Tông Huấn Familiaris Consortio (Gia Đình Kitô Hữu) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 22-11-1981) – (1)

0
10023


TÔNG HUẤN FAMILIARIS CONSORTIO

NHIỆM VỤ GIA ĐÌNH KITÔ HỮU TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Ngày 22 Tháng 11 Năm 1981

***

***

NHẬP ĐỀ

GIÁO HỘI PHỤC VỤ CÁC GIA ĐÌNH

 

1. Vào thời đại chúng ta, gia đình cũng như các cơ cấu khác và có thể còn hơn các cơ cấu khác nữa, đã bị ảnh hưởng do những biến đổi rộng rãi sâu xa, ồ ạt của xã hội và văn hóa. Trong hoàn cảnh đó, nhiều gia đình đã sống trung thành với những giá trị nền tảng của định chế gia đình. Nhiều gia đình khác ngập ngừng và lạc hướng trước những trách vụ của họ, thậm chí còn rơi vào chỗ hòai nghi và gần như không biết gì về những điều liên quan đến ý nghĩa sâu xa và giá trị của đời sống hôn nhân và gia đình. Có những gia đình khác nữa bị cản trở không thực hiện được những quyền lợi căn bản của họ, do nhiều hoàn cảnh bất công khác.

Vì biết rằng hôn nhân và gia đình là một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại, Giáo Hội muốn ngỏ lời và đem lại sự nâng đỡ cho những người đã biết được giá trị của hôn nhân cũng như gia đình và đang cố gắng sống trung thành với giá trị đó, cho những người đang sống trong ngập ngừng âu lo và đang đi tìm chân lý, cho những người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống những dự phóng của gia đình họ. Trong khi đem lại sự nâng đỡ cho nhóm thứ nhất, ánh sáng cho nhóm thứ hai và sự trợ giúp cho nhóm người thứ ba, Hội Thánh muốn đem thân phục vụ mọi người đang bận tâm lo lắng cho số phận của hôn nhân và gia đình.[1]

Giáo Hội đặc biệt ngỏ lời với các bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân trên con đường hôn nhân và gia đình, ngõ hầu mở ra cho họ những chân trời mới bằng cách giúp họ khám phá ra vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu phục vụ cho sự sống.

Thượng Hội Đồng Giám Mục 1980 tiếp nối các khóa trước

2. Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua tại Roma, từ ngày 26.9 đến 25.10, là một dấu chỉ cho thấy mối quan tâm sâu xa của Hội Thánh đối với gia đình, và là một sự tiếp nối tự nhiên hai kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám Mục trước đó.[2] Thực vậy, gia đình Kitô hữu là một cộng đoàn đầu tiên được mời gọi rao giảng Tin Mừng cho nhân vị đang phát triển, nhờ sự giáo dục và dạy giáo lý tiệm tiến để hướng dẫn nhân vị ấy đến mức trưởng thành đầy đủ trên phương diện nhân bản và Kitô. Cũng có thể nói rằng khóa họp Thượng Hội Đồng Giám Mục lần này xét về Chủ đề, được liên kết một cách nào đó với kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về chức Tư tế thừa tác và về công bằng trong thế giới hiện nay. Thực vậy, với tư cách là một cộng đoàn có trách nhiệm giáo dục, gia đình phải giúp con người nhận rõ được ơn gọi của mình và biết dấn thân, một sự dấn thân cần thiết để phục vụ cho một nền công bằng to lớn hơn, bằng cách ngay từ buổi đầu của đời sống con người, gia đình đào luyện cho con người biết sống những tương quan liên vị đầy công bằng và tình thương.

Khi kết thúc cuộc họp, các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục đã trình lên cho tôi một loạt những đề nghị đúc kết từ những suy tư chín mùi trong những ngày làm việc hăng say. Các nghị phụ đã đồng thanh yêu cầu tôi đứng ra diễn giải cho nhân loại biết mối ưu tư sống động của Hội Thánh đối với gia đình và nêu lên những định hướng thích hợp để canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và của sinh hoạt Hội Thánh.

Tôi thi hành trách vụ ấy bằng cách công bố Tông huấn này, như một phương thức đặc biệt để chu toàn tác vụ tông đồ đã được trao phó cho tôi. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những ai đã góp phần vào kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua, vì sự đóng góp quý giá về giáo lý và kinh nghiệm mà họ đã mang đến cho tôi, nhất là qua những bản đề nghị. Tôi đã trao bản văn về những đề nghị ấy cho Ủy Ban Giáo Hoàng Về Gia Đình, và yêu cầu Ủy Ban nghiên cứu tường tận để lượng giá từng khía cạnh của những điều phong phú tích chứa trong đó.

Hôn nhân và gia đình là một điều thiện hảo quý giá

3. Nhờ đức tin soi sáng, một lần nữa Hội Thánh biết được tất cả sự thật về điều thiện hảo quý giá là hôn nhân và gia đình, và về ý nghĩa sâu xa nhất của các thực tại ấy. Hội Thánh còn thấy được tính cách khẩn thiết phải rao giảng Phúc Âm, tức là Tin Mừng, cho tất cả mọi người, nhưng cách riêng là cho những ai được mời gọi sống đời hôn nhân và đang chuẩn bị bước vào đời sống đó, cho mọi đôi vợ chồng và cho tất cả những bậc cha mẹ trên thế giới.

Hội Thánh xác tín sâu xa rằng, chỉ khi nào biết tiếp nhận Tin Mừng, người ta mới có thể chắc chắn thực hiện được trọn vẹn tất cả những gì mà con người đang hy vọng cách chính đáng nơi hôn nhân và gia đình.

Được Thiên Chúa thiết định ngay từ hồi Sáng Thế,[3] hôn nhân và gia đình tự bản chất đã nhất thiết phải được hòan tất trong Chúa Kitô[4] và cần có ân sủng của Ngài để được chữa lành khỏi vết thương tội lỗi[5] và được đưa về “tình trạng nguyên thuỷ”,[6] nghĩa là nhận biết trọn vẹn và thực hiện đầy đủ ý định của Thiên Chúa. Trong một giai đoạn lịch sử mà gia đình đang bị nhiều sức ép tìm cách huỷ diệt hay ít ra là muốn làm méo mó nó, Hội Thánh – vì biết rằng lợi ích của xã hội và lợi ích riêng của mình đều được liên kết mật thiết với lợi ích của gia đình[7] – nên đã ý thức một cách mạnh mẽ và bức thiết rằng, mình có sứ mạng công bố cho mọi người biết ý định Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, bằng cách bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống tràn đầy cũng như sự thăng tiến về phương diện nhân bản cũng như Kitô giáo, và như thế là góp phần vào việc canh tân xã hội và canh tân Dân Thiên Chúa.

***

PHẦN THỨ NHẤT

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI NƠI GIA ĐÌNH NGÀY NAY

 

Cần phải nhận biết hiện tình

4. Vì ý định Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, liên hệ đến người nam và người nữ trong đời sống cụ thể hằng ngày trong một hoàn cảnh xã hội và văn hóa nào đó, nên để chu toàn công việc phục vụ của mình, Hội Thánh phải tìm cách nhận biết những hoàn cảnh trong đó hôn nhân và gia đình ngày hôm nay đang sống.[8]

Trong công việc rao giảng Tin Mừng, việc nhận biết ấy là một đòi hỏi không thể coi thường. Thật vậy, đối tượng mà Hội Thánh đang phải giới thiệu Tin Mừng bất biến và luôn mới mẻ của Đức Giêsu Kitô chính là các gia đình của thời đại chúng ta: những kẻ đang được mời gọi đón nhận và sống điều Thiên Chúa đã vạch ra cho các gia đình trong những điều kiện hiện nay của thế giới. Hơn nữa, những đòi hỏi, những lời mời gọi của Thánh Thần cũng đang vang lên qua những biến chuyển lịch sử, và vì thế có thể làm cho Hội Thánh hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm sâu thẳm của hôn nhân và gia đình, bắt đầu từ những hoàn cảnh, vấn đề, âu lo và hy vọng của các thanh niên, các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ ngày nay.[9]

Thêm vào đó, còn phải nêu lên một suy tư đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay. Trong khi những người nam và những người nữ ngày nay đang thành tâm và nghiêm chỉnh tìm kiếm một giải đáp cho những vấn đề hằng ngày và hệ trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình của họ, lắm lúc, họ đã được cung cấp những cái nhìn và những đề nghị dưới dáng vẻ hấp dẫn nhưng không nhiều thì ít sẽ nguy hại cho chân lý và phẩm giá con người. Sự cung cấp đó thường được nâng đỡ bởi các phương tiện truyền thông xã hội đầy quyền lực và phổ biến khắp nơi, những phương tiện đang có thể, một cách rất tinh vi, làm cho con người bị mất tự do và khả năng phán đoán khách quan.

Nhiều người đã ý thức được mối nguy đe dọa đến nhân phẩm nêu trên, nên quyết tâm hành động cho sự thật. Nhận định theo Tin Mừng, Hội Thánh liên kết cùng những người ấy, tích cực góp phần phục vụ sự thật, tự do và nhân phẩm của mọi người nam nữ.

Nhận định theo Tin Mừng

5. Nhờ nhận định rõ ràng, Hội Thánh đề nghị một đường hướng cho phép cứu vãn và thực hiện tất cả sự thật và trọn vẹn về phẩm giá của hôn nhân và gia đình.

Nhận định này có được là nhờ cảm thức đức tin,[10] ơn mà Thánh Thần ban cho tất cả mọi tín hữu.[11] Do đó, đây là một công việc của cả Hội Thánh, theo những ơn ban và đoàn sủng khác nhau, tùy trách nhiệm riêng biệt của mọi người, là những ơn đang cùng chung sức tác động để giúp Hội Thánh hiểu biết sâu xa hơn về Lời Chúa mà đem ra thực hành. Như thế, Hội Thánh thực hiện việc nhận định theo Tin Mừng không phải chỉ do các chủ chăn, những vị giảng dạy nhân danh Chúa Kitô và với quyền bính của Người, nhưng còn do giáo dân mà Chúa Kitô đã đặt làm “những chứng nhân, khi Ngài ban cho họ cảm thức đức tin và ơn sử dụng ngôn ngữ (x. Cv 2,17-18; Kn 19,10) để sức mạnh Tin Mừng được sáng ngời trong đời sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội”.[12] Hơn nữa, do ơn gọi riêng của mình, giáo dân có một nhiệm vụ đặc biệt là diễn giải lịch sử thế giới này theo ánh sáng Đức Kitô, vì họ được mời gọi phải soi sáng và xếp đặt các thực tại trần thế theo ý định của Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Chuộc.

“Cảm thức siêu nhiên về Đức Tin”[13] không phải chỉ hệ tại cũng không nhất thiết phải hệ tại vào sự đồng ý chung của các tín hữu. Theo chân Đức Kitô, Hội Thánh đi tìm chân lý, mà chân lý không phải bao giờ cũng trùng hợp với quan niệm của số đông. Hội Thánh nghe theo lương tâm chứ không nghe theo quyền lực và bằng cách đó, Hội Thánh bảo vệ những người nghèo và những người bị khinh dễ. Hội Thánh có thể dựa vào việc nghiên cứu xã hội và thống kê khi việc ấy tỏ ra hữu ích để hiểu được bối cảnh lịch sử, trong đó Hội Thánh phải thi hành việc mục vụ, và để biết rõ sự thật hơn; nhưng đừng nghĩ rằng việc nghiên cứu ấy đã là sự diễn tả cảm thức Đức tin.

Vai trò thừa tác vụ tông đồ là bảo đảm cho Hội Thánh được kiên trì trong sự thật của Đức Kitô và làm cho Hội Thánh tiến sâu hơn nữa vào sự thật ấy. Do đó các chủ chăn phải làm phát triển cảm thức đức tin nơi mọi tín hữu, khảo sát và phê phán một cách có thẩm quyền về tính trung thực của những cách diễn tả cảm thức ấy, và huấn luyện các tín hữu biết theo Tin Mừng để nhận định mỗi lúc một chín chắn hơn.[14]

Để luyện được một nhận định đích thực theo Tin Mừng giữa những hoàn cảnh và những nền văn hóa khác biệt trong đó người nam và người nữ đang sống đời hôn nhân và gia đình, các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu có thể và phải đóng góp phần riêng không thể thay thế được của mình. Về điểm này họ có khả năng, nhờ đoàn sủng riêng của Bí tích Hôn Phối.[15]

Hoàn cảnh của gia đình trong thế giới ngày nay

6. Hoàn cảnh trong đó các gia đình đang sống hiện có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực: một số khía cạnh là dấu cho thấy ơn cứu độ của Đức Kitô đang tác động trong thế gian, một số khía cạnh khác là dấu cho thấy sự chối từ của con người đang chống lại tình thương của Thiên Chúa.

Một đàng, người ta thấy có một ý thức sống động hơn về tự do cá nhân và một sự chú ý nhiều hơn đến phẩm chất của các tương quan liên vị trong hôn nhân, đến sự nâng cao phẩm giá phụ nữ, đến sự sinh sản có trách nhiệm, đến việc giáo dục trẻ em; thêm vào đó là ý thức về nhu cầu phải phát triển những liên hệ giữa các gia đình để giúp đỡ lẫn nhau về mặt tinh thần và vật chất, cũng như khám phá lại sứ mạng Hội Thánh riêng biệt của gia đình và trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng một xã hội công bình hơn. Nhưng đàng khác, cũng không thiếu những dấu hiệu cho thấy một sự thóai hóa đáng lo ngại về một số giá trị căn bản: một quan niệm sai lầm trên lý thuyết và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng, những mập mờ rất trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đình đã cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp tuyệt sản ngày càng nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai.

Căn nguyên của những hiện tượng tiêu cực ấy thường là sự suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do, người ta không còn coi tự do như khả năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đình, nhưng coi nó như một năng lực tự lập để tự xác định chính mình, thường là chống lại người khác, và để lo cho sự thỏai mái ích kỷ của mình.

Một sự kiện khác cũng đáng cho chúng ta chú ý: trong các nước thuộc thế giới thứ ba, các gia đình thường thiếu thốn từ những phương tiện căn bản để sống còn, như thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất. Tại các nước giàu có hơn thì ngược lại, người ta quá thỏai mái và nặng óc hưởng thụ, nhưng trớ trêu thay sự thỏai mái và óc hưởng thụ ấy lại gắn liền với một thứ âu lo nào đó, cảm thấy bấp bênh trước tương lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh thêm những sự sống mới: người ta không còn coi sự sống như là một lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm phải tránh né.

Như thế, tình cảnh cụ thể trong đó gia đình đang sống quả là một sự pha trộn giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự pha trộn ấy cho thấy lịch sử không đơn thuần là một sự tiến bộ nhất thiết tiến về cái hay hơn, tốt hơn, nhưng là một diễn biến của tự do, và hơn thế nữa còn là một cuộc chiến giữa những mối tự do đối nghịch nhau, nghĩa là, nói theo thánh Augustinô, một cuộc xung đột giữa hai tình yêu: một bên là lòng yêu mến Thiên Chúa đến độ coi rẻ chính mình và một bên là lòng yêu mình đến độ coi rẻ Thiên Chúa.[16]

Như thế, chỉ có việc giáo dục tình yêu ăn rễ trong đức tin mới có thể đưa người ta đến chỗ có khả năng đọc được những dấu chỉ thời đại nơi việc diễn tả cụ thể của tình yêu hai mặt ấy.

Hoàn cảnh ấy ảnh hưởng gì trên lương tâm các tín hữu?

