GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU
Chuyển dịch: Ngô Minh
***
***
9. Luận đề 13
Qua những nét khác biệt về mặt văn hóa, các Giáo Hội Địa Phương phản ánh công giáo tính (hoặc đặc tính phổ quát) của Hội Thánh duy nhất Thiên Chúa đã thiết lập; bởi vì, chính nhờ hành động chu toàn sứ mạng của mình ở giữa cũng như đối với những xã hội và những nền văn hóa khác biệt nhau trong môi trường sống của mình, mà Hội Thánh hiện thực hóa được bản chất của mình
13.01 Đặc tính phổ quát hoặc công giáo của Hội Thánh thì hàm ngụ nhiều điều hơn là đơn thuần sự kiện Hội Thánh triển dương rộng lớn về mặt địa dư. Hiến chế về Hội Thánh nói rằng:
“Đặc tính phổ quát này, sáng chói nơi dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Chúa ban, nhờ đó Hội Thánh Công Giáo không ngừng ra sức tìm những phương cách hữu hiệu để quy tập toàn thể nhân loại, cùng những gì tốt lành nơi họ, về dưới một Thủ lãnh là Đức Kitô, vào trong niềm hiệp nhất với Thần Khí của Ngài. Nhờ đặc tính công giáo ấy, mỗi phần tử mang những ân huệ riêng của mình đến cho các phần tử khác và cho toàn thể Hội Thánh; nhờ đó, toàn thể và mỗi phần tử tăng triển nhờ hiệp thông với nhau và nhờ cùng nhau nỗ lực để tiến đến tình trạng viên mãn trong hiệp nhất” (GH 13).
Đặc tính công giáo chính là “tình trạng viên mãn trong hiệp nhất” ấy.
3.02 Vừa đây, trong dịp kính mừng công trình của hai thánh Xyrilô và Mêthôđiô là những vị đã từng nêu gương nổi bật giữa các gương mẫu xuất chúng nhất trong lịch sử Hội Thánh, của lòng hăng say sống cũng như quảng bá ý niệm phong phú và cụ thể ấy về công giáo tính, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển đoạn viết trên đây của Công đồng, như sau:
“Hội Thánh là công giáo vì cả lý do này nữa: là vì Hội Thánh có khả năng trình bày chân lý mạc khải, được chính Hội Thánh gìn giữ cho toàn vẹn đúng như nội dung Thiên Chúa đã truyền ban, trong mọi bối cảnh sống giữa loài người, với một cách thức làm sao để mang chân lý ấy đến gặp gỡ với những tư tưởng cao thượng và những nguyện vọng chính đáng của mỗi cá nhân cũng như của mỗi dân tộc. Hơn nữa, toàn bộ di sản của những gì là tốt đẹp mà mỗi thế hệ truyền lưu lại cho hậu thế, cùng với món quà vô giá của sự sống: tất cả những điều ấy làm nên như là một bộ tập hợp vĩ đại và muôn màu sắc của vô số những mảnh cùng ghép lại thành bức tranh thể khảm sống động của Đấng Toàn Năng, là Đấng sẽ hiển linh trong huy hoàng sáng chói tột bực lúc Quang lâm.
“Tin Mừng không làm cho ra nghèo nàn hoặc là dập tắt hút đi những gì mà qua dòng lịch sử của mình, mỗi quốc gia dân tộc cá thể và mỗi nền văn hóa cá biệt đã chấp nhận và giữ gìn lại ở trong đời sống, coi đó là những giá trị của chân-thiện-mỹ. Ngược lại, Tin Mừng ra sức thu nhận và phát huy tất cả các giá trị ấy, mở rộng lòng mà hân hoan ứng dụng chúng vào trong cuộc sống, và làm cho chúng nên hoàn hảo nhờ bởi ánh sáng nhiệm mầu cao quý của mạc khải.
“Chiều kích cụ thể của công giáo tính, mà Đức Kitô đã ghi khảm vào tận trong chính bản chất của Hội Thánh, không phải là một điều gì tĩnh, nằm chết một chỗ ở ngoài lề lịch sử, độc điệu tẻ nhạt. Theo một ý nghĩa nào đó, thì cần phải hiểu rằng đặc tính công giáo hằng tuôn trào ra và tăng triển lên mỗi ngày tựa như một cái gì mới phát nguồn từ niềm tin đồng tâm nhất trí của hết thảy những ai tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mà Đức Giêsu Kitô đã mặc khải và Hội Thánh hằng tuyên giảng, nhờ quyền năng của Thần Khí. Chiều kích ấy xuất phát một cách tự khởi từ tâm tình ngưỡng mộ tôn trọng — là tâm tình đặc trưng của tình thương huynh đệ — giữa mọi dân nước đối với nhau, nước lớn cũng như nước nhỏ, cũng như từ thái độ thành thực nhìn nhận đặc tính và quyền lợi của hết mọi anh chị em trong đức tin” (Slavorum apostoli, 18).
13.03 Các nguyên lý kiến tạo nên công-giáo-tính toàn vẹn cũng đồng thời là những nguyên lý kytô học, thần khí học và cả nhân chủng học nữa. Công trình của Đức Kitô không phải chỉ có giới hạn ở nơi việc hòa giải các tội nhân với Thiên Chúa mà thôi, nhưng trên nguyên tắc, còn hòa giải trọn cả nhân loại bị tha hóa nữa. “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình, nhờ máu Người đổ ra trên thập giá đem lại bình an…” (Cl 1,19-20). “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên những người ở gần, nhờ máu Đức Kitô đổ ra.
Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm có những điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho hai bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người cả đôi bên chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,13-18). Vì thế, trong Đức Kitô “không còn phân biệt Hy lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ hay tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11). Công giáo tính của Hội Thánh là phương thế để nhờ đó Hội Thánh trở thành “thân thể” của Đức Kitô, “sự viên mãn của Đấng làm cho tất cả được sung mãn mọi bề” (Ep 1,23).
13.04 Ngày Hiện xuống, Phêrô công khai xác nhận là lời Thiên Chúa hứa đã thực sự ứng nghiệm: “Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên mọi người phàm” (Cv 2,17). Luca cũng miêu tả một hiện tượng được cầm như là một cuộc Hiện xuống thứ hai, khi kể lại rằng: “các tín hữu thuộc giới cắt bì đã cùng đi với Phêrô đến đó, đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thần Khí xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này cũng nói tiếng lạ và tán dương Thiên Chúa” (Cv 10,45-46). Và nếu bây giờ “Thần Khí Chúa chan hòa càn khôn” (Kn 1,7), thì không thể coi là bất chính việc nhận ra được hoạt động của Thần Khí mở đường cho công cuộc loan Tin Mừng giữa những người đã từng nghe Phaolô thuyết giảng tại Athen, để kêu mời họ đi “kiếm tìm Thiên Chúa, may ra dò dẫm mà họ tìm thấy được Người, tuy rằng thực ra Người cũng chẳng ở cách xa bất cứ một ai trong chúng ta” (Cv 17,27).
