Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (Đào Tạo Linh Mục Trong Hoàn Cảnh Ngày Nay) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 25-03-1992) – (2)

0
1356


TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS

VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI GIÁM MỤC ĐOÀN, HÀNG GIÁO SĨ  VÀ TOÀN THỂ GIÁO HỮU

SAU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

NGÀY 25 THÁNG 03 NĂM 1992

***

***

CHƯƠNG III

THẦN KHÍ CHÚA NGỰ TRÊN TÔI

Một lời mời gọi loại biệt nên thánh

19. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4,18). Thần Khí không chỉ ở trên Đấng Mêsia nhưng lấp đầy Ngài, thấm nhập vào Ngài, nối kết với Ngài trong hữu thể và trong hành động của Ngài. Thật vậy, Thần Khí chính là nguyên lý cho sự “thánh hiến” và cho “sứ vụ” của Đấng Mêsia; “vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo…” (Lc 4,18). Nhờ sức mạnh của Thần Khí, Đức Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và chỉ thuộc về Thiên Chúa, Ngài thông phần vào sự thánh thiện vô biên của Thiên Chúa là Đấng mời gọi Ngài, tuyển chọn Ngài và sai phái Ngài. Bởi thế, Thần Khí Chúa tự tỏ lộ như là nguồn mạch thánh thiện và lời mời gọi nên thánh.

Chính “Thần Khí Chúa” ấy cũng ở “trên” toàn thể Dân Chúa, Dân được thiết lập thành dân “thánh thiện” cho Thiên Chúa và được Thiên Chúa “sai đi” loan báo Tin Mừng cứu độ. Các thành phần Dân Chúa “say sưa” với Thần Khí, “mang dấu ấn” của Thần Khí (x. 1Gr 12,13; 2Gr 1,21-22; Ep 1,13;4,30) và được mời gọi nên thánh.

Một cách đặc biệt, Thần Khí mạc khải cho chúng ta và thông truyền cho chúng ta ơn gọi cơ bản mà Chúa Cha từ muôn thuở ngỏ với mọi người : ơn gọi nên “thánh” và vô tì vết trước mặt Ngài trong tình yêu”, do được tiền định “làm dưỡng tử của Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-5). Chẳng những mạc khải cho chúng ta và thông truyền cho chúng ta ơn gọi ấy, Thần Khí còn trở nên trong chúng ta nguyên lý và nguồn cội cho sự thực hiện ơn gọi ấy : là Thần Khí của Chúa Con (x. Gl 4,6), Ngài làm cho chúng ta mặc hình dạng của Đức Kitô Giêsu và biến chúng ta thành những người thông phần vào đời sống nghĩa tử của Đức Giêsu, nghĩa là vào đức ái của Ngài đối với Chúa Cha và đối với đàn em. “Bởi vì Thần Khí là sức sống của chúng ta, ước gì Thần Khí cũng làm cho chúng ta hành động” (Gl 5,25). Với những lời vừa qua, thánh Tông Đồ Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng đời sống của người Kitô hữu là đời sống thiêng liêng, nghĩa là đời sống được thôi thúc và dẫn dắt bởi Thần Khí, hướng đến sự thánh thiện và hướng đến đức ái trọn hảo.

Khẳng định của Công Đồng: “Lời mời gọi sống viên mãn đời sống Kitô hữu và thực thi đức ái trọn hảo được ngỏ đến mọi người tin vào Chúa Kitô, bất kể bậc sống hoặc lối sống của họ” (40), được áp dụng một cách đặc biệt cho các linh mục: các linh mục được mời gọi, chẳng những với tư cách thụ nhân của bí tích Rửa tội nhưng còn, một cách loại biệt, với tư cách linh mục, hiểu như một tước hiệu mới và tùy theo những thể thức riêng, bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh.

20. Về vấn đề “đời sống thiêng liêng” của linh mục, về ơn thánh thiện và về ơn có trách nhiệm nên “thánh”, Sắc Lệnh công đồng về chức vụ và đời sống linh mục cung cấp cho chúng ta một tổng hợp phong phú và khích lệ: “Các linh mục trở thành thừa tác viên của Chúa Kitô là Đầu để xây dựng và kiến thiết trọn vẹn Thân Thể là Giáo Hội, với tư cách cộng sự viên của Hàng Giám Mục : chính với tước hiệu ấy mà bí tích Truyền Chức Thánh mặc cho các linh mục hình dạng của Chúa Kitô Linh Mục. Chắc hẳn, được bí tích Rửa tội thánh hiến, các linh mục đã lãnh nhận như mọi Kitô hữu khác dấu chỉ và ân huệ về một ơn gọi và một ân sủng nhờ đó, dù bản tính nhân loại yếu hèn, các linh mục có khả năng và có đòi buộc phải theo đuổi sự trọn hảo, đúng như lời Chúa phán: “Các con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời là Đấng trọn hảo” (Mt 5,48). Sự trọn hảo này, các linh mục có trách nhiệm đạt tới với một danh nghĩa riêng: các linh mục nhận Chức Thánh, có nghĩa là đã được thánh hiến bằng một thể thức mới để làm khí cụ sống động cho Đức Kitô Linh Mục Đời Đời, được trang bị để qua các thời dại nối tiếp hoạt động kỳ diệu của Chúa, hoạt động nhằm phục hưng toàn vẹn cộng đoàn nhân loại trong quyền năng tối cao của Ngài. Linh mục nào cũng vậy, một khi đóng vai trò thay mặt Chúa Kitô bằng cách thế của mình thì do sự kiện ấy được phú ban thêm một ơn riêng nữa; ơn này giúp cho linh mục, nhờ phục vụ những người được giao phó cho mình và phục vụ toàn thể Dân Chúa, lúc nào cũng hướng đến sự trọn hảo của Đấng mình đại diện cho; cũng chính nhờ vào ơn này mà sự yếu đuối của con người xác thịt nơi linh mục được cứu chữa nhờ sự thánh thiện của Đấng đã trở thành Linh Mục Thượng Phẩm “thánh thiện, vô tội, không tì vết, tách biệt khỏi tội nhân” cho chúng ta (Dt 7,26) (41).