7. Sống trong một thế giới như thế và nhất là dưới ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng, không phải lúc nào tín hữu cũng đã hoặc sẽ tránh được việc bị lây nhiễm tình trạng các giá trị căn bản bị lu mờ, không phải lúc nào họ cũng biết đứng ra đóng vai ý thức phê phán đối với thứ văn hóa về gia đình vừa nói trên, và đóng vai những người tích cực xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình.

Giữa những dấu chỉ đáng quan tâm nhất của hiện tượng ấy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã đặc biệt nhấn mạnh về sự lan tràn nạn ly dị và ngay cả các tín hữu cũng đòi được tái hôn sau khi ly thân; về quan niệm chỉ chấp nhận cử hành hôn phối theo phần đời, ngược hẳn ơn gọi của những người đã được rửa tội là “lấy nhau trong Chúa”; về việc cử hành Bí tích Hôn Phối mà không có đức tin sống động, nhưng chỉ vì những lý do khác; về sự phủ nhận những nguyên tắc luân lý đang soi sáng và nâng đỡ việc thực hành tính dục trong hôn nhân cách nhân bản và Kitô giáo.

Thời đại chúng ta cần sự khôn ngoan

8. Tất cả Hội Thánh có bổn phận phải suy tư và dấn thân sâu xa để nền văn hóa mới đang ló dạng được thấm nhuần Tin Mừng cách thâm sâu, để các giá trị chân thật được nhìn nhận, để các quyền của người nam người nữ được bảo vệ và để công lý được thăng tiến ngay trong các cơ cấu của xã hội. Như thế, “nền nhân bản mới” sẽ không làm cho con người quay lưng lại với những tương quan giữa họ với Thiên Chúa, nhưng sẽ đưa họ tới một tương quan trọn vẹn hơn.

Trong việc kiến tạo một nền nhân bản như thế, khoa học và các áp dụng kỹ thuật của nó cống hiến những khả năng mới mẻ và rộng lớn. Thế nhưng, một khi các lập trường chính trị giành quyền định đoạt hướng đi của việc nghiên cứu và các áp dụng của nó, khoa học thường bị sử dụng ngược với ý nghĩa nguyên thuỷ nhằm thăng tiến nhân vị.

Do đó cần phải làm sao cho mọi người ý thức được sự ưu tiên của các giá trị luân lý: đó là những giá trị nhân vị với tư cách là nhân vị. Việc hiểu được ý nghĩa cuối cùng của sự sống và của những giá trị căn bản của sự sống là một thách đố lớn lao đang đặt ra cho việc canh tân xã hội ngày nay. Chỉ khi nào cảm nhận được sự ưu tiên của các giá trị ấy, người ta mới có thể tận dụng những khả năng bao la mà khoa học đang đặt vào tay con người như phương thế để thật sự thăng tiến nhân vị trong sự thật toàn diện của nó. Khoa học được mời gọi kết hợp với sự khôn ngoan.

Cũng có thể áp dụng cho các vấn đề về gia đình những lời của Công Đồng Vaticano II: “Hơn bất cứ thời đại nào, thời đại chúng ta cần có một sự khôn ngoan thế nào để tất cả những khám phá mới của con người, dù là khám phá nào cũng đều được mang tính chất nhân bản hơn. Tương lai thế giới sẽ lâm nguy nếu tương lai ấy không biết kiếm cho mình những nhà hiền triết”.[17]

Như thế, việc giáo dục lương tâm làm cho mỗi người có khả năng phán đoán và nhận ra được những phương tiện thích hợp để mình tự thực hiện theo đúng sự thật nguyên thuỷ của mình, việc giáo dục lương tâm ấy trở nên một đòi hỏi hàng đầu không thể chối cãi.

Liên kết với sự khôn ngoan của Thiên Chúa là một điều phải được mạnh mẽ tái xác định trong nền văn hóa hiện nay. Mỗi người nhờ hành vi sáng tạo của chính Thiên Chúa, được dự phần vào sự khôn ngoan ấy. Và chỉ khi nào trung thành với mối liên hệ ấy, các gia đình ngày nay mới có thể tạo được một ảnh hưởng tích cực trong việc kiến tạo một thế giới công bình huynh đệ hơn.

Tiệm tiến và hoán cải

9. Trước sự bất chính do tội lỗi gây ra – tội lỗi đang ăn sâu vào trong các cơ cấu thế giới ngày nay – thường ngăn cản gia đình không thể thực sự tự thể hiện chính mình và không thể sử dụng các quyền căn bản của mình, tất cả chúng ta phải chống lại bằng một sự hoán cải trong tinh thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ riêng mình để bước theo Chúa Kitô thập giá: một sự hoán cải như thế không thể nào không gây một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân trên chính các cơ cấu xã hội.

Cần phải có một sự hoán cải liên lỉ trường kỳ. Vừa đòi hỏi phải thóat ly từ bên trong khỏi mọi sự dữ và gắn bó với sự lành toàn diện, sự hoán cải ấy vừa diễn ra một cách cụ thể như một chương trình luôn đưa người ta đi xa hơn. Như thế có một tiến trình năng động được phát triển, từ từ tiến tới trước, nhờ biết dần dần đem các ơn Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu quyết liệt và tuyệt đối của Ngài hội nhập vào trong đời sống bản thân và xã hội của con người. Do đó việc tăng trưởng cần phải đi qua một tiến trình sư phạm để các tín hữu, các gia đình và các dân tộc và ngay cả nền văn minh có thể từ những gì họ đã nhận được nơi mầu nhiệm Đức Kitô, được kiên trì dẫn dắt đi xa hơn, đến chỗ có được một ý thức phong phú hơn và đón nhận mầu nhiệm ấy trọn vẹn hơn trong đời sống của họ.

Hội nhập văn hóa

10. Truyền thống xưa nay của Hội Thánh vẫn quen đón nhận từ nền văn hóa các dân tộc những gì thích hợp để diễn tả những phong phú vô tận của Đức Kitô cách tốt hơn.[18] Và chỉ với sự góp sức của mọi nền văn hóa, những phong phú ấy mới có thể càng lúc càng bộc lộ rõ hơn và Hội Thánh mới có thể tiến tới sự hiểu biết ngày càng trọn vẹn và sâu sắc hơn về chân lý mà Chúa đã ban trọn cho Hội Thánh. Nắm vững được nguyên tắc kép, vừa tìm kiếm nơi các nền văn hóa khác nhau những điều tương hợp với Tin Mừng vừa hiệp thông với Hội Thánh phổ quát, người ta còn phải theo đuổi việc nghiên cứu – cách riêng đó là trách nhiệm của các Hội Đồng Giám Mục và của các cấp có thẩm quyền của giáo triều Roma – và phương hướng mục vụ, làm thế nào để việc “hội nhập văn hóa” trong đức tin Kitô giáo được thực hiện một cách càng lúc càng rộng lớn, ngay cả trong lãnh vực hôn nhân và gia đình.

Nhờ việc “hội nhập văn hóa” ấy, người ta tiến tới chỗ phục hồi trọn vẹn mối liên kết của mình đối với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là chính Đức Kitô. Hội Thánh cũng được thêm phong phú và sinh động nhờ tất cả những nền văn hóa dù chưa được kỹ thuật hóa, nhưng giàu sự khôn ngoan nhân loại và những giá trị luân lý cao cả.

Để cho mục đích của cuộc hành trình này được sáng tỏ và để nhờ đó, mà vạch được đường đi cách chắc chắn, Thượng Hội Đồng Giám Mục trước hết và thật chính đáng, xem xét đến nơi đến chốn dự án nguyên thuỷ của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình. Thượng Hội đồng Giám Mục muốn “trở lại từ đầu” để tôn trọng giáo huấn của Đức Kitô.[19]

***

PHẦN THỨ HAI

Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 

Con người, hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu

11. Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài,[20] giống như họa ảnh của Ngài. Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu.

Thiên Chúa là Tình yêu[21] và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông.[22] Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người.

Bởi con người là một tinh thần nhập thể, nghĩa là một linh hồn biểu lộ trong một thân xác và một thân xác được sinh động do một tinh thần bất tử, nên nó được mời gọi sống yêu thương trong toàn thể duy nhất tính của nó. Tình yêu cũng bao gồm cả thân xác con người và thân xác được dự phần vào tình yêu của tinh thần.

Mặc khải Kitô giáo nhìn nhận có hai cách thế chuyên biệt để thực hiện ơn gọi sống yêu thương của nhân vị trong sự trọn vẹn của nó: đó là hôn nhân và trinh khiết. Cả hai cách thế trong hình thức riêng biệt của mình, đều là sự cụ thể hóa sự thật sâu xa về con người, “hữu thể theo hình ảnh của Thiên Chúa”.

Bởi thế, tính dục mà nhờ đó người nam và người nữ hiến mình cho nhau bằng những hành vi riêng biệt và chỉ dành riêng cho đôi bạn, tính dục ấy không phải là một điều thuần tuý sinh lý, nhưng có liên hệ đến nhân vị trong mức thâm sâu nhất mà nhân vị ấy có được. Tính dục ấy chỉ được thực hiện một cách nhân bản đích thực, nếu nó là một thành phần làm nên tình yêu, trong đó người nam và người nữ hiến thân trọn vẹn cho nhau cho đến chết. Sự trao hiến hòan toàn theo thể xác sẽ giả dối nếu nó không phải là dấu chỉ và kết quả của sự trao hiến cả ngôi vị, trong đó toàn thể ngôi vị đều hiện diện, cả trong chiều kích trần tục của nó. Nếu người ta dành lại bất cứ điều gì, hoặc dành cho mình quyền có thể quyết định khác đi sau này, thì như thế không còn là một sự trao hiến hòan toàn nữa.

Sự đòi buộc toàn diện như thế trong tình yêu đôi bạn, cũng phù hợp với những đòi hỏi của việc sinh sản có trách nhiệm: việc này vì có mục đích sinh ra một hữu thể nhân linh nên nó vượt lên trên bình diện thuần sinh lý và bao gồm toàn thể những giá trị nhân vị; và để cho toàn thể những giá trị này được phát triển điều hòa, cả người cha và người mẹ phải cùng đóng góp phần mình một cách thường xuyên và đồng thuận với nhau.

“Nơi” duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể thực hiện được với trọn cả sự thật của nó chính là hôn nhân, nghĩa là khế ước tình yêu hôn phối, hay nói cách khác, là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó mà người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình yêu như chính Thiên Chúa đã muốn,[23] và cũng chỉ dưới ánh sáng này, sự chọn lựa kia mới bày tỏ tất cả ý nghĩa đích thực của nó. Định chế hôn nhân không phải là một sự can thiệp ngang ngược của xã hội và quyền bính, cũng không phải là sự áp đặt một hình thức từ bên ngoài, định chế ấy là một đòi hỏi tự bên trong khế ước tình yêu hôn phối, được xác định công khai như khế ước duy nhất và tuyệt đối để nhờ đó đôi bạn có thể sống trung thành trọn vẹn với ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá. Sự trung thành này, thay vì giảm thiểu tự do của nhân vị, lại giúp cho tự do ấy khỏi rơi vào những thái độ chủ quan và những chủ trương tương đối và làm cho nó được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa Sáng Tạo.

Hôn nhân và sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người

12. Sự hiệp thông yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người, tức nội dung căn bản của mặc khải và của kinh nghiệm sống đức tin nơi dân Israel, được diễn tả cách đầy ý nghĩa trong giao ước ngày cưới giữa người nam và người nữ.

Chính vì thế mà những từ ngữ chính yếu trong mặc khải như “Thiên Chúa yêu thương dân Ngài”, đều được phát biểu dựa theo những từ ngữ sống động và cụ thể mà người nam và người nữ dùng để diễn tả tình yêu vợ chồng của họ. Dây liên kết tình yêu của họ trở thành hình ảnh và biểu tượng cho giao ước nối kết dân Chúa với dân Ngài.[24] Cả đến tội lỗi, có thể làm tổn thương khế ước hôn nhân cũng trở thành hình ảnh cho sự bất trung của dân đối với Thiên Chúa. Việc thờ ngẫu tượng là một sự mãi dâm,[25] bất trung là ngoại tình, và không vâng nghe luật Chúa là một sự chối bỏ tình yêu hôn ước của Chúa. Nhưng sự bất trung của Israel không huỷ diệt lòng trung tín đời đời của Chúa và bởi thế, tình yêu trung thành mãi mãi của Thiên Chúa được giới thiệu như kiểu mẫu cho những tương quan tình yêu trung tín phải có giữa vợ chồng.[26]

Đức Giêsu Kitô hôn phu của Hội Thánh và Bí tích hôn nhân

13. Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được hòan tất vĩnh viễn nơi Đức Giêsu Kitô, vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng cứu độ nhân loại bằng cách kết hiệp nhân loại với Người như chính thân mình Người.

Người mặc khải sự thật nguyên thuỷ của hôn nhân, sự thật của “thuở ban đầu”[27] và khi giải phóng con người khỏi tâm hồn chai đá, Người làm cho con người có khả năng thực hiện sự thật này một cách trọn vẹn.

Mặc khải này đạt đến sự viên mãn dứt khóat của nó trong việc trao ban tình yêu mà Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho loài người khi Người mặc lấy bản tính nhân loại và trong việc hy sinh mà Đức Giêsu Kitô đã hiến mình trên thập giá cho hiền thê của Người là Hội Thánh. Sự hy sinh ấy biểu lộ trọn vẹn ý định mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong nhân tính của người nam và người nữ từ khi tạo dựng nên họ.[28] Như thế hôn nhân của những người đã chịu Phép Rửa tội trở nên biểu tượng thật của giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết trong máu Đức Kitô. Thánh Thần mà Chúa đã đổ tràn xuống, ban cho họ một trái tim mới và làm cho cả người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu vợ chồng đạt tới sự sung mãn là tình bác ái vợ chồng mà do bản chất, là phương thế độc đáo và riêng biệt giúp các đôi vợ chồng tham dự vào tình bác ái của Đức Kitô, Đấng trao ban chính mình trên thập giá, và cũng nhờ đó họ được mời gọi sống tình bác ái của Người.

Trong một trang sách, rất nổi tiếng, Tertulianô đã diễn tả tuyệt vời nét cao cả và vẻ đẹp của đời sống vợ chồng trong Đức Kitô: “Tôi sẽ múc đâu ra sức mạnh để nói cho thỏa về niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được Thánh lễ thừa nhận, được lời chúc lành niêm ấn; được các Thiên thần công bố và được Cha trên trời chuẩn y… Có đôi bạn nào đẹp bằng đôi bạn Kitô hữu, được kết hợp do cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một nề nếp, cùng một công việc phục vụ. Cả hai cùng là con một Cha, cùng phục vụ một Chúa; không gì phân rẽ họ nổi, trong tinh thần cũng như trong xác thịt; ngược lại, họ là hai trong cùng một thể xác. Ở đâu có cùng một thể xác, ở đó cũng có cùng một tinh thần”.[29]

Trung thành đón nhận và suy niệm Lời Chúa, Hội Thánh đã long trọng giảng dạy và vẫn còn dạy rằng hôn nhân giữa những người đã chịu Phép Rửa là một trong bảy Bí Tích của Tân Ước.[30]

Quả vậy, do Phép Rửa, người nam và người nữ mãi mãi được gia nhập vào giao ước mới và vĩnh cửu, giao ước hôn nhân của Đức Kitô với Hội Thánh. Chính vì sự gia nhập bất khả thu hồi ấy mà cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu vợ chồng do Tạo Hóa lập nên,[31] đã được nâng cao và đem vào trong tình bác ái hôn ước của Đức Kitô, được sức mạnh cứu rỗi của Ngài nâng đỡ và làm cho phong phú.

Nhờ tính cách Bí tích của hôn nhân, đôi bạn được liên kết với nhau một cách chặt chẽ không thể tháo gỡ được. Khi người này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Kitô với Hội Thánh Ngài, qua dấu chỉ Bí tích.