Vaticanô II nhận định rằng: “Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người, và vì thực ra, mọi người đều được kêu gọi để đi về cùng một tiêu đích tối hậu duy nhất, trong Thiên Chúa, cho nên, ta phải cầm chắc rằng Thần Khí hằng ban cho mọi người có cơ hội thông dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, trong cách thức mà chỉ có Chúa mới biết” (MV 22). Đức Gioan Phaolô II dựa theo nhận định trên đây của Công đồng mà xây dựng giáo thuyết của ngài về sự việc Thần Khí hiện đang hoạt động ở trong thế giới, ở trong các cá nhân, ở trong hết thảy những ai nhờ Người tác động mà biết “phụng tự Thiên Chúa bằng tinh thần và bằng sự thật, trong những ai đang hoạt động để hiệp nhất toàn thể nhân loại nên một; và như vậy, Hội Thánh cũng là bí tích, là dấu chỉ và là khí cụ qua đó, Thần Khí của sự sống hiện diện và hoạt động”, tại bất cứ nơi nào Hội Thánh đang sinh hoạt (Dominum et vivificantem , 53-54,64).
13.05 Xét theo quan điểm nhân chủng học, thì công giáo tính có nền tảng ở trong công trình tạo dựng vạn vật; nhìn công trình ấy, Thiên Chúa đã thấy là những tạo vật muôn màu muôn vẻ mà Ngài đã dựng nên trong sáu ngày thì đều “rất tốt lành” (St 1,30). Thiên Chúa ra lệnh cho người nam và người nữ là “hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và hãy thống trị mặt đất” (St 1,28). Kết quả tiếp theo mệnh lệnh ấy là vô số những công cuộc vĩ đại do xã hội và văn hóa loài người làm ra, mang muôn hình thái và màu sắc rực rỡ.
Theo Công đồng thì những thành quả kia của trí khôn và tự do, của thiên tài và cố gắng loài người, chẳng những không làm cho con người trở thành “đối thủ cạnh tranh với Đấng Tạo Hóa, nhưng ngược lại, các thắng lợi của loài người là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa cao cả, và là thành quả phát nguyên từ ý định khôn lường của Người” (MV 34). Nếu các thành tựu của loài người cần phải được tinh luyện và chữa lành cho khỏi mọi tỳ vết tội lỗi và khiếm khuyết, thì không phải vì thế mà một thiên năng cảm nhận đích thực công giáo lại không nhận ra ngay được là ở trong “hoa quả ruộng đất và lao công của con người” như thế, có những yếu tố không phải là để hủy bỏ, nhưng là để được nâng lên tới mức viên mãn siêu việt, khi chúng được thu nhận vào trong mầu nhiệm của Đức Kitô …, Và “hễ càng biết tôn trọng những đặc nét của các nền văn hóa khác nhau bao nhiêu, thì càng có sức để cổ xúy và biểu thị hữu hiệu mối hiệp nhất trong nhân loại hơn bấy nhiêu” (MV 54).
Chống lại mọi thành kiến trái nghịch khác, Công đồng đã khẳng định rằng Hội Thánh không bao giờ “bị ràng buộc một cách chuyên nhất và bất khả phân ly với bất cứ một chủng tộc hay một quốc gia nào, với bất cứ một lối sống đặc thù hoặc một tập tục cũ hay mới nào” (MV 58). Trong chiều hướng đó, Đức Gioan Phaolô II đã phát biểu thêm rằng: “Mọi cá nhân, mọi dân nước, mọi nền văn hóa hay văn minh, đều đóng một vai trò và có một chỗ đứng ở trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, và ở trong lịch sử cứu độ phổ quát” (Slavorum apostoli , 29).
13.06 Vì các lý lẽ nêu trên đây, những khác biệt dị đồng và những sắc thái đa dạng trong Hội Thánh không phải là những gì làm cản trở hoặc gây đe dọa cho sự hiệp nhất, nhưng là những nhân tố cốt yếu của điều mà Đức đương kim Giáo Hoàng gọi là “chiều kích cụ thể của công-giáo-tính”, và đã miêu tả với những hình ảnh đầy thi vị, “như là một bản đại hòa tấu được dệt thành do nhiều hình thức phụng vụ khác nhau với đủ mọi thứ tiếng nói trên thế giới cùng hợp lại trong một quy điển phụng vụ duy nhất, hoặc như là một ca đoàn du dương cất lên tiếng hát uyển chuyển của vô số quần chúng nhân gian từ mọi nơi trên quả đất và trong mọi thời đại lịch sử, hân hoan gióng cao muôn khúc ca nhịp nhàng trầm bổng để ca tụng tán dương Thiên Chúa” (Slavorum apostoli , 17).
13.07 Công đồng đã đưa ra nhiều cách phác họa ý nghĩa được phục hồi của công giáo tính. Thí dụ: miêu tả công giáo tính như là công cuộc của “Chúa Quan Phòng đã muốn các Giáo Hội khác nhau, do các tông đồ và những đấng kế vị thành lập tại nhiều nơi khác nhau theo dòng thời gian, tụ họp lại thành nhiều nhóm liên kết với nhau như trong cùng một hệ thống. Các nhóm này có kỷ luật và phụng vụ riêng, thừa hưởng di sản thần học cùng thiêng liêng riêng mà vẫn không phương hại đến sự hiệp nhất đức tin và bản chất duy nhất cũng như thần linh của Hội Thánh phổ quát”. Rồi bằng một câu tuyệt diệu, Công đồng đã đề cập đến các bước phát triển theo đường hướng ấy: “Cùng sát cánh hướng về với hiệp nhất, nên càng có những nét khác biệt nhau như thế, thì các Giáo Hội Địa Phương càng minh chứng rõ ràng đặc tính công giáo của một Hội Thánh không phân rẽ” (GH 23). Sau đó, trong Sắc lệnh về các Giáo Hội đông phương, Công đồng đã nhắc lại niềm xác tín ấy, nói rằng:
“Các Giáo Hội này hiệp thông với nhau một cách lạ lùng đến nỗi những sắc thái khác biệt trong Hội Thánh không những không phương hại đến hiệp nhất mà còn làm cho hiệp nhất tỏ rạng thêm. Thật ra, Hội Thánh Công giáo hằng muốn bảo toàn hết các truyền thống của từng Giáo Hội hay các lễ chế riêng biệt, và đồng thời cũng hằng muốn thích nghi nếp sống của mình với các nhu cầu khác nhau tùy theo thời gian và nơi chốn” (ĐP2)
Công đồng còn nhắc lại như sau về một điểm đã được đề cập đến ở trong Sắc lệnh về Hiệp Nhất:
“Ngay từ buổi đầu, các Giáo Hội Đông phương đã theo những quy luật riêng được các thánh Giáo Phụ, các Công đồng địa phương và cả các Công đồng chung phê chuẩn. Vì các khác biệt về phong tục và tập quán đã nhắc tới trên kia, chẳng những không mảy may cản trở sự hiệp nhất, mà còn tăng thêm vẻ đẹp của Hội Thánh và góp phần không nhỏ vào việc chu toàn sứ mệnh của Hội Thánh nữa; thế nên, để đánh tan mọi nghi ngờ, Thánh Công đồng tuyên bố là: các Giáo Hội Đông phương có quyền tự trị theo các kỷ luật riêng, miễn là biết ý thức rõ về mối hiệp nhất thiết yếu của toàn thể Hội Thánh, vì các quy luật riêng này phù hợp với bản chất của tín hữu họ hơn và có đủ điều kiện hơn để mưu ích cho các linh hồn. Tuân thủ cho trọn nguyên tắc truyền thống này, – mà thực ra, không phải bao giờ cũng được tôn trọng, – là đã ứng đáp được một trong những điều kiện tiên quyết để tái lập hiệp nhất” (HN 16).
