GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU
Chuyển dịch: Ngô Minh
***
***
III. VIỆC PHÁT SINH, CUỘC SỐNG VÀ SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
1. Luần đề 5
Giáo Hội Địa Phương là một Giáo Hội hình thành và được xây dựng qua cuộc gặp gỡ sâu đậm — có sức làm cho cả hai bên nên phong phú thêm — giữa Tin Mừng và một dân tộc có văn hóa cùng truyền thống riêng. Theo cách nói thông thường của thần học và Huấn quyền, thì điều đó được gọi là công cuộc hội nhập văn hóa (inculturation). Công cuộc hội nhập văn hóa này không phải chỉ đơn thuần là việc dùng phương cách của văn hóa địa phương để biểu đạt Tin Mừng và đức tin kitô mà thôi, nhưng còn bao gồm cả việc tiếp xúc qua kinh nghiệm và am hiểu các thực tại ấy, cũng như việc tiếp nhận chúng làm của mình qua trung gian các tài năng văn hóa của một dân tộc nữa. Kết quả là: một đàng, Giáo Hội địa phương sẽ mang hình thái ghi đậm những nét đặc thù của văn hóa địa phương; và đàng khác, văn hóa sẽ được phúc âm hóa nhờ đời sống và hoạt động làm chứng của Giáo Hội Địa Phương.
5.01 Hội nhập văn hóa là điều thiết yếu đối với việc tự hiện thực hóa (self-realization ) và phát triển của các Giáo Hội. Vì thế, trong khắp thế giới, đặc biệt là trong các nước đang mở mang, hiện đang có nhiều nổ lực nhằm thực hiện những cuộc thử nghiệm trong công tác bản xứ hóa (to contextualize ) đời sống và sứ mạng của Giáo Hội bằng cách đem đức tin và văn hóa địa phương xích lại gần nhau hơn. Thật vậy, trong Đại Hội lần đầu của FABC, các Giám mục Á Châu đã miêu tả Giáo Hội Địa Phương như là “một Giáo Hội nhập thể thực sự vào giữa lòng của một dân tộc, là một Giáo Hội bản xứ và đã thành công trong nổ lực hội nhập văn hóa. Cụ thể mà nói, thì đó là một Giáo Hội hằng không ngừng lấy thái độ khiêm hạ và yêu mến mà đối thoại với các truyền thống, với các nền văn hóa cũng như với các tôn giáo, và, tắt một lời, với hết thảy mọi thực tại cuộc sống của người dân ở nơi Giáo Hội đang đâm rễ sâu, và đang hân hoan tiếp nhận lịch sử cùng nhịp sống của họ làm của mình” (số 12).
Đối với các Giáo Hội Á Châu, công tác hội nhập văn hóa là một công tác có tính cách vừa thách đố vừa gấp rút xét vì quá trình kéo dài nhiều thế kỷ ghẻ lạnh đối với văn hóa địa phương suốt trong dòng lịch sử truyền giáo thời thuộc địa, cũng như xét vì bối cảnh thức tỉnh văn hóa hiện đang bừng dậy tại nhiều dân tộc Á Châu.
5.02 Nổ lực hội nhập hóa có thể rút được nhiều cảm hứng từ những mẫu thái độ hành động của hai cha Mattêo Ricci ở Trung Hoa và Roberto de Nobili ở Ấn độ, cho dù trong thời đó, tầm hiểu biết của hai vị về mối quan hệ giữa Tin Mừng và văn hóa có còn hạn hẹp. Hai nhà truyền giáo vĩ đại này tại Á châu, đã chủ yếu áp dụng phương pháp thích nghi để cố gắng dùng ngôn ngữ cũng như những ý niệm rút ra từ văn hóa của một dân tộc, mà truyền đạt Tin Mừng và các chân lý mặc khải. Công cuộc hội nhập văn hóa còn tiến sâu hơn việc thích nghi bội phần, vì nó gồm hàm cả việc gặp gỡ giữa văn với Tin Mừng; và có một tầm bao quát rộng hơn, vì nó xác định rõ tiến trình hình thành và phát triển của Giáo Hội ở giữa lòng một dân tộc.
5.03 Ngày nay, các nổ lực nhắm tới việc xây dựng những Giáo Hội Địa Phương đích thực qua công trình hội nhập văn hóa, đều lần bước theo nhãn quan, tinh thần và các kỹ thuật Công đồng Vaticanô II đã đề ra, đặc biệt là qua các văn kiện Lumen Gentium (GH), Gaudium et Spes và Ad Gentes (TG). Hiến Chế về Giáo Hội (GH) nhìn mối quan hệ của Hội Thánh với các nền văn hóa và các truyền thống theo nhãn quan của mối hiệp nhất giữa toàn thể nhân loại (mà Hội Thánh là bí tích/dấu chỉ), và của tính chất hoàn vũ nơi Hội Thánh, trong đó, hết thảy mọi phần tử cá biệt với những đặc nét văn hóa, di sản và tài năng khác nhau, đều hiệp thông với nhau (GH 13). Còn trong Hiến Chế mục vụ (MV), thay vì giữ quan niệm hẹp hòi về văn hóa, coi đó đơn thuần như là một nổ lực trau dồi trí lực qua đường lối giáo dục và việc học tập các khoa nhân văn, v.v., để đối chiếu với người không học hành, không văn minh và “dân bán khai” (Naturvoelker ), thì Công đồng đã dựa theo các chiều kích lịch sử, xã hội và nhân chủng học mà miêu tả văn hóa. Các chiều kích này giữ một vai hết sức trọng yếu trong việc tìm hiểu về mối tương quan giữa Giáo Hội Địa Phương và các nền văn hóa. Và cuối cùng, qua Sắc Lệnh về Truyền Giáo (TG), Công đồng quan niệm các Giáo Hội Địa Phương như là những thực thể đang nảy sinh từ cuộc gặp gỡ của Lời Chúa với các nền văn hóa và các truyền thống của các dân tộc, và đồng thời nhấn mạnh rằng cần phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc hội nhập văn hoá vào trong các lãnh vực khác nhau của đời sống và sứ mạng kitô (TG 19-22).
