Giáo Hội Địa Phương: Suy Tư Thần Học Trong Bối Cảnh Á Châu (4)

0
438


GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU

Chuyển dịch: Ngô Minh

***

***

4. Luận đề 8

Cộng đồng kitô là chủ thể chủ động trong công  tác hội nhập văn hóa, là công tác ăn sâu vào trong  hết mọi khía cạnh của cuộc sống và hoạt động làm  chứng tá, cũng như của sứ mạng người kitô.

8.01    Công tác hội nhập văn hóa là một việc làm mà  toàn thể cộng đồng kitô hữu có bổn phận phải  dấn thân chu toàn. Như thế là vì, trước hết, Hội Thánh  là một dân tộc. Vì vậy, mọi tầng lớp trong dân đều có  bổn phận phải tham gia bằng một cách nào đó, vào  trong tất cả mọi sinh hoạt chung. Sau nữa là vì  công tác hội nhập văn hóa là một sinh hoạt toàn  diện, có tác dụng trên mọi khía cạnh của đời sống  và sứ mạng kitô của toàn Dân Chúa. Thế nên,  công tác ấy không thể thực sự thành tựu được, nếu để  lo cho nó, chỉ có một nhóm chuyên viên tinh hoa mà thôi.

8.02    Trong khi sống đúng theo “cảm thức về đức tin được  Thần Khí chân lý khơi dậy và duy trì” (GH 12)  ở giữa môi trường riêng biệt của mình, các  tín hữu cần phải học cho biết cách biểu thị lòng  tin của mình: nghĩa là không những bằng thái độ  trung thành bước theo truyền thống tông đồ mà thôi,  nhưng còn cả bằng thái độ ứng đáp thích nghi với những  trạng huống cụ thể của văn hóa mình nữa. Việc ứng  đáp này là trách vụ của toàn thể cộng đồng,  vì cộng đồng có trọng trách nhận thức cho rõ Lời  của Chúa và Thần Khí của Ngài ngay ở giữa  lòng văn hóa và lịch sử của mình. Đó là  trọng trách có một không hai; không ai có thể khoán trắng  trọng trách riêng ấy cho một người khác được, và  cũng không có gì thay thế nó được. Bởi vì đều có  môi trường sống riêng, khác biệt nhau, cho nên trong khi  vẫn duy trì bền chặt mối thông hiệp hoàn vũ, mỗi Giáo Hội Địa Phương đều được hưởng quyền tự trị chính đáng, để nhờ đó, có thể đem sáng kiến mình ra mà tổ chức  nhịp sống và các cơ chế riêng, cùng chu toàn ngay  tại trong bối cảnh văn hóa cá biệt của mình, sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó cho.

Trong thông điệp Octogesima  adveniens , Đức Phaolô VI đã viết rằng: “Đứng trước  những hoàn cảnh rất ư là khác nhau như thế,  thật khó mà đề ra cho được một giải pháp thích đáng  cho khắp nơi. Thực ra, đó cũng không phải là tham  vọng của chúng tôi, và cũng chẳng phải là  sứ mạng của chúng tôi nữa. Các cộng đồng kitô có  nhiệm vụ phân tích một cách khách quan tình trạng riêng ở  nước mình, và lấy ánh sáng nơi Lời bất di dịch của  Tin Mừng mà soi chiếu cho tình trạng ấy” (OA 4). Được phát biểu để thừa nhận trách nhiệm của Giáo  Hội Địa Phương trong nổ lực ứng đáp cho thỏa đáng các  vấn đề xã hội trong môi trường sống của mình,  những lời lẽ trên đây của Đức Phaolô VI cũng  có thể được áp dụng cả cho trường hợp của công  tác hội nhập văn hóa nữa.

8.03    Phụng vụ của cộng đồng kitô là một lãnh  vực rất quan trọng trong công trình hội nhập văn hóa. Phụng  vụ diễn đạt đức tin của Hội Thánh (lex orandi lex  credendi ). Phụng vụ phải là thành quả của  kinh nghiệm đức tin tại một môi trường văn hóa cá biệt.  Và ngược lại, kinh nghiệm phụng vụ ấy phải nở  hoa từ một đời sống kitô đã hoàn toàn  hội nhập văn hoá. Vì thế, việc đưa phụng vụ của cộng  đồng kitô hội nhập vào trong văn hóa không phải là  một việc gán ghép từ bên ngoài bằng một tiến trình  ngoại lai và giả tạo; nó phải bộc phát một cách  tự nhiên từ nhịp sống đức tin hoàn toàn đâm rễ  vào ngay tại trong bối cảnh văn hóa và trong thực  thể cuộc sống của người dân.

Tuy nhiên, vì đã  từ quá lâu, đời sống phụng vụ của các Giáo Hội  Địa Phương đứng ở một vị thế xa lạ tách biệt khỏi  những truyền thống văn hóa trong vùng, cho nên, trong  gian đoạn quá độ này, là lúc đang nổ lực để sống  một đời sống giáo hội hoàn toàn hội nhập văn  hóa, việc thử nghiệm hoặc đề ra những kiểu mẫu  trong lãnh vực phụng vụ là một việc làm rất chính  đáng và rất cần thiết để giúp cho quá trình hội nhập  văn hóa do toàn thể cộng đồng cùng chung sức xúc  tiến, được dễ dàng hơn. Đúng thế, những thử  nghiệm ấy không được phản ánh chỉ có mối quan tâm của  một số chuyên viên không thôi, nhưng trái lại, cần phải  biết đối thoại với toàn thể cộng đồng kitô.

8.04    Một lãnh vực khác trong công trình hội nhập văn hóa:  việc huấn luyện lòng tin, tức là việc dạy giáo lý  để dẫn dắt các tín hữu bước những bước đầu đi  vào trong đời sống đức đạo, và để giúp họ đạt  tới mức trưởng thành trong đức tin. Về phương diện  nội dung cũng như phương pháp và thuật ngữ, việc  dạy giáo lý phải được tổ chức làm sao cho hoà  hợp với kinh nghiệm, với các truyền thống sư phạm, với bản  chất tâm lý và với thiên tư ngôn ngữ của người  dân. Là một trong những yếu tố cấu thành đời  sống Giáo Hội Địa Phương, việc huấn luyện lòng tin có  bổn phận phải phản ánh trọn mọi chiều kích của  cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội. Đã đành  là phải giữ vững chân lý các tín điều, nhưng  không phải vì thế mà việc dạy giáo lý có quyền thu  hẹp đóng khung mình lại ở trong một bộ công thức tín lý  và sách bổn, coi đó như là có giá trị bất di dịch  để diễn dịch và biểu đạt tín ngưỡng trong mọi thời  và nơi mọi nền văn hóa. Trong Tông huấn Catechesi tradendae ,  Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cũng đã nhấn mạnh đến  tiến trình cần yếu của công tác hội nhập văn hóa việc  dạy giáo lý với những lời lẽ như sau:

“Có lẽ từ “thích nghi văn hóa” (acculturation) hoặc “hội nhập văn hóa” (inculturation)  là một từ ngữ mới, nhưng dù sao thì nó cũng  diễn tả rất đúng một nhân tố trong mầu mhiệm lớn  lao của công trình Thiên Chúa Nhập Thể: Đối với tác vụ  dạy giáo lý, cũng như đối với công tác rao truyền Tin  Mừng nói chung, chúng ta có thể nói rằng ơn gọi của  tác vụ ấy là mang sức mạnh của Tin Mừng đưa vào  tận trong tâm can của các nền văn hóa và tận trong  các yếu tố cấu thành chúng. Tác vụ dạy giáo lý cần  phải học hỏi để biết cho sành những cách thức  diễn đạt đặc trưng nhất của các nền văn hóa, cũng  như phải biết tôn trọng các giá trị đặc thù và  phong phú của chúng” (Số 53).