Công đồng trước hết khẳng định ơn gọi nên thánh phổ quát. Ơn gọi này bắt nguồn từ bí tích Rửa tội là bí tích đóng ấn cho linh mục làm “tín hữu” (Christifidelis), làm “anh em giữa những người anh em”, được hội nhập và liên kết làm một với Dân Chúa, trong niềm vui san sẻ các ơn thiêng cứu độ (x. Ep 4,4-6) và với bổn phận cùng nhau bước đi “trong đường lối Chúa Thánh Thần” theo chân Đức Chúa và Thầy duy nhất. Chúng ta đừng quên lời nói nổi danh của thánh Augustinô: “Đối với anh em, tôi là giám mục; cùng với anh em, tôi là Kitô hữu. Tên gọi trước là để chỉ chức vụ lãnh nhận, tên gọi sau là để chỉ ân sủng; tên gọi trước gắn liền với hiểm nguy, tên gọi sau kết chặt với ơn cứu độ” (42).

Cũng minh bạch như thế, Công đồng còn bàn về một ơn gọi nên thánh “loại biệt”, nói đúng hơn về một ơn gọi đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh, xét như là bí tích dành riêng cho linh mục, nghĩa là nhân danh sự thánh hiến mới cho Thiên Chúa nhờ việc thụ phong. Đối với ơn gọi loại biệt này, thánh Augustinô cũng có ý ám chỉ khi tiếp tục lời khẳng định “đối với anh em, tôi là giám mục; cùng với anh em tôi là Kitô hữu” bằng những lời lẽ sau: “Nếu như cùng chung sống với anh em trong tư cách người được cứu chuộc làm cho tôi cảm thấy vui mừng hơn là được cắt đặt đứng đầu anh em thì, khi tuân giữ lệnh truyền của Chúa, tôi sẽ cố công phục vụ anh em sao cho hết mực tận tâm để không phụ bạc đối với Đấng đã cứu chuộc tôi với giá làm cho tôi nên người tôi tớ của anh em” (43).

Trong phần tiếp theo, bản văn công đồng nêu dẫn một vài yếu tố cần thiết để xác định nội dung loại biệt gồm chứa trong đời sống thiêng liêng của các linh mục. Các yếu tố ấy gắn liền với sự “ thánh hiến” của riêng các linh mục, làm cho các linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Các yếu tố ấy gắn liền với “sứ vụ” hay thừa tác vụ riêng của chính các linh mục, trang bị cho các linh mục để các linh mục dấn thân và trở nên “khí cụ sống động của Đức Kitô Linh Mục Đời Đời” và để các linh mục hành động “nhân danh và thay mặt cho chính Đức Kitô”; các yếu tố ấy cũng gắn liền với toàn thể “đời sống” các linh mục qua đó các linh mục có trách nhiệm biểu lộ và làm chứng một cách độc đáo “tính triệt để Tin Mừng” (44).

Nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử: Đức ái mục vụ

21. Nhờ được thánh hiến bởi bí tích, linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu xét như là Đầu và Mục Tử, linh mục lãnh nhận ơn “có quyền thiêng liêng”, nghĩa là thông chia quyền bính qua đó Đức Giêsu Kitô dẫn dắt Giáo Hội nhờ Thần Khí Ngài (45).

Nhờ vào sự thánh hiến ấy, sự thánh hiến được thực hiện do việc tuôn đổ Thần Khí trong bí tích Truyền Chức Thánh, đời sống thiêng liêng của linh mục được đóng ấn, được uốn nắn và được đánh dấu bởi những cách ứng xử của chính Đức Kitô là Đầu và Mục Tử Giáo Hội, những cách ứng xử được gồm tóm trong đức ái mục vụ của linh mục.