Trong những lần nhóm họp tại Roma, Thượng Hội Đồng Giám mục Thế giới cũng đã chú trọng nhiều đến chủ đề “hội nhập văn hóa”, đặc biệt là trong lần họp để bàn về sứ mạng rao giảng Tin Mừng, và qua Tông Huấn Evangelii nuntiandi ban hành tiếp sau đó. Qua các cuộc viếng thăm mục vụ của ngài, nhất là khi đi Á Châu và Phi Châu, và qua các bài nói chuyện nhân dịp đó, Đ.G.H. Gioan Phaolô II cũng đã nêu bật tầm thiết yếu của công tác hội nhập văn hoá tại các Giáo Hội Địa Phương, cũng như của công trình phúc âm hóa các nền văn hóa.
5.04 Chỉ khi nào Tin Mừng gặp gỡ được với văn hóa của một dân tộc, thì lúc đó Giáo Hội Địa Phương mới thực sự được khai sinh và thiết lập. Gặp gỡ nói lên tính chất hai chiều và qua lại . Những truyền thống, biểu tượng, cơ chế, phong tục, thái độ, v.v. khác nhau của một dân tộc thì phát nguyên từ tâm hồn, từ tinh thần của chính dân tộc ấy. Tin Mừng gặp gỡ với văn hóa không phải đơn thuần bằng cách đón nhận những hình thức và biểu tượng bề ngoài không thôi của một dân tộc, nhưng là bằng cách tiến sâu vào trong tinh thần và tâm hồn mà các hình thức và các biểu tượng ấy diễn đạt và biểu thị. Khi văn hóa và Tin Mừng đối thoại và gặp gỡ với nhau tận trong “thâm cung tâm hồn” của một dân tộc, thì lúc đó Giáo Hội Địa Phương đích thực có thể nẩy sinh lên. Một cuộc gặp gỡ như thế cũng là một cơ hội làm quen với vũ trụ quan của một dân tộc, tức là với nguồn cội của các hình thái văn hóa. Cũng chính nhờ vũ trụ quan ấy mà các phần bộ khác nhau trong một nền văn hóa được liên kết lại với nhau một cách có cơ cấu để làm nên một toàn bộ. Vũ trụ quan biểu hiện ở trong cách thức tổ chức địa phương, ở trong các thể chế, các cơ cấu, v.v. của một nhóm văn hóa.
5.05 Quan niệm mối tương quan giữa Tin Mừng và văn hóa như là một cuộc gặp gỡ , là cùng lúc nói lên sự việc văn hóa có quyền tự trị chính đáng với bản sắc riêng của mình. Vì trong tư cách là sản phẩm của trí tuệ con người tác động lên trên thiên nhiên và sáng tạo ra nhiều dụng cụ, nhiều thể chế, nhiều mối liên hệ trong xã hội, nhiều lối sống, v.v… khác nhau, văn hóa thực sự là một thành phần trong kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Ngoài ra, văn hóa của dân tộc nào cũng nhằm tới một thiên hướng chung, đó là: góp phần vào trong cuộc sống và ích chung của gia đình nhân loại duy nhất, mỗi dân nước theo một cách thức đặc thù. Mỗi văn hóa biểu lộ theo một cách thức riêng, tính chất phong phú của bản sắc loài người (huma-num ), và vì thế, cần phải được tôn trọng và bảo dưỡng.
5.06 Từ những gì vừa trình bày trên đây, có thể thấy rõ được rằng vì bắt nguồn từ kế hoạch Thiên Chúa sáng tạo con người và thiên nhiên, nên văn hóa phải được tôn trọng vì chính tiêu đích nội tại của nó, chứ không phải chỉ được đơn thuần coi như là một thứ phương tiện cho một cái gì khác. Cũng không được tách riêng các cấu tố làm nên một nền văn hóa ra khỏi tổng thể hữu cơ của chúng. Cho nên, công trình hội nhập văn hóa không thể nào thuần túy là một tiến trình chỉ biết kén chọn một số nhân tố đặc biệt nào đó của văn hóa để làm như một trang phục tiêu biểu khoác lên cho Tin Mừng. Hội nhập văn hoá theo kiểu ấy chỉ có tính cách hoàn toàn bên ngoài và nông cạn, vì không biết tôn trọng tâm hồn sâu thẳm bên trong và tính chất cấu trúc của văn hóa.
5.07 Không những mỗi văn hóa mang lại cho chúng ta một lối ngõ mới để tìm hiểu về con người, mà còn mở ra nhiều con đường mới để thấu hiểu về nguồn phong phú khôn lường của Tin Mừng nữa. Khi Tin Mừng gặp gỡ với truyền thống, thì kinh nghiệm và văn hóa của một dân tộc sẽ bừng dậy với những tiềm năng quý giá còn chưa được phát hiện của mình; nhiều khả năng và ý nghĩa vẫn còn ẩn khuất cho tới lúc ấy, sẽ lộ diện rõ ra. Chính vì thế, có một điều hết sức quan trọng cần phải làm, là dựa theo tiềm năng văn hóa của mỗi dân tộc mà giải thích Tin Mừng; nhờ vậy, Truyền thống kitô sẽ được phong phú thêm.