8.05    Đời sống trong Thần Khí, tức là đời sống thiêng  liêng, phải biết gióng theo và phản ánh kinh nghiêm  về Thần Khí mà một dân tộc phát hiện được ngay tại trong  văn hóa và truyền thống của họ. Bởi vì chúng  tôi biết rằng Thần Khí đang hiện diện và hoạt động ở  giữa các dân tộc Á Châu, ở trong lịch sử và  truyền thống, ở trong văn hóa và tôn giáo của  họ. Và do đó, công trình hội nhập văn hóa sẽ là  một cuộc gặp gỡ của Thần Khí với Thần Khí, có sức  tăng cường cho các mối liên kết của niềm hiệp thông  và của tình liên đới thiêng liêng đối với dân tộc  tại nơi Giáo Hội Địa Phương đang sinh sống và phát trển.  Di sản tinh thần và những giá trị đạo đức qua bao  thiên niên thế kỷ đã từng nuôi dưỡng nhân  dân lục địa này, thì bây giờ tất phải tuôn chảy  vào trong đời sống của Giáo Hội Địa Phương để làm  cho các Giáo Hội được nên phong phú hơn.

Các giá trị như:  ý thức sâu xa về Thiên Chúa, suy gẫm, chiêm niệm, đời  nội tâm, khổ hạnh, từ bỏ mình, lối sống bình dị, lòng  tin sâu đậm, thinh lặng, tinh thần phó thác, cảm thức  nhiệm mầu, hiệp thông sâu thẳm, là một số trong các  giá trị thiêng liêng được các truyền thống của chúng  tôi đề cao, quý trọng và cổ xúy. Kỳ Đại Hội khoáng  đại lần thứ hai của FABC với đề tài thảo  luận: “Cầu nguyện: Sức sống của Giáo Hội Á Châu”,  đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải sáp nhập những  lề lối cầu nguyện và phụng tự của các dân tộc chúng  ta, vào trong đời sống của các Giáo Hội Địa Phương  tại Á Châu. Các Giám mục đã khẳng định rằng:

“Càng ngày chúng tôi càng thâm tín  hơn rằng ngày nay Thần Khí đang dẫn dắt chúng tôi,  không phải là đến với một thứ chủ thuyết hỗn  hợp mờ ảo nào đó (đó chính là điều mà  toàn thể chúng tôi nhất tề gạt bỏ), nhưng là  đến với một nổ lực điều hợp – sâu rộng và có tổ chức  – nhằm đưa hết thảy những gì tốt đẹp nhất ở trong  các lề lối cầu nguyện và phụng tự cổ truyền của  chúng ta vào trong kho tàng của di sản kitô…  Và như vậy, cuối cùng rồi vô số những di sản  bản xứ phong phú ấy sẽ tìm thấy được vị trí tất nhiên  của chúng ở trong kinh nguyện của các Giáo Hội  tại Á Châu chúng ta, và sẽ làm cho đời  sống cầu nguyện của Hội Thánh trong khắp thế giới được  thêm bội phần phong phú” (số 31,33).

8.06 Thiết tưởng không cần phải nói thêm rằng đời  sống kitô và nổ lực dấn thân truyền giáo của các  Giáo Hội Địa Phương tại Á châu cũng phải được  một đường hướng suy tư thần học đi kèm: một đường  hướng biết lưu tâm để ứng đáp thiết thực những thắc  mắc và những vấn đề nảy sinh từ kinh nghiệm  và hoạt động giữa cuộc sống. Sắc lệnh Ad Gentes  của Công đồng Vaticanô II, về hoạt động truyền giáo,  đã xác nhận tầm quan trọng và sự cần thiết của  suy tư thần học đi liền với bối cảnh (contextualized /bối  cảnh hóa) như thế, bằng những lời lẽ như sau:

“Tất yếu, việc nghiên cứu thần học cần phải  được đẩy mạnh tại mỗi vùng văn hóa xã hội rộng  lớn (major socio-cultural area), như người ta thường  gọi (những người sống trong cùng một vùng như  thế thì đều hấp thụ ảnh hưởng của cùng một  hình thái văn hóa xã hội). Nhờ thế, mới có được  một đà học hỏi sưu tầm mới mẽ biết lần bước  theo ánh sáng Thánh Truyền của Hội Thánh Hoàn Vũ  soi dẫn mà thấu hiểu cho sâu sắc hơn những điều  Thiên Chúa mạc khải qua hành động và ngôn từ  của Ngài, tức là những gì đã được ghi chép  trong Kinh Thánh cũng như đã được các Giáo Phụ và  Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh giải thích” (số  22).

8.07    Để thành công trong nổ lực đưa thần học tới chỗ  hội nhập văn một cách sâu rộng, thì điều thiết yếu là  phải sáng chế ra những phương pháp thần học và  những cách thức giải thích mới, có sức phản ánh  văn hóa và truyền thống, tâm tính và lối suy nghĩ  của các dân tộc Á Châu. Về điểm này, chúng tôi  thấy cần phải nêu rõ vị trí nổi bật của kinh nghiệm.  Tất cả các truyền thống triết lý của Á Châu  đều dành cho kinh nghiệm và/hoặc việc liên hệ trực  tiếp với thực tại, một vị trí đặc biệt. Như thế, kinh nghiệm  phải là khởi điểm của bất cứ một nền thần  học nào muốn mang tính chất Á Châu thực sự. Tiến  trình hình thành của các khái niệm cần phải đâm  rễ một cách vững chắc vào trong kinh nghiệm. Một  khi đã đâm rễ sâu vào trong kinh nghiệm và  trong đời sống như vậy, thì suy tư thần học sẽ có đủ  khả năng để giúp các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi thấu  hiểu và giải thích đức tin của mình, cùng biểu  đạt đức tin ấy qua những cách thức đầy sáng tạo thật  sự.

8.08    Có một phạm vi khác đang đòi phải được “bén  rễ vào trong lòng đất mẹ của các nền văn  hóa và các truyền thống Á Châu chúng tôi” cho  sâu rông hơn; đó là đời sống tu trì ở trong các  Giáo Hội chúng tôi. Đời tu hành là nhằm mục đích  làm cho thấy rõ hơn ý nghĩa của một lối sống hoàn  toàn dành riêng cho các giá trị của đức tin kitô.  Qua viêc phụng tự và làm chứng tá, qua đời sống  chung và phục vụ, các tu sĩ, nam cũng như nữ, phải  nêu rõ cho thấy phương cách các môn đồ của Đức Giêsu  đưa đời sống và sứ mang của Ngài nhập thể  theo một đường lối trung thực nhất, vào giữa lòng  một dân tộc và giữa lòng một nền văn hóa.