Như vậy đôi bạn là lời nhắc nhở thường xuyên cho Hội Thánh về điều đã xảy ra trên thập giá. Họ là nhân chứng cho nhau và cho con cái về ơn cứu độ mà Bí tích đã làm cho họ được dự phần. Hôn nhân cũng như mọi Bí tích khác, là một sự nhớ lại, một sự hiện tại hóa và một lời tiên tri về biến cố cứu độ. “Là một sự nhớ lại, Bí tích ban cho họ ân sủng và trao cho họ bổn phận phải làm nhớ lại những kỳ công của Thiên Chúa và làm chứng về những kỳ công ấy trước mặt con cái họ; là một sự hiện tại hóa, Bí tích ban cho họ ân sủng lẫn bổn phận phải thực hành trong hiện tại giữa họ với nhau và giữa họ với con cái, những đòi hỏi của một tình yêu tha thứ và cứu chuộc; là môït lời tiên tri, Bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận sống và làm chứng về mối hy vọng sẽ được gặp gỡ Đức Kitô sau này”.[32]

Như từng Bí tích trong bảy Bí tích, hôn nhân cũng là một biểu tượng thật của biến cố cứu độ, nhưng theo cách thế riêng. “Đôi bạn dự phần vào đó với tư cách là đôi bạn, là hai vợ chồng, đến nỗi hậu quả đầu tiên và tức khắc của Bí tích hôn nhân không phải là ân sủng siêu nhiên nhưng là mối dây liên kết hôn nhân Kitô giáo, là việc hai người thông hiệp với nhau theo cách thức đặc biệt Kitô giáo, bởi vì sự thông hiệp ấy diễn tả mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô và mầu nhiệm giao ước của Ngài. Và nội dung của việc tham dự vào sự sống Đức Kitô cũng rất đặc biệt: “Tình yêu vợ chồng bao gồm một toàn thể tính trong đó có đủ mọi yếu tố cấu tạo nên ngôi vị: tiếng gọi của thân xác và của bản năng, sức mạnh của cảm năng và của lòng yêu mến, khát vọng của tinh thần và của ý chí; tình yêu ấy nhắm đến một sự hiệp nhất sâu xa về ngôi vị, một sự hiệp nhất, vượt qua sự kết hợp thành một thân xác, đưa đến chỗ chỉ còn một trái tim, một linh hồn; tình yêu ấy đòi hỏi sự bất khả phân ly và sự trung thành trong việc trao hiến cho nhau một cách dứt khóat, mở ngõ cho việc sinh sản.[33] Tắt một lời, đó chính là những đăïc tính thông thường của mọi tình yêu vợ chồng nhưng với một ý nghĩa mới mẻ, một ý nghĩa không những thanh luyện và củng cố đặc tính ấy, nhưng còn nâng chúng lên cao đến độ biến chúng trở thành lời diễn tả những giá trị thật sự của Kitô giáo”.[34]

Con cái, ơn huệ rất quý báu của hôn nhân

14. Theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình, vì chính định chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng đều quy hướng về việc truyền sinh và giáo dục con cái, làm nên triều thiên cho định chế và tình yêu ấy.[35]

Trong thực tế sâu xa nhất của nó, tình yêu vốn cốt yếu là ơn huệ, và tình yêu vợ chồng, khi đưa đôi bạn đến chỗ “biết” nhau làm cho họ trở thành “một xác thịt”,[36] nó không chấm dứt nơi hai người nhưng nó làm cho họ có khả năng thực hiện được việc trao hiến lớn lao nhất, nhờ đó họ trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống cho một nhân vị khác. Vì thế khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau thì cũng trao ban một hữu thể thực hữu vượt khỏi họ, tức là đứa con, dấu chỉ thường xuyên của sự hiệp nhất vợ chồng và là tổng hợp sống động và không thể phân chia của tư cách làm cha làm mẹ của họ.

Khi trở nên cha mẹ, đôi bạn cũng lãnh nhận nơi Thiên Chúa một quà tặng, đó là một trách nhiệm mới. Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái, thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được chính tình yêu của Thiên Chúa, “là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất”.[37]

Tuy nhiên, đừng quên rằng ngay cả trong những trường hợp không thể nào có con, đời sống vợ chồng vẫn giữ nguyên tất cả giá trị của nó. Sự son sẻ về phần xác, thực ra, lại có thể là dịp để đôi bạn dấn thân vào những công việc phục vụ quan trọng cho sự sống của nhân vị, như việc nhận con nuôi, những công việc giáo dục đủ loại, việc trợ giúp cho những gia đình khác, những trẻ nghèo hoặc tàn tật.

Gia đình, cộng đoàn hiệp thông những ngôi vị

15. Ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị được dệt nên – những tương quan về tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em – qua những tương quan ấy, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong “gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa” là Hội Thánh.

Hôn nhân và gia đình Kitô giáo xây nên Hội Thánh. Thật vậy, trong gia đình, nhân vị không phải chỉ được sinh ra và dần dần nhờ giáo dục được dẫn vào trong cộng đồng nhân loại mà thôi, nhưng nhờ tái sinh qua Phép Rửa và nhờ sự giáo dục đức tin, ngôi vị ấy cũng được dẫn vào trong gia đình của Thiên Chúa là Hội Thánh.

Gia đình nhân loại, bị phân hóa vì tội lỗi, được phục hồi trong sự hiệp nhất của nó nhờ quyền năng cứu chuộc do cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.[38] Nhờ tham dự vào hiệu năng cứu độ của biến cố ấy, hôn nhân Kitô giáo trở thành môi trường tự nhiên để cho nhân vị được hội nhập vào trong đại gia đình Hội Thánh.

Sứ mạng ngay từ đầu đã được trao cho người nam và người nữ để sinh sản thêm nhiều cũng nhờ đó mà trở thành hiện thực và được thực hiện hòan toàn.

Cuối cùng, nơi gia đình, đã phát xuất từ Bí tích Hôn Phối, Hội Thánh còn tìm được cái nôi và môi trường giúp cho Hội Thánh có thể hòan tất việc hội nhập vào các thế hệ loài người, cũng như ngược lại, các thế hệ loài người được hội nhập vào Hội Thánh.

Hôn nhân và trinh khiết

16. Sự trinh khiết và độc thân vì Nước Thiên Chúa, không làm giảm bớt chút nào phẩm giá của hôn nhân, ngược lại, chúng giả thiết phải có phẩm giá ấy và củng cố nó. Hôn nhân và sự trinh khiết là hai cách thức để diễn tả cùng một mầu nhiệm duy nhất về giao ước giữa Thiên Chúa với Dân Ngài. Ở đâu không có sự kính trọng đối với hôn nhân, cũng không thể nào có được sự trinh khiết tận hiến. Ở đâu người ta không nhìn tính dục con người như là ân sủng lớn lao của Đấng Tạo hóa, thì ở đó việc từ bỏ tính dục vì Nước Trời cũng mất đi ý nghĩa của nó.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rất đúng như sau: “Bôi nhọ hôn nhân cũng đồng thời làm giảm đi vinh quang của sự trinh khiết, ca ngợi hôn nhân là nêu cao sự khâm phục phải có đối với sự trinh khiết và làm cho nó được chiếu sáng hơn. Bởi vì điều gì chỉ có vẻ là một điều tốt nhờ đem so sánh với một điều xấu thì không thể thực sự là một điều tốt. Nhưng một điều còn tốt hơn những điều tốt không chối cãi được thì đúng là điều tốt tuyệt hảo”.[39]

Qua sự trinh khiết, con người chờ đợi lễ cưới cánh chung của Đức Kitô với Hội Thánh, ngay cả nơi thân xác mình, bằng cách tự hiến hòan toàn cho Hội Thánh trong niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trao hiến chính mình Người cho Hội Thánh, trong cuộc sống vĩnh cửu thật sự viên mãn. Như thế là sống trước nơi thân xác mình cái thế giới mới mẻ của sự phục sinh sau này.[40]

Nhờ vào lời chứng ấy, sự trinh khiết giữ cho cái ý thức trong Hội Thánh về mầu nhiệm hôn nhân được sống động, và bảo vệ mầu nhiệm ấy chống lại bất cứ điều gì có thể phạm đến sự toàn vẹn của nó hoặc làm cho nó nghèo nàn đi.

Khi làm cho trái tim con người được đặc biệt tự do[41] “để nó được bừng cháy hơn nữa trong tình yêu đối với Thiên Chúa và với mọi người”,[42] sự trinh khiết chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài chính là viên ngọc quí mà người ta phải coi trọng hơn mọi giá trị khác, dù những giá trị này lớn đến đâu đi nữa, và đồng thời phải tìm kiếm như là giá trị quyết định duy nhất. Chính vì mối liên hệ hết sức độc đáo của đặc sủng này với Nước Thiên Chúa mà Hội Thánh suốt cả lịch sử của mình, đã luôn luôn bênh vực sự trổi vượt của đặc sủng ấy so với đặc sủng hôn nhân.[43]

Chính khi chối từ việc sinh sản về phần xác, người giữ mình trinh khiết trở nên phong nhiêu về phương diện tinh thần; làm cha, làm mẹ của một số đông người và như thế, họ cộng tác vào việc hiện thực hóa định chế gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Thế nên các đôi bạn Kitô hữu có quyền chờ đợi nơi những con người sống trinh khiết gương sáng và lời chứng về một lòng trung thành với ơn gọi cho đến chết. Cũng như đối với các đôi bạn, đôi khi việc trung thành trở nên khó khăn và đòi hỏi hy sinh, khổ chế, quên mình thì đối với những người sống trinh khiết cũng có thể xảy ra như vậy. Sự trung thành của họ, trung thành cả khi gặp thử thách, phải xây dựng cho sự trung thành của các đôi bạn.[44] Sau cùng, những suy tư trên đây về sự trinh khiết có thể soi sáng và trợ giúp cho những ai, vì những lý do ngoài ý muốn của họ, không thể kết hôn và đã chấp nhận tình cảnh của mình trong tinh thần phục vụ.

***

PHẦN THỨ BA

NHỮNG BỒN PHẬN CỦA GIA ĐÌNH KITÔ HỮU

 

Hỡi gia đình, hãy trở nên đúng với bản chất của mình

17. Trong ý định của Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Chuộc, không những gia đình khám phá ra “căn tính” của nó, cái nó “là”, mà còn khám phá ra “sứ mạng” của nó, cái nó có thể và phải “làm”. Những bổn phận mà gia đình được Thiên Chúa mời gọi phải chu toàn trong lịch sử đều bắt nguồn từ hữu thể độc đáo của nó, và là cách diễn tả sự phát triển năng động và hiện sinh của nó. Mỗi gia đình khám phá và gặp được nơi chính mình lời mời gọi cấp bách ấy, cũng chính là lời mời gọi xác định đâu là phẩm giá và trách nhiệm của gia đình: Hỡi gia đình, “hãy trở nên” cái mà ngươi “là”.

Như thế, trở về “nguyên thuỷ” với hành vi sáng tạo của Thiên Chúa là một điều khẩn thiết đối với gia đình, nếu muốn biết mình và thể hiện chính mình không những theo sự thật sâu xa về hữu thể của mình, mà còn theo tầm mức hành động của mình trong lịch sử, và bởi vì, theo ý định của Thiên Chúa, gia đình kết thành “cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu”,[45] nên gia đình có sứ mạng phải mỗi lúc một trở nên cái nó là, nghĩa là một cộng đoàn của sự sống và tình yêu đang vươn lên và sẽ hòan tất trong Nước Thiên Chúa – như mọi thực tại được sáng tạo và cứu chuộc. Khi trở về với nguồn gốc của thực tại như thế, ta phải nhìn nhận rằng yếu tính của gia đình và các bổn phận của nó dứt khóat phải được xác định bằng tình yêu. Vì thế gia đình lãnh nhận trách nhiệm phải giữ gìn mặc khải và thông truyền tình yêu, là phản ảnh sống động và dự phần thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vào tình yêu của Đức Kitô là Chúa đối với hiền thê Người là Hội Thánh. Mọi bổn phận riêng biệt của gia đình đều là cách diễn tả thực tại cụ thể của sứ mạng căn bản ấy. Cho nên cần phải đi sâu hơn nữa vào trong sự phong phú đặc thù của sứ mạng gia đình và đem từ đó ra, những yếu tố vừa đa tạp vừa đơn nhất.

Trong cái nhìn ấy, khởi sự từ tình yêu và không ngừng qui chiếu về đó, Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này đã đưa ra ánh sáng bốn bổn phận chính của gia đình:

1. Đào tạo một cộng đồng các ngôi vị;

2. Phục vụ sự sống;

3. Dự phần vào việc phát triển xã hội;

4. Dự phần vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh.

I. ĐÀO TẠO MỘT CỘNG ĐỔNG CÁC NGÔI VỊ

Tình yêu, nguồn mạch và sức mạnh của sự hiệp thông

18. Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị.

Nguyên lý nội tại, sức mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng của một sức mạnh như thế chính là tình yêu: Cũng như không có tình yêu gia đình không phải là một cộng đồng các ngôi vị, thì cũng thế, không tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng các ngôi vị. Điều tôi đã viết trong Thông điệp “Đấng Cứu Chuộc Con Người” được áp dụng độc đáo và ưu tiên trước hết nơi gia đình: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất ý nghĩa nếu không nhận lấy mặc khải về tình yêu, nếu không có kinh nghiệm về tình yêu và nếu không nhận lấy kinh nghiệm ấy làm của mình và hăng say dự phần vào đó”.[46]

Tình yêu giữa người nam và người nữ trong hôn nhân và do đó, một cách rộng rãi hơn, tình yêu thương giữa các phần tử trong cùng một gia đình – giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa tất cả bà con họ hàng – được linh hoạt và nâng đỡ do một sức năng động từ bên trong đang đưa dẫn gia đình về một sự hiệp thông càng lúc càng sâu xa và đậm đà hơn, làm nền tảng và nguyên lý cho cộng đồng hôn phối và gia đình.

Sự hiệp thông vợ chồng là sự hiệp nhất không thể phân ly

19. Sự hiệp thông đầu tiên là sự hiệp thông được thiết lập và phát triển giữa đôi bạn: nhờ khế ước của tình yêu vợ chồng, người nam và người nữ “không còn phải là hai nhưng là một xác thịt”[47] và được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau.

Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ, chia sẻ với nhau điều họ có và điều họ là: bởi đó, một sự hiệp thông như thế là kết quả và là dấu hiệu của một đòi hỏi nhân bản sâu xa. Nhưng trong Chúa Kitô, Thiên Chúa nắm lấy cái đòi hỏi đó, củng cố nó, thanh luyện nó và nâng nó lên cao, bằng cách dùng Bí tích Hôn Phối mà đưa nó đến chỗ toàn thiện: Chúa Thánh Thần được đổ tràn xuống khi cử hành Bí tích, đã trao tặng cho đôi bạn Kitô hữu một sự hiệp thông mới, hiệp thông trong tình yêu là hình ảnh sống và thực của sự duy nhất hết sức độc đáo đang làm cho Hội Thánh trở thành thân mình mầu nhiệm không thể phân chia của Đức Kitô.

Ơn của Thần Khí là luật sống cho đôi bạn Kitô hữu và đồng thời là hơi thở hướng dẫn họ để mỗi ngày họ phát huy được thể xác, tình tình, con tim, trí tuệ, ý chí, linh hồn,[48] hầu biểu lộ cho Hội Thánh và cho thế giới thấy sự hiệp thông mới mẻ về tình yêu do ân sủng Đức Kitô ban tặng.