Nhìn theo nhãn quan này, thì Giáo Hội Địa Phương cũng có thể được coi như là một hình thức đầy mới mẻ và sáng tạo của công trình tái hiện tại hóa (reactualization ) và tái giải thích (reinterpretation ) Tin Mừng và đức tin. Cách tái giải thích này không phải là một bước cắt đứt dứt khoát với Truyền thống, nhưng là một tiến trình liên tục tiếp diễn theo cấu trúc của nó, bởi vì quá khứ sẽ được kinh nghiệm hiện tại của một Giáo Hội Địa Phương tái thủ đắc (repossessed ) và phục hoạt (reactivated ) trở lại. Còn Truyền thống và di sản của quá khứ, thay vì gây cản trở, thì sẽ trở thành nguồn trợ lực cho đời sống ngày nay của Giáo Hội Địa Phương, trong đó, Chúa Phục Sinh và Thần Khí của Ngài đang cư ngụ và hoạt động.
5.08 Chỉ khi nào Tin Mừng và đức tin được cảm nghiệm và thấu hiểu qua các vốn liếng văn hóa của một dân tộc, thì lúc đó cuộc gặp gỡ nói trên mới thực sự trở thành sâu đậm được. Đó không những là một nguyện vọng, mà còn là một điều thiết yếu nữa. Bởi vì, hễ đã sinh ra làm người ở trong một bối cảnh lịch sử và một truyền thống nhất định, thì con người không thể nào nhận thức được chân lý, không thể nào hiểu biết và cảm nghiệm được thực tại cuộc sống —kể cả Tin Mừng và đức tin— mà không nhờ đến trung gian của một nền văn hóa cụ thể. Nói cách khác, việc thực sự thấu hiểu Lời Chúa và thái độ đáp ứng thiết thực bằng lòng tin chỉ có thể xẩy ra được ở giữa một dân tộc, qua vốn liếng văn hóa họ có: đó chính là cách thức biểu hiện của những kinh nghiệm và những truyền thống riêng họ. Các kinh nghiệm và truyền thống này là những tiêu chuẩn đối chiếu để dựa theo đó mà giải thích, tiếp nhận và hấp thu các kinh nghiệm và các biến cố mới. Nói cách khác, những dữ liệu, tức là những biến cố và kinh nghiệm mới sẽ được tổ chức hoặc — nói cho đúng hơn — được tổ chức lại, được tái cấu trúc theo thiên tư và lề lối tư tưởng riêng của một nhóm hoặc một dân tộc. Điều này cũng có thể được áp dụng cho trường hợp gặp gỡ giữa Tin Mừng với văn hóa của một nhóm, của một quốc gia hoặc một dân tộc.
5.09 Nếu Tin Mừng và văn hóa gặp gỡ nhau như thế, thì hình thái cụ thể của Giáo Hội Địa Phương tất cũng phải khuôn rập theo các điều kiện văn hóa của dân tộc ở nơi Giáo Hội đâm rễ. Sự việc Giáo Hội Địa Phương mặc lấy xương thịt của thân mình văn hóa một dân tộc sẽ làm cho Giáo Hội ấy mang những nét biểu trưng đặc thù khác biệt với các Giáo Hội khác. Như vậy, mỗi Giáo Hội Địa Phương sẽ mang ấn tín nền văn hóa của nơi mình đang nhập thể vào. Thế nên, các nền văn hóa khác nhau thế nào, thì các Giáo Hội Địa Phương cũng khác biệt nhau như vậy, cho dù hết thảy mọi Giáo Hội đều chia sẻ cùng một Tin Mừng, cùng một đức tin, cùng một lễ tạ ơn, v.v. Như vậy, niềm hiệp thông hoàn vũ giữa các Giáo Hội cũng chính là việc thông dự vào trong thực trạng đa dạng của các nền văn hóa và các truyền thống khác biệt nhau. Trong bài nói chuyện ngày 21 tháng, 1984, Đ.G.H. Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Khó mà diễn đạt chính mình cho rõ ràng và sâu xa hơn được: Hội Thánh Hoàn Vũ được giới thiệu như là một mối hiệp thông giữa các Giáo Hội (cá biệt), và một cách gián tiếp, như là một cộng đồng các quốc gia, các ngôn ngữ, các nền văn hóa …” (Documentation Catholique số 1989 (1985) 167-172).
5.10 Trong tiến trình Giáo Hội Địa Phương tự hiện thực hóa chính mình (self-realization ) bằng phương thức hội nhập văn hóa, cần phải lưu ý đến hai khía cạnh này: thứ nhất, có mang hình thái cụ thể của một nền văn hóa nào đó, thì Tin Mừng mới được nhận ra; vì Tin Mừng không phải là một thực thể trừu tượng, mà là một thực tại cụ thể, được thể hiện nơi lòng tin mà một dân tộc đã tiếp nhận và nói lên qua bối cảnh văn hóa của mình. Vì vậy, trong thực thế, khi một dân tộc gặp gỡ với Tin Mừng, thì cùng lúc, cũng gặp gỡ luôn với một nền văn hóa khác đã được thấm nhuần bởi đức tin. Do đó, có tác giả đã thích dùng từ “hòa nhập văn hóa”( interculturation ) hơn là từ “hội nhập văn hóa” (inculturation ). Trong văn kiện này, chúng tôi dùng thành ngữ “hội nhập văn hóa” như là một ý niệm bao hàm cả sự kiện “các nền văn hóa gặp nhau” nữa.
