  ngoại  (Ecclesia, quid dicis de teipsa, ad  intra et ad  extra)? Các bản  văn Công đồng  nhằm trình bày  cho ta thấy  không những là  bản chất nội  tại của Giáo hội (=GH) qua các Hiến chế  về Mạc khải, về Giáo hội, về Phụng vụ, các sắc lệnh  về Giám mục,  linh mục, tu  sĩ, giáo dân; nhưng  còn trình bày các  tương quan đối ngoại, với các Giáo hội  ly khai, với các  tôn giáo, với thế  giới hiện đại, đặc biệt qua hiến chế “Vui mừng  và Hy vọng”. Chúng ta có thể quả  quyết rằng  không có chương nào  trong thần  học có ảnh hưởng trực tiếp  tới hành động của chúng ta cho bằng GHH, vì nó liên can đến tổ  chức, cơ cấu,  cũng như những  hoạt động tông đồ  của chúng ta.  Vì thế mà  không lạ gì  khi thấy việc nghiên cứu, bàn luận về GHH  thường lôi cuốn sự chú ý kể cả của dư luận  thế giới. Chỉ cần nêu một  thí dụ điển hình: vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã thành “tít” của không biết bao bản tin nhật báo và đài truyền thanh  truyền hình. Trong bài hôm nay, chúng tôi chỉ nêu lên vài vấn đề nổi bật về bản chất và tổ chức nội bộ của Giáo hội(=GH).

Phải  thú nhận  rằng bản  chất của  GH trước  sau vẫn là một, nhưng những cách diễn tả thì  bị chi phối với tâm trạng, kinh nghiệm của thời  gian và không gian. Trải  qua giòng lịch sử, kể  cả trong  thời đại  chúng ta  đang sống,  không thiếu lần chúng ta mang áp dụng vào GH  những hình ảnh của xã hội chính trị đương thời; tỉ như tại những nơi đã quen với nếp sống dân chủ, thì người ta cũng muốn rằng các phần tử của GH cũng được tham gia  vào các công việc  chung nhiều hơn qua  các cơ quan bàn luận và  sự bầu cử. Sự so  sánh giữa các thể chế  giữa bộ giáo luật 1917  và 1983 cho thấy rõ điều  đó. Có thể nói rằng thể  chế của  GH đã  thay đổi  từ quân  chủ sang  dân chủ hay không? Thực ra,  đó không phải là mối bận  tâm chính của công đồng Vaticano II. Trước khi bàn về việc canh tân các thể chế, công  đồng muốn  tìm hiểu  chính bản  chất của  mình, dựa vào Thánh kinh và Thánh Truyền. Việc suy niệm ấy đã đưa lại những kết luận mà  chúng ta đọc thấy trong Hiến  chế “Ánh sáng muôn dân”. Công đồng đã vượt lên bộ  mặt xã hội và pháp lý của GH, được nhấn  mạnh trong các  sách hộ giáo,  để đi lên  tới khởi điểm của GH từ Mầu nhiệm cứu độ, từ chương trình của Chúa Cha muốn thông  ban ơn cứu  độ cho nhân  loại qua đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Kế đó, khi bàn  về cấu tạo của GH, công đồng đặt chương về Dân Thiên Chúa  trước chương về hàng phẩm trật, nhằm nêu bật  rằng cộng đồng các tín hữu  (trong đó mọi người đều bình đẳng với nhau trong ơn  gọi và sứ mạng), đi trước sự phân chia  các chức vụ. Trong  nhãn giới ấy, các  tác vụ được đặt lên nhằm phục vụ cho toàn thể các tín hữu, chứ không nhằm để thống  trị. Một điểm son  khác của Vaticano II  là vạch ra chiều kích Giáo  hội của rất nhiều thực thể  thần học, từ các bí tích cho đến đức Maria, từ đời sống tận hiến của các tu sĩ cho đến  ơn gọi nên thánh.  Ngoài ra, như đã  nói ở đầu, công đồng không dừng  lại ở các tương quan nội  bộ của Giáo hội mà thôi, nhưng còn mở tầm mắt  đến các Giáo hội ngoài Kitô giáo,  các tôn giáo  khác, các nền văn hóa của  nhân loại, với những ưu tư  và băn khoăn của  con người thời đại.  Không ai có thể chối cãi là  công đồng Vaticano II đã đánh  dấu một bước tiến lớn trong lịch  sử GHH. Tuy nhiên đó chưa  phải là đích điểm. Một đàng công đồng còn để nhiều  vấn đề bỏ ngỏ, đàng khác một số quan  điểm GHH của  Vaticano II đã  bị chỉ trích  là thiếu sót. Những thiếu  sót ấy đã được bù đắp  với những GHH từ các lục địa khác mang tới.
 