Bằng những phương thức đáng ca ngợi, nhiều cộng đoàn  và cá nhân các tu sĩ đã đứng ở những hàng  đầu trong các nổ lực nhằm xúc tiến quy mô công cuộc hội  nhập văn hóa và việc xây dựng tình liên đới đối với  người nghèo. Tuy nhiên, buồn thay, tại một vài  nơi và trong một số hoàn cảnh, các cộng đoàn  tu sĩ vẫn còn giữ nguyên nhiều yếu tố ngoại lai  và xa lạ đối với môi trường chung quanh mình. Có thể  thấy rõ điều đó trong cách dùng ngôn ngữ và  trong lối sống, trong các chương trình đào tạo (thường  khi bị chi phối nặng bởi các thành viên nước ngoài)  cũng như trong việc tiếp tục du nhập các nhân tố tha hóa  thuộc các nền văn hóa khác. Chẳng hạn, có khi những  thành viên người Á Châu lại bị bắt buộc phải  xử dụng cho mình, một cách thiếu phê bình, những phương  pháp tâm lý thường được dùng trong các nền văn hóa  khác; cũng có những trường hợp, việc thích nghi  với các nhân tố xa lạ ấy được coi như là tiêu chuẩn  để được nhận vào dòng tu.

Không thiếu chi trường  hợp các thành viên người địa phương bị buộc phải  “sống như Tây”, nếu họ muốn “ở yên” trong  nhóm. Thường thì các cơ quan đầu nảo quyết định nằm  cả ở nước ngoài; và ở đó, những người  có quyền quyết định lại không có khả năng để phân định đâu thực sự là yếu lĩnh của đời tu trì và  đâu chỉ là những phong cách và quy lệ thuần túy  văn hóa của một địa phương. Như vậy, nhân danh một thứ  phổ quát tính giả mạo nào đó, công tác hội nhập  văn hóa sẽ bị cản trở, hoặc là có thể bị  chặn đứng hẳn đi nữa, bởi những bậc bề trên và  những người không thể hoặc không biết rung cảm  trước những ước vọng và nhu cầu của các thành  viên Á Châu, hay là bởi những người cho  đến giờ này vẫn còn (có thể là họ không  hoàn toàn ý thức) mang khư khư trong mình thái độ tự  cao tự đại, nghĩ là mình có văn hóa cao hơn.

8.09    Những chương trình đào tạo, trước tiên, cần phải  được thấm nhuần ngôn ngữ và lối sống của những  tầng lớp nghèo ở các miền xứ chúng ta. Việc thể  hiện ra trong cuộc sống hằng ngày, lòng ưu ái đặc  biệt đối với các người nghèo thường là cách  thế hữu hiệu nhất để tiến hành công tác hội nhập  văn hóa thực sự cho đời tu trì. Chung chung mà nói,  thái độ xa tránh hình thức giữ đạo của người nghèo  hèn thấp kém, là kết quả của những phong  cách đào tạo sai lệch, tưởng rằng nếp sống thường  thấy tại các xã hội Tây phương (thường bị tục hóa  đến mức trầm trọng) phải là nếp sống bắt buộc đối  với hết thảy mọi người. Đó là điều cần phải  cẩn trọng đề phòng.

8.10    Việc duyệt xét lại đường lối tu trì tại các Giáo  Hội Địa Phương Á Châu như thế— một cuộc duyệt xét  còn rất cần thiết đối với nhiều nước— cho thấy là  có một số đặc nét trong các truyền thống tâm linh của  các nền văn hóa địa phương, như là lý tưởng sannyasa  (lối sống từ bỏ) trong Ấn độ giáo, hoặc hình thức  sống tăng hội trong Phật giáo, có thể đóng góp nhiều về  mặt gây cảm hứng, nêu gương mẫu và làm cho  thêm phong phú dồi dào hơn. Nếu biết trở thành  hăng say và năng động hơn, nếu biết chăm chỉ nhận định  cho sáng suốt hơn, thì công cuộc hội nhập văn hóa của  đời tu trì tại Á Châu có thể dẫn lối đưa đường  đến một cuộc sống làm chứng tá và phục vụ, khuôn  rập đúng với lý tưởng đích thực của Tin Mừng hơn,  ngay ở giữa lòng các dân tộc tại vùng đất  này.
 
5. Luận đề 9

Các giáo đoàn cơ bản là những môi trường  đặc biệt quan trọng để tiến hành công cuộc hội nhập  văn hóa và xây dựng Giáo Hội Địa Phương.

9.01  Ngày nay, nhiều nơi tại Á Châu, có những giáo  đoàn cơ bản (GĐCB hoặc các cộng đoàn nhỏ  sống đức tin) hiện đang sinh sôi nẩy nở ra nhiều theo đà  ứng đáp cho những nhu cầu của đời sống và  sứ mạng kitô. Trong các cộng đoàn này, nhờ biết  cầu nguyện dựa theo Lời Chúa và Lễ Tạ ơn, nhờ  biết gặp gỡ hội họp, nhờ biết sống tinh thần phục  vụ lẫn nhau và chia sẻ cho nhau, nên các tín hữu  kitô đã đi đến chỗ cảm nghiệm được bản chất  đích thực của Hội Thánh: nghĩa là phải như thế  nào mới gọi là Hội Thánh. Các cộng đoàn này  cũng là nơi các kitô hữu thực sự quen biết nhau  bằng danh tánh, và giúp củng cố lòng tin cho nhau;  hiệp thông và hợp tác trở thành những thực  tại sống động. Và vì biết dựa theo ánh sáng Lời Chúa  mà vật lộn với những vấn đề ở trong cuộc sống,  nên họ có đủ sức mà hấp thụ Lời Chúa làm  ý nghĩa cho chính đời mình, cũng như nhận ra những  thách đố và những đòi hỏi cụ thể đi kèm  theo Lời Chúa. Trong khi có những GĐCB chú tâm  vào việc đào sâu cầu nghuyện tập thể và giúp  đỡ lẫn nhau, thì cũng có những cộng đoàn  khác lại cố tìm cách phát hiện và cải cách những  căn nguyên gây ra tình trạng kém mở mang và bất công,  cũng như đẩy mạnh công cuộc cải tiến xã hội.

Như vậy, các GĐCB trở thành những môi trường  và những tác nhân đặc biệt hữu hiệu trong công  trình đưa Tin Mừng hội nhập vào trong văn hóa. Trong  các cộng đoàn đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô  trở thành Tin Mừng cho người dân.

9.02    Vì thế, để khỏi bị cô lập hóa và bị các ý thức  hệ lèo lái, cũng như để bảo toàn tính cách  giáo hội của mình, thì các GĐCB cần phải duy  trì mối giây hiệp thông với các chủ chăn trong Hội Thánh.  Một trong các phương tiện hết sức hiệu lực để củng cố  niềm hiệp thông ấy là việc huấn luyện liên tục cho những  người lãnh đạo trong các cộng đoàn (xem Evangelii  nuntiandi , 58).