5.11 Điều thứ hai cần lưu ý là không phải bao giờ Tin Mừng cũng cần gặp cho được một văn hóa thuần nhất; có thể xẩy ra là Tin Mừng gặp gỡ với những nhóm thuộc nhiều bộ tộc khác nhau, thuộc nhiều tiếng nói hoặc văn hóa khác nhau, nhưng lại sống trong cùng một nơi. Chính thế, tại nhiều nước ở Á châu, chúng ta thấy có những nhóm thuộc các chủng tộc và văn hóa khác nhau ở trong cùng một Giáo Hội Địa Phương. Thực trạng ghép mảnh gồm nhiều ngôn ngữ, văn hóa và chủng tộc như thế làm cho Giáo Hội Địa Phương càng trở nên phong phú hơn nhiều.
Tiến trình hội nhập văn hóa có bổn phận phải quan tâm đến thực trạng này, cũng như cần phải lưu ý đến đà biến hóa và phát triển của các nhóm ấy, vì họ thực sự là những thành phần của một miền hoặc một quốc gia. Trong trường hợp có đụng độ xảy ra giữa các bản sắc chủng tộc hay văn hóa khác nhau, Giáo Hội Địa Phương có thể đóng vai trung gian giảng hòa và hợp nhất, bằng cách cố công làm mối giây hiệp thông giữa những nền văn hóa và truyền thống khác nhau; nhờ đó, Giáo Hội sẽ hình thành bản sắc riêng của mình, tức là bản sắc đặc thù của một Giáo Hội Địa Phương. Trong những môi trường có nhiều bộ tộc, có nhiều thứ ngôn ngữ và nhiều ảnh hưởng văn hóa khác nhau cùng sinh hoạt với nhau, thì tác vụ hội nhập văn hoá cũng còn bao gồm cả việc cổ vũ xây dựng cho tinh thần hòa hợp và thông hiệp nữa.
5.12 Nếu Giáo Hội Địa Phương là thành quả của tác động qua lại giữa Tin Mừng và văn hóa, thì nói rằng văn hóa ảnh hưởng đến hình thái của Giáo Hội Địa Phương là chưa nói cho đầy đủ: còn cần phải nói thêm là Tin Mừng cũng ảnh hưởng đến cả văn hóa nữa. Là Lời Thiên Chúa, Tin Mừng làm nổi bật và nâng cao văn hóa, nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách đố cho một số giá trị, thể chế, phong tục, lối sống, v.v… của văn hóa. Các văn hóa cũng mang nặng dấu vết tội lỗi của loài người, và vì thế có thể tích chứa những nhân tố phá hoại bản tính loài người và làm cho con người ra nô lệ.
Ngày nay, sứ mạng phúc âm hoá của Giáo Hội Địa Phương cần phải nhằm tới công tác cải biến văn hóa từ bên trong, như men trong bột. Đ.G.H. Phaolô VI đã nhấn mạnh đến tầm trọng yếu của công cuộc biến cải các nền văn hóa nhờ Tin Mừng, khi ngài viết như sau trong Tông huấn Evangelii nuntiandi : “Điều trọng yếu là phải biết lấy Tin Mư2ng mà biến cải việc khai hóa con người và các nền văn hóa, không phải là bằng cách tô sơ một lớp sơn để làm cảnh mà thôi, nhưng là cố tiến sâu đến tận gốc rễ sống còn của đời con người. Không còn nghi ngờ gì nữa: hố phân cách Tin Mừng xa khỏi văn hóa chính là nguyên do gây ra thảm cảnh của thời đại chúng ta đang sống, hệt như đã từng thấy trong các thời đại khác. Vì vậy, cần phải ra sức bằng mọi cách để đảm bảo cho công tác đưa Tin Mừng vào trong văn hóa hoặc đúng hơn là vào trong các nền văn hóa được trọn vẹn. Các nền văn hóa cần phải được phục hưng qua một cuộc gặp gỡ với Tin Mừng” (EN20).
5.13 Phương thức cụ thể được dùng để thực hiện công cuộc đưa Tin Mừng vào trong các nền văn hóa, chiếm giữ một tầm trọng yếu rất lớn. Tin Mừng chỉ có thể cải biến được văn hóa, khi nào có những người tin và sống theo sự chỉ đạo của Tin Mừng để từ đó, lấy chính cuộc sống của mình mà làm chứng cho nó. Ngoài ra, công cuộc phúc âm hóa vừa nói cũng cần phải tiến hành cẩn trọng để tránh cho khỏi mọi hình thức huênh hoang đắc thắng, và hơn nữa, cần phải tiến hành như một công tác phục vụ văn hóa, với thái độ khiêm nhu và với ý thức rõ rằng cả Tin Mừng nữa cũng có thể thu nhận được nhiều điều từ văn hóa để nhờ đó mà thấu hiểu được văn hóa và tiếp thu nó làm của mình. Công đồng Vaticanô II đã công nhiên thừa nhận điểm này.
2. Luận đề 6
Giáo Hội Địa Phương là một Giáo Hội đang sống qua tiến trình hội nhập văn hoá hằng trường kỳ tiếp diễn ở giữa lòng lịch sử; bởi vì, một đàng, Giáo Hội là một cộng đồng đức tin không ngừng lớn lên, và đàng khác, văn hóa cũng lại luôn luôn biến hoá đổi thay. Ngày nay, đường lối mà một Giáo Hội Địa Phương phải theo đuổi để tự hiện thực hóa chính bản thân mình, là ra sức giải đáp cho thiết thực những thách đố của các thế lực mới xuất hiện trong dòng lịch sử; đó cũng chính là những gì đang khai sinh ra tiến trình hiện đại hóa (modernization), cũng như đang ảnh hưởng sâu đậm đến mọi lãnh vực và khía cạnh trong đời sống của một dân tộc.