I. NHỮNG VẤN ĐỀ BỎ NGỎ
 
Công đồng không phải là một Đại học thần học, và vì vậy không muốn đi sâu  vào những vấn đề còn tranh  luận. Tựa như là mối tương quan giữa Thượng quyền (Primatus) của Đức Giám mục Rôma với tập đoàn (collegium) Giám mục; sự liên hệ giữa chức tư tế phổ quát của các tín hữu với chức tư tế thừa tác của các giáo sĩ.

Vấn đề tương quan giữa Đức Thánh Cha với Cộng đoàn Giám mục không  phải chỉ là một  vấn đề tương quan  giữa những chủ thể của quyền bính tối cao trong  GH, nhưng là tương quan giữa  các Giáo hội địa phương với  Giáo hội phổ quát.

Trong quá khứ, GHH bàn về GH phổ quát nhiều hơn, hay nói đúng hơn  GH được  quan niệm  như một  cộng đồng  của các  tín hữu (communio fidelium) dưới sự dìu dắt  của một thủ lãnh; vì thế mà không lạ gì vai trò  tối thượng của ĐTC  được đề cao.

Sau công đồng, thần học về các Giáo hội địa phương được khai triển hơn, và  từ đó GH phổ  quát được quan niệm  như sự thông hiệp giữa các  GH địa phương (communio  ecclesiarum). Vì vậy ngoài vấn đề tương  quan giữa Đức Thánh Cha với  tập đoàn Giám mục, lại còn vấn  đề dung hợp giữa tính cách  duy nhất của đức tin với tính cách đa diện của các GH nhập thể vào các nền văn hóa khác nhau.

Thêm  vào đó phải kể tới vấn  đề đại kết: việc hợp nhất đại kết không có nghĩa là  tất cả các Kitô hữu cùng phục tùng Đức Giáo hoàng, nhưng là các  GH ly khai sẽ tiến tới chỗ thông hiệp trọn vẹn với GH công giáo, tuy vẫn giữ những sắc thái truyền  thống của mình.  Đó là lý  tưởng; trên thực  tế, phải xét tới những gì cần phải  thống nhất và những gì có thể chấp nhận  đa diện.

Dù sao  chúng ta phải ghi  nhận bước tiến của Vaticano II khi nhìn nhận  rằng GH của Chúa Kitô rộng lớn hơn Giáo hội công giáo. Các bản  dự thảo Hiến chế về Giáo hội đã đồng hóa GH công giáo với GH do Chúa Kitô thiết lập. Nhưng qua  những cuộc  bàn cãi,  công đồng  đã thay tiếng “est” bằng tiếng  “subsistit”, nhằm nói  lên rằng GH  công giáo thực sự chứa đựng cách sung mãn những đặc tính mà đức Kitô đã muốn cho GH của Ngài; tuy nhiên các đặc tính ấy cũng hiện hữu ít nhiều  trong các Giáo  hội khác. Thực  ra, khó có  thể xác định biên  cương của GH:  thần học về  các tôn giáo  sau công đồng, lục  lại đạo lý của  các giáo phụ, đã  thấy đôi khi các ngài quan  niệm GH còn bao  trùm hết tất cả  những người công chính từ Abel (Ecclesia ab Abel) cho đến người cuối cùng được cứu rỗi.  Vì vậy thay vì  nói rằng “ngoài GH  không có ơn cứu rỗi” (Extra Ecclesiam nulla salus), ta có đổi ngược: “hết tất cả những ai được cứu rỗi đều  trở nên phần tử của Hội thánh”.