Đa thê là một điều đối nghịch tận trong căn bản với một sự hiệp thông như thế: vì nó trực tiếp phủ nhận ý định của Thiên Chúa như Ngài đã mặc khải cho chúng ta ngay từ đầu, nó ngược hẳn với phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa người nữ và người nam, trong hôn nhân người nữ và người nam đều trao hiến cho nhau trong một tình yêu toàn diện và do đó cũng là một tình yêu duy nhất, không dành cho ai khác. Như đã viết trong Công Đồng Vaticano II: “Phải nhìn nhận phẩm giá biệt vị bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương ái trọn vẹn để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận”.[49]

Một sự hiệp thông bất khả phân ly

20. Sự hiệp thông vợ chồng được đánh dấu không những do sự duy nhất nhưng còn do tính chất bất khả phân ly của nó: “Sự kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hòan toàn trung tín và đòi hỏi họ kết hợp với nhau cách bất khả phân ly”.[50]

Hội Thánh có một bổn phận căn bản – như các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã làm – là phải tái khẳng định thật mạnh mẽ giáo lý về sự bất khả phân ly của hôn nhân đối với những người ngày nay đang nghĩ rằng thật khó và hơn nữa thật không sao có thể liên kết với một người suốt đời, và đối với những người đang bị cuốn theo một nền văn hóa từ chối sự bất khả phân ly của hôn nhân và có khi còn công khai khinh bỉ việc đôi bạn cam kết sống trung thành với nhau, thì còn phải nhắc lại lời loan báo vui mừng về tính cách dứt khóat của tình yêu vợ chồng này, là tình yêu đặt nền tảng và tìm được sức mạnh nơi Đức Kitô.[51]

Bắt nguồn từ trong sự trao ban trọn vẹn và đích thân giữa hai vợ chồng, cũng như do lợi ích của con cái đòi hỏi, sự bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định Thiên Chúa đã bày tỏ trong mặc khải của Ngài: chính Ngài muốn hôn nhân phải bất khả phân ly và Ngài ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa đã có đối với con người và là tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ ra đối với Hội Thánh.

Đức Kitô canh tân ý định nguyên thuỷ mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong lòng người nam và người nữ, và trong lúc cử hành Bí tích Hôn Phối, Người ban cho họ “một tấm lòng mới”: như thế, không những đôi bạn có thể vượt lên được khỏi sự “cứng lòng”,[52] mà nhất là họ còn có thể dự phần vào tình yêu toàn diện và dứt khóat của Đức Kitô, là Giao ước mới và vĩnh cửu đã trở thành xác phàm. Cũng như Chúa Giêsu là vị “chứng nhân trung thành”,[53] là tiếng, “có” của những lời Thiên Chúa hứa,[54] và đó là sự thể hiện tối cao của lòng trung tín vô điều kiện mà với sự trung tín ấy Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài, thì đôi bạn Kitô hữu cũng được mời gọi để thực sự dự phần vào sự bất khả phân ly không thể thu hồi đang nối kết Đức Kitô với Hội Thánh là Hiền Thê mà Ngài yêu mến đến tận cùng.[55]

Đối với đôi bạn Kitô hữu, ơn Bí tích là một ơn gọi và đồng thời cũng là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi, bất chấp các thử thách và khó khăn với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa: “Điều Thiên Chúa đã phối hợp thì người ta không được phân ly”.[56]

Ngày nay, làm chứng về giá trị cao quí của sự bất khả phân ly trong hôn nhân và của lòng chung thuỷ vợ chồng là một trong những bổn phận quan trọng nhất và cấp bách nhất của các đôi bạn Kitô hữu. Vì thế hiệp ý với tất cả các anh em của tôi đã cùng tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi ca ngợi và khích lệ đông đảo tất cả các đôi bạn, mặc dù gặp những khó khăn to lớn, vẫn giữ gìn và phát triển sự bất khả phân ly quí báu ấy: làm thế họ đã khiêm tốn và quả cảm đảm nhận trách nhiệm đã trao cho họ là trở nên dấu chỉ trong thế giới – một dấu chỉ kín đáo và quí giá, đôi khi bị thua chước cám dỗ nhưng rồi lại được đổi mới không ngừng – dấu chỉ về sự trung tín không biết mỏi mệt của tình yêu mà Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô đã có đối với tất cả mọi người và đối với từng người. Và cũng còn phải đánh giá cao lời chứng của những người chồng, người vợ bị bạn đời của mình rẫy bỏ mà nhờ đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo, vẫn không tái hôn: như thế, họ đã nêu lên được một lời chứng đích thực cho sự trung thành mà thế giới ngày nay đang cần đến biết bao. Vì thế, các chủ chăn và tín hữu trong Hội Thánh phải khích lệ và giúp đỡ họ được kiên trì trong hướng ấy.

Sự hiệp thông mở rộng của gia đình

21. Sự hiệp thông vợ chồng tạo nên nền tảng trên đó xây dựng được sự hiệp thông rộng lớn hơn trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với nhau, giữa những người bà con gần và những thành phần khác của gia đình.

Một sự hiệp thông như vậy ăn rễ từ trong những liên hệ tự nhiên ruột thịt và được phát triển cho đến mức toàn thiện nhân bản, nhờ biết thực hiện và làm cho trưởng thành những mối liên hệ còn sâu xa và phong phú hơn của tinh thần, tức là: tình yêu, linh hồn của những tương quan liên vị giữa những thành phần khác nhau trong gia đình, tình yêu này là sức mạnh bên trong làm cho sự hiệp thông và cộng đồng gia đình được hình thành và sống động.

Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được mời gọi cảm nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy, ân sủng của Đức Giêsu Kitô “Anh Cả của một đàn em đông đúc”[57] theo bản tính và sức mạnh nội tại của ơn ấy, là một “ân sủng của tình huynh đệ” như Thánh Tôma Aquinô vẫn gọi.[58] Thánh Thần được đổ tràn xuống trong việc cử hành các Bí tích chính là nguồn mạch sống động và lương thực vô tận cho sự hiệp thông siêu nhiên nối kết các tín hữu với Đức Kitô và qui tụ họ lại với nhau trong sự hiệp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu là một mặc khải, một sự thực hiện đặc biệt mối hiệp thông trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình Kitô hữu có thể và phải được gọi là “Hội Thánh tại gia”.[59]

Tất cả mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để ngày này sang ngày khác tiếp tục xây dựng sự hiệp thông giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một “trường học đào tạo cho nhân tính được hòan hảo và phong phú hơn”:[60] điều đó được thể hiện qua việc chăm sóc và tình yêu dành cho các em nhỏ, những người đau yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của cải, chia sẻ những niềm vui và nổi khổ.

Yếu tố căn bản tạo để nên sự hiệp thông như thế, chính là sự trao đổi có tính cách giáo dục giữa cha mẹ và con cái,[61] làm cho mỗi người đều có thể cho đi và nhận lại. Qua tình yêu, sự kính trọng và vâng lời đối với cha mẹ, con cái mang lại phần đóng góp đặc biệt và không thể thay thế được của chúng cho việc xây dựng một gia đình thật sự nhân bản và Kitô giáo.[62] Điều đó sẽ dễ dàng hơn cho chúng nếu các bậc cha mẹ thực hành nghiêm chỉnh quyền bính của họ như một tác vụ thật sự hay đúng hơn, như một việc phục vụ nhắm tới lợi ích nhân bản và Kitô hữu của con cái, và đặc biệt hơn, như một việc phục vụ nhằm làm cho con cái đạt được một sự tự do thật sự có trách nhiệm, và nếu chính các cha mẹ cũng luôn giữ được một ý thức bén nhạy về hồng ân mà họ không ngừng nhận được từ nơi con cái họ.

Chỉ có một tinh thần hy sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau, và hòa giải với nhau. Không gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình. Đồng thời, mỗi gia đình đều luôn luôn được Thiên Chúa Chủ Tể của sự bình an, mời gọi sống kinh nghiệm tươi sáng phấn khởi của việc hòa giải, trong việc tái lập sự hiệp thông, tìm lại sự hiệp nhất. Cách riêng việc tham dự vào Bí tích giao hòa và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô sẽ đem lại cho gia đình Kitô hữu ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi chia rẽ và bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là “xin cho tất cả được nên một”.[63]

Những quyền lợi và vai trò của người phụ nữ

22. Gia đình, xét như – và phải luôn trở thành – một sự hiệp thông và một cộng đồng các ngôi vị. Gia đình gặp được nơi tình yêu, nguyên do và sức khích lệ thường xuyên làm cho nó biết tiếp nhận, kính trọng và phát triển nơi mỗi thành phần của nó phẩm giá thật cao của các ngôi vị nghĩa là như những hình ảnh của Thiên Chúa. Như các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục đã quả quyết rất đúng, tiêu chuẩn luân lý để cho các tương quan hôn nhân và gia đình được trung thực cốt ở việc đề cao phẩm giá và ơn gọi của từng ngôi vị, là những ngôi vị đã tìm được sự sung mãn của mình khi biết chân thành trao ban chính mình.[64]

Trong viễn tượng ấy, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã muốn dành một sự chú ý đặc biệt cho người phụ nữ, cho các quyền lợi và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Cũng phải xét đến người nam, như là người chồng và là người cha, đến trẻ em và đến những người già cả trong cùng một viễn tượng ấy.

Về phụ nữ, trước hết cần phải ghi nhận rằng, phẩm giá và trách nhiệm của họ bình đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của người nam. Sự bình đẳng ấy được thực hiện một cách đặc biệt trong việc họ trao hiến chính mình cho nhau và cho con cái họ. Một sự trao hiến như thế chỉ có được trong hôn nhân và gia đình. Điều mà lý trí con người đã trực giác thấy và đã nhìn nhận cũng là điều được mặc khải sung mãn trong Lời Chúa. Thật vậy, lịch sử cứu độ là một lời chứng liên lỉ và sáng chói cho phẩm giá phụ nữ.

Khi tạo dựng con người có nam có nữ,[65] Thiên Chúa ban phẩm giá con người như nhau cho cả người nam và người nữ, trao cho họ những quyền lợi bất khả nhượng và những trách nhiệm dành riêng cho nhân vị. Rồi Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao cả hết sức có thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ Đức Trinh Nữ Maria mà Hội Thánh tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, gọi Mẹ là Eva mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ đã được cứu chuộc. Tình thương tế nhị của Chúa Giêsu đối với những phụ nữ mà Người đã gọi đi theo Người, việc Người sống thân hữu với họ, việc Người hiện ra vào buổi sáng Phục Sinh cho một phụ nữ trước khi hiện ra cho những môn đệ khác, việc Người trao phó cho các phụ nữ sứ mạng đem Tin Mừng Phục sinh đến cho các tông đồ, tất cả những sự việc ấy là những dấu chỉ xác nhận lòng quí trọng đặc biệt của Chúa Giêsu đối với phụ nữ. Thánh Phaolô về sau đã nói: “Hết thảy anh em là con cái Thiên Chúa, nhờ bởi lòng tin trong Đức Kitô Giêsu;… không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Giêsu”.[66]

Người phụ nữ và xã hội

23. Ở đây ta không bàn đến chủ đề rộng rãi và phức tạp là những tương quan giữa người phụ nữ và xã hội dưới những khía cạnh khác biệt của chủ đề ấy, mà chỉ giới hạn vào một số điểm then chốt. Không thể nào không nhận thấy rằng trong lãnh vực dành riêng cho đời sống gia đình, có một truyền thống xã hội và văn hóa rất phổ biến đã muốn dành cho người phụ nữ chỉ nguyên vai trò làm vợ và làm mẹ mà không mở lối cho họ một cách tương xứng để bước vào những vai trò công cộng thường được coi như chỉ dành cho người nam.

Chắc chắn rằng sự bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người nữ đủ biện minh cho việc người nữ dấn thân vào các vai trò xã hội. Đàng khác, muốn thật sự đề cao phẩm giá phụ nữ thì cũng cần phải nhìn nhận rõ ràng vai trò làm mẹ và lo việc gia đình của phụ nữ có giá trị so với tất cả những vai trò công cộng và tất cả những chức nghiệp khác. Sau nữa cũng còn cần phải làm sao để tất cả những vai trò và những chức nghiệp ấy được liên kết chặt chẽ với nhau, nếu người ta muốn cho sự phát triển xã hội và văn hóa được đạt đến mức nhân bản thật sự và trọn vẹn.

Điều ấy có thể dễ dàng đạt được hơn, nếu nền “thần học về lao động” được canh tân. Đây là điều mà Thượng Hội Đồng Giám Mục đã mong ước để giúp làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của lao động trong đời sống Kitô hữu, cũng như để xác định mối liên hệ căn bản giữa lao động và gia đình, và cả ý nghĩa độc đáo, không thể thay thế được của việc lao động ở nhà và của việc giáo dục con cái.[67]

Bởi thế, Hội Thánh có thể và phải trợ giúp cho xã hội hiện nay bằng cách luôn luôn kiên trì kêu gọi mọi người nhìn nhận và tôn kính giá trị không thể thay thế được của những công việc người phụ nữ làm trong gia đình. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với những gì có liên quan đến công việc giáo dục. Thật vậy, người ta sẽ loại bỏ được ngay tận gốc rễ sự phân biệt giả tạo giữa những việc lao động khác nhau và những nghề nghiệp khác nhau, nếu người ta thấy rõ được rằng tất cả mọi người trong mọi lãnh vực, đều dấn thân với những quyền lợi giống ý như nhau và một ý thức trách nhiệm như nhau. Và hình ảnh của Thiên Chúa trong người nam và người nữ nhờ đó mà được chiếu sáng hơn.

Cả khi phải nhìn nhận cho phụ nữ được quyền tham gia vào các chức năng công cộng như thể đã nhìn nhận cho nam giới, xã hội cũng phải được tổ chức làm sao để những người làm vợ, làm mẹ không bị bó buộc cách cụ thể phải đi làm việc ngoài gia đình và phải làm sao để ngay cả khi họ hòan toàn hiến mình cho gia đình, gia đình họ vẫn có thể sống và phát triển một cách tương xứng.

Ngoài ra cần phải vượt qua não trạng cho rằng danh dự của phụ nữ là do việc làm ngoài xã hội hơn là do hoạt động ở trong gia đình. Nhưng để đạt được điều ấy nam giới cần biết quí chuộng và thật sự yêu thương người phụ nữ với tất cả sự kính trọng phẩm giá cá nhân của họ, và xã hội cần phải tạo ra và phát triển những điều kiện thích hợp cho công việc tại gia đình.

Dù vẫn kính trọng sự khác biệt ơn gọi giữa người nam và người nữ, Hội Thánh cần phải đề cao, trong mức độ có thể, sự bình đẳng về quyền lợi và phẩm giá giữa người nam và người nữ trong sinh hoạt Hội Thánh, và đó là vì ích lợi của tất cả: của gia đình, của xã hội và của Hội Thánh.

Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là phụ nữ phải từ bỏ nữ tính của mình hay phải bắt chước tính khí nam giới, nhưng nhằm nói lên sự sung mãn nhân tính thực sự của người nữ, như phải được diễn tả trong cách thế hành động riêng của mình, cho dù ở trong hay ở ngoài gia đình, và đàng khác cũng không quên rằng trong lãnh vực này cũng còn có sự khác biệt về phong tục và văn hóa.

Những điều xúc phạm đến phẩm giá phụ nữ

24. Thật đáng tiếc, sứ điệp Kitô giáo về phẩm giá phụ nữ lại bị đối nghịch do một não trạng cứ nhất định nhìn con người không phải như một ngôi vị, nhưng như một đồ vật, một món hàng mua bán, để phục vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục mà thôi. Nạn nhân đầu tiên của một não trạng như vậy là người phụ nữ.