13.08 Truyền thống đáng kính này về đặc tính công giáo với muôn vàn sắc thái khác biệt nhau trong cùng một Hội Thánh duy nhất, cũng đã khơi hứng cho Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo. Văn kiện này có thể được mệnh danh là sách giáo khoa để thực hiện công tác “công giáo hóa” Hội Thánh một cách cụ thể. Sắc lệnh khuyến dụ các tín hữu hãy quan tâm làm sao để tránh cho Hội Thánh khỏi phải bị coi là một nhân tố xa lạ tại trong các nền văn hóa và các xã hội của họ (xem GH 31).
Đảm nhận phận vụ này là các kitô hữu sẽ làm cho mầu nhiệm công giáo của Đức Kitô nên trọn:
“Đâm chồi nẩy lộc từ trong lòng đất mầu mỡ đượm nhuần sương thiêng, hạt giống, tức là Lời Chúa, hấp thu, biến đổi và tiêu hóa mầu mỡ ấy, để sau cùng mang lại những hoa trái dồi dào. Thật vậy, cũng hệt như trong chương trình Nhập Thể, các Giáo Hội trẻ, một khi đã được đâm rễ vào trong Đức Kitô và đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ, thì có được sức năng kỳ diệu để hấp thu tất cả những gì là phong phú nơi các dân nước đã từng được trao cho Đức Kitô làm gia nghiệp (xem Cv 2,8). Các Giáo Hội ấy sẽ biết rút ra từ những tập quán và truyền thống, từ lẽ khôn ngoan và nền văn hóa, từ những nghệ thuật và khoa học của các dân tộc mình, tất cả những gì có thể góp phần vào việc ca ngợi vinh quang của Đấng Tạo Hóa, làm tỏ rạng ân sủng của Đấng Cứu Thế, cũng như vào việc tổ chức đời sống kitô cho tốt đẹp” (TG 22).
13.09 Như vậy, không có gì là nghịch lý khi đưa ra nhận định nói rằng việc quan tâm trở lại kể từ thời Công đồng, đối với thần học về Giáo Hội Địa Phương, cho thấy là Vaticanô II đã thực sự phục hồi ý nghĩa của đặc tính công giáo, coi nó như là “tình trạng viên mãn trong hiệp nhất”. Vì đặc tính công giáo và sắc thái địa phương không đối nghịch lẫn nhau. Sắc thái địa phương chính đáng — nghĩa là sự việc đâm rễ vào trong những thực tại khác biệt phong phú của những gì là con người với muôn hình thái đa dạng — là cuộc hiện thực hóa, là mức thành toàn của đặc tính công giáo cụ thể. Hội Thánh duy nhất chỉ đích thực và cụ thể là công giáo ở trong và nhờ bởi thực trạng đa dạng của đông đảo các Giáo Hội Địa Phương khác nhau; và các Giáo Hội Địa Phương thì chỉ đích thực là công giáo ở trong niềm viên mãn của cùng một mối hiệp thông duy nhất.
13.10 Thế nên, phân cách Hội Thánh phổ quát và các Giáo Hội Địa Phương ra làm hai phía, và coi đó như là những thực thể đối chọi nhau, là một việc làm hết sức nhầm lẫn. Hội Thánh phổ quát chỉ có thể hiện hữu sinh tồn ở trong và từ bởi các Giáo Hội Địa Phương mà thôi, và các cộng đồng địa phương sẽ không phải là những Giáo Hội, nếu không phải là công giáo. Nơi nào có sự việc đối chọi giữa hai thực thể ấy, thì nơi đó hẳn đang có một ngộ nhận xảy ra.
Ngộ nhận cũng xảy ra những khi đặc tính phổ quát được quan niệm không phải như là công-giáo-tính cụ thể, song như là một thứ liên minh, một chính sách đồng hóa về mặt hành chánh, cơ cấu tổ chức hay chính trị; hoặc những khi tính chất địa phương được quan niệm một cách ẹp hòi, nhuốm mùi vị chủng, như là một cái gì chỉ thu gọn ở trong một dân nước, một chủng tộc. Điều chủ chốt ở đây là cần phải tìm lại cho được ý nghĩa cụ thể của tính chất công giáo: không giống với tính chất hoàn vũ hay phổ quát, tính chất công giáo không đối ngược lại với tính chất cá biệt; nhưng ngược lại, nó duy trì, nâng cao và hòa nhập những gì là cá biệt vào trong một mối hiệp nhất lớn rộng và đầy đủ hơn, quanh một tâm điểm chung là Chúa Kitô.
10. Luận đề 14
Từ tận trong tâm can của mình, các Giáo Hội Địa Phương mang bản chất công giáo; điều đó có nghĩa là các cộng đoàn này chỉ thực sự là những Giáo Hội khi họ được cấu thành bởi sự kiện thông dự vào trong mầu nhiệm Đức Kitô, là Đầu của toàn thể Hội Thánh. Như vậy, trong Đức Kitô cùng Thần Khí của Người, và nhờ những mối quan hệ của hiệp thông phổ quát, về mặt thiêng liêng cũng như luật pháp, các cộng đoàn ấy được liên kết với tất cả các Giáo Hội Địa Phương khác, để cùng nhau hợp quần trong một Hội Thánh duy nhất phổ quát.