– Một khía cạnh khác còn để bỏ ngỏ là tác động của Chúa Thánh Thần và  các đặc sủng trong  Giáo hội. Chúa Thánh Thần không những làm cho Giáo hội sinh động nhất các đặc sủng, nhưng còn qua những chứng nhân, những  thánh nhân. Ngài cũng còn hiện diện và tác động trong các Giáo hội ngoài công giáo, các tôn giáo, các nền  văn hóa khác. Chiều kích  Thánh Linh chắc chắn sẽ giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về GHH.
 
Khi nhìn lại  GHH từ công đồng Vaticano II  đến nay, chúng ta thấy một hình ảnh mới chỉ manh nha trong công đồng nhưng càng ngày càng phát triển, đó là  sự “thông hiệp” (communio).

Hình ảnh Dân Thiên Chúa (hay gọi tắt là Dân Chúa) có lợi điểm là nêu  bật sự liên hệ  giữa GH (Dân Chúa  trong Tân ước) với Dân Chúa trong Cựu ước, cả  hai đều bắt nguồn từ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng khuyết điểm của nó là dễ bị lái theo nghĩa  xã hội chính trị,  với sự xuất hiện  của Giáo hội nhân  dân. Còn  hình ảnh  thông hiệp  (communio) không  những trình bày Giáo hội như  một cộng đồng (communitas), nhưng còn móc nối  với sự thông hiệp  xuất phát từ Ba  Ngôi Thiên Chúa. Nói khác  đi, nó vừa có  chiều kích xã hội  vừa có chiều kích thiêng liêng nữa: GH làm nên  bởi nhiều phần tử, nhưng họ họp nhau lại  thành một cộng  đồng vì cùng  thông hiệp, nghĩa  là cùng chia  sẻ một niềm  tin, cậy, mến,  dựa trên Lời  Chúa và Thánh Thể, cũng  như họa theo sự thông hiệp  yêu mến liên kết Ba Ngôi  Thiên Chúa nên  một, tuy không  xóa bỏ những  nét cá biệt của  mỗi Ngôi vị. 

Giáo hội cũng được nhìn trong tương quan của Ba Ngôi: không những từ những quan niệm “Dân Thiên Chúa” (Ngôi Cha), “nhiệm thể Đức Kitô” (Ngôi Hai), “Đền Thờ của Thánh Thần” (Ngôi Ba), nhưng nhất là mầu nhiệm thông hiệp nơi Ba Ngôi phải là khuôn mẫu của sự thông hiệp trong Giáo hội. Nơi Thiên Chúa, sự duy nhất về bản tính được kết hợp với sự đa diện của Ba Ngôi vị; trong Giáo hội cũng vậy, sự duy nhất về đức tin, cậy, mến không bóp nghẹt  sự đa diện về chức phận, ngôn ngữ, văn hoá.

Cha Yves Congar có lần đã nêu ra nhận xét như sau:

Một Giáo hội lấy khuôn mẫu từ Nhiệm Thể Đức Kitô cũng đưa đến kết quả tương tư, nghĩa là hàng phẩm trật giữ vai trò lãnh đạo thay mặt Đức Kitô, còn các giáo dân chỉ biết tuân phục như những chi thể.

Một giáo hội lấy khuôn mẫu từ Thánh Linh thì sẽ tràn đầy sinh lực sống, vì nhận được bao linh ân, song lại có nguy cơ trở thành hỗn độn.

Vì vậy muốn có quân bình, Giáo hội học phải lấy khuôn mẫu tự sự thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa, tuy có thứ tự nhưng không phải là cấp bậc quân giai: có sức sống nhưng không phải là xô bồ hỗn tạp.

Ngoài ý niệm  thương yêu, (ý  hợp tâm đồng), sự  thông hiệp còn  nêu bật sự  tham gia đóng  góp vào việc  chung  nữa:  theo  cha  Congar,  căn  nguyên  của tiếng “communio” bởi “cum” (cùng) và “munus” (chức phận), cùng gánh vác trọng trách.