Đức Giêsu Kitô là Đầu của Giáo Hội, Thân Thể Ngài. Ngài là “Đầu” với ý nghĩa mới và độc đáo, là “tôi tớ”, như chính Ngài đã nói: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mc 10,45). Công cuộc phục vụ của Đức Giêsu đạt mức viên mãn bằng cái chêt trên thập giá, nghĩa là bằng sự hiến ban trọn vẹn chính mình trong khiêm hạ và tình yêu: “Ngài đã tự hoá mình thành hư vô bằng cách mang lấy thân phận nô lệ và trở nên giống người phàm. Chẳng những xử sự như một con người, Ngài còn tự hạ hơn nữa, bằng cách vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá…” (Pl 2,7-8). Như thế, quyền bính của Đức Giêsu Kitô là Đầu ăn khớp với việc phục vụ của Ngài, với sự trao hiến trọn vẹn chính mình Ngài, khiêm nhượng và đầy tình thương yêu, cho Giáo Hội. Tất cả đều nằm trong sự hoàn toàn vâng phục Chúa Cha : Ngài là người Tôi Tớ đau khổ duy nhất và đích thực của Chúa, đồng thời là Tư Tế và là Của Lễ.

Đời sống thiêng liêng của mỗi linh mục phải được thôi thúc và trở nên sống động bởi chính thể loại quyền bính hay phục vụ ấy đối với Giáo Hội, và đó đúng là đòi hỏi do việc linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và nên đầy tớ của Giáo Hội (46). Chính trong chiều hướng ấy mà thánh Augustinô ngỏ lời với một giám mục trong ngày tấn phong như sau: “Người đứng đầu trên dân trước hết phải biết rằng mình là tôi tớ của nhiều người. Đừng khinh chê, tôi xin lặp lại, người đứng đầu trên dân đừng khinh chê việc trở nên tôi tớ cho nhiều người bởi vì Chúa các Chúa đã không khinh chê việc trở nên tôi tớ cho chúng ta” (47).

Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân Ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với dân Thiên Chúa (x. Mt 20,24-28; Mc 10,43-44), và phải được loại trừ khỏi mọi cao ngạo và mọi tham vọng “làm vua làm chúa” trên đoàn chiên được giao phó (x. 1Pr 5,2-3). Hoàn thành công việc phục vụ một cách tự nguyện và sẵn lòng : bằng cách ấy, các thừa tác viên — các “niên trưởng” trong cộng đoàn, tức các linh mục — sẽ có thể là “mô hình” của đoàn chiên và đoàn chiên, đến lượt mình, được mời gọi đảm nhận cùng một thái độ tư tế và phục vụ ấy đối với toàn thể thế giới để cho con người được triển nở đầy đủ và được giải thoát toàn vẹn.

22. Hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Mục Tử của Giáo Hội, đoàn chiên Ngài, lấy lại và biểu trưng cùng những ý nghĩa như hình ảnh Đức Giêsu Kitô Đầu và Tôi Tớ, nhưng với những đường nét mới hơn và gợi cảm hơn. Thực hiện lời sấm về Đấng Mêsia Cứu Độ mà ngôn sứ Êdêkien và tác giả thánh vịnh trong kinh nguyện đã vui mừng hát lên (x. Tv 23/22; Ed 34,11-16), chính Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “Mục Tử Nhân Lành” (Ga 10,11.14) chẳng những của dân Ítraen mà của mọi người (x. Ga 10,16). Đời sống của Ngài là biểu hiện liên lỉ và còn là sự thực hiện thường nhật “đức ái mục vụ” của Ngài: Ngài động lòng thương xót đám đông bởi vì bọ mỏi mệt và kiệt sức như những con chiên không có người chăn (x. Mt 9,35-36); Ngài đi tìm những con chiên thất lạc và tản mác (x. Mt 18,12-14), và Ngài reo vui một khi tìm được chúng; Ngài qui tụ chúng lại và bảo vệ chúng; Ngài biết chúng và gọi chúng từng con một (x. Ga 10,3); Ngài dẫn dắt chúng trên những đồng cỏ xanh tươi, tiến về những dòng suối nước êm đềm (x. Tv 23/22); Ngài dọn bàn ăn cho chúng, lấy chính mạng sống mình mà nuôi chúng. Vị Mục Tử Nhân Lành hiến ban mạng sống mình, bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài, như phụng vụ la mã của Giáo Hội đã hát lên: “Ngài đã sống lại, Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân chính, Đấng đã hiến ban mạng sống mình vì đoàn chiên, Đấng đã chọn lựa cái chết để cứu chúng ta. Alleluia” (48).

Thánh Phêrô gọi Đức Giêsu là “Thủ Lãnh các mục tử” (1Pr 5,4) vì công trình của Ngài và sứ vụ của Ngài được nối tiếp trong Giáo Hội bởi các Tông Đồ (x. Ga 21,15-17) và bởi những người kế nhiệm các ngài (x. 1Pr 5,1-4), các linh mục. Do tác dụng của việc thánh hiến, các linh mục được nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành và được mời gọi sao chép bằng cuộc sống đức ái mục vụ của Ngài.