14.01 Một cộng đoàn địa phương sống đức tin, thì dự phần vào trong niềm viên mãn của Đức Kitô và Thần Khí Người. Vương quyền của Đức Kitô và quyền năng của Thần Khí vượt lên trên mọi tính cách riêng biệt và hòa nhập tất cả chúng vào trong cùng một niềm viên mãn của hiệp nhất. Vì thế, hết thảy mọi Giáo Hội cũng chỉ là một Hội Thánh duy nhất, bởi vì có thể nói lại với mọi Giáo Hội những gì Phaolô đã từng nói với cộng đoàn Ephêxô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã nhận được ơn kêu gọi để chia sẻ cùng một niền hy vọng. Chỉ có một Đức Chúa, một niềm tin, một phép rửa, chỉ có một Thiên Chúa, là Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, giữa mọi người, và trong mọi người” (Ep 4,4-6). Và chính nhờ vào nền tảng của ơn hiệp nhất ấy, mà tín hữu Ephêxô gắn bó với bổn phận tuân theo lời chỉ bảo của tông đồ dạy rằng: “Hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (câu 3).
Mối giây gắn bó một Giáo Hội Địa Phương lại thành một Thân Thể trong cùng một Thần Khí, cũng chính là mối giây gắn bó Giáo Hội ấy với các Giáo Hội Địa Phương khác, tức là với chính Hội Thánh Công giáo duy nhất. Thế nên, tính chất công giáo không phải chỉ là một danh xưng để chỉ một thuộc tính ngoại tại và thứ yếu của Giáo Hội Địa Phương, nhưng thực sự là cấu tố làm cho bản chất của Giáo Hội ấy nên toàn vẹn, như là Thân Thể của Đức Kitô.
14.02 Nếu đã có mối nguy nhầm lẫn công-giáo-tính với một hình thức phổ quát độc điệu nào đó, thì cũng có mối nguy bóp méo biến dạng công-giáo-tính trở thành một thái độ duy cá biệt mang nặng khuynh hướng phân rẽ, đưa đến chỗ phản bội sự duy nhất của niềm viên mãn công giáo. Mối nguy phân rẽ này, Tân Ước cũng đã vén mở cho thấy ở trong các Giáo Hội Địa Phương đầu tiên. Tông đồ Phaolô đã phải đối phó với những mối chia rẽ ở trong các Giáo Hội tại các nơi như Corintô, Galata, và Ephêxô. Tại thành Ephêxô này, có thể những lời kêu gọi hợp nhất mà Phúc Âm thứ tư tha thiết gióng lên, cũng chỉ là để ứng đối với một tình thế đang bị nguy cơ ly khai đe dọa. Trong hầu hết mọi thời đại của lịch sử Hội Thánh, cũng đã thấy có những mối đe dọa ly khai còn rộng lớn hơn thế nữa, và thường thì các cuộc ly khai đều xảy ra chỉ vì người ta lo nhấn mạnh quá nhiều đến những đặc nét chủng tộc, văn hóa hay quốc gia, đến độ chối bỏ mất đi niềm hiệp nhất công giáo.
14.03 Vì thế, từ thời Tân Ước trở về sau, trong các Giáo Hội đã thấy xuất hiện những thừa tác vụ phụng sự hiệp nhất, có trách nhiệm gìn giữ cho các cộng đoàn sống liên kết với nhau trong đức tin tông truyền và trong tình yêu thương đối với nhau. Việc xuất hiện chức vụ giám mục và vai trò đặc biệt của Giám mục Roma cho thấy nhu cầu cần phải tiếp tục vai trò liên kết hiệp nhất của các Tông đồ, nghĩa là của những Vị sáng lập Hội Thánh. Do đó, Vaticanô II đã gọi các Giám mục là “nguyên lý và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội Địa Phương”, và Giám mục Roma là “nguyên lý và là nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu” (GH 23).
Phận vụ của các vị là làm những người phục vụ hữu hình cho niềm hiệp nhất trong đức tin và đức mến, tức là cho niềm hiệp nhất mà chính Thần Khí là nguyên lý vô hình. Phận vụ ấy là dấu chỉ của giây liên hệ mật thiết giữa hai nguyên lý thần linh và nhân loại. Không đâu Hội Thánh biểu thị sắc thái vừa địa phương mà vừa là công giáo rõ cho bằng ở trong Thánh Thể; trong đó, cùng một lúc, cộng đoàn cầu nguyện cho được hiệp thông với Giám mục địa phương và với Giám mục Roma.
14.04 Trong khi trình bày giáo lý về tập thể tính (collegiality ), Vaticanô II đã cố tìm cách diễn đạt trách nhiệm của phận vụ nói trên đây đối với mối hiệp nhất tại địa phương cũng như phổ quát trong toàn cầu, làm sao cho cân xứng với tính chất công giáo thật sự cụ thể mà Công đồng vừa phục hồi lại. Công đồng dạy rằng: “Vì gồm nhiều thành viên khác nhau, nên đoàn thể các Giám mục thể hiện tính cách đa dạng và tính chất phổ quát của Dân Thiên Chúa; nhưng đồng thời, vì quy tụ dưới một (người đứng đầu) vị thủ lãnh duy nhất, nên đoàn thể các Giám mục biểu hiện niềm hiệp nhất của đàn chiên thuộc về Đức Kitô” (GH 22). Rồi Công đồng nói tiếp: “Mỗi Giám mục đại diện cho Giáo hội mình, còn tất cả các Giám mục cùng với Giáo Hoàng thì đại diện cho toàn thể Hội Thánh, trong một mối liên kết hoà bình, yêu thương và hiệp nhất” (GH 23).
Nếu các Giáo Hội Địa Phương khác nhau cùng biểu dương sáng chói đặc tính công giáo của một Hội Thánh không phân rẽ, thì đó chỉ vì tất cả đều có cùng một khát vọng chung, khát vọng hiệp nhất. Nếu có những Giáo Hội Địa Phương duy trì các truyền thống cá biệt của mình một cách chính đáng, thì cũng có “Tòa Thánh Phêrô chủ trì toàn bộ cộng đoàn đức ái, và bảo quản các dị biệt chính đáng cùng đồng thời lưu tâm để những gì là khác biệt không phương hại, nhưng trái lại, còn sinh ích cho hiệp nhất nữa” (GH 13). Cũng như Giám mục Roma có nhiệm vụ bảo quản những nét cá biệt của các Giáo Hội Địa Phương, thì cũng vậy, các Giám mục địa phương “có nhiệm vụ phát huy và bảo vệ sự hiệp nhất đức tin cùng kỷ luật chung của cả Hội Thánh, cùng dạy cho các tín hữu biết yêu mến toàn bộ Nhiệm Thể Đức Kitô” (GH 23).