6.01 Tiếp theo nhận định về sự việc Giáo Hội Địa Phương nẩy sinh nên từ cuộc gặp gỡ với văn hóa, luận đề này sẽ đứng từ một quan điểm năng động để thử nhìn về cuộc gặp gỡ ấy, quan niệm rằng văn hóa là một thực tại không ngừng biến hóa theo những bước phát triển trong xã hội. Chúng tôi sẽ đặc biệt lưu ý tới tiến trình hiện đại hóa, vì đây là một hiện tượng có ảnh hưởng sâu đậm đến cả văn hóa lẫn xã hội. Và tất cả những điều đó lại đều có tác dụng đối với cách thức các Giáo Hội Địa Phương tại Á châu hiểu về chính mình, cũng như về cuộc sống và sứ mạng của mình.
6.02 Văn hóa là một thực tại không phải là tĩnh nhưng là động: nó liên tục phát triển, tiến hóa và biến đổi do những nhân tố từ bên trong cũng như bên ngoài. Nền văn hóa nào cũng đều có biến đổi; có khác thì chỉ khác ở chỗ biến đổi ấy có quy mô và nhanh chóng hay không. Một trong những sức mạnh đổi thay đáng kể nơi một nền văn hóa, là sự việc gặp gỡ với các nền văn hóa khác. Khi tiến trình biến đổi qua việc gặp gỡ như thế không còn có mặt nơi một nền văn hóa nữa, thì nền văn hóa ấy sẽ bị cô lập và tàn lụi dần đi, như thường thấy xẩy ra đối với nhiều nền văn hóa và văn minh trong quá khứ. Nét xuất sắc nổi bật ở nơi các nền văn hóa trường tồn tại Á châu không phải biểu hiện đơn thuần ở nơi tính cách cổ xưa của chúng, nhưng còn ở cả sự kiện này nữa: trải qua biết bao thiên niên và thế kỷ, các nền văn hóa ấy đã biết biến hóa và hấp thu những yếu tố mới để tạo cho mình có khả năng thích nghi và ứng đáp với những thách đố và thăng trầm thiên hình vạn trạng xảy đến trong lịch sử.
Tại Á châu cũng như ở bất cứ nơi nào khác, công cuộc hội nhập văn hóa đòi hỏi Giáo Hội Địa Phương phải biết lớn lên nhờ biết lắng nghe, nhận thức và ứng đáp đà diễn biến của văn hóa. Nếu chỉ coi công tác hội nhập văn hoá như là một việc cần phải làm một lần cho tất cả, và quên đi tác động hỗ tương đối với văn hóa không ngừng diễn biến ấy, thì không thể nào Giáo Hội tránh cho khỏi bị vong thân và trở thành xa lạ đối với những hoài bão, những khát vọng và chờ mong của quần chúng được. Đó là những gì mà kinh nghiệm của các Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới đã để lại làm bài học cho chúng ta.
6.03 Có một điều lạ trong văn hóa ngày nay, đó là sự việc văn hóa biến đổi một cách đại quy mô chưa từng thấy. Và tốc độ của đà biến đổi này lại càng tăng thêm gấp bội bởi sức hối thúc của tiến trình hiện đại hóa với những hậu quả của riêng nó. Nói đến hiện đại hóa tức là nói đến tiến trình biến đổi mau lẹ trong xã hội xảy ra do ảnh hưởng của khoa học tân thời, của kỹ thuật và kỹ nghệ hóa, của những phương tiện truyền thông tân kỳ và công tác đô thị hóa, cũng như của những hệ thống mới trong các lãnh vực giáo dục, kinh tế và chính trị: tất cả những nhân tố ấy đã tác động sâu xa đến nền văn hóa, đến các thể chế, đến lối sống, v.v. cổ truyền. Và còn sâu xa hơn nữa, tiến trình hiện đại hóa đã biến đổi cả đến những thái độ sống và những giá trị, cũng như cả đến ý thức của những cá nhân và những nhóm nữa. Những đổi thay và biến hóa ấy, ai mà không thấy hiện rõ mồn một ngay tại giữa các độ thị Á Châu, là những thành phố hiện đang bành trướng với một nhịp độ kinh hoàng, do hiện tượng di dân tập thể và đô thị hóa đồng loạt.
6.04 Tại Á Châu, việc gặp gỡ giữa các nền văn hóa cổ truyền và trào lưu hiện đại hóa đã làm phát sinh ra vô số những trạng huống và những phản ứng rất khác biệt nhau. Trong một vài xã hội và một vài lãnh vực sinh hoạt tại Á Châu, đà hiện đại hóa tiến hành sát cánh với các nền văn hóa và lối sống cổ truyền. Trong các xã hội ấy, vì đã quá quen sống trực diện với những mâu thuẫn, nên người Á Châu cứ thản nhiên sống lối sống hàng hai: tân tiến cũng chọn, cổ truyền cũng ôm. Có một thái độ phản ứng khác, đó là cố vứt bỏ cho xong văn hóa cổ truyền đi — vứt cả chì lẫn chài — và lấy kiểu sống tân tiến mà thay vào đó. Còn có nơi thì cứ khăng khăng chống cự lại với lối sống hiện đại và các giá trị mới, để tiếp tục bảo vệ văn hóa, thể chế, lối sống, v.v. cổ truyền. Cũng có những nơi đã biết chuyển dịch các phong thái và giá trị cổ truyền vào trong các hệ thống, các công cụ, v.v. hiện đại; hay ngược lại, đem cái mới chồng chéo lên trên cái cũ. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận được rằng tại Á Châu, giữa các phản ứng khác nhau đối với đà hiện đại hóa, trội nhất là ước vọng thẳm sâu mong sao thu hoạch được những lợi ích của nền văn hóa hiện đại, mà vẫn không đánh mất đi bản sắc của di sản cổ truyền mình thừa hưởng, với những giá trị và lý tưởng hằng bao nhiêu năm tha thiết ấp ủ tận trong đáy lòng.