Sự trao hiến mà Đức Kitô tự mình dành cho Giáo Hội, hoa trái của tình yêu Ngài, mang ý nghĩa độc đáo của sự trao hiến giữa vợ và chồng, như hơn một lần các bản văn sách thánh đã gợi lên. Đức Giêsu là Phu Quân đích thực trao tặng rượu cứu độ cho Giáo Hội (x. Ga 2,11). Là “Đầu của Giáo Hội, là Đấng Cứu Độ của Thân Thể” (Ep 5,23), Ngài đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình vì Giáo Hội, ngõ hầu thánh hoá Giáo Hội bằng cách thanh tẩy Giáo Hội bởi việc tắm nước kèm theo lời đọc; bởi vì Ngài muốn tự đem đến cho mình một Giáo Hội thật rạng rở, không tì vết, không nhăn nheo hoặc tương tự, nhưng thánh thiện và không vương nhiễm” (Ep 5,25-27). Chắc hẳn, Giáo Hội là thân thể trong đó với tư cách là Đầu Đức Kitô hiện diện và hành động, nhưng Giáo Hội còn là Hiền Thê như một Evà mới được dựng nên từ cạnh sườn bị đâm thủng của Đấng Cứu chuộc trên Thập Giá. Chính vì thế, Đức Kitô đứng “trước” Giáo Hội, “dưỡng nuôi Giáo Hội và chăm sóc Giáo Hội” (x. Ep 5,29) bằng việc trao hiến mạng sống mình cho Giáo Hội. Linh mục được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Đức Giêsu Kitô, Phu Quân của Giáo Hội : (49) dĩ nhiên, linh mục vẫn luôn ở trong cộng đoàn và thuộc về cộng đoàn, với tư cách là tín hữu, liên kết với mọi anh chị em được qui tụ với nhau nhờ Thần Khí; nhưng, do tác dụng của việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, linh mục được đặt trong tình huống phu thê ấy, đối diện với cộng đoàn. “Với tư cách đại diện cho Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Hiền Thê của Giáo Hội, linh mục chẳng những chiếm vị trí trong Giáo Hội nhưng còn đối diện với Giáo Hội (50). Chính vì thế, trong đời sống thiêng liêng của mình, linh mục được mời gọi bằng cuộc sống sao chép tình yêu của Đức Kitô Phu Quân đối với Giáo Hội Hiền Thê. Như vậy, đời sống của linh mục phải được chiếu tỏa và được định hướng bởi tính chất phu thê ấy và bởi đó phải làm chứng cho tình yêu phu thê của Đức Kitô; nhờ đó, linh mục sẽ có khả năng yêu mến người ta với một con tim mới, lớn rộng và trong vắng, với sự siêu thoát chân chính đối với chính mình, trong một sự trao hiến chính mình hoàn toàn, liên tục và chân thành. Và linh mục sẽ cảm nghiệm như thế một “ganh tị” thần thiêng (x. 2Cr 11,2), với một niềm âu yếm thậm chí được điểm tô bằng những sắc thái của tình mẫu tử, nhờ đó có khả năng chịu đựng, những “đau đớn do việc sinh con”, cho tới khi “ Đức Kitô được thành hình” trong các tín hữu (x. Gl 4,19).

23. Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, chính là đức ái mục vụ, thông phần vào đức ái mục vụ của Đức Kitô Giêsu: đó là ơn nhưng không của Chúa Thánh Thần và, đồng thời về phía linh mục, là sự dấn thân và lời mời gọi để đáp trả tự do và có trách nhiệm.

Cốt lõi của đức ái mục vụ là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo Hội, theo hình ảnh sự trao hiến của Đức Kitô và thông phần với Ngài. “Đức ái mục vụ là nhân đức nhờ đó chúng ta noi gương Chúa Kitô trong sự trao hiến của Ngài và trong việc phục vụ của Ngài. Không phải chỉ những việc chúng ta làm, nhưng là việc chúng ta trao hiến chính mình mới biểu lộ tình yêu của Đức Kitô dành cho đoàn chiên của Ngài. Đức ái mục vụ ấn định cho chúng ta cách thế suy nghĩ và hành động, phương thức quan hệ với người đời. Điều ấy rất là đòi hỏi đối với chúng ta…” (51).

Sự trao hiến chính mình, cội rễ và chóp đỉnh của đức ái mục vụ, nhắm đối tượng là Giáo Hội. Điều này ứng dụng cho Đức Kitô “Đấng đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình cho Giáo Hội” (Ep 5,25). Linh mục cũng phải làm như vậy. Với đức ái mục vụ thấm nhuần vào việc thực thi thừa tác vụ linh mục, như một “tác vụ tình yêu” (52), “linh mục, một khi đón nhận ơn gọi thi hành tác vụ, có nhiệm vụ làm cho ơn gọi ấy trở thành một lựa chọn do tình yêu, nhờ đó Giáo Hội và các linh hồn trở thành mối lợi chính yếu của linh mục. Sống đường thiêng liêng ấy một cách cụ thể, linh mục sẽ có khả năng yêu mến Giáo Hội phổ quát và thành phần Giáo Hội được giao phó cho mình, với tất cả sự nồng nhiệt của một người chồng đối với vợ mình” (53). Sự trao hiến chính mình không có biên giới, được đánh dấu bởi chính nhiệt tâm tông đồ và truyền giáo của Đức Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã nói: “Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc về chuồng nầy; những chiên ấy, Ta phải dẫn chúng về; chúng sẽ nghe tiếng Ta và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử mà thôi” (Ga 10,16).