II. NHỮNG ĐIỂM CẦN BỔ KHUYẾT

Tuy rằng chưa  bao giấ có một số đông  nghị phụ ngoài ấu châu về Rôma họp  công đồng như là Vaticano II,  nhưng các bản văn soạn thảo  là do các nhà  thần học ấu châu  viết ra trong bối cảnh của những  vấn đề sôi bỏng của Tây  phương. Phải chấ đến các phiên nhóm Thượng hội đồng  Giám mục sau đó, hoặc các Hội nghị các Giám mục của Mỹ  châu Latinh, Á châu, mới thấy tiếng nói của Thế giới thứ ba.

Một điểm mà công đồng Vaticano II bị chỉ trích là  hình ảnh của thế giới trình  bày trong hiến chế “Vui mừng và  Hy vọng” phản ánh cái xã  hội kỹ nghệ khoa học, với nền kinh  tế phát triển thuộc về văn  hóa Tây phương, chứ không để ý  đến thực trạng nghèo đói, bị  bóc lột của các thế giới thứ  ba.

Đối lại, các  nước này muốn trình  bày một Giáo hội phục vụ người nghèo, cùng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời.

Tại Mỹ  châu latinh, sự  nảy sinh các  cộng đoàn cơ  bản chắc chắn đã đóng góp một phần lớn  cho GHH. GH trở nên dấu chỉ và dụng cụ của ơn cứu rỗi khi chia sẻ kiếp sống của người nghèo, mang lại Tin  mưng giải phóng cho họ, giúp  họ ý thức giá trị nhân phẩm của mình. GH tiên vàn không phải là một cơ chế hành chánh, nhưng  là gồm nên bởi  những tín hữu cùng  chia sẻ với  nhau Lời  Chúa và Thánh Thể,  và đồng lòng mang  Tin mừng vào đời  sống thường  nhật của  họ, tham  gia vào  công cuộc giải phóng con người khỏi những cảnh nô lệ bất công.

Tại Á châu,  chúng ta có thể nêu lên  những đóng góp sau đây: GH như một đại gia đình. Đối với nền văn hóa Đông phương, đặc biệt là những nơi chịu ảnh  hưởng Khổng giáo, hình ảnh của GH như một gia đình rất là hấp dẫn: Thiên Chúa đã chẳng mạc khải như là Cha của chúng ta đó saoấ đức Kitô không phải là anh cả của gia đình  nhân loại đó saoấ Tuy nhiên,  xét lại cách thức tổ chức và  sinh hoạt của GH tại Á  châu trong quá khứ, người ta nhận thấy Giáo  hội thường tỏ ra bộ mặt của  các cơ sở bác ái, giáo dục, nếu chưa nói là quyền hành. Vì vậy mà vào nhiều cơ hội khác nhau, các Hội nghị  các Giám mục Á châu nhấn mạnh đến sự cần thiết phải biến đổi  GH thành một cộng đồng đi vào con đường từ  bỏ (kenosis) của đức Kitô để  phục vụ; một cộng đoàn cầu nguyện (ashram), một danh từ  tu đức Ấn độ để ám chỉ cộng đồng  các tu sĩ khác  khổ, cầu nguyện, suy  tư, đàm đạo, đối thoại, chứng  tá. Và như đã nói, GHH  tại Á châu còn phải đi sâu hơn vào con đường đối thoại với văn hóa và tôn giáo cổ truyền.

Tại Phi  châu, các Giám  mục đã ghi  việc thành lập  các cộng đoàn cơ bản vào chương trình mục vụ. Các cộng đoàn ấy đáp ứng lại tâm thức của người địa phương đã quen sinh hoạt cộng đồng gia đình,  làng xã, bộ  tộc. Cũng trong  các cộng đồng  ấy mà thần học về các tác vụ được đào sâu thêm.

——————————–
Tài liệu:

1. J.M CASTILLO, La teologia despues del Va-ti-ca-no II, cristiandad, Madrid 1985.
2. G. COLOMBO. La Teologia del secolo XX, Las Roma 1989.
3. MARIO MIDALI, Teologia pastorale o pratica. Las Roma 1991