9.03    Tại nhiều vùng trong các dân nước chúng tôi, ở  những nơi mà họ chỉ là một thiểu số rất ít ỏi  và sống rải rác, người kitô lắm khi phải đương  đấu đối phó với cùng một loại vấn đề giống hệt như  những người theo các tín ngưỡng khác. Vì họ cùng  sống và cùng đấu tranh với những vấn đề giống  nhau như thế, các người kitô và những đạo hữu  các tôn giáo khác đều có thể coi như là thành viên  của các cộng đoàn cơ bản giữa loài người.  Trong các cộng đoàn này, đời sống đức tin của  các thành phần kitô có thể lớn lên nhờ cuộc “đối  thoại bằng đời sống” với tín đồ các tôn giáo khác,  cũng nhờ sự việc cùng với họ, đương đầu đối phó  với các vấn đề trong cuộc sống, chẳng hạn như là đấu  tranh để chống lại nghèo đói, đấu tranh cho công bằng  và các quyền con người, và những nổ lực nhằm  xây dựng một thế giới hòa bình giữa những khác  biệt đa dạng. Các cộng đoàn cơ bản loài người  có thể trở thành những môi trường đặc hiệu  để cảm nghiệm và chứng thật về sự việc Thần Khí  thực sự hiện diện ở giữa những người thiện  tâm, cũng như để có những dịp thuận lợi mà làm  chứng một cách cụ thể và thiết thực về Đức Kitô cho  những người thuộc các tín ngưỡng khác. Hơn nữa,  trong khi trao đổi các sinh hoạt hỗ tương với các đạo hữu  cùng với mình làm nên các cộng đoàn cơ bản  loài người này, các kitô hữu còn có thể  tác động như là men để biến đổi con người và xã  hội.

6. Luận đề 10

Giáo hội địa phương tự hiện thực hóa chính mình qua tiến  trình hội nhập văn hóa, và bằng cách dõi bước theo  đà năng động của các mầu nhiệm Nhập thể, Phục sinh  và Hiện xuống.

10.01    Qua hành động mạc khải chính mình ra cho nhân loại  và thực hiện kế hoạch cứu độ trong lịch sử loài  người, Thiên Chúa đã thích nghi chính mình với bản  tính loài người cũng như với những lối sống  của chúng ta, đã mang lấy thời gian cùng những  trạng huống của chúng ta, và đã chia sẻ số  phận làm người như chúng ta. Lời Chúa đã được  đón nhận và truyền thông qua trung gian của các ngôn  ngữ và các nền văn hóa trong loài người, cũng  như đã được truyền thụ qua các biến cố trong lịch sử  nhân loại. Qua lịch sử của Ítraen và qua cuộc  đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập cuộc và dự  phần vào trong lịch sử loài người. Lịch sử  của Ítraen, như chúng ta đã biết, là một quá  trình liên tục dệt nên bởi những cuộc gặp gỡ  với hết mọi thực tại cuộc sống của các dân tộc và  các nền văn hóa lân cận.

10.02    Thế nên, sự việc Thiên Chúa tự thông truyền chính mình  cho chúng ta — một cách tuyệt đối và tối hậu qua mầu  nhiệm Nhập Thể của Con Một Ngài — như vậy, phải  được coi là mẫu mực cho mọi hình thức hiện diện và  hoạt động cứu độ của Thiên Chúa ở giữa lịch sử  loài người. “Ngôi Lời đã làm người  và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Từ eskenosen  (=ở) theo nghĩa đen muốn nói là “cắm lều”. Điều  này làm cho liên tưởng tới sự việc Chúa Yahvê  cư ngụ ở giữa dân Ítraen suốt cả cuộc hành  trình băng qua sa mạc và hoang địa hướng về Đất Hứa (Xh  40,34-38). Thư gửi giáo đoàn Do thái nói rằng Đức Giêsu  “đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng  như chúng ta, chỉ khác là đã không phạm tội” (Dt  4,15). Như vậy, Ngôi Con nhập thể đúng là Emmanuel ,  Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1, 23) và, như các  Giáo Phụ dạy: “để có thể ban những gì là của  Người cho ta, thì Người đã nhận lấy mọi sự của  ta làm của Người”.

10.03    Như thế, Nhập Thể là mẫu thức và là  tiến trình, là lý do và là động lực của hành  động Thiên Chúa hằng tiếp tục tự trao ban chính mình để cứu  độ, ở trong “thời trung đại”, tức là thời  gian lịch sử loài người kéo dài từ thời  đại Đức Kitô cho đến ngày Người quang lâm (parousia ),  cũng là thời kỳ của lịch sử Hội Thánh.  Do đó, trong lịch sử của mọi dân tộc, chúng ta có  bổn phận phải cố mà nhận cho ra diễn biến của  cùng một “định luật Nhập Thể” này. Tiến trình  và mẫu thức này được tiến hành ở nơi công  trình đưa đức tin và đời sống kitô hội nhập vào  trong văn hóa, tại mỗi Giáo Hội Địa Phương; và đó  chính là cuộc hiện thực hóa sự việc Thiên Chúa hiện  diện và hoạt động ban ơn cứu độ ở giữa lòng  lịch sử của mỗi dân tộc, và đó cũng chính  là cách thức dân tộc ấy và nền văn hóa của  họ đáp lại ơn Chúa gọi qua tiến trình lịch sử của  mình, ở trong Thân Thể Ngài là Hội Thánh. Theo  ý nghĩa này, mọi dân tộc đều được mời gọi để làm  công tác hội nhập văn hóa như là công cuộc thực hiện  ơn gọi của chính mình ở trong chương trình lịch sử  cứu độ, ngõ hầu tình trạng “viên mãn trong hiệp  nhất” của Hội Thánh (Catholica unitas ) được thành  sự.

10.04    Bởi vậy, mỗi Giáo Hội Địa Phương tự hiện thực  hóa chính mình qua tiến trình hội nhập văn hóa như thế: tức  là một tiến trình diễn biến theo “định luật”  hoặc là theo đà năng động của các mầu nhiệm Nhập  thể, Phục Sinh và Hiện xuống, cũng như của cuộc  đại quy tập muôn loài vào trong Đức Kitô (Ep 1,10).

10.05    Ngôi Lời Nhập Thể là chính Con Một của Thiên  Chúa mặc lấy tính chất cá biệt của loài người.  Ngôi Con thực sự đi vào trong một gia đình của loài  người, và như thế, Người khởi đầu một cuộc  đời con người, gắn chặt vào một miền xứ và  một nền văn hóa cá biệt, cũng như vào một khúc quanh  nhất định của lịch sử. Chào đời nhờ bởi  Lời và Thần Khí cũng như nhờ bởi hành  động của thừa tác vụ, Hội Thánh tiến bước trên nẻo  đường của chính mầu nhiệm Nhập Thể, và mặc lấy  trọn tính chất cá biệt của loài người mà mầu  nhiệm ấy đã mặc lấy. Như đã xẩy ra qua mầu nhiệm  Nhập Thể và từ đầu nơi Đức Giêsu, thì qua các thời  đại lịch sử, tại một nơi chốn và một thời gian  nhất định, theo đúng cùng một phương cách như vậy, Hội  Thánh cũng đã và đang tự hiện thực hóa chính mình  cùng hoàn thành sứ mạng cứu độ của mình ở  giữa trần thế.

10.06 Trong đời sống Đức Giêsu, mầu nhiệm Nhập Thể tiến  dần về với cuộc chịu khổ, chịu chết và sống lại. Vì đã  hoàn toàn tự hiến và tự hủy vì tùng phục  và yêu thương, nên Đức Giêsu đã trở nên nguồn  suối ban Thần Khí, sự sống và hiệp thông cho tất cả  những ai tin vào Người (2Cr 3,17; Ga 7,37-38). Như  thế, mầu nhiệm Phục sinh là quy luật và là ý  nghĩa của sự sống và của sứ mạng Hội Thánh. Vì  vậy, tiến trình nhập thể-nhập thế/hội nhập văn hóa cũng  đòi hỏi phải có tiến trình chết đi và sống  lại, ngõ hầu Hội Thánh và Giáo Hội Địa Phương tại  trong thời đại và trong môi trường của mình,  có thể thực sự trở thành dấu chỉ và khí cụ (ở  trong nền “văn hóa mới”) của sự sống và của  hiệp thông trong Thần Khí, là Đấng xuất phát từ Chúa  đã chịu chết và đã sống lại.