Não trạng ấy gây ra những kết quả thật cay đắng, như sự khinh rẻ người nam và người nữ, tình trạng nô lệ, việc áp bức những người yếu đuối, sách báo phim ảnh khiêu dâm, nạn mãi dâm – nhất là khi biến nó thành tổ chức – và tất cả những hình thức kỳ thị người ta gặp phải trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối công việc.v.v…

Ngoài ra, ngay cả thời đại nầy, trong một phần lớn của xã hội chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều hình thức kỳ thị hạ nhục đang làm phương hại và xúc phạm trầm trọng đến một số loại phụ nữ đặc biệt, chẳng hạn như những người vợ không con, các quả phụ, những người vợ ly thân, ly dị, những người mẹ độc thân.

Những kỳ thị này và nhiều kỳ thị khác nữa đã bị các nghị phụ phàn nàn hết sức tại Thượng Hội Đồng Giám Mục. Vậy tôi kêu gọi tất cả mọi người hãy dấn thân vào một hành động mục vụ chuyên biệt có tính cách mạnh mẽ và quyết định hơn, để có thể loại bỏ hẳn những kỳ thị ấy, và để nhờ đó mà đạt tới chỗ kính trọng trọn vẹn hình ảnh Thiên Chúa đang chiếu toả nơi mọi người chẳng trừ ai.

Người nam là chồng và là cha

25. Bên trong sự hiệp thông của cộng đồng hôn nhân và gia đình, người nam được mời gọi sống sự tự hiến của ông trong vai trò là chồng và là cha.

Ông nhìn ra vợ mình là sự chu toàn ý định của Thiên Chúa: “Không tốt nếu người nam chỉ có một mình, vậy Ta sẽ làm cho nó một kẻ trợ giúp tương xứng với nó”.[68] Ông sẽ thốt lên lời mà A-đam, người chồng đầu tiên, đã thốt lên: “Phen này, đây là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi”.[69] Tình vợ chồng đích thực giả thiết và đòi hỏi rằng người nam phải có sự kính trọng sâu xa đối với phẩm giá của vợ mình, như Thánh Ambrosio đã viết: “Con không phải là chủ của nàng nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không phải làm nô lệ… Hãy đáp lại những chú ý nàng đã dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng”.[70] Người nam phải sống với vợ mình bằng một “tình bạn trong ngôi vị thật đặc biệt”.[71] Nếu là Kitô hữu, ông còn được mời gọi phát triển một thái độ yêu thương mới mẻ để diễn tả với vợ mình tình bác ái tế nhị và mạnh mẽ mà Chúa Kitô đã có đối với Hội Thánh.[72]

Tình yêu đối với người vợ đã trở thành mẹ và tình yêu đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người nam đến chỗ hiểu biết và thể hiện việc làm cha của mình. Ở những nơi hoàn cảnh xã hội và văn hóa dễ đưa người cha đến chỗ, một cách nào đó, không quan tâm tới gia đình hoặc ít có mặt trong công việc giáo dục, thì phải làm sao giúp cho xã hội ấy xác tín rằng chỗ đứng và vai trò của người cha trong gia đình có một tầm quan trọng độc nhất không thay thế được.[73] Như kinh nghiệm cho thấy, sự vắng mặt của người cha gây ra những sự thiếu quân bình tâm lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong các tương quan gia đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha lại có tính cách áp bức, nhất là ở những nơi còn có hiện tượng mà người ta gọi là “đề cao đàn ông”, nghĩa là khi những lợi điểm nam tính được đề cao quá đáng làm giảm giá phụ nữ và cản trở sự phát triển các mối tương quan lành mạnh trong gia đình. Khi biểu lộ tình cha của Thiên Chúa và sống lại tình cha ấy trên mặt đất này,[74] người nam được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong gia đình. Để chu toàn trách vụ này, ông cần phải quảng đại lãnh lấy trách nhiệm đối với sự sống được thai nghén trong lòng người mẹ, cần phải chú tâm chia sẻ cố gắng giáo dục con cái với vợ mình,[75] công việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, nên một lời chứng về đời sống Kitô hữu trưởng thành để hướng dẫn con cái vào trong kinh nghiệm sống động về Chúa Kitô và về Hội Thánh một cách hữu hiệu hơn.

Những quyền lợi của đứa con

26. Giữa lòng gia đình như một cộng đồng các ngôi vị, cần phải dành một sự chú ý đặc biệt cho đứa con, bằng cách phát huy lòng quí chuộng sâu xa đối với phẩm giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật to lớn đối với những quyền lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại. Đó là điều phải dành cho tất cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là đứa con nhỏ tuổi hơn, đang cần đủ mọi thứ, hoặc đối với một đứa con bị đau yếu, đau khổ hay tàn tật.

Khi đòi hỏi mọi người phải lưu tâm và khi chính mình lưu tâm một cách vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ đối với mọi trẻ em được sinh ra, Hội Thánh chu toàn một trong những sứ mạng căn bản của mình. Thực vậy, Hội Thánh được mời gọi phải làm cho người ta biết, và phải nêu lên một lần nữa mẫu gương và mệnh lệnh của Chúa Kitô, Đấng đã muốn đặt trẻ em vào ngay chính giữa Nước Thiên Chúa: “Hãy để mặc các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cản chúng vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người như thế”.[76]

Tôi lặp lại nơi đây điều tôi đã nói tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 2-10-1979, là: “Tôi muốn… nói lên niềm vui mà các trẻ em mang đến cho mỗi người trong chúng ta. Chúng là mùa xuân của cuộc đời, là lời báo trước về trang sử sắp đến của mỗi miền quê hương trần thế. Không một nước nào trên thế giới, không một hệ thống chính trị nào có thể nghĩ đến tương lai của mình bằng một cách khác hơn là nhìn qua hình ảnh của những thế hệ mới sẽ tiếp nối cha ông họ lãnh lấy gia sản, đa dạng về những giá trị, những bổn phận, những khát vọng của quốc gia mà họ thuộc về, và đồng thời cũng lãnh lấy gia sản của toàn thể gia đình nhân loại. Mối bận tâm về trẻ em, ngay cả từ trước khi chúng được sinh ra, từ giây phút đầu tiên được thai nghén và sau đó trong suốt tuổi nhi đồng và thiếu niên, chính là phương thế đầu tiên và căn bản để kiểm chứng mối tương quan giữa người với người. Như vậy người ta có thể cầu chúc gì cho từng dân tộc, cho toàn thể nhân loại và cho tất cả mọi trẻ em trên trần thế nếu không phải là cầu chúc một tương lai tốt đẹp hơn, trong đó sự kính trọng những quyền lợi con người trở thành sự thực vào năm 2000 sắp đến”.[77]

Sự tiếp đón, tình yêu thương, sự quí chuộng, việc phục vụ nhiều mặt nhưng thống nhất – về vật chất, tình cảm, giáo dục, siêu nhiên – đối với mọi trẻ em sinh ra trên thế giới… Tất cả những điều ấy phải luôn luôn là một đặc điểm nổi bật, không thể tước đoạt được của người Kitô hữu, và cách riêng của các gia đình Kitô hữu. Như thế các trẻ em có thể lớn lên “về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”,[78] chúng sẽ mang lại sự đóng góp quý báu của chúng cho việc xây dựng cộng đồng gia đình và ngay cả cho việc thánh hóa cha mẹ.[79]

Những người già cả trong gia đình

27. Có những nền văn hóa biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt và một tình yêu thương to lớn đối với những người cao niên: thay vì bị gạt ra khỏi gia đình hoặc bị coi như một gánh nặng vô ích, người già vẫn được hội nhập vào cuộc sống gia đình, tiếp tục dự phần vào đó một cách tích cực và có trách nhiệm – dù vẫn phải tôn trọng sự độc lập của gia đình mới – và nhất là người ấy thi hành một sứ mạng quý báu là trở nên chứng nhân cho quá khứ và nguồn mạch khôn ngoan cho các người trẻ và cho tương lai.

Ngược lại, có những nền văn hóa khác, nhất là do hậu quả của sự phát triển kỹ nghệ và đô thị một cách vô trật tự, đã đưa và còn tiếp tục đưa những người cao niên vào những hình thức sống ngoài lề không thể chấp nhận được, là nguyên nhân gây ra những đau khổ chua cay cho họ, và làm cho biết bao gia đình bị nghèo nàn đi về mặt tinh thần.

Hoạt động mục vụ của Hội Thánh cần phải khuyến khích mỗi người biết khám phá và coi trọng vai trò của những người già trong cộng đồng dân sự và Hội Thánh, và cách riêng trong gia đình. Thật ra, cuộc sống của những người già giúp chúng ta thấy rõ bậc thang các giá trị nhân bản, nó cho thấy sự tiếp nối các thế hệ và là một bằng chứng tuyệt diệu về sự tùy thuộc lẫn nhau trong Dân Thiên Chúa. Những người cao niên thường có đặc sủng để lấp đầy những hố phân cách giữa các thế hệ trước khi những hố sâu ấy được đào ra: biết bao trẻ em đã gặp được sự thông cảm và tình thương trong đôi mắt, trong những lời nói và những âu yếm của những lời sách thánh này: “Triều thiên của ông bà chính là con cháu của họ” (Ga 17,6).[80]

II. PHỤC VỤ CHO SỰ SỐNG

1. Việc truyền sinh

Những người cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa

28. Việc Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và như họa ảnh Ngài là triều thiên đem lại sự trọn hảo cho công việc của tay Ngài: Ngài mời gọi họ dự phần đặc biệt vào tình yêu cũng như quyền năng của Ngài là Đấng Tạo Hóa và là Cha, bằng việc cho họ được cộng tác cách tự do và có trách nhiệm để lưu truyền hồng ân sự sống con người: “Thiên Chúa đã chúc lành cho họ và phán bảo họ: Hãy sinh sôi nẩy nở, nên đầy dẫy trên mặt đất và hãy bá chủ nó”.[81]

Chính vì thế mà mục tiêu căn bản của gia đình là phục vụ cho sự sống, là thực hiện trong lịch sử lời chúc lành của Thiên Chúa lúc khởi nguyên, thực hiện bằng việc thông truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này sang người khác trong hành động truyền sinh.[82]

Việc có con là kết quả và là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, là lời chứng sống động cho sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa đôi bạn: “Việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát xuất từ việc thể hiện ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm saün sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo Hóa và Cứu Chuộc, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Ngài làm cho gia đình của chính Ngài ngày càng mở rộng và phong phú hơn”.[83]

Sự phong nhiêu của tình yêu vợ chồng không giản lược vào nguyên việc sinh ra con cái ngay cả khi việc này được hiểu theo nghĩa hết sức nhân bản của nó. Sự phong nhiêu được nới rộng và làm giàu bằng tất cả mọi kết quả của đời sống luân lý thiêng liêng và siêu nhiên mà người cha và người mẹ đều được mời gọi trao ban cho con cái họ, và qua chúng, cho Hội Thánh và thế giới.

Giáo lý và quy luật của Hội Thánh bao giờ cũng vừa cũ vừa mới

29. Chính vì tình yêu của đôi bạn, là một sự tham dự đặc thù vào mầu nhiệm sự sống và tình yêu của chính Thiên Chúa, mà Hội Thánh biết rõ rằng mình đã lãnh nhận sứ mạng đặc biệt phải giữ gìn và bảo vệ phẩm giá cao cả của hôn nhân và trách nhiệm hệ trọng của việc thông truyền sự sống con người.

Như thế, trung thành với truyền thống sống động của cộng đồng Hội Thánh suốt dòng lịch sử, Công Đồng Vaticano II và quyền giáo huấn của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, đặc biệt đã được trình bày trong thông điệp Sự Sống Con Người, cả hai đã truyền lại cho thời đại chúng ta lời loan báo thực sự có tính cách tiên tri, quả quyết và nêu lên một lần nữa thật rõ ràng giáo lý và quy luật của Hội Thánh về hôn nhân và việc truyền sinh, một giáo lý và quy luật bao giờ cũng vừa cũ vừa mới.

Bởi thế, trong cuộc họp vừa qua, các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục đã tuyên bố rõ ràng như sau: “Thượng Hội Đồng Giám Mục, hiệp nhất trong đức tin và Đấng Kế Vị Thánh Phêrô xác nhận mạnh mẽ những gì đã được nêu ra trong Công Đồng Vaticano II[84] và sau đó trong Thông điệp Sự Sống Con Người, mà cách riêng là xác nhận rằng tình yêu vợ chồng phải là tình yêu hòan toàn nhân bản được dành riêng cho đôi bạn và mở ra đón nhận sự sống”.[85]

Hội Thánh đứng về phía bảo vệ sự sống

30. Giáo lý của Hội Thánh ngày nay bị đặt vào trong một hoàn cảnh xã hội và văn hóa đang khiến nó trở thành khó hiểu hơn, nhưng cũng thôi thúc hơn và không thể thay thế được để cổ võ điều thiện hảo đích thực cho người nam và người nữ.

Tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà con người hiện nay liên lỉ gia tăng để chế ngự thiên nhiên, không những làm cho người ta thêm hy vọng tạo được một nhân loại mới và tốt đẹp hơn nhưng cũng làm cho con người lo thêm về tương lai. Một số người tự hỏi phải chăng sống là một điều tốt hay phải chăng đừng sinh ra lại còn tốt hơn: họ tự hỏi có nên đưa thêm vào cuộc sống những con người khác nữa, những con người mà có thể mai đây sẽ nguyền rủa sự hiện hữu của mình giữa một thế giới tàn bạo với những khủng khiếp không thể thấy trước được. Có những người tưởng mình là những kẻ thụ hưởng duy nhất của các tiện nghi kỹ thuật, nên loại trừ kẻ khác ra khỏi sự hưởng thụ đó bằng cách áp đặt những phương thế ngừa thai hay những cách thực hành khác còn tệ hại hơn. Có những người khác nữa, vì bị giam hãm trong một não trạng hưởng thụ và chỉ có một mối bận tâm duy nhất là gia tăng liên lỉ của cải vật chất, nên cuối cùng đi tới chỗ không hiểu được sự phong phú tinh thần của sự sống mới và do đó, chối từ sự phong phú ấy. Lý do cuối cùng của những não trạng như thế là trong tâm hồn con người đã vắng bóng Thiên Chúa, mà chỉ có tình thương của Ngài mới mạnh mẽ hơn tất cả những sự sợ hãi có thể có trên thế giới và mới có sức chiến thắng những sợ hãi đó.

Chính vì vậy mà phát sinh một não trạng chống lại sự sống, đang xuất hiện trong nhiều vấn đề hiện nay, chẳng hạn, cứ thử nghĩ đến sự sợ hãi phát xuất từ một số bản nghiên cứu của những nhà môi sinh học và tương lai luận về vấn đề dân số, những nghiên cứu đôi khi phóng đại quá đáng về nguy cơ việc gia tăng dân số đang đè nặng trên phẩm chất sự sống.

Nhưng Hội Thánh tin tưởng mạnh mẽ rằng, sự sống con người, dù có yếu ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn luôn là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa tốt lành. Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang che mờ thế giới Hội Thánh đứng về phe sự sống, và trong mỗi sự sống con người Hội Thánh biết khám phá nét cao đẹp của tiếng “thưa vâng”, của tiếng “amen” là Đức Kitô.[86] Đối ngược với tiếng “không” đang tràn ngập và làm cho thế giới ảm đạm, Hội Thánh đưa ta tiếng “thưa vâng”, sống động bênh vực cho con người và thế giới chống lại những kẻ đe dọa sự sống và làm hại sự sống.

Hội Thánh được mời gọi phải biểu lộ một lần nữa, với một niềm xác tín sống động và vững chắc nhất, cho mọi người thấy ý muốn của Hội Thánh là cổ võ sự sống con người bằng mọi phương thế và bênh vực nó chống lại mọi đe dọa, dù sự sống ấy đang ở trong bất cứ điều kiện và giai đoạn phát triển nào.

