LM Anthony Đinh Minh Tiên, OP
1/ Bài đọc I: Cv 1,1-11
1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần.
3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.
4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” 6 Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”
7 Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,
8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” 9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh
11 và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
2/ Bài đọc II: Ep 1,17-23
17 Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.
18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh,
19 đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; 23 mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
3/ Phúc Âm: Lc 24,46-53
Khi ấy Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại;
47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông.
51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ,
53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
—————————————
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu lên trời.
Hai điều chính chúng ta cần tìm hiểu trong ngày lễ Chúa lên trời:
(1) Hiểu làm sao về biến cố Chúa thăng thiên: Phải chăng khi Chúa Giêsu lên trời là Ngài sẽ sống cách biệt chúng ta? Phải chăng Chúa Giêsu mang thân xác con người về Trời? Đâu là Thiên Đàng? Chúng ta sẽ hưởng những quyền lợi gì trên Thiên Đàng?
(2) Sự quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng: Tại sao Chúa trao cho các Tông-đồ và Hội Thánh sứ vụ mang ơn cứu độ cho muôn người qua việc rao giảng Tin Mừng?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, Thánh Lucas tường thuật hai biến cố: Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cầu nguyện để các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải rao giảng Tin Mừng, và Ngài ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng.
—————————————
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ.
1.1/ Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ trong suốt 40 ngày sau khi sống lại.
Dựa theo Luca 1:1-4 và trình thuật hôm nay: “Thưa ngài Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời,” chúng ta có bằng chứng để kết luận Thánh Luca là tác giả của Tin Mừng thứ ba và Sách CVTĐ.
Trước ngày lên trời, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Sau khi sống lại, Người đã hiện ra nhiều lần trong bốn mươi ngày, để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình, và nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.
1.2/ Chúa Giêsu nhắc lại lời hứa ban Thánh Thần: Trong những lời từ biệt của Chúa Giêsu trước Cuộc Thương Khó, Ngài đã hứa sẽ xin Chúa Cha để gởi đến cho các Tông-đồ Thánh Thần để ở với và hoạt động trong các ông (Jn 15 và 16). Trình thuật hôm nay nhắc lại lời hứa đó và nhắc nhở các Tông-đồ phải ở lại Jerusalem để lãnh nhận Thánh Thần: “Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”
Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả là Phép Rửa bằng nước để tha tội khi con người tỏ lòng ăn năn xám hối và quay về với Thiên Chúa. Các Tông-đồ là những người Do-thái, nên các ông có lẽ đã lãnh nhận Phép Rửa bằng nước, như Gioan Tẩy Giả đã từng làm (Jn 1:26); nhưng có một Phép Rửa để thánh hóa con người bằng Thánh Thần mà Gioan Tẩy Giả đã đề cập đến mà chính Chúa Giêsu đã lãnh nhận (Jn 1:32-33). Các Tông-đồ lãnh nhận Phép Rửa này trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-4).
Các môn đệ hiểu lầm những lời Chúa nói nên hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” Họ vẫn nghĩ đến một Đấng Thiên Sai uy quyền, cho dẫu Chúa Giêsu đã phải trải qua Cuộc Thương Khó, cái chết, và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Họ nghĩ, Chúa đã phục sinh, thì giờ là lúc Ngài khôi phục vương quốc Israel bằng cách gởi Thánh Thần xuống làm cho họ trở thành những người thống trị cùng với Đức Kitô! Nhưng Chúa Giêsu giải thích cho họ biết mục đích của việc lãnh nhận Thánh Thần là để họ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài tại Jerusalem, trong khắp các miền Judah, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, để con người tin và được cứu độ. Còn khi nào Ngài sẽ khôi phục vương quốc Nước Trời là nằm trong quyền lực và kỳ hạn mà Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt. Điều này cũng tùy thuộc vào việc cộng tác của con người làm cho Nước Chúa mau trị đến, bằng việc làm cho mọi người nhận biết Chúa.
1.3/ Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” Trong Phúc Âm, Luca cũng đề cập tới việc Chúa lên trời trong những câu sau cùng (Lk 24:50-51) và phản ứng vui mừng của các Tông-đồ (Lk 24:52-53). Làm sao chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu lên trời?