10.07    Thứ nhất: là dấu chỉ của công cuộc hội nhập  văn hóa đích thực, quá trình chết đi và sống lại ấy đòi  hỏi phải được áp dụng cho mọi dân tộc và nền  văn hóa của họ. Chỉ như vậy thì họ mới có thể bước vào  con đường làm môn đồ Đức Kitô và đón nhận chân  lý cùng sự sống của Tin Mừng để đưa vào trong  chính con người cũng như cuộc sống của mình. Vì những  giới hạn và tội lỗi của loài người, nên  tất yếu, văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng  đều mang theo trong những tín ngưỡng và giá trị,  trong những tục lệ và truyền thống của mình, những  nhân tố đi ngược lại với chính những gì hay đẹp nó chứa  đựng và có thể giúp cho con người được nên người  thực sự, cũng như đi ngược lại với những gì Tin Mừng  và Thần Khí mời gọi con người trở thành.  Thế nên, mọi nền văn hóa đều cần phải được tinh luyện,  và những gì trong chúng còn gây cản trở  hoặc làm giảm thiểu đi niềm hiệp thông (đối với Thiên  Chúa và đối với các dân tộc cùng các nền văn hóa  khác), thì đều phải được thanh lọc, tẩy xóa và lột  bỏ cho hết đi. Còn tất cả những gì tốt đẹp  và thực sự là thuộc về bản chất con người  thì đều phải được củng cố và làn cho nên hoàn  hảo. Như thế mới có lý để bàn tới hiện tượng chết  đi và sống lại đối với mọi nền văn hóa trong loài  người và đối với tất cả những thành tựu  của chúng — cũng như đối với cả những gì  là nhân loại trong Hội Thánh nữa.

10.08    Đúng như Gaudium et Spes đã nói rõ: “Tin  Mừng của Đức Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống  và văn hóa của con người đã sa ngã, đánh  dẹp và khử trừ các sai lạc và tai họa phát  sinh từ sức quyền rũ thường xuyên của tội  lỗi hằng mãi đe dọa. Tin Mừng không ngừng tinh  luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Còn những  tài năng và thiên tư tình thần của mọi và  mọi dân nước thì được Tin Mừng tiếp nhận và dùng  những ân huệ siêu nhiên mà làm cho nên phong phú  từ bên trong, cũng như được củng cố, bổ túc và  tái tạo trong Đức Kitô” (MV 58). Như thế, Tin Mừng  trở thành tiêu chí nhận định cho tiến trình tinh luyện  các nền văn hóa (xem TG 8).

10.09    Thứ hai: Còn có một tiến trình chết đi và sống  lại khác nữa, đó là tiến trình của chính Hội Thánh,  và để nói cho rõ hơn, là: của Hội Thánh “bằng  xương bằng thịt”, mang diện mạo và màu sắc cụ thể  của các nền văn hóa mình sống qua (tỷ dụ như là  văn hóa của một “Giáo Hội phái gửi người  đi truyền giáo” đối với hoàn cảnh trong các vùng  truyền giáo). Công cuộc hội nhập văn hoá đích thực không  có thể khởi đầu cũng như không có thể tiếp tục được,  trừ phi Hội Thánh chịu chấp nhận những giới hạn vì  thiếu hiểu biết, vì lầm lẫn hoặc là vì những lỗi  lầm do các phần tử của mình gây ra, và chịu sẳn  sàng chết đi trong bất cứ những gì ngấm ngầm đục khoét  dần đi tác vụ làm chứng cho Tin Mừng cùng cản  trở không để cho các nền văn hóa khác đón nhận Tin Mừng.  Hội Thánh không vượt lên trên, nhưng là hằng không ngừng  phục tùng Lời Chúa (xem MK 10). Cứ nhìn vào thực trạng bất lực hoặc bất tài để sống trọn vẹn Lời  Chúa, thì sẽ thấy rõ khả năng giới hạn của  Hội Thánh. Là điều thường thấy tỏ rõ mồn  một trong đời sống và trong sinh hoạt của Hội Thánh,  tính cách giới hạn này cũng hiện rõ đặc biệt  qua những lần Hội Thánh bắt buộc chấp nhận như là  Lời Chúa, ngay cả đến các nhân tố thuần túy văn  hóa mà mình đã mặc lấy, hoặc là trong những  khi, vì hẹp hòi, Hội Thánh đã tuyên bố cho rằng một  điều nào đó là không phù hợp với đức tin kitô,  chỉ vì điều ấy có vẻ đi ngược lại với phong cách và  đường lối mình đang theo. Do vậy, có nhiều lần Hội Thánh  đã bỏ lỡ mất đi dịp tốt để nhìn thấy những  “hạt giống đích thực của Lời Chúa” (semina  Verbi ) tiềm ẩn trong các nền văn hóa và các dân tộc  khác.

Lịch sử truyền giáo tại Á Châu trong thời  kỳ thực dân, đã minh họa đầy đủ về sự kiện này:  các sắc diện cá thể của “Giáo Hội phái gửi đi”  đã được đơn thuần đồng nhất hoá với bản chất của  đức tin và đời sống kitô; những nét nhân bản  tốt đẹp và cao quý tiền ẩn trong văn hóa của những  dân tộc vừa đón nhận Tin Mừng, lắm khi lại bị phán  xét như là ngoại đạo và trái nghịch với kitô giáo.  Vì thế, chính Hội Thánh cũng cần phải chết đi trong  những gì mà cuộc sống và cơ chế của mình còn  cản ngăn không cho thấu hiểu cùng đón nhận những  ý nghĩa và những giá trị tiềm ần nơi các nền văn  hóa coi như còn “mới” đối với mình, nhưng đồng thời  cũng được coi như là đã rộng mở cho mình nếu  mình biết giữ thái độ cởi mở và chịu sống  qua một thứ kinh nghiệm mới. Chỉ như vậy thì Tin Mừng và  đời sống trong Thần Khí mới được đón nhận theo một cách  thức mới mẻ vào trong tiến trình hội nhập văn hóa;  và nhờ thế, những hình thái mới của niềm tin  và đời sống kitô mới bừng phát lên một cách  đầy sáng tạo được.

10.10    Phép lạ Hiện xuống (Cv 2) cung ứng cho công trình hội  nhập văn hóa, một nền tảng kinh thánh. Hiện xuống biểu  thị tính chất hiệp nhất của Hội Thánh ở giữa những  khác biệt đa dạng làm nên niềm viên mãn của tính  chất công giáo (Catholica unitas ). Hiện xuống xây dựng  công giáo tính đích thực của Hội Thánh ở trên nền  móng sức năng sáng tạo của Thần Khí. Chỉ có một mình  Thần Khí mới đủ quyền năng để ban cho Hội Thánh có khả  năng trở nên một ở giữa những dân nước và  những chủng tộc khác biệt nhau, cũng như ở  giữa vô số những trạng huống muôn hình sắc. Bởi  lẽ, nói cho cùng thì mầu nhiệm công giáo tính của  Hội Thánh, như thấy thể hiện ra ở trong lịch sử loài  người, cũng phát nguyên từ sự hiện diện và  hoạt động của Thần Khí ở giữa lòng Hội Thánh.