Hội Thánh lên án như là một xúc phạm nặng nề đối với phẩm giá con người và đối với sự công bằng, tất cả các hoạt động của những chính phủ hay những công quyền khác nhằm giới hạn một cách nào đó sự tự do của đôi bạn trong các quyết định của họ về con cái. Bởi thế, mọi vũ lực mà các quyền bính dùng để bắt buộc ngừa thai, và bắt buộc cả đến việc làm tuyệt đường sinh hay phá thai cố ý, đều phải bị lên án cách tuyệt đối và phải hết sức từ bỏ. Đồng thời phải nhấn mạnh rằng thật là một bất công trầm trọng khi trong những tương quan quốc tế, việc viện trợ kinh tế để thăng tiến các dân tộc lại đòi điều kiện phải có những chương trình ngừa thai, làm tuyệt đường sinh và phá thai cố ý.[87]

Để ý định của Thiên Chúa được thể hiện ngày một trọn vẹn hơn

31. Chắc chắn Hội Thánh cũng ý thức về nhiều vấn đề rất phức tạp đang đè nặng trên các đôi bạn ở nhiều nước trong trách vụ truyền sinh một cách có trách nhiệm. Hội Thánh cũng nhìn nhận vấn đề trầm trọng về gia tăng dân số như hiện có tại nhiều nơi trên thế giới, cùng với những hậu quả tinh thần kèm theo đó.

Tuy nhiên Hội Thánh quả quyết rằng, việc nhận định sâu xa mọi khía cạnh của vấn đề ấy chỉ có thể xác định thêm một lần nữa và một cách mạnh mẽ hơn nữa, tầm quan trọng của giáo lý đích thực về điều hòa sinh sản như đã được trình bày trong Công Đồng Vaticano II và trong Thông điệp Sự Sống Con Người.

Bởi thế, cùng với các nghị phụ Thượng Hội Đồng, tôi cảm thấy có bổn phận phải gởi đến các nhà thần học lời kêu gọi khẩn thiết, xin họ hiệp sức lại để cộng tác với quyền giáo huấn Hội Thánh, mà nỗ lực hết sức để ngày càng làm sáng tỏ thêm những nền tảng Kinh Thánh, những lý do luân lý và những lý lẽ nhân bản nâng đỡ cho giáo lý ấy. Trong khuôn khổ một khảo luận có trật tự, giáo lý của Hội Thánh về vấn đề quan trọng ấy sẽ có thể thật sự đi đến được với tất cả mọi người thiện chí, và như thế, làm cho người ta ngày càng hiểu được giáo lý đó rõ ràng hơn và sâu xa hơn: nhờ đó ý định của Thiên Chúa có thể được thực hiện ngày càng trọn vẹn hơn để cứu rỗi con người và làm vinh danh Đấng Tạo Hóa.

Trên phương diện ấy, các thần học gia, được gợi hứng do một sự gắn bó đầy xác tín với quyền giáo huấn là sự hướng dẫn đích thực duy nhất cho dân Chúa, càng cần phối hợp nỗ lực một cách cấp bách hơn, một sự cấp bách đến từ liên hệ sâu xa giữa giáo lý công giáo về điểm này và cái nhìn về con người do Hội Thánh đề nghị: những nghi ngờ và những sai lầm trong lãnh vực hôn nhân và gia đình kéo theo việc làm lu mờ trầm trọng chân lý toàn vẹn về con người trong tình trạng văn hóa thường rất hỗn độn và lắm mâu thuẫn như hiện nay. Sự soi sáng và đào sâu mà người ta đang kêu gọi các nhà thần học đem lại để chu toàn trách vụ chuyên biệt của họ, quả thật có một giá trị vô song và là một việc phục vụ cho gia đình và cho nhân loại thật độc đáo và có công biết bao.

Trong cái nhìn toàn vẹn về con người và về ơn gọi của nó

32. Trong khung cảnh một nền văn hóa đang làm méo mó trầm trọng hoặc thậm chí đang làm mất đi ý nghĩa chân thật của tính dục con người, bằng cách tách rời tính dục ấy ra khỏi mối liên hệ thiết yếu của nó với nhân vị, Hội Thánh thấy rằng mình có sứ mạng cấp bách và không thể thay thế được là phải trình bày tính dục như một giá trị và như một sự dấn thân của mọi ngôi vị, được Thiên Chúa dựng nên là nam là nữ, theo hình ảnh của Ngài.

Trong viễn tượng ấy, Công Đồng Vaticano II đã quả quyết rõ ràng rằng: “Khi cần hòa hợp tính vợ chồng với việc truyền sinh có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào sự chân thành của ý hướng và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính của nhân vị và của các hành động nơi nhân vị; những tiêu chuẩn ấy sẽ tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực; đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng”.[88]

Chính vì khởi từ “cái nhìn toàn vẹn về con người và về ơn gọi của nó, ơn gọi không những có tính cách tự nhiên và trần thế nhưng còn là siêu nhiên và vĩnh cửu”[89] mà Đức Phaolô VI đã quả quyết rằng giáo lý của Hội Thánh “được xây dựng trên mối liên hệ bất khả phân ly giữa sự kết hợp và truyền sinh, như là Thiên chúa đã muốn và con người không thể tự ý bẻ gãy”[90] và để kết luận, ngài lại quả quyết rằng phải loại bỏ, như một điều tự nó là xấu, mọi hành động được đề ra như mục đích hay như phương tiện để làm cho việc truyền sinh không thể có được, dù là hành động trước hành vi vợ chồng, hoặc đang khi hành vi này diễn tiến hoặc trong khi các hiệu quả tự nhiên của hành vi ấy đang phát triển”.[91]

Khi đôi bạn bằng cách dùng các phương thế chống thụ thai, tách rời hai ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong hữu thể người nam và người nữ cũng như trong tác động đầy năng lực hiệp thông tính dục của họ, họ đã coi mình là “trọng tài” cho ý định của Thiên Chúa, họ “xoay trở” và hạ giá tính dục của con người và cùng với tính dục hạ giá cả ngôi vị riêng của họ và của bạn họ vì làm suy thóai giá trị của việc trao hiến “trọn vẹn” cho nhau. Như thế, thay vì là cách biểu lộ tự nhiên diễn tả được sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa vợ chồng, việc chống thụ thai là một kiểu biểu lộ mâu thuẫn ngược hẳn lại, theo đó không còn là tự hiến cho người kia một cách trọn vẹn; từ đó không những có sự chủ tâm khước từ không chịu mở ngõ cho sự sống, mà còn làm sai lệch sự thật bên trong của tình yêu vợ chồng, được mời gọi phải là một sự trao ban toàn thể ngôi vị.

Trái lại, khi đôi bạn bằng cách thuận theo những thời kỳ không thụ thai, tôn trọng mối dây bất khả phân ly giữa hai mặt kết hợp và truyền sinh của tính dục con người, họ đã coi mình là những “người thừa hành” ý định của Thiên Chúa và họ sử dụng tính dục như những “kẻ hưởng dùng”, theo tác động đầy năng lực từ nguyên thuỷ của việc trao hiến “trọn vẹn” chứ không hạ giá hay làm sai lạc.[92] Theo kinh nghiệm của bao nhiêu cặp vợ chồng và dựa vào những dữ kiện của các khoa học nhân bản khác nhau, suy tư thần học có thể nhận ra – và được mời gọi đào sâu thêm – sự khác biệt nhân học và đồng thời là sự khác biệt luân lý có saün giữa việc chống thụ thai và việc thuận theo sự tiết dục định kỳ: đó là một sự khác biệt còn quan trọng và sâu xa hơn người ta tưởng, và xét cho cùng, nó bao hàm hai quan niệm về ngôi vị và về tính dục con người không thể hòa đồng với nhau được.

Việc chọn theo những nhịp tự nhiên bao gồm sự chấp nhận thời gian của ngôi vị ở đây là chu kỳ của người nữ, và cũng là chấp nhận sự đối thoại, sự kính trọng lẫn nhau, tinh thần trách nhiệm chung, sự tự chủ. Đón nhận thời gian và sự đối thoại là nhìn nhận tính cách vừa tinh thần vừa thể xác của sự hiệp thông vợ chồng, và cũng là sống tình yêu ngôi vị theo như sự đòi hỏi phải trung thành của họ. Trong bối cảnh ấy, đôi bạn kinh nghiệm được sự kiện này là sự hiệp thông vợ chồng được phong phú hóa do các giá trị của việc âu yếm và yêu thương đang tạo nên bản chất sâu xa của tính dục con người, cả đến trong chiều kích thể lý của nó. Như thế tính dục được kính trọng và đề cao trong chiều kích nhân bản thực sự và trọn vẹn của nó, nhưng không bao giờ được “sử dụng” như một “đồ vật”, vì nếu coi như một đồ vật, nó sẽ làm tan rã sự thống nhất ngôi vị của linh hồn và thể xác, và làm phương hại đến công việc tạo thành của Thiên Chúa trong những liên hệ thâm sâu nhất nối kết bản tính với ngôi vị.

Hội Thánh là Mẹ và là Thầy cho những người phối ngẫu đang gặp khó khăn

33. Cả trong lãnh vực luân lý hôn nhân, Hội Thánh vẫn là Mẹ và là Thầy Dạy, và Hội Thánh hành động như thế.

Là Thầy Dạy, Hội Thánh không mỏi mệt trong việc loan truyền quy tắc luân lý nhằm hướng dẫn sự truyền sinh có trách nhiệm. Hội thánh không phải là tác giả hay trọng tài của một quy tắc như thế. Vâng theo sự thật là Đức Kitô, mà hình ảnh Người đang phản chiếu trong bản tính và phẩm giá của ngôi vị con người, Hội Thánh diễn giải quy tắc luân lý và nêu nó lên cho mọi người thiện chí, mà không che dấu những đòi hỏi của tinh thần triệt để và lý tưởng hoàn thiện.

Là Mẹ, Hội Thánh gần gũi với biết bao cặp vợ chồng đang gặp khó khăn trong lãnh vực quan trọng này của đời sống luân lý: Hội Thánh biết rõ tình cảnh của họ, thường rất đau đớn và nhiều khi còn thêm trầm trọng vì đủ thứ khó khăn cá nhân và xã hội. Hội Thánh biết rằng rất nhiều đôi bạn đang gặp những khó khăn như thế, cả trong việc thực hành cụ thể lẫn trong việc hiểu biết các giá trị hàm chứa trong nguyên tắc luân lý.

Tuy nhiên cũng một Hội Thánh duy nhất đó vừa là Thầy Dạy vừa là Mẹ. Hội Thánh vì thế không ngớt kêu gọi và khích lệ mọi người giải quyết các khó khăn hiện nay của hôn nhân mà không bao giờ làm sai lạc hay phương hại tới sự thật. Thật vậy, Hội Thánh xác tín rằng không thể có mâu thuẫn thật sự giữa luật Thiên Chúa về việc truyền sinh với luật Thiên Chúa đòi phải tạo thuận lợi cho một tình yêu vợ chồng đích thực.[93] Vì thế, khoa sư phạm cụ thể của Hội Thánh phải luôn luôn gắn liền với giáo lý của Hội Thánh và không bao giờ tách lìa khỏi giáo lý này. Với cùng một sự xác tín như của vị tiền nhiệm tôi, tôi xin lặp lại: “Không bỏ bớt điều gì trong giáo lý cứu độ của Đức Kitô, đó là hình thức đức ái trổi vượt đối với các linh hồn”.[94]

Đàng khác khoa sư phạm của Hội Thánh chỉ tỏ ra được tính chất thực tế và sự khôn ngoan của nó khi biết cố gắng một cách mạnh dạn và can đảm để tạo nên và duy trì mọi điều kiện nhân bản – về tâm lý, luân lý và tinh thần – vốn không thể thiếu nếu muốn hiểu và sống được giá trị cũng như nguyên tắc luân lý.

Trong số các điều kiện, hẳn nhiên cần phải nhấn mạnh sự bền bỉ và kiên nhẫn, sự khiêm nhường và tâm hồn mạnh mẽ, lòng tín thác như con thơ vào Thiên Chúa và vào ơn Ngài, việc siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích Thánh Thể và Hoà giải.[95] Nhờ đó, được tăng sức, đôi bạn Kitô hữu có thể giữ được ý thức sống động về ảnh hưởng độc đáo mà ơn Bí tích Hôn Phối tác động trên mọi khía cạnh cụ thể trong đời sống hôn nhân của họ, và cả trên tính dục của họ theo ý định của Thiên Chúa và nhờ dấu chỉ của tình yêu đang kết hợp Đức Kitô với Hội Thánh Ngài, là căn nguyên làm cho Hội Thánh phát sinh nhiều con cái.

Nhưng giữa các điều kiện cần thiết cũng phải kể đến “xác thể tính” và những tiết nhịp có thể thụ thai của nó. Theo nghĩa đó, cần phải làm tất cả những gì có thể làm được để mọi đôi bạn nhất là các vợ chồng trẻ đều đạt được một sự hiểu biết như thế, nhờ sự thông tin và giáo dục rõ ràng, kịp thời và nghiêm chỉnh, do những cặp vợ chồng, những y sĩ và những người chuyên môn phụ trách. Sự hiểu biết đó phải đưa đến chỗ giáo dục để biết kiềm chế: nhất là sự cần thiết phải có đức khiết tịnh và một sự giáo dục thường xuyên theo hướng ấy. Theo nhãn quan Kitô Giáo, đức khiết tịnh tuyệt nhiên không có nghĩa là phủ nhận hay miệt thị tính dục con người, nhưng đúng hơn nó là một năng lực tinh thần biết bảo vệ tình yêu khỏi những nguy hiểm của sự ích kỷ và của tính bạo động, và đưa tình yêu đến mức thể hiện trọn vẹn.

Đức Phaolô VI, với một trực giác giàu khôn ngoan và đầy tình yêu, đã không làm gì khác hơn là đem kinh nghiệm của biết bao cặp vợ chồng diễn tả thành lời nói, khi ngài viết trong thông điệp của Ngài: “Việc dùng lý trí và ý chí tự do để làm chủ bản năng lẽ tất nhiên đòi phải có một sự khổ chế, vì chỉ có thể những biểu lộ tình yêu trong đời sống vợ chồng mới có thể điều hòa trong khuôn khổ, nhất là trong việc giữ sự tiết dục định kỳ. Những kỷ luật ấy, kỷ luật riêng của sự thanh khiết giữa đôi bạn không những không làm hại gì cho tình yêu vợ chồng mà còn đem lại cho tình yêu ấy một giá trị nhân bản rất cao. Kỷ luật ấy đòi phải luôn luôn cố gắng, nhưng nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của nó, vợ chồng phát triển được toàn vẹn nhân cách của mình, và được làm giàu thêm bằng các giá trị tinh thần: nó đem lại cho đời sống gia đình những hoa quả về sự trong sáng và bình an, và giúp giải quyết các vấn đề khác; nó tạo thuận lợi cho người ta chú ý đến bạn mình, nó giúp cho vợ chồng tránh được tính ích kỷ là kẻ thù của tình yêu chân chính, và giúp họ đào sâu ý thức trách nhiệm để chu toàn các bổn phận của mình. Nhờ đó bậc cha mẹ sẽ có được khả năng ảnh hưởng sâu xa hơn và hữu hiệu hơn trong việc giáo dục con cái”.[96]

Hành trình luân lý của đôi bạn

34. Có được một quan niệm đứng đắn về trật tự luân lý, về các giá trị và nguyên tắc của nó, bao giờ cũng là một điều rất quan trọng; và càng quan trọng hơn nữa khi các khó khăn trong việc thực hiện những điều ấy càng nhiều hơn và trầm trọng hơn.