14.05 Tiếp theo sau nhiều thế kỷ dài sống quen với hình thức tổ chức tập quyền độc dạng gây cơ nguy làm mờ đục các chiều kích cụ thể của công giáo tính đi, nếu có một vài tình trạng giằng co căng thẳng gặp thấy trong khi tiến hành cuộc phát huy cảm thức về “niềm viên mãn trong hiệp nhất” của Hội Thánh mà Công đồng đã phục hồi lại được, thì đó là chuyện rất dễ hiểu. Những tình trạng căng thẳng ấy đã xuất hiện rõ hầu như trong mọi kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám mục kể từ sau Công đồng. Nhìn theo ánh sáng của khoa giáo hội học về ”Một Hội Thánh duy nhất trong nhiều Giáo Hội” mà chúng tôi đã đặc biệt căn cứ vào giáo huấn của Công đồng để trình bày ở đây, thì sẽ nhận ra rằng mối nguy trầm trọng còn đang đe dọa nhiều nhất hiện nay, là quan niệm coi hoặc đối xử với các thực trạng căng thẳng ấy như thể là những thái cực đối nghịch giữa “các Giáo Hội Địa Phương” và “Hội Thánh Hoàn Vũ,” và dồn trách nhiệm đối với các Giáo Hội kia lên trên vai của chỉ một mình các Giám mục địa phương; còn trách nhiệm đối với Hội Thánh Hoàn Vũ thì lại để trọn lên tr6en vai của chỉ một mình Giám mục Roma mà thôi. Giáo huấn của Công đồng về hiệp thông công giáo không cho phép quan niệm theo kiểu những thái cực đối nghịch nói trên đây, bởi lẽ, Hội Thánh toàn thể chỉ hiện hữu ở trong và từ bởi các Giáo Hội Địa Phương; còn các Giáo Hội Địa Phương thì chỉ khi biết hội nhập và lưu lại ở trong niềm hiệp thông hoàn vũ, mới được trở thành thực sự là Giáo Hội. Và chỉ khi biết quy hướng về với hiệp nhất, thì các khác biệt mới thật sự thực hiện được tình trạng viên mãn trong hiệp nhất đích thực. Rồi cùng lúc, giáo huấn của Công đồng về tập thể tính của hàng giám mục cũng đã ngăn ngừa một quan niệm không đúng đắn trong cách thức phân bổ trách nhiệm giữa các Giám mục và Giám mục Roma, bởi lẽ những thủ lãnh của các Giáo Hội Địa Phương không phải chỉ đại diện riêng cho các cộng đoàn đức tin của các vị mà thôi, nhưng còn cho cả Hội Thánh toàn thể nữa; và vị thủ lãnh của Hội Thánh Toàn Vũ chưa có thể chủ trì một Hội Thánh thực sự toàn vẹn được, bao lâu Hội Thánh ấy chưa thực sự là công giáo một cách thiết thực và cụ thể.
11. Luận đề 15
Những mối dây hiệp thông và liên đới giữa các Giáo Hội Địa Phương và giữa các Giám mục của họ được thể hiện qua các Hội đồng Giám mục. Về phương diện lịch sử và thần học, các Hội đồng này bắt nguồn từ những bước phát triển trong các cơ cấu Hội Thánh thời sơ khai. Các Hội đồng Giám mục là những khí cụ đặc biệt cần thiết và hữu hiệu đối với công tác cổ xúy sứ mệnh của Hội Thánh tại mỗi dân nước và trong vùng Á Châu, cũng như đối với nổ lực để thể hiện các chiều kích cụ thể của công giáo tính.
15.01 Những mối dây hiệp thông và liên đới giữa các Giáo Hội Địa Phương đòi phải được thể hiện một cách cụ thể bằng những cơ cấu có tính cách cố định của việc hợp tác và liên đới giữa các Giám mục. Một hình thức hiện hành của cơ cấu ấy là các Hội đồng Giám mục trong một nước, một miền hoặc trong cả một lục địa.
15.02 Xét về mặt lịch sử và thần học, những hình thức Hội đồng giám mục như vậy bắt nguồn từ những bước phát triển trong các cơ cấu Hội Thánh thời sơ khai. Vào hầu như cùng một thời với cách quan niệm chức giám mục theo thể chế quân chủ được chấp nhận ở khắp nơi trong mọi Giáo hội, các Giám mục đã bắt đầu nhóm họp với nhau trong các Hội đồng miền (regional synods ), để bàn thảo và lấy ý kiến chung về những vấn đề cần phải giải quyết. Như vậy, các Hội đồng đã phát nguồn từ ý thức về nhu cầu cần phải sống tinh thần hợp tác, liên đới và hiệp thông ở trong Hội Thánh.
Hơn nữa, Công đồng còn dạy rằng:
“Do sự an bài của Chúa Quan Phòng, theo dòng thời gian, các Giáo Hội khác nhau … đã tụ họp lại thành nhiều nhóm liên kết với nhau như trong cùng một hệ thống. Các nhóm này có kỷ luật riêng, phụng vụ riêng, và thừa hưởng di sản thần học cùng thiêng liêng riêng mà không phương hại đến sự hiệp nhất đức tin cũng như bản chất duy nhất và thần linh của Hội Thánh phổ quát. Một số trong các Giáo Hội ấy, nhất là những Giáo Hội cổ xưa do các Giáo chủ lãnh đạo, đã như các bà mẹ trong đức tin, sinh ra nhiều Giáo Hội khác như là con cái của mình, và cho đến ngày nay, các Giáo Hội ấy vẫn còn liên kết với nhau bằng mối dây đức ái mật thiết trong đời sống bí tích và trong sự tôn trọng quyền lợi cùng nghĩa vụ lẫn nhau. Các Giáo Hội Địa Phương tuy có khác nhau như thế, nhưng cũng đều quy hướng về với hiệp nhất, cho nên càng minh chứng rõ ràng hơn tính chất công giáo của một Hội Thánh không phân rẽ” (GH 23).