Bên trong cộng đoàn Giáo Hội, đức ái mục vụ của linh mục yêu cầu và đòi hỏi, một cách riêng rẽ và loại biệt, linh mục phải giữ quan hệ ngôi vị với linh mục đoàn, trong sự lệ thuộc giám mục và cùng với giám mục, như Công đồng đã minh thị phát biểu: “Đức ái mục vụ đòi buộc các linh mục, nếu như không muốn chạy đua cách vô ích, phải làm việc bằng cuộc sống trong sự hiệp thông trường kỳ với các giám mục và với các anh em khác trong hàng linh mục” (54).

Sự trao hiến chính mình cho Giáo Hội liên quan tới Giáo Hội với tư cách Giáo Hội là thân thể và là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, đức ái của linh mục trước hết được nối kết với đức ái của Chúa Giêsu Kitô. Chỉ khi nào yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Đầu và Phu Quân thì đức ái mới trở nên nguồn cội, tiêu chuẩn, thước đo, động lực cho tình yêu và cho công việc phục vụ của linh mục đối với Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô. Đó chính là điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô ý thức một cách tinh tường và mạnh mẽ, ngài viết cho các Kitô hữu thuộc Giáo Hội Corintô như sau: “Phần chúng tôi, chúng tôi chỉ là những người làm đầy tớ cho anh em vì Đức Giêsu” (2 Cr 4,5). Nhất là lời giảng dạy minh thị của Đức Giêsu, Ngài chỉ giao cho Phêrô tác vụ chăn dắt đoàn chiên của ngài sau ba lần làm chứng về tình yêu, thậm chí về một tình yêu trổi vượt: “Ngài nói với Phêrô lần thứ ba ‘Simon, con Gioan, con có yêu mến Ta không?’ Phêrô… nói với Ngài: ‘Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rõ con yêu Chúa’. Đức Giêsu nói với ông: ‘Hãy chăn dắt các chiên của Ta’” (Ga 21,17).

Đặc biệt bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh, đức ái mục vụ sẽ được biểu hiện tròn đầy và sẽ tìm được lương thực chính yếu nơi bí tích Thánh Thể: “Đức ái mục vụ — theo như chúng ta đọc thấy trong Công Đồng — cốt nhất này sinh từ hy lễ Thánh Thể; như vậy, hy lễ Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống linh mục, tinh thần của linh mục phải là cố gắng làm sao nội tâm hoá tất cả những gì được thực hiện trên bàn thờ hiến tế” (55). Thực vậy, chính trong bí tích Thánh Thể mà được tái diễn — nói cho chính xác hơn, được hiện tại hoá lần nữa — hy lễ Thập Giá, sự trao hiến hoàn toàn của Chúa Kitô cho Giáo Hội, sự trao hiến bằng Mình bị nộp và Máu đổ ra của Ngài, như là chứng từ tuyệt hảo cho phẩm vị làm Đầu và Mục Tử của Ngài, làm Tôi Tớ và Hiền Thê cho Giáo Hội. Rõ ràng chính vì thế mà đức ái mục vụ của linh mục chẳng những nảy sinh từ bí tích Thánh Thể mà còn tìm được nơi việc cử hành bí tích Thánh Thể sự thực hiện cao độ nhất. Cũng vậy, chính từ bí tích Thánh Thể mà linh mục nhận được ơn và trách nhiệm mặc cho toàn thể cuộc sống mình một ý nghĩ “hi tế”.

Cũng chính đức ái mục vụ ấy làm thành nguyên lý nội tại và năng động có khả năng thống nhất những sinh hoạt khác biệt và đa tạp của linh mục. Nhờ đức ái mục vụ, có thể thực hiện được đòi hỏi cốt yếu và trường kỳ phải thống nhất đời sống nội tâm với nhiều hoạt động và trách nhiệm thuộc chức vụ. Lại nữa, hơn bao giờ hết, đòi hỏi ấy rất khẩn thiết trong một bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội được đánh dấu mạnh mẽ bởi sự đa phức, sự phân chia thành mảng và sự tản mác. Chỉ bằng cách ráp nối từng thời khắc và từng hành vi nào trong lựa chọn cơ bản, lựa chọn “hiến ban mạng sống mình vì đoàn chiên”, người ta mới có thể chắc chắn tạo được sự thống nhất sống còn ấy, sự thống nhất cần thiết để cho đời sống linh mục được hoà điệu và quân bình : “Để có thể xây dựng sự thống nhất đời sống, các linh mục, trong khi thi hành chức vụ, phải noi gương Chúa Kitô; lương thực của Ngài là thực thi ý muốn của Đấng đã sai Ngài và hoàn thành công trình của Đấng ấy… Sống bằng chính đời sống của Vị Mục Tử Nhân Lành như thế, các linh mục, khi thực hành đức ái mục vụ, sẽ tìm được mối giây trọn hảo linh mục, hầu làm cho đời sống và hoạt động của mình được thống nhất” (56).

Đời sống thiêng liêng trong việc thi hành thừa tác vụ

24. Thần Khí Chúa đã thánh hiến Đức Kitô và đã sai Ngài đi loan báo Tin Mừng (x. Lc 4,18). Sứ vụ không phải là một yếu tố bên ngoài song song với việc thánh hiến, nhưng là cùng đích nội thuộc và sống còn của việc thánh hiến: thánh hiến là thánh hiến cho sứ vụ. Bằng cách ấy, không chỉ việc thánh hiến nhưng cả sứ vụ đều ở dưới dấu hiệu và sức mạnh thánh hoá của Thần Khí.