6.05 Việc gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại đặt Hội Thánh trước một thách đố hết sức to lớn (MV 56). Trong một bài nói chuyện với Ban Cố Vấn đặc trách Văn hóa của Tòa Thánh, Đức Gioan Phaolô II nêu rõ đặc nét của tình trạng đổi thay và biến hoá ngày nay như sau:
“Đứng trước một nền văn hóa mới đang lên, dĩ nhiên là mọi tín hữu cũng như mọi người thiện tâm thiện chí, đều có bổn phận phải biết sống can đảm và sáng suốt. Những đổi thay về mặt xã hội và văn hóa, những cuộc chính biến, những mầm mống ý thức hệ, thái độ tự vấn về tôn giáo, thái độ dò dẫm đối với nền luân lý đạo đức: tất cả đều chỉ cho thấy một thế giới đang thời thai nghén, đang độ kiếm tìm lẽ sống và hướng đi, kiếm tìm một tổng thể toàn vẹn, một cuộc canh tân có tính cách ngôn sứ” (L”Osservatore Romano, English edit. Dec. 16 1985).
Đó là những nhận định hoàn toàn đúng đối với hiện trạng tại Á Châu. Chỉ khi nào biết ứng đáp thích đáng những cảnh huống phức tạp trong các nước Á châu, thì lúc đó các Giáo Hội tại lục địa này mới có thể trở nên những Giáo Hội Địa Phương đích thực được.
6.06 Trong khi ra sức để ứng đáp như vậy, trước hết Hội Thánh cần phải nhìn nhận và tiếp thụ giá trị của cả truyền thống lẫn văn hóa, cũng như vai trò trọng yếu mà tiến trình hiện đại hóa đang đóng giữ. Một thái độ thủ thế tất sẽ không đóng góp được gì cả cho đà phát huy của Giáo Hội Địa Phương và cho việc chu toàn sứ mạng mà ngày nay Thiên Chúa đang ủy thác cho Giáo Hội. Gia sản của các nền văn hóa và các truyền thống Á Châu phải được tích cực cổ xúy và phát huy, vì Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài đã từng hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử các dân tộc Á Châu. Những biểu hiện văn hóa muôn hình thái của chúng phản ánh bản thể chân-thiện-mỹ của Thiên Chúa. Hệt như vậy, tiến trình hiện đại hóa cũng nói lên sự kiện Thiên Chúa hằng có mặt ở trong lịch sử hiện đại của chúng ta. Do đó, Giáo Hội Địa Phương phải biểu thị một thái độ hết sức cởi mở — như công đồng Vaticanô II đã từng nêu cao — đối với các nền văn hóa các dân tộc cũng như đối với thế giới hiện đại và các bước phát triển của nó.
6.07 Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes đã miêu tả rõ về một trong những vấn đề cốt tuỷ gặp phải tại Á Châu cũng như tại các nơi khác, với những lời lẽ như sau: “Phải làm thế nào để có thể phát huy sức sống và đà phát triển của một nền văn hóa mới, mà không đánh mất đi lòng trung thành sinh động đối với di sản của truyền thống?” (MV 56). Các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu có bổn phận phải ứng đáp thỏa đáng cho ưu tư và ước vọng kia, là những tâm tư hiện đang trải rộng trong khắp Á Châu. Khi ứng đáp như thế, Giáo Hội cần phải lưu ý đến sự kiện này là nếu chỉ chồng chéo lên trên những gì đã có, những nhân tố mới lấy từ bên ngoài hoặc rút ra từ một quá trình dị sinh (phát sinh từ giống loài khác = heterogenetic ), thì không thể nào có một cuộc thay đổi thực sự sâu rộng và lâu bên nơi một nền văn hóa được.
Trong một nền văn hóa hay trong một xã hội, một cuộc đổi thay chỉ xảy đến, lúc nào nó phát sinh từ nội giới của chính nó, tức là do một tiến trình trực sinh (phát sinh thẳng từ giống loài của mình =orthogenetic ). Cuộc gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại phải tiến hành thế nào để tiến trình thay đổi văn hóa phát động từ nội giới, có đủ khả năng dùng óc sáng tạo mà đáp ứng những yêu cầu thích nghi của tân thời, và dùng tài khéo léo tổng hợp mà làm cho cả tân thời nữa cũng trở thành của riêng mình.
6.08 Muốn đóng góp để kiến tạo một công trình phối hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, thì Hội Thánh tại Á Châu cần phải biết lấy óc phê bình mà phân định. Vì các nền văn hóa Á Châu vẫn còn tỏ ra khá mập mờ, chưa dứt khoát; điều đó muốn nói rằng bên cạnh vô số những lý tưởng, nhãn giới và giá trị cao siêu, chúng vẫn còn ngang nhiên chứa chấp nhiều nhân tố đàn áp và phi nhân; chẳng hạn như là thảm trạng phân biệt đẳng cấp tiếp tục đi ngược lại với quyền bình đẳng giữa mọi con người, hoặc là thái độ kỳ thị phụ nữ, v.v.