15.03 Cuối cùng, từ những thời xa xưa, đã thấy có những Giáo Hội cá thể (individual Churches ) với di sản phụng vụ, thần học, tu đức và kỷ luật riêng: di sản ấy mang những nét cá biệt dính liền với những trạng huống văn hóa cũng như lịch sử của một dân tộc, và được thể hiện qua một lối sống đạo thính ứng cho riêng từng Giáo Hội theo luật lệ riêng (xem Schema Codicis Iuris Canonici Orientalis , 1988, điều 27,2). Công đồng ca tụng về “mối hiệp thông kỳ diệu” của các Giáo Hội này, và tỏ lòng kỳ vọng mong sao cho các truyền thống của họ được bảo toàn “trọn vẹn và nguyên tuyền” (ĐP 2). Hơn nữa, Công đồng đã long trọng nói lên ước nguyện muốn cho nguyên tắc cổ truyền về việc tôn trọng quyền tự trị của các Giáo Hội ấy, được tuân thủ nghiêm chỉnh hơn, chứ không phải là một cách lơ là như đôi lúc vẫn thấy ở trong quá khứ (xem HN 16).
15.04 Không một kiểu mẫu nào trong các hình thức cổ xưa dùng để thể hiện mối hiệp thông giữa các Giáo Hội trong cùng một miền, hoặc tình liên đới giữa các Giám mục trong vùng, có thể được coi là hoàn toàn giống đúng với cơ chế hiện hành của các Hội đồng Giám mục. Nhưng dù sao, các hình thức ấy cũng chỉ cho thấy một hướng đi để theo đó mà tìm kiếm một căn bản thần học cho cơ chế của các Hội đồng Giám mục. Đúng thế, Vaticanô II đã coi các Hội đồng Giám mục có liên hệ trước tiên với các tổ chức quy tập nhiều Giáo Hội thời xưa: “Cũng thế, ngày nay các Hội đồng Giám mục có thể góp phần bằng nhiều thể cách khác nhau và hữu hiệu để cụ thể hóa tinh thần tập thể (giữa giám mục đoàn)” (GH 23). Còn trong Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục, thì sau khi nhắc nhở lại những mẫu gương liên đới giữa các Giám mục trong các Hội đồng hay Công đồng địa phương, Công đồng cũng đã khuyên là hãy nên chính thức công nhận các Hội đồng Giám mục (xem GM 36-37).
15.05 Muốn xây dựng căn bản cho một nền thần học về các Hội đồng Giám mục, thì chỉ cần nêu lên ở đây một số điểm xem ra vững chắc về phương diện thần học. Thứ nhất: ngày nay, cả các thần học gia lẫn các giáo luật gia đều nói đến những cấu tố chủ yếu của Hội Thánh mà chính Đức Kitô và các tông đồ đã thật sự để lại cho chúng ta, nhưng còn cần phải được thể hiện (hiện thực hóa) qua nhiều hình thái khác nhau, tùy vào những thời điểm và những hoàn cảnh khác nhau. Những mẫu gương hiệp thông giữa các Giáo Hội trong cùng miền nêu trên đây, minh họa rõ về điểm này. Nếu thế, thì có thể dùng các thuật ngữ cổ truyền de jure divino (thuộc thần luật) và de jure ecclesiastico (thuộc giáo luật) mà nói rằng các Hội đồng Giám mục là thuộc lãnh vực giáo luật, nhưng lại có căn bản ở trong thần luật.
Cần phải lưu ý đến điểm này là dù trên nguyên tắc, việc phân biệt giữa những gì thuộc thần luật với những gì thuộc giáo luật, xem ra hết sức rõ ràng và chính xác, thì thường là rất khó (và có lúc không thể nào) mà phân biệt cho được trong cuộc sống thực tế và trong các cơ chế cụ thể của Hội Thánh, những gì thuộc thần luật và những gì (chỉ) là thuộc giáo luật.
15.06 Thứ hai: liên quan tới uy thế và vai trò của Hội đồng Giám mục theo tư thế là những dấu chứng của tập thể tính (của giám mục đoàn), cần phải lưu ý là Công đồng Vaticanô II hiểu từ ngữ và thực thể “tập thể tính” theo hai ý nghĩa hẹp và rộng. Tập thể tính theo nghĩa hẹp bao hàm hoạt động của toàn bộ giám mục đoàn trên khắp thế giới, cùng hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, khi bàn thảo về đề tài này (xem GH 22-23), Công đồng đã kể ra nhiều trường hợp trong đó, tập thể tính của giám mục đoàn được hiểu theo một ý nghĩa rộng hơn; nếu thế, thì trong thực tế, Công đồng hiểu “tập thể tính” một cách loại suy, và đến một mức độ nào đó, như là một khái niệm còn chưa xác định hẳn. Vì vậy, khái niệm này cũng có thể bao gồm được cả thể chế hiện hành của các Hội đồng giám mục nữa.
15.07 Căn cứ vào những điểm vừa được bàn đến (15.05, 15.06), sau đây, chúng tôi xin trình bày những đường nét đại cương của một nền thần học về Hội đồng Giám mục:
Chỉ khi nào việc tự cấu thành chính mình (own self-constitution) như là mầu nhiệm của Đức Kitô, đạt tới mức độ thực sự trở thành một thái độ dấn thân ứng đáp cho những yêu cầu và thách đố gặp thấy nơi các xã hội và các nền văn hóa, trong đó mình đã được Lời Đức Kitô và ơn của Thần Khí làm phát sinh nên, thì lúc đó, Hội Thánh mới thực sự là công giáo một cách thiết thực và cụ thể. Trong tiến trình ấy, Hội Thánh thu nhận, duy trì, cổ vũ và hòa nhập vào trong niềm viên mãn của hiệp nhất, những di sản xã hội, lịch sử và văn hóa của các dân tộc trong nơi mình sinh trưởng. Những mối dây liên đới tự nhiên giữa các cộng đoàn và các truyền thống đó không bị tiêu tán đi, song được đón nhận vào trong niềm hiệp thông của Hội Thánh.
Thật sự thì chính những mối dây liên đới ấy phần lớn đã từng làm nền móng cho các tổ chức quy tập nhiều nhóm Giáo Hội thời xưa mà Công đồng không ngớt đề cao. Vì vậy, trong cùng một Hội Thánh duy nhất, không những có hai mối hiệp thông mà thôi: tức là hiệp thông cá thể trong trong giáo phận và hiệp thông phổ quát trong khắp thế giới, nhưng còn có những hình thức hiệp thông trong từng miền với những dây liên hệ nối kết về phương diện tự nhiên, cũng như về mặt lịch sử và văn hóa nữa. Và như thế, chính ở trong các hình thức hiệp thông xưa và nay như thế giữa các Giáo Hội cá thể, cần phải khám phá cho ra nền tảng thần học đích thực của những hình thái hiệp thông và hợp tác, tương tự như trong trường hợp hiện hành của các Hội đồng Giám mục.