Những cố gắng của con người nhằm kiến tạo một  mối hiệp thông hoàn vũ ngoài Thiên Chúa, rồi  cuối cùng cũng chỉ đưa đến hoặc là tình trạng đơn  điệu độc khối của tháp Babel ngày trước (St 11,1-9),  hoặc là một cảnh thái hỗn độn theo kiểu cá nhân  chủ nghĩa ngàn đầu vạn ý, như đã từng thấy  qua dòng lịch sử loài người. Chỉ có quyền năng  của Lời và Thần khí mới xây dựng được ngay ở  dưới đất này, một thế giới trong đó, con người sống  hiệp thông thực sự với nhau, ngõ hầu có đủ điều  kiện để đưa hết mọi giá trị phong phú trong các nền văn hóa  của loài người và các thành tựu của  chúng, đạt đến độ khai hoa kết quả và mức kiện toàn  viên mãn.

10.11    Hội Thánh là bí tích hiệp thông của mọi người  và của mọi dân tộc giữa họ với nhau và với  Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu (GH 1). Mối hiệp nhất ấy  sẽ được hình thành qua nhiều bước gặp gỡ và  trao đổi, thông cảm và đối thoại với nhau trong tinh  thần cởi mở đầy sáng tạo. Một cộng đoàn gồm  nhiều dân nước như vậy sẽ là một quang cảnh đảo  ngược của hỗn cảnh tháp Babel, bởi vì, đó sẽ  là một cuộc sum họp của mọi dân tộc với tất cả  những nét đặc thù và cá biệt, với tất cả  những tài năng phong phú muôn hình thái của họ.  Như vậy, tài năng thiên tư của mọi dân nước sẽ  đoàn tụ lại với nhau và cùng nhau chia sẻ tình  hiệp thông hoàn vũ thực sự, rồi cuối cùng, sẽ  được mang đến đặt ở dưới bệ chân của Thiên Chúa  Cha.

10.12   Thánh Thể là Bí tích của cuộc đại đoàn  tụ của toàn thể nhân loại với toàn bộ tạo vật  về với Đức Kitô (Ep 1,10). Thánh Thể xây đắp Thân Thể Đức  Kitô ở dưới đất này như là dấu tiên báo về niềm  hiệp thông viên mãn ở trong đời sống vĩnh cửu.  Qua các cố gắng đưa ra nhằm xúc tiến công cuộc hội nhập  văn hóa, Giáo Hội Địa Phương tiến dần tới cảnh hiệp thông  hoàn vũ ấy; vì nó phải được bắt đầu ngay ở  dưới đất này, nhưng sẽ được hoàn tất ở trong  Vương quốc sự sống và tình thương: ở trong thành  thánh trên trời mà Dân Chúa đang trên đường lữ  hành nhắm tới – ở trong niềm hiệp thông với Ba Ngôi  Thiên Chúa, là tiêu đích và là mức thành tựu  viên mãn của toàn bộ lịch sử loài người.  Và chung cục, đó chính là ân huệ nhưng không Thiên  Chúa đã tự ý ban cho chúng ta.
 
7. Luận đề 11

Qua cuộc gặp gỡ đầy năng động giữa Tin Mừng  và một dân tộc có một nền văn hóa cá biệt, mầu nhiệm  đơn nhất của Hội Thánh được hiện thực hóa ở trong  nhiều Giáo Hội Địa phương. Mỗi Giáo Hội Địa Phương là  Hội Thánh với thực thể toàn bộ và trọn vẹn (full  and integral) của mình, và Hội Thánh Toàn Vũ  là mối hiệp thông của các Giáo Hội Địa Phương, một  “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo Hội”, một giây hiệp  thông (thống nhất) các mối hiệp thông.

11.01 Đại hội khoáng đại lần thứ ba của FABC (FABC  III, Bangkok 1983) đã bàn thảo về một vài  “thành tố hằng tồn (hằng tố =constants ) trong  bản chất và đời sống của Hội Thánh” như  sau: hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi, tòng thuộc đối  với Tin Mừng và Thần Khí của Đức Giêsu, chủ  đích là làm môn đồ, tiến bước theo Thần Khí hướng  dẫn, kiến tạo và sinh sống nhờ các bí tích, hợp  tác và đồng liên đới trách nhiệm giữa mọi phần tử,  hiệp nhất với và dưới quyền các chủ chăn kế nhiệm  các tông đồ, liên kết với các cộng đồng đức tin khác, sứ  mạng giảng hoà trong và cho thế giới (FABC III, 7). Các nhân tố ấy miêu tả toàn bộ thực thể mà  danh từ “Hội Thánh” hàm ngụ; nơi nào hội  đủ các nhân tố ấy, thì nơi đó có Hội Thánh duy nhất  và phổ quát hiện diện với tất cả thể chất viên  mãn đặc thù của mình. Như vậy, các nhân tố ấy  cấu thành hình thái duy nhất và phổ quát làm mẫu  mực cho việc kiến tạo của hết mọi Giáo Hội Địa Phương  (xem GH 23). Cộng đồng nào thiếu một trong các thành  tố trên đây, thì tất thiếu hẳn điều kiện thiết yếu để trở  thành Hội Thánh của Đức Kitô. Hội đủ hết các  thành tố ấy, thì bất cứ đoàn thể tín hữu địa phương  nào cũng đều lập tức được coi là Hội Thánh của  Đức Kitô. “Hội Thánh hiện diện ở nhiều nơi, nhưng  không phải là có nhiều Hội Thánh; toàn bộ Hội  Thánh có mặt ở trong mỗi thành phần (=cộng đồng):  một trong nhiều, và toàn vẹn ở trong mỗi một  thành phần, theo một cách thức nhiệm mầu” (Henri de  Lubac, Splendour of the Church , New York, Sheed & Ward 1956,  tr. 105).

11.02    Công đồng đã mạnh mẽ nói lên chân lý này  khi dạy rằng Hội Thánh duy nhất và phổ quát hiện diện  tại trong và rộng ra ngoài các Giáo Hội Địa Phương  (GH 23): đó là lời một khẳng định cần phải được  cân nhắc một cách hết sức cẩn trọng mới tránh được khỏi  rơi vào tình trạng lẫn lộn ý niệm công-giáo-tính với  bất cứ những mẫu thức hiệp nhất và phổ quát  nào khác. Ủy Ban Thần học Quốc tế giải thích rằng:

“Cần phải phân biệt tính chất phổ quát công  giáo với những hình thức phổ quát giả hiệu theo  kiểu những chủ thuyết cực quyền, những hệ thống  duy vật, hay là những ý thức hệ lừa bịp về khoa  học và kỹ thuật, hoặc là những sách lược  của bất cứ một đế quốc chủ nghĩa nào đó. Cũng  không được lẫn lộn công-giáo-tính với tình trạng độc  dạng đơn điệu có khuynh hướng hủy bỏ hết những  nét cá biệt chính đáng, hoặc là đồng hóa tính chất ấy  với chủ trương nhất định đòi cho được quyền giữ  lại hết thảy những gì là dị biệt, tức là với  một lập trường trực tiếp đe dọa đến cốt tủy của  mối hiệp nhất (trong Hội Thánh) (L”unique église du Christ,  tr. 35).