Đàng khác, cho dù có góp phần lớn lao và kỳ diệu vào trong tiến trình nhân đạo hóa xã hội loài người, thì trào lưu hiện đại cũng vẫn còn chất chứa nhiều mâu thuẫn sâu xa. Nó đang xói mòn một số các giá trị hằng được quý mến trong các xã hội Á Châu, gây nên cảnh đem đồi phong bài tục làm thương mãi, đưa tới chỗ dựng lên một guồng máy bất nhân khổng lồ chưa từng thấy nhằm bóc lột những đám dân nghèo yếu. Trào lưu hiện đại hóa cặp song đôi với hiện tượng kỹ nghệ hóa tiên tiến, đang gây hại trầm trọng đến môi sinh thiên nhiên ở Á Châu. Nạn nhân là những tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội, chẳng hạn như là các người dân bộ lạc và các thuyền chài phải sống nhờ vào các lâm sản và hải sản. Đà kỹ nghệ hóa hiện đại cũng đang đè nặng nhiều nhất lên trên vai của các phụ nữ Á Châu vì phải chịu cảnh di dịch từ nơi này đến nơi khác, chịu bóc lột và bị đem ra làm mồi cho mãi dâm.
6.09 Trong bối cảnh gặp gỡ như thế giữa truyền thống và hiện đại, Giáo Hội Địa Phương cần phải biết lấy óc phê bình mà phân định bằng cách ý thức cho tỉnh táo rằng cả truyền thống lẫn hiện đại đều có những ưu và khuyết điểm của chúng. Giáo Hội có bổn phận phải góp phần vào trong tiến trình biến hóa hướng tới một nền nhân bản mang bản sắc Á Châu thực sự: đó là thành quả gặt hái được từ cuộc gặp gỡ và phối hợp hài hòa giữa các yếu tố hay đẹp nhất tìm thấy ở trong văn hóa cổ truyền và trong trào lưu hiện đại. Như thế, qua sự việc tích cực dự phần vào trong dòng lịch sử quá khứ và hiện đại của các dân tộc Á Châu, bởi biết lấy óc phê bình mà đồng nhất hóa mình với truyền thống, và văn hóa, với những khát vọng và hoài bão họ đang ấp ủ, Hội Thánh sẽ mang bản sắc Á Châu thực sự. Hình thái của các Giáo Hội Địa Phương Á Châu ngày mai sẽ tùy thuộc vào tiến trình hội nhập văn hóa đang thành hình hôm nay ngay trong bối cảnh gặp gỡ giữa truyền thống và trào lưu hiện đại tại Á Châu.
3. Luận đề 7
Muốn tự hiện thực hóa chính mình tại Á Châu, thì Giáo Hội Địa Phương cần phải biết thắt nối những mối quan hệ mới với những tín đồ láng giềng thuộc các tôn giáo khác, và cần phải biết dấn thân vào trong các hoạt động nhằm mục đích cổ xuý công lý, nhân phẩm và nhân quyền, cũng như vào trong công tác thực thi một cách thiết thực, lòng thương đặc đãi (preferential love) đối với người nghèo.
7.01 Để có thể triển nở một cách trọn vẹn (hiện thực hóa chính mình = self-realization ) ngay trong môi trường sống của mình, thì các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu cần phải lưu ý cách riêng tới hai lãnh vực hoạt động đặc biệt quan trọng, đó là: đối thoại và hội nhập văn hóa . Hai mối quan tâm này (như bản tuyên ngôn của FABC I đã khẳng định với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ) phải là cốt tủy của đời sống và sứ mạng các Giáo Hội này. Nếu Hội Thánh là bí tích của mối hiệp thông với Thiên Chúa và của tình liên đới giữa loài người (HT 1), thì hết thảy mọi Giáo Hội Địa Phương ở trong phần đất Á Châu này của thế giới, cũng phải biết giao hảo với những người láng giếng chung quanh đây hệt theo cách thức mà các Giáo Hội này cụ thể cảm nghiệm về chính mối hiệp thông và chính tình liên đới ấy trong truyền thống tôn giáo của mình.
Đối thoại với các tôn giáo khác là một việc làm gắn bó mật thiết với tiến trình hội nhập văn hóa mà các Giáo Hội Á châu chúng tôi theo đuổi, bởi vì tại nhiều dân nước Á Châu, kinh nghiệm tôn giáo và tín ngưỡng cũng như việc hành đạo đều là những gì làm nên linh hồn cho văn hóa. Tôn giáo và văn hóa gắn bó khăng khít với nhau đến nỗi không thể nói tới một bên mà không đề cập đến bên kia được. (Vấn đề này đã được bàn tới trong các Luận đề chúng tôi đưa ra, liên quan đến Việc đối thoại giữa các tôn giáo ).
7.02 Với hàng triệu triệu người sống với hai bàn tay trắng, thiếu thốn ngay cả đến những nhu yếu phẩm cơ bản nhất, như: thức ăn, nước uống, nhà ở, phần đông các dân nước tại Á Châu chúng tôi đều mang nặng dấu vết của nghèo khổ và bần cùng tập thể. Theo gương mẫu mầu nhiệm Nhập Thể, các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi cần phải lấy tinh thần liên đới mà chia sẻ thực sự số phận của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội và của những người bị bóc lột. Công tác loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (Lc 4,18), đòi hỏi các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi phải trở nên Giáo Hội của người nghèo. Chúng tôi vui mừng nhận thấy những cố gắng mới trong việc đẩy mạnh tình liên đới đối với người nghèo, và cả trong hành động quả cảm của một số anh chị em quyết sống đồng nhất hóa thực sự với họ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng hết sức đau lòng mà nhận rằng nhiều thể chế hoặc cơ sở của các Giáo Hội chúng tôi vẫn còn phản ánh quá rõ giàu sang và quyền thế, và thường xảy ra là các trường học, các bệnh viện, v.v. của chúng tôi hầu như chỉ có giúp ích cho những người giàu có không thôi. Lối sống của một số người lãnh đạo các Giáo Hội, của một số linh mục và tu sĩ, không biểu thị được tinh thần bình dị và từ bỏ của Tin Mừng.