15.08 Nếu những gì Công đồng dạy liên quan đến tính chất công giáo cụ thể được đón nhận một cách nghiêm chỉnh, thì thế tất giáo huấn ấy cũng phải được thể hiện ra trong thực tế bằng những hình thức biểu đạt thích đáng về mặt pháp lý. Hội đồng Giám mục hẳn là một trong các hình thức biểu đạt ấy. Và nếu Bộ Giáo luật mới đã nới rộng rất nhiều vai trò của các Hội đồng ấy, thì chính là để cho các Giáo Hội Địa Phương trong một miền riêng biệt, đảm nhận trách nhiệm nhiều hơn đối với công tác làm cho Hội Thánh được hiện thực hóa ngay ở trong những bối cảnh và trạng huống riêng biệt của họ.
15.09 Các Hội đồng Giám mục của một nước hoặc một miền — và có thể kể thêm vào đó cả những Liên hiệp các Hội đồng Giám mục trong một vùng lớn rộng hoặc là trong một lục địa (thí dụ: FABC, CELAM, CCEE, SECAM, AMECEA, v.v.) — là những cơ cấu hiện đang tỏ ra đặc biệt hữu hiệu và hữu ích cho thời đại này, cả trên bình diện lý thuyết lẫn trong bình diện thực hành. Đức Phaolô II đã nhận định về các Hội đồng Giám mục và coi đó là những tổ chức “rất cần thiết, rất hữu ích, và đôi lúc không thể thiếu được”, bởi vì, những Hội đồng như thế ứng đáp thích đáng cho những đòi hỏi của thời đại và tỏ ra thực sự là khí cụ hữu hiệu để đảm bảo cho hoạt động của các Giám mục có được sự hiệp nhất cần thiết” (Phần mở đầu văn kiện của Bộ đặc trách về các Giám Mục: “ Theological and Juridical Status of Episcopal Conferences ”).
15.10 Các Hội đồng Giám mục làm cho các Giám mục có cơ hội gặp gỡ và học hỏi nghiên cứu — trong tư thế là một cơ cấu tập thể (collegial body ) — về các vấn đề và hoàn cảnh chung mà mỗi giáo phận đang gặp phải, cũng như có dịp để bàn thảo một cách sâu rộng hơn và với những dữ kiện đầy đủ hơn, về các vấn đề ấy, để rồi nhờ Thần Khí hướng dẫn mà đạt tới chỗ thỏa thuận một cách chắc chắn và mau lẹ hơn, về những gì được coi như là một quyết định chung, hoặc là một hành động chung nếu hoàn cảnh cho phép và nếu các vị muốn. Cho dù còn có nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong phương cách tiến hành, thì không ai có thể phủ nhận được những lợi ích do các Hội đồng Giám mục mang lại.
15.11 Để kết thúc phần bàn thảo về Hội đồng Giám mục, chúng tôi xin được lưu ý đến nhận định đánh giá rút ra từ kinh nghiệm sống của Liên Hiệp các Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC), mà Kỳ họp khoáng đại lần thứ ba của Liên hiệp (Bangkok-Sampran 1982) đã đưa ra trong bản tuyên ngôn cuối cùng.
Bản tuyên ngôn đã nêu ra một số những ích lợi của FABC, như sau:
“Sứ điệp của cuộc họp mặt lịch sử giữa các Giám mục Á Châu, vào năm 1970, đã nói đến việc “hợp tác để liên kết thế giới mới của Á Châu lại thành một đại gia đình quy tập hết mọi dân nước sống trong phần đất này của thế giới, không phải đơn thuần bằng những mối liên hệ về mặt địa dư không thôi, nhưng còn bằng cả những mối dây cảm thông và trọng kính lẫn nhau, cùng những mối dây cao quý của tình huynh đệ và yêu thương nữa”.
“Mong rằng trong một cách thức nhỏ bé nào đó, Hội Thánh tại Á Châu trở thành bí tích – tức là dấu chỉ và là khí cụ (xem GH 1; MV 40) – của mối hiệp nhất ấy giữa các dân tộc chúng ta: đó chắc chắn là một trong những hoài bão mà FABC hằng tha thiết ấp ủ trong lòng, và chúng tôi thâm tín rằng trong nhiệm ý của Chúa, những năm vừa trôi qua không phải là khoảng thời gian vô nghĩa đối với việc thể hiện niềm khát vọng ấy”.
15.13 Hội Thánh không hiện hữu cho riêng mình, không sống cho một mình mình, nhưng là để làm người tôi tớ phục vụ cho công cuộc cứu độ của Đức Kitô trong lịch sử, ngõ hầu Nước Thiên Chúa trị đến: Nước Thiên Chúa đang hiện diện, nhưng đồng thời cũng đang đến gần. Giáo Hội Địa Phương đảm nhận cùng một ơn gọi và cùng một sứ mệnh ấy, ở tại nơi và ở vào thời điểm mà Thiên Chúa đã đặt định: tại đó, Giáo Hội có bổn phận phải mang hy vọng và tình thương mà “tuôn đổ cho tràn đầy mọi khoảng trống”; tại đó, Giáo Hội có bổn phận phải thu góp các di sản của đất nước và dân tộc mình, để rồi cùng với hết thảy mọi Giáo Hội Địa Phương trên khắp thế giới, nắn đúc nên mối hiệp thông giữa mọi dân tộc, là mối hiệp thông hiện đang lớn lên ở giữa lòng lịch sử loài người, và đó cũng chính là những gì Thiên Chúa đã hứa ban cho con tim và cho bàn tay của những con người thiện chí sống khắp nơi trong thế giới.
KẾT LUẬN
1. Uỷ ban Cố vấn Thần học của FABC chúng tôi xin đề xuất các luận đề trên đây gửi đến các Giám mục và các Hội đồng Giám mục, đến các trường thần học và chủng viện, cũng như đến các thần học gia và các sinh viên thần học, như là một khởi điểm suy tư chung về Giáo Hội Địa Phương , đặc biệt là về Giáo Hội Địa Phương tại trong bối cảnh Á Châu. Chúng tôi mong rằng nhiều cộng đoàn kitô sẽ lưu tâm tìm hiểu, có lẽ là lần đầu tiên, về ý nghĩa và tầm trọng yếu của Giáo Hội Địa Phương trong đà tiến triển đổi thay của những trạng huống mà Hội Thánh đang phải trải qua tại những đất nước của chúng ta. Chúng tôi xin nhắc lại điểm này: chúng tôi không hề có chủ ý đề xuất các trang viết này như là “câu giải đáp cuối cùng” cho các vấn đề đang nghiên cứu và các quan điểm đang có. Đây chỉ là những lineamenta (điểm dự thảo) nêu lên để bàn luận, và có hay lắm thì cũng không hơn không kém, chỉ là một instrumentum laboris (tài liệu nghiên cứu). Điều chúng tôi ước mong tha thiết nhất là được thấy khai diễn ra một cuộc thảo luận thật sự, để giúp chúng ta đẩy mạnh việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về Giáo Hội Địa Phương, trong những bối cảnh và ở vào thời điểm lịch sử mà chúng ta đang sống.