Vì trật tự luân lý bày tỏ và nêu lên ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá, nên không thể nào có tính cách phi ngôi vị và cũng không thể là nguyên nhân gây cái chết cho con người. Ngược lại nó đáp ứng những đòi hỏi ghi khắc thật sâu thẳm trong con người đã được Thiên Chúa tạo dựng. Nó có mục đích phục vụ trọn vẹn cho nhân tính của con người, với một tình yêu tế nhị và đòi hỏi, tình yêu mà Thiên Chúa đã dùng để dựng nên và gìn giữ mọi tạo vật và hướng dẫn tạo vật đến hạnh phúc.

Nhưng, được mời gọi sống một cách có trách nhiệm ý định đầy khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa, con người lại là một hữu thể được đặt trong lịch sử. Ngày qua ngày, con người tự xây dựng lấy mình với rất nhiều chọn lựa tự do của nó. Như thế, nó hiểu biết, yêu mến và chu toàn sự thiện luân lý bằng cách theo sát các giai đoạn tăng trưởng.

Trong khung cảnh đời sống luân lý của họ, đôi bạn được mời gọi tiến bước không mỏi mệt, với sự nâng đỡ của khát vọng chân thành và hữu hiệu muốn hiểu bết hơn về những giá trị đã được luật Thiên Chúa đảm bảo và cổ võ, và với ý chí muốn cho các giá trị ấy được đưa vào trong các chọn lựa cụ thể của họ một cách thẳng thắn và quảng đại. Tuy nhiên họ không thể coi luật đó như chỉ thuần là một lý tưởng phải đạt đến trong tương lai, nhưng họ phải nhìn luật đó như là một mệnh lệnh của Đức Kitô Đấng đang truyền cho họ phải nghiêm chỉnh vượt qua các trở ngại. “Bởi thế, điều mà người ta thường gọi là “luật tiệm tiến” hay đường tiến từng bậc, không thể nào được đồng hóa với sự “chia luật thành từng bậc”, dường như trong luật Thiên Chúa có những cấp bậc và những hình thức luật buộc khác nhau, tùy theo người và theo những tình cảnh khác nhau. Theo ý định của Thiên Chúa, tất cả mọi đôi bạn đều được mời gọi sống thánh thiện trong hôn nhân, và ơn gọi này được thực hiện trong mức độ mà con người xét như ngôi vị có khả năng đáp trả lại luật buộc của Thiên Chúa, nhờ được sinh động bởi lòng tín thác bình an vào ơn sủng Thiên Chúa và vào ý muốn của Ngài”.[97] Cũng thế, khoa sư phạm của Hội Thánh có bổn phận phải làm sao để trước hết, các đôi bạn nhìn nhận rõ ràng giáo lý của thông điệp Sự Sống Con Người, như là nguyên tắc thực hành tính dục, đồng thời thật lòng quan tâm tạo những điều kiện cần thiết để tuân giữ những nguyên tắc ấy.

Như Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhấn mạnh, khoa sư phạm này bao gồm trọn cả đời sống. Như thế, mối bận tâm về truyền sinh cần được hội nhập vào trong toàn thể sứ mạng đời sống Kitô hữu, một đời sống mà nếu không có thập giá thì không thể nào đạt tới sự phục sinh. Trong bối cảnh ấy, người ta hiểu được rằng không thể nào loại bỏ sự hy sinh trong đời sống gia đình, nhưng trái lại, phải thật lòng chấp nhận nó, ngõ hầu tình yêu vợ chồng được đào sâu hơn và trở nên nguồn mạch cho sự vui tươi thân mật.

Con đường chung cho mọi người như thế đòi buộc sự suy nghĩ, sự thông tin và giáo dục tương xứng nơi các linh mục, tu sĩ và những giáo dân dấn thân cho mục vụ gia đình. Như thế, họ có thể giúp các đôi bạn trên con đường nhân bản và thiêng liêng. Con đường này bao gồm ý thức về tội lỗi, sự chân thành dấn thân tuân giữ luật luân lý, tác vụ hòa giải. Cũng cần nhớ luôn rằng trong tình thân mật vợ chồng, có các ý muốn của hai ngôi vị, nhưng phải làm sao để các ý muốn ấy được xếp đặt và suy nghĩ hòa hợp với nhau. Điều nầy đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn, thông cảm và thời gian. Đặc biệt trong lãnh vực này, các linh mục cần có sự thống nhất trong những phán đoán luân lý và mục vụ. Linh mục cần phải tìm tòi kỹ lưỡng để thật sự có được sự thống nhất ấy, ngõ hầu các tín hữu khỏi phải đau khổ vì bị bối rối lương tâm.[98]

Con đường của các đôi bạn sẽ được trở nên dễ dàng trong mức độ, một khi đã đầy lòng quí chuộng giáo lý của Hội Thánh, họ đầy lòng tin tưởng vào ân sủng Đức Kitô, cũng như được sự trợ giúp và đồng hành của các vị chủ chăn và toàn thể cộng đồng Hội Thánh, họ biết khám phá và cảm nghiệm được giá trị giải phóng và nâng cao của tình yêu chân chính, mà Tin Mừng đem lại và lệnh truyền của Chúa nêu lên.

Khơi dậy những xác tín và cống hiến một sự giúp đỡ cụ thể

35. Trước vấn đề phải làm sao để điều hòa sinh sản một cách chân chính, cộng đồng Hội Thánh ngày nay cần phải cố gắng để khơi dậy những xác tín và cống hiến một sự trợ giúp cụ thể cho những ai muốn sống việc làm cha làm mẹ một cách thật sự có trách nhiệm.

Trong lãnh vực này, Hội Thánh vui mừng vì những kết quả mà các nghiên cứu khoa học đã đạt được để nhận biết thời kỳ dễ thụ thai của phụ nữ cách chính xác hơn. Hội Thánh thúc đẩy để những nghiên cứu ấy được phát triển một cách sâu xa và quyết liệt hơn nữa. Nhưng đồng thời Hội Thánh cũng thấy còn phải tha thiết van xin tinh thần trách nhiệm của tất cả những ai – các y sĩ, chuyên viên, cố vấn gia đình, các nhà giáo dục và các cặp vợ chồng – đang có thể giúp một cách hữu hiệu cho các đôi bạn, để những người này sống tình yêu của mình trong sự kính trọng các mục tiêu và cơ cấu của hành vi vợ chồng diễn tả tình yêu ấy. Điều đó có nghĩa là cần có những cố gắng rộng rãi hơn quyết liệt hơn và có hệ thống hơn nữa để làm cho người ta hiểu biết, quý chuộng và thực hành những phương pháp tự nhiên giúp điều hòa sinh sản.[99]

Thật là một lời chứng quí hóa có thể có được và phải có được do các đôi bạn, khi họ biết cố gắng tiết dục định kỳ để đạt được một tinh thần trách nhiệm cá nhân chín chắn hơn trước tình yêu và sự sống. Như Đức Phaolô VI đã viết: “Thiên Chúa đã trao phó cho chính các đôi bạn, trách vụ làm cho người ta thấy được sự thánh thiện và dịu dàng của lề luật đang nối kết mối tình đôi bạn yêu thương nhau với việc họ cộng tác vào tình yêu của Thiên Chúa, là tác giả của sự sống con người”.[100]

2. Việc giáo dục

Quyền và bổn phận giáo dục của cha mẹ

36. Bổn phận giáo dục bắt nguồn từ trong ơn gọi đầu tiên của đôi bạn là dự phần vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa: khi sinh ra một ngôi vị mới trong tình yêu và do tình yêu, một ngôi vị mang sẵn nơi mình ơn gọi phải lớn lên và phát triển, bậc cha mẹ cũng từ đó mà lãnh nhận bổn phận phải giúp đỡ hữu hiệu cho ngôi vị ấy được sống một đời sống nhân bản trọn vẹn. Như Công Đồng Vaticano II đã nhắc lại: “Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được”.[101]

Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên quyền và bổn phận giáo dục là một điều nằm trong yếu tính của họ; vì tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ có tính cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó cũng là một cái gì không thể thay thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt.

Ngoài những đặc điểm ấy, người ta cũng không thể quên rằng yếu tố gốc rễ nhất, có tính cách định tính cho bổn phận giáo dục của cha mẹ, chính là tình phụ tử và tình mẫu tử, tình yêu này được hòan thành trong công cuộc giáo dục khi nó bổ túc và hoàn thiện trọn vẹn công việc phục vụ sự sống của họ. Như một nguồn mạch, tình yêu thương của cha mẹ trở thành linh hồn và là nguyên tắc gợi hứng và hướng dẫn tất cả hành động giáo dục cụ thể, bằng cách phong phú hóa nó với những giá trị như sự dịu dàng, kiên trì, nhân hậu, phục vụ vô vị lợi, tinh thần hy sinh, là những bông hoa quí báu nhất của tình yêu.

Giáo dục theo chiều hướng các giá trị chính yếu của đời người

37. Dù phải đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: “giá trị của con người là do cái mình làm, hơn là do cái mình có”.[102]

Trong một xã hội đã bị lung lay và phân hóa do những căng thẳng và xung khắc vì sự đối đầu khốc liệt giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em cần phải có được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có sự công bằng ấy mới đưa đến sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người. Hơn thế nữa, chúng ta phải có ý thức về tình yêu đích thực, tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và việc phục vụ vô vị lợi đối với kẻ khác và đặc biệt là đối với những người nghèo nhất và những người cần được giúp đỡ nhất. Gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng. Sự hiến mình đang làm cho tương quan giữa đôi bạn với nhau được sinh động chính là kiểu mẫu và nguyên tắc cho sự hiến mình cần có giữa anh chị em trong nhà và giữa những thế hệ khác nhau đang cùng sống trong gia đình. Sự hiệp thông và chia sẻ được thể hiện mỗi ngày tại gia đình, trong những lúc vui mừng cũng như khó khăn, chính là khoa sư phạm cụ thể nhất và hữu hiệu nhất để làm cho trẻ em có thể hội nhập vào trong khung cảnh lớn hơn, tức là xã hội, một cách tích cực, có trách nhiệm và kết quả.

Việc giáo dục tình yêu như sự tự hiến còn giúp cha mẹ có được những tiền đề cần thiết để cống hiến cho con cái họ một sự giáo dục tính dục rõ ràng và tế nhị. Trước một văn hóa đang biến phần lớn tính dục con người thành chuyện tầm thường, cả trong cách diễn giải lẫn trong cách sống quá thu hẹp và nghèo nàn, cũng như chỉ liên kết tính dục với thể xác và với lạc thú ích kỷ, việc phục vụ giáo dục của cha mẹ càng phải cương quyết nhắm đến một nền văn hóa tính dục là một sự phong phú của toàn thể ngôi vị. Thật vậy, tính dục là một sự phong phú của toàn thể ngôi vị – thể xác, tình cảm, linh hồn – và biểu lộ ý nghĩa thâm sâu của nó bằng cách đưa ngôi vị ấy đến chỗ tự hiến mình trong tình yêu.

Việc giáo dục tính dục – là quyền lợi và bổn phận căn bản của cha mẹ – phải luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của cha mẹ, tại gia đình cũng như ở các trung tâm giáo dục được cha mẹ chọn lựa và kiểm soát. Hội Thánh nhắc lại định luật hỗ trợ mà trường học cần phải tuân theo khi cộng tác vào việc giáo dục tính dục, là phải đặt mình trong tinh thần của bậc làm cha làm mẹ.

Trong bối cảnh ấy, không thể nào chối bỏ việc giáo dục đức khiết tịnh, là nhân đức làm phát triển sự trưởng thành đích thực của ngôi vị, làm cho ngôi vị có khả năng kính trọng và nâng cao ý nghĩa hôn nhân của thân xác. Hơn nữa, cha mẹ Kitô hữu cần dành một sự chú ý và chăm sóc đặc biệt để nhận ra những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn mời gọi họ giáo dục sự trinh khiết, như một hình thức tuyệt vời của sự tự hiến làm nên chính ý nghĩa cho tính dục con người.

Vì có những liên hệ chặt chẽ giữa chiều kích tính dục của ngôi vị với các giá trị luân lý, nên vai trò của việc giáo dục là hướng dẫn trẻ em đến việc hiểu biết và quí chuộng các nguyên tắc luân lý như những bảo đảm cần thiết và quí giá cho một sự trưởng thành cá nhân có trách nhiệm trong lãnh vực tính dục con người.

Chính vì thế Hội Thánh cực lực chống lại một số hình thức thông tin về tính dục không để ý gì đến các quy tắc luân lý, mà lại thường rất được phổ biến ngày nay, một sự thông tin chẳng khác gì một bài dẫn nhập vào kinh nghiệm lạc thú, và đẩy người trẻ, lắm khi ngay ở tuổi còn rất non dại, đến chỗ đánh mất sự tươi sáng và mở đường cho tật xấu.

Sứ mạng giáo dục và Bí tích hôn nhân

38. Chẳng những bắt nguồn từ việc dự phần vào cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, sứ mạng giáo dục của các cha mẹ Kitô hữu còn được bắt nguồn một cách mới mẻ và chuyên biệt nơi Bí tích Hôn Phối, là Bí tích thánh hiến họ để lo việc giáo dục Kitô giáo đích thực cho con cái và do đó Bí tích ấy cũng mời gọi họ dự phần vào chính quyền bính và tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô Mục Tử, cũng như vào tình mẫu tử của Hội Thánh. Nó còn làm cho họ được giàu thêm các ơn khôn ngoan, lo liệu và sức mạnh cùng tất cả những ơn khác của Thánh Thần, ngõ hầu có thể giúp cho con cái họ được lớn lên về mặt nhân bản và Kitô giáo.

Nhờ Bí tích Hôn nhân, sứ mạng giáo dục được nâng lên thành phẩm giá và ơn gọi của một “thừa tác vụ” đích thực trong Hội Thánh để phục vụ việc xây dựng các chi thể của Hội Thánh. Thừa tác vụ giáo dục của các cha mẹ Kitô hữu thật lớn lao và thật đẹp, đến nỗi thánh Tôma không ngần ngại so sánh nó với thừa tác vụ của các linh mục: “Có những người truyền bá và nuôi dưỡng sự sống thiêng liêng, và điều này được thực hiện do Bí tích Hôn Nhân, trong đó người nam và người nữ kết hợp với nhau để sinh ra con cái và giáo dục cho chúng biết thờ phượng Thiên Chúa”.[103]

Ý thức sắc bén và sáng suốt về sứ mạng mà Bí tích Hôn Phối trao ban cho họ, các cha mẹ Kitô hữu sẽ hiến thân cho công cuộc giáo dục con cái, với một sự trong sáng và đồng thời với ý thức về trách nhiệm của họ trước mặt Thiên Chúa, Đấng đang kêu gọi họ và giao cho họ việc xây dựng Hội Thánh nơi con cái họ. Như thế, gia đình những người đã được rửa tội, được Lời Chúa và Bí tích qui tụ như là Hội Thánh tại gia, cũng đồng thời trở thành mẹ và thầy dạy, như Hội Thánh toàn cầu.

Kinh nghiệm đầu tiên về Hội Thánh

39. Sứ mạng giáo dục đòi hỏi cha mẹ Kitô hữu phải đem lại cho con cái tất cả những gì cần thiết để dần dần giáo dục cho chúng một nhân cách theo quan điểm Kitô giáo và Hội Thánh. Họ sẽ lấy lại những định hướng giáo dục đã nhắc tới trên kia, bằng cách lo sao để chỉ cho các con thấy ý nghĩa sâu xa của những điều ấy, ý nghĩa mà đức tin cũng như lòng yêu mến Đức Giêsu Kitô sẽ có thể đưa chúng đến. Ngoài ra, trong khi họ bận tâm củng cố ân sủng Thiên Chúa đã ban trong linh hồn con cái, cha mẹ Kitô hữu sẽ được nâng đỡ nhờ ý thức rằng Chúa đang ký thác cho họ sự tăng trưởng của một người con Thiên Chúa, một người em của Đức Kitô, một đền thờ của Chúa Thánh Thần và một chi thể của Hội Thánh.