Điều này đã nghiệm đúng đối với Đức Giêsu. Điều này cũng đã nghiệm đúng với các Tông Đồ và những người kế nhiệm các Tông Đồ. Điều này nghiệm đúng với đối với toàn thể Giáo Hội, và, trong Giáo Hội, đối với các linh mục: tất cả đều lãnh nhận Thần Khí như là lời mời gọi và như là ơn thánh hoá trong và bởi việc chu toàn sứ vụ của mình (57).

Như vậy, giữa đời sống thiêng liêng của linh mục và việc thực hành chức vụ của linh mục, có một mối tương quan mật thiết (58) mà Công Đồng diễn tả như sau: “Trong khi thi hành thừa tác vụ của Thần Khí và của sự công chính (x. 2Cr 3,8-9), các linh mục bén rễ sâu trong đời sống thiêng liêng, miễn sao các ngài niềm nở đón nhận Thần Khí Chúa Kitô, Đấng ban sự sống cho các ngài và hướng dẫn các ngài. Những yếu tố được phối trí để cho đời sống các ngài nên trọn hảo, đó là các hành vi phụng vụ mỗi ngày của các ngài, là trọn vẹn thừa tác vụ của các ngài được thực thi trong mối hiệp thông với Giám mục và với các linh mục. Đàng khác, sự thánh thiện của các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài chu toàn được hữu hiệu” (59).

“Anh em hãy sống điều mà anh em sẽ chu toàn và hãy uốn mình cho phù hợp với mầu nhiệm Thập Gía của Chúa!”. Đó là lời mời, là huấn dụ mà Giáo Hội ngỏ với các linh mục trong nghi thức phong chức khi lễ vật của dân thánh dành cho hy lễ thánh thể được trao cho linh mục. “Mầu nhiệm” mà linh mục là “người phân phát” (x. 1Cr 4,1) cuối cùng chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng, trong Thần Khí, là nguồn mạch thánh thiện và là lời mời gọi thánh hoá. “Mầu nhiệm” phải nằm giữa lòng đời sống thường nhật của linh mục. Bởi đó, có đòi buộc phải cảnh tỉnh thật sự và phải ý thức bén nhạy. Cũng trong nghi thức phong chức, trước những lời vừa nêu dẫn trên đây, có lời khuyên nhủ như sau: “Anh em hãy ý thức những việc anh em sẽ làm”. Chính thánh Phaolô đã cảnh giác giám mục Timôthê: “Con chớ khinh thường ơn huệ thiêng liêng ở trong con” (1 Tm 4,13; x. 2Tm 1,6).

Tương quan giữa đời sống thiêng liêng và việc thi hành thừa tác vụ linh mục cũng có thể được giải thích khởi từ đức ái mục vụ mà bí tích Truyền Chức Thánh ban cho. Thừa tác vụ của linh mục, chính bởi vì thông phần vào thừa tác vụ cứu độ của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, không thể không hiện tại hoá đức ái mục vụ của linh mục, đức ái mà linh mục vừa phải coi là nguồn mạch và vừa phải lấy làm tinh thần cho công việc phục vụ cũng như cho sự tự hiến của mình. Xét theo thực thể khách quan, thừa tác vụ linh mục là “amoris officium”, như kiểu nói đã được trích dẫn của thánh Augustinô; thực thể khách quan ấy được coi đúng là nền tảng và là lời mời gọi hướng đến một ethos tương ứng, ethos ấy chỉ có thể là ethos của tình yêu, như lời thánh Augustinô: “Sit amoris officium pascere dominicum gregem” (60). Ethos ấy, đời sống thiêng liêng của linh mục, không là gì khác hơn sự đón nhận “chân lý” của thừa tác vụ linh mục, được coi là amoris officium, trong ý thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và con tim, trong những quyết định và những hành động.

25. Điều thiết yếu, đối với một đời sống thiêng liêng được triển nở trong việc thi hành thừa tác vụ, là linh mục phải không ngừng canh tân và luôn luôn đào sâu hơn nữa ý thức của mình về việc làm thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô, nhờ tác dụng của việc thánh hiến bằng bí tích và của việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Ý thức ấy không chỉ tương ứng với bản chất thực sự của sứ vụ mà linh mục chu toàn nhằm lợi ích cho Giáo Hội và cho nhân loại, nhưng còn tạo thành đời sống thiêng liêng cho linh mục chu toàn sứ vụ ấy. Quả vậy, linh mục được Đức Kitô chọn, không phải như một “đồ vật” nhưng như một “nhân vị”; linh mục không phải là một công cụ ù lì và thụ động nhưng là một “khí cụ sống động” như lời Công Đồng khi nói về đòi buộc hướng đến sự trọn lành (61). Cũng chính Công đồng trình bày các linh mục như là “những người liên kết và những cộng tác viên” của một Thiên Chúa “thánh thiện và thánh hoá” (62).