2. Cũng như trong phần mở đầu văn kiện này, chúng tôi đã nêu lên một số các “dấu chỉ của thời đại” (MV 4.44) trong môi trường Á Châu hiện đại, và đã thử miêu tả sứ mệnh của Hội Thánh ngày nay trong bối cảnh biến hóa sâu rộng theo đà phát triển như đã thấy, thì bây giờ, trong phần kết thúc này, chúng tôi cũng xin trở lại với chính những mối quan tâm ấy.
3. Như chúng tôi đã lưu ý trên đây, trong kỳ họp đầu tiên, FABC đã coi việc xây dựng Giáo Hội Địa Phương như là tiêu điểm hiện thời của sứ mệnh Hội Thánh tại Á Châu. Nhận định ấy vẫn còn thích đáng cho ngày nay. Cũng vẫn còn thích đáng việc đặt công tác đối thoại ba chiều làm ưu tiên hàng đầu trong các dự án: đối thoại với các nền văn hóa dân tộc, với các truyền thống tôn giáo và với những cảnh trạng bần cùng và áp bức. Theo chúng tôi thì không những vẫn thức thời, mà trong giai đoạn hiện tại này, chương trình hành động ấy còn trở nên cấp thiết hơn cả trong thời mới được đề xuất ra, tức là cách đây ngoài 15 năm.
4. Các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu cần phải ý thức ngày càng rõ ràng hơn về trách nhiệm chủ động của mình đối với công trình Hội Thánh đang theo đuổi nhằm tự hiện thực hóa chính mình ở giữa loài người. Cần phải làm sao để cho “ý thức mình là Hội Thánh” thấm nhập ngày càng sâu đậm hơn vào trong hết mọi tầng lớp của các cộng đoàn kitô chúng ta. Càng ngày việc xây dựng tinh thần “hiệp thông và tham dự” cũng như việc cổ xúy “công tác truyền giáo và phục vụ” trong thế giới càng phải được coi như là bổn phận dấn thân của toàn Dân Chúa, nhưng đặc biệt — và với những lý do ngày càng thúc bách hơn — là của giới giáo dân. Kiên nhẫn tìm kiếm và trung thành đáp ứng tác động đầy sáng tạo của Lời và Thần Khí hằng hiện diện trong cuộc sống mỗi ngày của các cộng đoàn chúng ta, phải là một cố gắng liên lỉ không chỉ là của một mình hàng giáo phẩm, mà là của tất cả chúng ta.
5. Sở dĩ phải làm như vậy, là vì sứ mệnh của Hội Thánh, khuôn rập theo kế hoạch mà Chúa của lịch sử đã đề ra, đòi hỏi như thế. Trong thập kỷ 80, chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc đổi thay vĩ đại ở trong nhân loại, làm phát sinh nên những biến cố mà ít năm trước đây không ai ngờ là có thể xẩy ra được. Và bây giờ, chúng ta đã có thể mường tượng nhận ra được thế giới của thiên niên thứ ba đang hiện rõ ra đằng trước mắt, với những khát vọng tự do và tình liên đới bừng lên như những dòng suối mới mang theo đầy hy vọng cho con người, với những cơ cấu còn mới mẽ và còn phải khắc phục nhiều trở ngại mới xác định được hình thái rõ rệt của mình. Tin Mừng sẽ có mặt hay không ở trong thời đại mới này, với những xoay chuyển bất ngờ và những khác biệt muôn hình thái của nó: đó điều tất sẽ tùy thuộc rất nhiều ở sự việc các Giáo Hội Địa Phương có chu toàn sứ mệnh của mình trong chính thời điểm lịch sử mình đang sống đây hay không. Giữa bối cảnh như thế, chúng ta có cơ hội để thấu hiểu được phần nào ý nghĩa về tầm trọng yếu của Giáo Hội Địa Phương và của công tác hội nhập văn hóa; những ai không thấu hiểu nổi điểm này, thì cũng chẳng có thể ứng đối thích đáng được với những dấu chỉ của thời đại và với nhịp đập trong con tim thổn thức của các dân nước chúng ta.
6. Chắc hẳn chúng ta phải biết ơn Chúa vì đã cho chúng ta ngày nay cảm nghiệm được “luồng đại phong của Thần Khí” đang ồ ạt thổi mạnh vào trong các Giáo Hội chúng ta. Vì đây là một thời điểm biệt đãi cho việc suy tư thần học và phân định tại các địa phương, cho công cuộc hợp tác và phục vụ, cho công trình xây dựng Giáo Hội Địa Phương đích thực tại phần đất này của thế giới. Đây là lúc cần phải dùng đến những sáng kiến táo bạo cho công tác mục vụ và truyền giáo, để đáp trả cho lời của Đức Kitô, Chúa chúng ta, giờ đây đang kêu mời chúng ta đứng sát bên Người: giờ đây là chính lúc, bằng không biết bao nhiêu cách thức đầy sức sáng tạo, Người đang tiếp tục thích nghi chính con người của mình với nếp sống của bản tính nhân loại, và đang nắn nên hình thái cho tương lai của mỗi dân nước chúng ta.
7. Chỉ còn một điều là chúng ta phải cầu xin cho biết lắng nghe và vâng theo Thần Khí, để Ngài dẫn dắt chúng ta với sức năng sáng tạo của Ngài, và để chúng ta nhận được tràn đầy nghị lực can đảm và tinh thần dấn thân, là những ân huệ Ngài ban cho. Có vậy mới mong được rằng thiên niên thứ ba của lịch sử kitô giáo sẽ phản ánh ngày càng rõ hơn, Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta, và sẽ thể hiện trung thực bản chất đích thực của Hội Thánh, một Hội Thánh của mọi dân tộc, một Hội Thánh làm tôi tớ phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Có vậy, chúng ta mới mong góp được phần mình vào trong công trình làm cho “danh Thiên Chúa cả sáng dưới đất cũng như trên Trời”, và vào trong thế giới hiệp thông ấy, một thế giới đang lớn dần lên như là một ân huệ xuất phát từ lòng bàn tay của Thiên Chúa Cha, Con và Thần Khí, và như là một tác vụ đặt ngay ở giữa lòng nhân loại để gửi đến cho mọi người thiện chí đang sống ở khắp nơi trên mặt đất.