Công Đồng Vaticano II xác định nội dung của việc giáo dục Kitô giáo như sau: “Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân vị được trưởng thành… nhưng còn nhằm giúp những người rửa tội trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, càng ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ cũng như được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy, họ đạt tới con người toàn thiện, chín chắn, đạt tới sự sung mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm Thể được tăng trưởng. Hơn nữa, vì ý thức được ơn gọi của mình, chính họ phải tập quen làm chứng về niềm cậy trông nơi họ (x. 1 Pr 3,15) đồng thời phải giúp vào việc biến đổi thế giới theo tinh thần Kitô giáo”.[104] Khi lấy lại và khai triển các nét lớn trong giáo huấn của Cộng đồng, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã trình bày sứ mạng giáo dục của gia đình Kitô hữu như một thừa tác vụ đích thực, nhờ thừa tác vụ ấy Tin Mừng được thông truyền và phổ biến, đến nỗi xét trong toàn bộ, đời sống gia đình trở thành con đường đức tin, và một cách nào đó, trở thành sự khai tâm Kitô giáo và là trường học đời sống, dạy cho ta noi gương Đức Kitô. Trong một gia đình ý thức được về ơn Chúa ban như vậy, thì đúng như Đức Phaolô VI đã viết: “Mọi phần tử đều loan báo Tin Mừng và đều được loan báo Tin Mừng”.[105]

Nhờ kết quả của thừa tác vụ giáo dục, qua chứng từ đời sống, cha mẹ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng cho con cái. Hơn nữa, khi cùng cầu nguyện với chúng, khi cùng với chúng lao mình vào việc đọc Lời Chúa, và khi làm cho chúng sống thân mật trong thân thể Đức Kitô – cả nơi Bí tích Thánh Thể và nơi Hội Thánh – bằng việc khai tâm Kitô giáo, họ trở nên cha mẹ theo nghĩa trọn vẹn, nghĩa là không những họ sinh ra chúng theo sự sống phần xác mà còn theo cả sự sống tuôn trào từ thập giá và sự phục sinh của Đức Kitô, khi chúng được tái sinh trong Thần Khí.

Để giúp cha mẹ Kitô hữu chu toàn được tác vụ giáo dục của họ cách thích hợp, các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục mong ước rằng một cuốn giáo lý dùng cho gia đình sẽ được soạn thảo với một bản văn thích nghi trong sáng, ngắn gọn và dùng được cho mọi người. Thượng Hội Đồng Giám Mục tha thiết mời gọi các Hội Đồng Giám Mục hãy làm việc để soạn thảo cuốn giáo lý ấy.

Tương quan với các cấp giáo dục khác

40. Gia đình là cộng đồng giáo dục đầu tiên, nhưng không phải là cộng đồng độc nhất hoặc lẻ loi: chính vì con người có chiều kích cộng đồng, cả về phía dân sự lẫn phía Hội Thánh, nên cần phải có và cần phải làm dấy lên một công cuộc giáo dục rộng lớn và phức tạp hơn, do sự cộng tác có tổ chức của những cấp giáo dục khác nhau thực hiện. Tất cả những cơ chế này đều cần thiết, mặc dù mỗi cơ chế chỉ có thể và phải can thiệp theo thẩm quyền của mình và mang lại sự đóng góp riêng.[106] Như vậy trách nhiệm giáo dục của gia đình Kitô hữu chiếm một chỗ rất quan trọng trong công cuộc mục vụ toàn diện: điều ấy giả thiết phải có một hình thức cộng tác mới giữa bậc cha mẹ và các cộng đồng Kitô hữu, giữa các nhóm giáo dục khác nhau và các chủ chăn. Và như thế, trong việc canh tân trường công giáo phải đặc biệt chú ý đến cả các cha mẹ học sinh lẫn việc đào tạo một cộng đồng giáo dục hòan hảo.

Phải tuyệt đối bảo đảm cho cha mẹ được quyền chọn một nền giáo dục phù hợp với đức tin của họ.

Hội Thánh và quốc gia có bổn phận đem lại cho các gia đình sự trợ giúp cần thiết để họ có thể thực hành các nhiệm vụ giáo dục của họ cách thích hợp. Trong mục đích ấy, cả Hội Thánh và quốc gia đều phải tạo nên và cổ võ những cơ chế và những hoạt động mà các gia đình đang chờ đợi một cách chính đáng. Sự giúp đỡ ấy sẽ phải làm thế nào để bổ túc những thiếu sót của các gia đình. Và như vậy, tất cả những ai đang đứng đầu các trường học, đều không bao giờ được quên rằng, cha mẹ đã được chính Thiên Chúa đặt làm những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu cho con cái của họ, và đó là một quyền tuyệt đối không thể chuyển nhượng.

Nhưng cùng với quyền lợi của họ, cha mẹ có trách nhiệm nặng nề phải làm tất cả những gì họ có thể làm để giữ được các tương quan thân ái và có giá trị xây dựng với các nhà giáo dục và những người phụ trách các trường học.

Nếu trong các trường người ta dạy những ý thức hệ trái ngược hẳn với đức tin Kitô giáo, thì gia đình, liên kết với các gia đình khác – nếu được, qua trung gian của các hiệp hội gia đình – phải làm hết sức mình và thật khôn khéo để giúp cho các bạn trẻ khỏi lạc xa đức tin. Trong những điều kiện như thế, gia đình cần nhận được những trợ giúp đặc biệt từ phía những vị chăn dắt các linh hồn, và các vị này không thể quên rằng cha mẹ có quyền ký thác con cái họ cho cộng đồng Hội Thánh và đây cũng là một quyền không thể chuyển nhượng.

Việc phục vụ sự sống bằng nhiều hình thức

41. Tình yêu phong nhiêu của vợ chồng được diễn tả trong việc phục vụ sự sống bằng nhiều hình thức, mà sự truyền sinh và giáo dục là những dấu chỉ hữu hình nhất, đồng thời cũng là những dấu chỉ chuyên biệt và không thể thay thế được. Nhưng trong thực tế, mọi hành vi yêu thương đích thực đối với con người đều làm chứng cho sự phong nhiêu tinh thần của gia đình và hoàn thiện nó, vì hành vi ấy đang tuân theo sức năng động sâu xa từ bên trong của tình yêu xét như là sự hiến mình cho người khác.

Những cặp vợ chồng đang phải son sẻ có thể theo một cách thế thật đặc biệt biến viễn tượng ấy thành viễn tượng riêng của mình, một viễn tượng thật phong phú và đòi hỏi đối với tất cả mọi người.

Các gia đình Kitô hữu đang biết lấy đức tin mà nhìn nhận mọi người đều là con cùng một Cha trên trời, sẽ mở lòng ra quảng đại đón nhận những đứa con của các gia đình khác, đem lại cho chúng sự nâng đỡ và tình yêu mà các phần tử trong gia đình duy nhất của các con cái Thiên Chúa đều đáng được. Như thế cha mẹ Kitô hữu có thể toả sáng tình yêu của họ vượt khỏi các liên hệ máu mủ, để đào sâu các liên hệ phát xuất từ tinh thần và đang phát triển trong việc họ giúp đỡ cụ thể cho những đứa con của các gia đình khác, đang thiếu thốn cả đến những nhu cầu sơ đẳng nhất.

Các gia đình Kitô hữu còn có thể mở rộng hơn để saün sàng đón nhận và chịu trách nhiệm trông nom những trẻ em mất cha mẹ hoặc bị cha mẹ bỏ rơi. Các trẻ em này, khi tìm lại được một bầu không khí gia đình ấm áp, sẽ có thể kinh nghiệm được tình thương phụ tử chu đáo của Thiên Chúa, qua chứng tích của các cha mẹ Kitô hữu, và như thế chúng có thể lớn lên trong sự tươi sáng và tin tưởng vào đời sống; về phần mình, toàn thể gia đình đều sẽ được phong phú hóa thêm do những giá trị tinh thần chứa đựng trong một tình huynh đệ mở rộng.

Sự phong nhiêu của gia đình phải được đánh dấu bằng một “khả năng sáng tạo” không ngừng: đó chính là hoa quả kỳ diệu của Thần Khí Thiên Chúa đang làm cho đôi mắt của trái tim mở thật lớn để khám phá ra những nhu cầu và những đau khổ mới trong xã hội chúng ta và chính Thần Khí đang ban sức mạnh cho ta được lãnh nhận lấy chúng và đem lại cho chúng lời giải đáp thỏa đáng. Trong bối cảnh ấy, các gia đình có thể thấy trước mắt mình có cả một địa bàn hành động thật bao la. Quả thế, ngày nay có một hiện tượng những người già, những bệnh nhân, những người tàn tật, những người nghiện ma tuý, những kẻ mãn hạn tù,v.v… đang phải sống ngoài lề cuộc sống xã hội và văn hóa.

Như thế những chân trời của tình phụ tử và mẫu tử Kitô giáo đang mở rộng thật đáng kể: sự phong nhiêu tinh thần trong tình yêu của họ như thể bị thách đố do những chuyện khẩn cấp ấy và bao nhiêu chuyện khẩn cấp khác nữa trong thời đại chúng ta. Cùng với các gia đình và qua họ, Chúa vẫn đang tiếp tục “thương xót” đám đông.

 

 

 


[1] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 52.

[2] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài giảng Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa VI, ngày 26-09-1980, số 2; AAS, số 72 (1980), tr. 1008.

(AAS là chữ viết tắt của “Acta Apostolicae Sedis” [Tạm dịch là: “Văn Kiện Tông Tòa”]. Đây là tờ báo chính thức của Giáo Hội; những văn kiện của Giáo Hội thường được chính thức công bố và ban hành rộng rãi cho mọi người qua việc cho đăng trên tờ báo này. Những văn kiện liên quan đến Giáo luật hay các qui định mới được thay đổi, trừ khi được minh định cách khác, thì sẽ có hiệu lực sau ba tháng kể từ ngày công bố trong báo “Acta Apostolicae Sedis”).

[3] Xc. St 1-2.

[4] Xc. Ep 5.

[5] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 47; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Appropinquat Jam, ngày 15-8-1980, số 1; AAS, số 72 (1980), tr. 791.

[6] Xc. Mt 19,4.

[7] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 47.

[8] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho Ủy Ban Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 23-2-1980.

[9] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 4.

[10] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium), số 12.

[11] Xc. 1Ga 2,20.

[12] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium), số 35.

[13] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium), số 12; Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn Mầu Nhiệm Giáo Hội (Mysterium Ecclesiae), số 2.

[14] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium), số 12; Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 10.

[15] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài giảng Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa VI, ngày 26-9-1980, số 2.

[16] Xc. Augustin, De Civitate Dei, XIV, 28, CSEL 40, II, 56-57.

[17] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 15.

[18] Xc. Ep 3,8; Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 44; Sắc lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes), số 15 và 22.

[19] Xc. Mt 19,4tt.

[20] Xc. St 1,26-27.

[21] Xc. 1Ga 4,8.

[22] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 12.

[23] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[24] Xc. Chẳng hạn Hs 2,21; Gr 3,6-13; Gs 54.

[25] Xc. Ed 16,25.

[26] Xc. Hs 3.

[27] Xc. Kn 2,24; Mt 19,5.

[28] Xc. Ep 5,32-33.

[29] Xc. Tertulien, Ad uxerem II, VIII, 6-7 : CCL I, 393; SC 273, tr. 49.

[30] Xc. Công Đồng Trento, khóa XXIV, điều 1.

[31] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[32] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho các đại biểu của Trung Tâm Liên Lạc các nhóm nghiên cứu (CLER), ngày 3-11-1979, số 3.

[33] Xc. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), ngày 25-07-1968, số 9.

[34] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho các đại biểu của Trung Tâm Liên Lạc các nhóm nghiên cứu (CLER), ngày 3-11-1979, số 4.

[35] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 50.

[36] Xc. St 2,24.

[37] Xc. Ep 3,15.

[38] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 78.

[39] La Virginité X, 1; PG 48, 540, SC 125, tr. 123.

[40] Xc. Mt 22,30.

[41] Xc. 1Cr 7, 32-35.

[42] Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (Perfectae Caritatis), số 12.

[43] Xc. Đức Giáo Hoàng Piô XII, Thông điệp Sacra Virginitas, II.

[44] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Incipiente, ngày 4-8-1979, số 9.

[45] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[46] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người (Redemtor Hominis), số 10.

[47] Mt 19,6; Xc. St 2,24.

[48] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho các đôi bạn, Kinshasa, ngày 3-4-1980, số 4.

[49] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 49; Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho các đôi bạn, Kinshasa, ngày 3-4-1980, số 4.

[50] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[51] Xc. Ep 5,25.

[52] Mt 19,8.

[53] Kh 3,14.

[54] Xc. 2Cr 1,20.

[55] Xc. Ga 13,1.

[56] Mt 19,6.

[57] Rm 8,9.

[58] Tôma Aquino, Tổng Luận Thần Học, IIa-IIae, 14,2, ad 4.

[59] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium), số 11; Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem), số 11.

[60] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 52.

[61] Xc. Ep 6,1-4; Cl 3,20-21.

[62] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[63] Ga 17,21.

[64] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 24.

[65] St 1,27.

[66] Ga 3,26-28.

[67] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Lao Động Của Con Người (Laborem Exercens), số 19.

[68] St 2,18.

[69] St 2,23.

[70] Ambrosio, Exameron, V, 7.19: CSEL: 32, I, 154.

[71] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 9.

[72] Xc. Ep 5,25.

[73] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài Giảng tĩnh tâm cho tín hữu Terni, ngày 19-3-1981, số 3-5.

[74] Ep 3,15.

[75] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 52.

[76] Lc 18,16.

[77] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ngày 2-10-1979, số 21.

[78] Lc 2,52.

[79] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 48.

[80] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn cho những người tham dự “International Forum on Active Aging”, ngày 5-9-1980, số 5.

[81] St 1,26.

[82] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 50.

[83] Ibidem

[84] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 50.

[85] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 11; Xc. số 9 và 12. Đề nghị 22, kết luận của số 11 trong Thông điệp quả quyết: “Khi nhắc cho con người phải tuân giữ luật tự nhiên, vẫn được giả thích trong giáo thuyết thường xuyên của Giáo Hội, Giáo Hội dạy rằng mọi hành vi vợ chồng phải để mở ngõ cho việc truyền sinh”, AAS, 60 (1968), tr. 488.

[86] Xc. 2Cr 1,19; Kh 3,14.

[87] Xc. Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa VI, Các gia đình Kitô hữu trong thế giới hiện nay, ngày 24-10-1980, số 5.

[88] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 51.

[89] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 7.

[90] Ibid., số 12.

[91] Ibid., số 14.

[92] Ibid., số 13.

[93] Xc. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số 51.

[94] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 29.

[95] Ibid., số 25.

[96] Ibid., số 21.

[97] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài giảng bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa VI, ngày 25-10-1980, số 8.

[98] Xc. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 28.

[99] Gioan Phaolô II, Diễn văn cho các đại biểu của Trung tâm liên lạc các nhóm nghiên cứu (CLER), ngày 3-11-1979, số 9; xem thêm: Diễn văn cho những người tham dự hội nghị về gia đình Phi Châu và Âu Châu, ngày 15-1-1981; báo Osservatore Romano, 16-1-1981, tr. 1-2.

[100] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), số 25.

[101] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), số 3.

[102] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục Vụ (Gaudium et Spes), số, 35.

[103] Tôma Aquinô, Summa Contra Gentiles, IV, 58.

[104] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), số 2.

[105] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng (Nuntiandi Evangelii), số 71.

[106] Xc. Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), số 3.