Trong chiều hướng ấy, con người của của linh mục với ý thức, tự do và trách nhiệm được lôi cuốn sâu đậm vào trong việc thi hành thừa tác vụ. Được bảo đảm do việc thánh hiến và việc nên đồng hình dạng phát xuất từ bí tích Truyền Chức Thánh, mối dây nối kết với Đức Giêsu Kitô xây dựng và đòi hỏi từ phía linh mục một mối dây khác, đó là “ý hướng”, là ý muốn có ý thức và tự do làm điều mà Giáo Hội muốn làm, bằng hành vi thừa tác. Mối dây ấy tự bản chất đời phải trở nên bao quát nhất và sâu xa nhất trong mức độ có thể, phải đem trí tuệ, tình cảm, đời sống, hay nói một cách vắn tắt, một chuỗi những trạng thái luân lý và thiêng liêng tương ứng vào trong các hành vi thừa tác mà linh mục chu toàn.

Chắc chắn thừa tác vụ linh mục, cách riêng việc cử hành các bí tích, đón nhận hiệu năng cứu độ từ chính hoạt động của Đức Giêsu Kitô là hoạt động được hiện tại hoá trong các bí tích. Nhưng, do bởi một kế hoạch của Thiên Chúa nhằm tuyên dương tính nhưng không tuyệt đối của ơn cứu độ, và khi làm cho con người vừa nên “người được cứu” vừa nên “vị cứu tinh” — luôn luôn và duy chỉ với Đức Giêsu Kitô — hiệu năng của việc thi hành thừa tác vụ còn tùy thuộc vào mức độ tham gia của con người và mức độ đón nhận nữa (63). Cách riêng, nếu trong một mức độ nào đó, thừa tác viên thực sự thánh thiện, thì sự thánh thiện ấy có ảnh hưởng đích thực trên cách mà thừa tác viên loan báo lời, cử hành các bí tích và hướng dẫn cộng đoàn trong đức ái. Và đó chính là điều mà Công Đồng quả quyết một cách rõ rệt: “Chính sự thánh thiện của các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài chu toàn được hữu hiệu; chắc hẳn ơn thánh của Thiên Chúa có thể hoàn thành công trình cứu độ ngay cả bởi những thừa tác viên bất xứng nhưng, thông thường, Thiên Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua những con người niềm nở và ngon ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, qua những con người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống đời sống thánh thiện nhờ đó có thể nói như Thánh Tông Đồ: “Nếu tôi sống thì không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)” (64).

Ngay trong ý thức về việc mình là thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, còn có niềm vui vì đã lãnh nhận từ Đức Giêsu Kitô một ân sủng riêng biệt : ân sủng do đã được Chúa chọn làm “khí cụ sống động” cho công trình cứu độ. Sự lựa chọn ấy chứng tỏ tình yêu của Đức Giêsu Kitô dành cho linh mục. Lớn hơn tất cả mọi tình yêu khác, tình yêu ấy đòi phải đáp trả. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô câu hỏi cơ bản về tình yêu: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến Ta hơn những người này không?”. Sau khi Phêrô trả lời, sứ vụ mới được giao phó: “Hãy chăn dắt các chiên mẹ của Ta” (Ga 21,15). Để có thể giao cho Phêrô đoàn chiên của Ngài, trước đó Đức Giêsu hỏi xem Phêrô có yêu mến Ngài không. Nhưng thực ra, đó là tình yêu tự do và đi trước của chính Đức Giêsu đã thúc đẩy Ngài đặt câu hỏi ấy cho Phêrô và rồi giao phó cho Vị Tông Đồ các chiên “của Ngài”. Bởi đó, bất cứ hành vi thừa tác nào, trong khi dẫn đến việc yêu mến và phục vụ Giáo Hội, cũng thúc đẩy để có sự chín muồi ngày càng hơn trong tình yêu và trong việc phục vụ Đức Kitô Đầu, Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội; tình yêu ấy luôn luôn được coi là sự đáp trả lại tình yêu đi trước, tự do và hào phóng của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đàng khác, sự tăng triển trong tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô lại định hình cho sự tăng triển trong tình yêu đối với Giáo Hội: “Chúng tôi chăn dắt anh em (pascimus vobis); cùng với anh em, chúng tôi được chăn dắt (pascimur vobiscum). Nguyện xin Chúa ban cho chúng tôi sức mạnh để yêu mến anh em đến độ có thể chết cho anh em, hoặc bằng hiệu quả bên ngoài hoặc bằng tâm hồn bên trong (aut effectu aut affectu)” (65).