Không phải là: trước tiên có một Hội Thánh Hoàn  Vũ, rồi sau đó, do những thể thức phân lập hành  chánh nào đó, mới có các Giáo Hội Địa Phương. Mối liên  hệ giữa một Giáo Hội Địa Phương với Hội Thánh Hoàn  Vũ là hoàn toàn khác hẳn với cách thức một  tiểu bang hoặc một tỉnh liên hệ với một quốc gia. Cũng  không phải là trước tiên có các Giáo Hội Địa Phương,  rồi sau đó, nhờ phương cách liên minh, Hội Thánh Hoàn  Vũ mới thành hình. Hội Thánh Hoàn Vũ không  phải đơn thuần là một tổng số của hết các Giáo  Hội Địa Phương. Mỗi một Giáo Hội Địa Phương chính là  thực thể toàn bộ và trọn vẹn của mầu nhiệm hiệp  thông trong Đức Kitô, còn Hội Thánh Hoàn Vũ thì  chính là giây hiệp thông (thống nhất) các mối hiệp thông,  tức là: một “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo hội”.

11.03    Kinh Thánh cho thấy một mẫu thức của mầu nhiệm  này: đó là biến cố Hiện xuống. Hội Thánh đã  chào đời tại một nơi được xác định rõ ràng  là thành phố Giêrusalem, trong giờ phút Thần Khí  hiện xuống trên các môn đệ, và trong lúc họ bắt đầu  tường thuật về các kỳ công của Thiên Chúa. Nhưng,  đang khi họ cùng chung nhau loan báo một sứ điệp duy nhất,  thì sứ điệp ấy lại được nghe biết trong mọi tiếng nói trên  trần thế, và được đại diện của mọi dân nước tin  nhận. Như vậy, ngay từ giây phút mới chào đời,  Hội Thánh đã mang tính chất cả địa phương lẫn hoàn  vũ. Và Sách Công vụ Tông đồ tiếp tục tường thuật  cho thấy là những gì đã xảy ra trong mầu nhiệm  vào lúc khai nguyên Hội Thánh, thì cũng đã xảy  ra trong tất cả những nơi khác có Tin Mừng đặt  chân tới, đặc biệt là tại những chân trời của  thế giới các anh chị em lương dân, vượt ra ngoài biên cương  của Do thái giáo. Hội Thánh duy nhất vẫn mãi duy  nhất, cho dù các Giáo Hội có tăng số ngày càng  nhiều.
 
8. Luận đề 12

Nói rằng Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình  hội nhập văn hóa có nghĩa là Hội Thánh duy nhất và  công giáo được sinh ra bởi Lời của Đức Kitô, bởi  ơn của Thần Khí và do Thừa tác vụ tông đồ, vào  một thời điểm nhất định, tại một nơi cụ thể và trong  một nền văn hóa cá biệt.

12.01    Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình hội nhập  văn hóa, và dĩ nhiên là sự kiện này gồm hàm  cả cuộc gặp gỡ đa diện giữa Tin Mừng với những  thực tại và trào lưu trong nền văn hóa cũng như  trong dòng lịch sử đương thời: dó là những  đề tài đã được khai triển qua các suy tư trên đây  của chúng tôi. Bây giờ, chúng tôi xin quay trở  lại với một quan niệm thần học cơ bản về cách Giáo Hội  Địa Phương hình thành vừa như là một ân huệ mà  cũng vừa như là một tác vụ: ân huệ Thiên Chúa  ban và tác vụ chúng ta đảm nhận.

12.02    Trước đây, chúng tôi đã lược kê ra (luận đề 3)  các nguyên lý tác tạo nên Hội Thánh, đó là: tiếng gọi  của Thiên Chúa, Lời của Đức Kitô, ơn của Thần  Khí, và thừa tác vụ tông đồ. Các nhân tố ấy cấu  thành Hội Thánh theo bản sắc một cộng đồng cá thể  ở trong thế giới, và làm cho nhiều Giáo Hội thành  có một Hội Thánh mà thôi. Các Giáo Hội biểu thị cho  thấy các nguyên lý qua đó, Hội Thánh thật là công trình  của Thiên Chúa, creatura Verbi, Ecclesia de Trinitate ,  một ân huệ mà chúng ta đón nhận với tất cả lòng  biết ơn sâu xa.

12.03    Nhưng công trình này của Thiên Chúa chỉ được hiện  thực hóa tại trong các cộng đoàn tín hữu cụ thể;  trong đó, ơn của Chúa làm cho họ có khả năng để  hoạt động như “một cộng đoàn sống niềm tin-cậy-mến”  (GH 8). Hội Thánh phát nguyên từ ý định của  Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate ), chỉ hiện hữu  thực sự ở nơi Hội Thánh “họp thành” từ  những con người (ecclesia ex hominibus ), làm  nên công trình của loài người trong việc nhờ  vào Lời Chúa và ơn của Ngài mà kiến  tạo nên một cộng đồng vừa mới mẻ lại vừa siêu  việt. Những gì Thiên Chúa ban cho trong các nguyện lý cấu  thành làm phát sinh nên Hội Thánh, thì đó cũng  chính là những gì mà con người cần phải  làm cho nên trọn qua thái độ tự do đón nhận và sống  niềm tin-cậy-mến của mình.

12.04    Vì thế, bao lâu một cách thức quan niệm về giáo hội  học chưa lưu tâm đủ đến các biến cố cụ thể qua đó tự  do của Thiên Chúa gặp gỡ với tự do của con người  để làm phát sinh nên các Giáo Hội Địa Phương, thì bấy  nhiêu lâu cách thức ấy vẫn còn bị giam hãm ở  trong vòng trừu tượng mơ hồ. Không phải ơn huệ  của Chúa đơn thuần làm phát sinh ra Hội Thánh; các  ơn huê ấy phải được những cộng đoàn sống niềm  tin-cậy-mến cụ thể đón nhận làm của riêng mình; và  đó là một điều không bao giờ có thể xẩy ra trên  bình diện trừu tượng hoặc theo một mức độ tổng quát nào  đó được. Điều đó xẩy ra khi Lời Đức Kitô được rao giảng  tại trong những cảnh huống cụ thể để soi sáng và  cải hóa, để củng cố và làm giàu một cách  thiết thực cho những cãnh huống ấy. Điều đó xẩy ra  khi có những người, một khi đã được Thần Khí đánh  động và soi dẫn, thì biết nhận ra ở trong Lời  giảng, một ánh sáng để dẫn lối cho mình, và một  lời hứa để mà hy vọng. Điều đó xẩy ra khi kinh nghiệm  về hiệp thông kitô, đặc biệt là qua cuộc họp mặt Thánh Thể, đạt tới mức độ chữa lành những thái độ  tha hóa, và làm cho những kinh nghiệm đích thực  đã sẵn có về cuộc sống cộng đoàn được thêm phong  phú hơn. Điều đó xẩy ra khi một cộng đoàn đức tin dù  phải sống trong những bối cảnh văn hóa riêng biệt  và phải đối phó với những thách đố đặc biệt,  mà vẫn biết nhớ lại kỷ niệm của Đức Kitô  và bước theo niền hy vọng Ngài mang lại, để đảm  nhận những công tác cụ thể đối với lịch sử và  xã hội. Đấy là cách thức Hội Thánh được gầy dựng  nên, hoài mãi không ngừng, từ thế hệ này  sang thế hệ khác, và cả mỗi ngày nữa.  Hội Thánh Công giáo được gầy dựng nên trong và qua cuộc  hình thành mỗi ngày như thế của các Giáo Hội  Địa Phương.