(1) Trong ngày lên trời, Chúa Giêsu chính thức từ bỏ thân xác giới hạn con người (nhân tính), để chỉ hành động theo thiên tính và ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu bầu cho con người. Nhưng Chúa Giêsu phải cho các môn đệ một dấu chỉ để biết Ngài trở về với Chúa Cha, và không có dấu chỉ nào giúp các ông dễ nhận hơn theo truyền thống là lên trời. (Xem chú thích bên dưới)
(2) Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là từ nay, Ngài sẽ cách biệt các môn đệ, nhưng có nghĩa Ngài không lệ thuộc vào giới hạn của thân xác về thời gian và không gian. Ngài luôn luôn hiện hữu ở mọi nơi và mọi thời với con người: tại Mỹ cũng như tại Việt-nam; trong BT Thánh Thể cũng như khi cầu nguyện. Hơn nữa Ba Ngôi Thiên Chúa không bao giờ tách biệt nhau, cho dù giai đọan hiện tại là giai đoạn hoạt động của Thánh Thần; nhưng ai có Thánh Thần, người ấy cũng có cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
(3) Theo ĐGH Gioan Phaolô II, Thiên Đàng không phải là một nơi ẩn giấu đàng sau bầu trời, nhưng là một trạng thái vinh quang và vĩnh cửu, do sự kết hiệp hoàn toàn giữa con người với Thiên Chúa. Nếu hiểu như thế, Thiên Đàng đã bắt đầu ngay từ đời này, nhưng chưa đạt tới mức hoàn hảo như ở đời sau, khi con người được chiêm ngưỡng Thiên Chúa như Chúa là.
(4) Chúa Giêsu từ trời sẽ trở lại lần thứ hai để phán xét kẻ sống cũng như người chết: Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilee, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
2/ Bài đọc II: Phaolô xin Thánh Thần cho các tín hữu để hiểu biết:
2.1/ Mặc khải quan trọng nhất của Thiên Chúa: là Kế Họach Cứu Độ con người, được thực hiện qua Đức Kitô. Con người phạm tội và hậu quả của tội là sự chết. Để cứu con người khỏi chết và phục hồi sự sống, Chúa ban cho con người Đức Kitô. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, con người tìm được niềm hy vọng được sống muôn đời với Thiên Chúa. Tác giả Thư Ephesô diễn tả những điều này như sau: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em để thấy rõ:
(1) “đâu là niềm hy vọng nhờ Người kêu gọi anh em”: Niềm hy vọng đây chính là hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu đã đạt được qua Đức Kitô. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được sống muôn đời với Thiên Chúa. Ngài không ngừng kêu gọi và tạo cơ hội cho con người biết Đức Kitô.
(2) “đâu là sự sung mãn của gia nghiệp vinh quang của Người giữa các thánh”: Gia nghiệp vinh quang của Thiên Chúa chính là ơn cứu độ mà Đức Kitô đã chiến thắng cho con người. Các thánh là những người đã được hưởng ơn cứu độ. Họ là những chứng nhân của niềm hy vọng của chúng ta.
(3) “đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã làm cho chúng ta là những tín hữu, theo như uy quyền vô biên của quyền năng Người, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” Nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa đã chiến thắng mọi quyền lực của ma quỉ, tiêu diệt sự chết, và mang lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
2.2/ Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đức Kitô:
(1) Đức Kitô là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai.” Thư Philipphê cũng diễn tả các tương tự về uy quyền và danh xưng Giêsu (Phi 2:10-11).
(2) Đức Kitô thiết lập Hội Thánh để tiếp tục thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài trong trần gian: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.”
Đức Kitô cần Hội Thánh để loan truyền ơn cứu độ của Ngài cho mọi người: Câu truyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và sứ thần Gabriel: Sứ thần hỏi Chúa Giêsu khi Ngài về trời: “Loài người có biết Ngài yêu họ và những gì Ngài đã làm cho họ không?” Chúa Giêsu trả lời: “Họ chưa biết, nhưng họ sẽ biết qua các môn đệ của tôi.” “Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ mệt mỏi, hay thế hệ sau sẽ quên, hay hết người rao giảng!” Sứ thần Gabriel hỏi. Chúa Giêsu trả lời: “Tôi tin tưởng họ sẽ không làm như thế.”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
3.1/ Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ: Ngài biết trước các môn đệ sẽ thay thế Ngài để rao truyền Tin Mừng khắp thế gian; giờ đây trước khi lên trời, Ngài long trọng trao phó cho các ông sứ vụ đó. Chúa Giêsu mặc khải cho các ông nhiều điều; nhưng một số điều Ngài nhắc hôm nay là những điều cốt lõi của Tin Mừng: (1) Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; (2) Ngài chịu khổ hình là để gánh tội cho nhân loại. Nếu họ ăn năn và tin vào Ngài, tội sẽ được tha và họ được cứu độ.