7.03 Năm 1974, FABC I đã kêu gọi các Giáo Hội Địa Phương Á Châu xúc tiến công tác đối thoại với người nghèo:
“Trong rất nhiều nước tại Á Châu, đối thoại với người dân có nghĩa là Giáo Hội đang đối thoại với người nghèo. Cuộc đối thoại này phải hình thành theo cái mà người ta gọi là một công trình “đối thoại bằng chính cuộc sống”. Điều đó đòi hỏi cần phải có kinh nghiệm thực sự và hiểu biết đích xác về đời sống nghèo túng… của không biết bao nhiêu người trong các dân nước chúng ta. Chúng tôi tin chắc rằng tiếng của Đức Kitô còn đang vang vọng ra từ cảnh thiếu thốn bần cùng vật chất của các dân nước chúng ta, cũng như từ tiềm năng khủng khiếp của con người họ, và từ khát vọng của lòng họ mong sao cho có được một thế giới nhân đạo và huynh đệ hơn, để gióng lên một lời kêu gọi khẩn thiết gửi đến các Giáo Hội Á Châu” (FABC I,19, 20, 22).
7.04 Cách tiến hành công cuộc hội nhập văn hóa ngay ở giữa môi trường sống của người dân như thế, sẽ mở rộng đường cho Giáo Hội Địa Phương tiến bước đến tận cùng chân trời của Nước Chúa. Nước Chúa thì mênh mông rộng lớn hơn Hội Thánh, và Hội Thánh chỉ là khí cụ của Nước Chúa. Và như vậy, Giáo Hội Địa Phương bước vào trong một thế năng động có đầy sức để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng, và đạt tới mức thành tựu của chính bản thân mình nhờ biết mang nhân phẩm, công bằng và tự do đích thực đến với cuộc sống của những người nghèo khổ và của những kẻ bị áp bức. Chúng tôi xin nhắc lại sau đây lời của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, nhóm họp năm 1971: “Chúng tôi nhận thức rõ rằng hoạt động cho công bằng và tham dự vào trong công cuộc biến cải thế giới là những hoạt động làm nên một trong những chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng”.
7.05 Văn hóa thì gắn bó rất mật thiết với các lãnh vực xã hội và chính trị. Ngày nay, người ta nhận thấy là càng ngày văn hóa càng chiếm giữ một vai trọng yếu hơn trong bình diện xã hội chính trị. Thế nên, trong tiến trình hoàn thành chính mình qua công tác hội nhập văn hóa, các Giáo Hội Địa Phương phải hết sức lưu ý đến hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất , trong nhiều xã hội hoặc dân nước chúng ta, thường có hai loại văn hóa: văn hóa của những lớp người nắm giữ quyền hành về mặt chính trị và kinh tế, và văn hóa của những từng lớp yếu thế vô quyền. (Đô hộ văn hóa đi đôi với đô hộ chính trị và kinh tế, và là một yếu tố chủ yếu để củng cố nền đô hộ này. Đô hộ chính trị và kinh tế thì coi thường, nếu không nói là xóa bỏ văn hóa của dân nghèo và của những bị gạt ra ngoài lề xã hội). Nếu muốn “đối thoại bằng chính cuộc sống” với người nghèo tại Á Châu, thì Giáo Hội Địa Phương phải biết lưu tâm đặc biệt đến “truyền thống nhỏ bé” của các từng lớp dân nghèo yếu thế vô quyền này. Không nên nhầm lẫn đồng nhất hóa việc hội nhập văn hóa với hành động oa nhập vào trong văn hóa của các từng lớp thống trị nắm giữ quyền hành ở trong một xã hội; nhưng trái lại, cần ý thức rõ là việc hội nhập văn hóa phải trở thành một tiến trình qua đó, Giáo Hội Địa Phương sống liên đới với người nghèo, với truyền thống và phong tục, với lối sống và cách thức suy nghĩ, v.v. của họ.
7.06 Và điểm thứ hai cần lưu ý là: không nên khoán trắng tiến trình hiện đại hóa cho riêng các lớp người nắm quyền hành trong xã hội để rồi họ giữ trọn độc quyền mà lèo lái hầu trục lợi cho riêng mình. Có được thanh lọc qua mối quan tâm đối với những người nghèo và những người bị xô đẩy ra ngoài lề cuộc sống tại các xã hội Á Châu, thì công cuộc hiện đại hóa mới được giải độc cho khởi những tác dụng bất nhân, và mới có thể đứng trong tư thế sẳn sàng để phục vụ chính nghĩa công bình và tự do được. Cho nên, đối với chúng tôi, tiến trình hội nhập văn hóa còn phải bao gồm cả nổ lực này nữa: nổ lực đem các thách đố mà tiến trình hiện đại hóa đặt ra, lồng vào trong cuộc thoại với vô số những người nghèo khổ và yếu thế vô quyền đang sống ở giữa chúng ta.