12.05    Đó cũng là phần nào lý do tại sao cuộc họp  mặt Thánh Thể luôn luôn được coi như là hình mẫu của  Hội Thánh. Luôn luôn Thánh Thể được cử hành trong  một thời gian và tại một nơi chốn nhất định, và  do những cộng đoàn tín hữu cụ thể. Một giảng  viên có thể giải thích một đoạn Kinh Thánh, mà ngày  ấy cũng được đọc lên tại tất cả mọi cuộc họp mặt  khác trên khắp thế giới; nhưng người giảng viên ấy  chỉ cắt nghĩa Lời kia của Thiên Chúa như là tấm  Bánh sự sống được ban cho cuộc họp mặt ở đây mà  thôi; và một lần nữa, cộng đoàn đức tin hình thành  khi cử tọa cuộc họp mặt đón nhận Lời được công bố  cùng giải thích và cùng nhau đồng thanh đọc  lên kinh Tin Kính (Lời kinh Tuyên Tín) để tự do tuyên xưng  đức tin của mình. Lúc Bánh hằng sống lại được bẻ  ra để phân chia cho họ trong kinh nguyện Thánh Thể trọng đại,  thì một lần nữa, họ lại được kết hợp với nhau qua lời  thưa Amen cũng như qua việc rước lấy cùng một Bánh;  và như thế, vượt lên trên những gì là cá thể  của mình và khắc phục hết mọi nguyên nhân tha hóa  gặp phải, họ trở nên chính Thân Thể của Đức Kitô.  Chẳng thế mà châm ngôn người kitô thời xưa nói  rằng: “Hội Thánh làm (cử hành) Thánh Thể;  còn Thánh Thể thì làm nên Hội Thánh” (Ecclesia  facit eucharistiam, eucharistia facit ecclesiam ).

12.06    Như Hội Thánh duy nhất chỉ hình thành trong và  qua việc hình thành của các Giáo Hội, thì cũng  vậy, Hội Thánh duy nhất chỉ có thể chu tất sứ mệnh cứu độ  của mình trong và qua các sứ mệnh của nhiều Giáo  Hội Địa Phương mà thôi. Hội Thánh chỉ thực sự là “bí  tích phổ quát của ơn cứu độ” (GH 48), khi mà  sống trong những trạng huống cụ thể khác nhau, các Giáo  Hội Địa Phương vẫn biết đảm trách việc “tìm hiểu  những dấu chỉ của thời đại (mình đang sống) và  giải thích chúng theo ánh sáng của Phúc Âm”  (MV 4). Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã kết thúc  bản thảo luận rất xác đáng bàn về mối liên quan  giữa Hội Thánh được hiểu như là một mầu nhiệm và  Hội Thánh theo tư thế là một chủ thể lịch sử,  với đoạn viết sâu sắc và sáng suốt như sau:

“Đặc tính Dân mới của Thiên Chúa không nằm  ở chỗ có một lối sống hoặc là một sứ mạng khả  dĩ thay thế cho lối sống hay cho những dự án đã sẳn  có của loài người. Trái lại, lòng hoài  niệm và niềm trông chờ Đức Kitô phải là những  động lực có sức biến cải và đổi thay, từ bên  trong, lối sống và các dự án loài người đang được  một nhóm dân chúng theo đuổi. Nếu thế, thì có thể nói rằng  lòng hoài niệm và niềm trông chờ Đức Giêsu  Kitô, tức là những gì làm cho Dân mới của  Thiên Chúa sinh tồn, cũng là những gì làm nên  cái mà Phái Kinh viện gọi là yếu tố “mô thức”,  tức là yếu tố cấu tạo nên cuộc hiện hữu cụ thể  của con người. Còn lối sống và các dự án  nói trên đây thì phần nào cũng giống như cái mà  họ gọi là “chất thể”, lẽ dĩ nhiên là có  tự do và trách nhiệm, và chúng sẽ nhận được những  định tố khác nhau để làm nên một lối sống “theo Thần  Khí”. Các lối sống này không hiện hữu một cách  tiên thiên, và cũng không thể đặt định trước được.  Chúng rất khác nhau và vì thế, không bao giờ có thể  đoán trước được, cho dù luôn luôn chúng có liên hệ với  hoạt động liên tục của cùng một Thần Khí. Trái lại,  có một điểm chung và thường trực trong các lối sống  ấy, là chúng biểu thị những đòi hỏi và  những niềm vui mà Tin Mừng Đức Kitô ra “giữa  những cảnh sống thường nhật trong gia đình và  ngoài xã hội, tức là ra giữa những gì làm  như dệt thành cuộc sống của họ” (GH31) (L”unique  Eglise du Christ, tr. 25).

Mầu nhiệm duy nhất và công giáo của Hội Thánh trở  thành thiết thực hữu hiệu về mặt hoạt động cứu độ  qua sự việc các Giáo Hội Địa Phương thi hành trách vụ  của mình ở giữa dòng lịch sử.

12.07    Việc Công đồng phục hồi ý nghĩa của công-giáo-tính  cụ thể như thế, đặc biệt là sau nhiều thế kỷ đi theo  chiều hướng tập quyền và độc dạng, đã khiến cho khắp  nơi trong Hội Thánh, biết quan tâm trở lại đối với hai  nhân tố chủ yếu của sự việc Hội Thánh duy nhất phát  sinh ở trong và từ nhiều Giáo Hội khác nhau. Nhân  tố thứ nhất là công tác hội nhập văn hóa ,  tức là đề tài của các luận đề từ 5 đến 9  trên đây.

12.08    Và nhân tố thứ hai là việc khám phá và  ý thức lại, về quyền tự trị chính đáng của các  Giáo Hội Địa Phương. Điểm này đã được nêu rõ trong  bản tuyên ngôn của Thượng Hội Đồng Giám mục Thế  giới, nhóm họp năm 1985: Bởi vì Hội Thánh là một  cộng đồng hiệp thông, nên mọi tầng lớp đều có bổn phận  hợp tác và cùng chia sẻ trách nhiệm chung. Không  một phần tử nào được quyền giữ thế thụ động  đối với việc phát sinh và xây dựng Hội Thánh (xem TĐ  2). Điều đó đúng đối với hết thảy mọi tầng lớp trong  Hội Thánh: từ các giáo đoàn cơ bản (xem luận đề  9 trên đây) cho đến giáo xứ, từ giáo xứ cho đến giáo  phận, từ giáo phận cho tới các nhóm của mỗi miền,  từ miền cho đến cộng đồng hiệp thông toàn vũ  chung quanh Giám mục Roma. Nơi nào có tình trạng chối bỏ  hoặc cản trở việc hợp tác và chia sẻ trách  nhiệm chung như vậy, hay là từ chối không để cho các  cơ cấu thể chế được triển dương đúng mức, thì nơi ấy việc  thể hiện công giáo tính cụ thể cũng như mức độ sáng  tỏ của niềm hiệp nhất công giáo — tức là  tính chất catholica unitas mà các Giáo phụ đã  từng hết lời ca tụng — sẽ bị thiếu mất đi một  điều gì đó.