3.2/ Tại sao các môn đệ vui mừng: Thông thường, các môn đệ sẽ buồn rầu khi xa Thầy; nhưng Lucas tường thuật các ông “lòng đầy hoan hỷ.” Có ít nhất hai lý do cho sự vui mừng của các môn đệ:
(1) Vì hy vọng sẽ được lên trời với Chúa: Những gì Chúa Giêsu hứa với các môn đệ, Ngài đều cho các ông chứng kiến. Hy vọng được lên trời là đích điểm của cuộc đời con người; nếu các ông đã xem thấy tỏ tường lúc Chúa lên trời, các ông không còn chút nghi ngờ về niềm hy vọng này. Các ông tin chắc sẽ cùng được hưởng hạnh phúc với Ngài trên trời.
(2) Vì sắp được hưởng quyền năng của Chúa Thánh Thần: Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ trước cuộc Thương Khó, và cắt nghĩa rõ ràng vai trò của Thánh Thần (Jn 14:16-17; 16:7-9); giờ đây Ngài lặp lại lời hứa đó và cho các ông biết điều đó sắp xảy ra. Còn gì vui mừng hơn khi sắp lãnh nhận một quà tặng từ trời để giúp các ông nhận ra mọi sự thật và có sức mạnh giúp các ông chống chọi với mọi uy quyền của quỉ thần và của thế gian.
—————————————
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Giêsu là Đầu đã lên trời, chúng ta là những chi thể của một thân thể của Ngài là Hội Thánh, cũng sẽ được lên theo. Đó là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta.
– Chúa Giêsu tin tưởng chúng ta sẽ không quên sứ vụ Ngài trao phó là sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta phải làm hết cách để cho mọi người biết và tin vào Ngài; đồng thời chúng ta cũng phải đào tạo các thợ nhiệt thành để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ tương lai.
– Chúa Giêsu về trời không có nghĩa là Ngài vắng mặt trong cuộc đời; nhưng một khi Ngài không còn lệ thuộc vào giới hạn của thân xác, Ngài sẽ hiện diện với mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
—————————————
Chú thích:
(1) Khi nói tới nhân tính có nghĩa là những đặc tính của con người như phải chết, phải ăn uống mới sống và nhất là bị giới hạn với thời gian và không gian: không thể đi qua cửa hay tự mình lên trời. Đa số các kiến thức con người có được là do thân xác (mắt, tai, mũi, miệng, tay).
(2) Khi nói tới thiên tính có nghĩa là những đặc tính của Thiên Chúa thì Ngài làm được mọi sự. Ngài luôn sống mà không cần phải ăn uống và nhất là không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian. Vì thế, Ngài có thể đi qua cửa và tự mình lên trời. Tất cả các kiến thức của Ngài không cần phải có ngũ quan.
Điều chúng ta cần tập trung ở đây là thân xác phục sinh của Đức Kitô: nó không phải là thân xác con người như chúng ta để phải chịu tất cả các giới hạn của thân xác con người. Nó là một thân xác đã sống lại do quyền năng hay thiên tính của Thiên Chúa, một loại thân xác mà từ nay sẽ không còn bị chi phối bởi đau khổ, bệnh tật hay chết chóc nữa, như thánh Thomas Aquinas cắt nghĩa: “Nơi chốn phải cân xứng với cái gì ở đó. Chúa Kitô, do việc sống lại, đã khởi sự đời sống bất tử và không thể bị tiêu hư; trong khi nơi chỗ con người chúng ta đang ở là nơi chỗ sinh sản và tiêu hư, còn trời là nơi không bị tiêu hư. Vậy việc Chúa Kitô sau khi sống lại còn ở trên trái đất là không thích hợp, song trái lại, Ngài phải lên trời. (ST, III, Q.57, A1)
Việc chúng ta cũng sẽ có được thân xác phục sinh vinh hiển như Chúa Kitô là do công nghiệp của Đức Kitô và ơn thánh của Thiên Chúa. Tôi cũng đã từng được học môn Kitô học và Công Đồng Nicea 325 và quyết định quan trọng của Công Đồng về Đức Kitô mang hai bản tính Thiên Chúa và con người. Những gì bị giới hạn bởi bản tính con người thì Ngài cứu chuộc và làm thăng hoa nó lên bằng bản tính Thiên Chúa và trợ giúp bằng ơn thánh. Vì thế, đừng vội nghĩ ai là lạc giáo.
Việc Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ cũng do quyền năng Thiên Chúa của Ngài với mục đích để tỏ cho các môn đệ biết là Ngài vẫn sống; chứ thân xác phục sinh không cần phải ăn mới sống. Đừng làm cho giáo dân lầm tưởng là khi con người lên trời rồi họ cũng vẫn cần phải ăn uống mới sống được!
Nguồn: https://loi-nhap-the.com/ch-nht-l-thng-thienc/