26. Nhờ lời giáo huấn quí giá của Công Đồng Vaticanô II (66), chúng ta có thể nắm vững được những điều kiện, những đòi buộc, những thể loại và những thành quả của mối tương quan mật thiết phải có giữa đời sống thiêng liêng của linh mục với việc thi hành ba thừa tác vụ của linh mục: Lời Chúa, các Bí Tích và công việc phục vụ trong Đức Ái. Trước hết linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, mời gọi mọi người vâng phục đức tin và hướng dẫn các tín hữu để mỗi ngày họ một hiểu biết và thông hiệp sâu xa hơn vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô mạc khải và truyền đạt cho chúng ta. Vì thế, chính linh mục trước tiên phải tạo được một mối thâm tình sâu đậm giữa bản thân mình với Lời Chúa. Khía cạnh ngữ học hoặc chú giải mặc dầu cần thiết vẫn chưa đủ để gọi là hiểu biết Lời Chúa. Linh mục phải đón nhận Lời Chúa với một tấm lòng mềm mại và nguyện cầu để cho Lời Chúa thấm nhập đến tận đáy thẳm ý nghĩ và tình cảm của mình và làm nảy sinh nơi mình một tinh thần mới, làm nảy sinh “tư tưởng của Chúa” (1 Cr 2,16). Bởi đó, những lời nói và hơn nữa những lựa chọn, những thái độ của linh mục phải làm sao để ngày càng nên trong suốt hơn đối với Tin Mừng, để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Chỉ bằng cách “ở” trong Lời Chúa mà linh mục có thể trở nên môn đệ hoàn hảo của Chúa, có thể thấu triệt chân lý và có thể thực sự trở nên tự do, vượt qua mọi trạng huống trái nghịch hoặc xa lạ với Tin Mừng (x. Ga 8,31-32). Linh mục phải là người đầu tiên tin vào Lời Chúa với ý thức tròn đầy rằng những lời lẽ trong thừa tác vụ của mình không phải là “của mình” nhưng là của Đấng đã sai mình. Linh mục không phải làm chủ Lời Chúa : linh mục là người phục vụ Lời. Không phải linh mục là người duy nhất chiếm hữu Lời Chúa : linh mục là người mắc nợ Lời Chúa đối với dân Thiên Chúa. Chính bởi vì ngài rao giảng Tin Mừng và để ngài có thể rao giảng Tin Mừng mà linh mục, cũng như Giáo Hội, càng ngày càng phải ý thức rằng chính mình cũng cần phải được liên lỉ phúc âm hoá (67). Linh mục loan báo lời Chúa, với tư cách là thừa tác viên, linh mục tham dự vào quyền làm ngôn sứ của Đức Kitô và của Giáo Hội. Vì công việc ấy, để cho chính mình cũng như cho các tín hữu bảo đảm có được sự chuyển đạt Tin Mừng trong tính toàn vẹn của nó, linh mục được mời gọi trau dồi nơi mình một sự nhạy cảm, một trạng thái ứng sẵn và một sự gắn bó đặc biệt đối với Truyền Thống sống động của Giáo Hội và đối với Huấn Quyền của Giáo Hội. Tất cả mọi điều ấy không xa lạ đối với Lời Chúa nhưng góp phần cho việc cắt nghĩa Lời Chúa được chuẩn xác hơn và bảo vệ ý nghĩa chính hiệu cho Lời Chúa (68).

Nhất là trong việc cử hành các bí tích, cũng như trong việc cử hành Phụng Vụ các Giờ Kinh, linh mục được mời gọi sống và biểu lộ sự thống nhất sâu xa giữa việc thi hành thừa tác vụ và đời sống thiêng liêng của mình. Là ân sủng được ban cho Giáo Hội, bí tích Thánh Thể là nguyên lý cho sự thánh thiện và là lời mời gọi hướng đến sự thánh hoá. Đối với linh mục, bí tích Thánh Thể chiếm một vị trí thật sự trung tâm, trong thừa tác vụ cũng như trong đời sống thiêng liêng của Ngài. “Bởi vì Bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nghĩa là chứa đựng chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua, bánh hằng sống : thân mình Ngài có sự sống nhờ Chúa Thánh Thần và tạo sự sống, thân hình ấy ban sự sống cho mọi người, mời gọi họ và hướng dẫn họ cùng kết hiệp với Ngài hiến dâng chính cuộc đời của riêng mình, hiến dâng công việc của mình và hiến dâng toàn thể tạo vật” (69).

Từ những bí tích khác nhau và cách riêng từ ân sủng loại biệt thuộc về từng bí tích, đời sống thiêng liêng của linh mục nhận được những dấu ấn riêng biệt : thực vậy, đời sống ấy được cơ chế hoá và được uốn nắn nhờ vào những đặc tính và đòi buộc đa dạng của các bí tích được cử hành và được cảm nghiệm bằng cuộc sống.

Tôi muốn có một lời nhắc nhở đặc biệt về bí tích Thống Hối mà các linh mục là thừa tác viên nhưng đồng thời cũng phải là những thụ nhân, từ đó trở nên những người làm chứng cho lòng từ bi nhân ái của Thiên Chúa đối với người cõ tội. Tôi đề nghị lần nữa điều mà Tôi đã viết trong Tông Huấn Reconciliatio et poenitentia : “Cũng như đời sống của các anh em giáo dân và tu sĩ của mình, đời sống thiêng liêng và mục vụ của linh mục chỉ giữ được phẩm chất và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân linh mục biết thực hành bí tích Thống Hối một cách chuyên cần và nghiêm chỉnh. Việc cử hành bí tích Thánh Thể và làm thừa tác viên của các bí tích khác, nhiệt tâm tông đồ, những giao tiếp với các tín hữu, sự hiệp thông với các anh em linh mục, sự cộng tác với giám mục, đời sống cầu nguyện, nói tóm lại, toàn bộ đời sống linh mục phải nhận chịu một sự thoái hoá không thể tránh khỏi nếu, vì coi thường hay vì bất cứ một lý do nào khác, linh mục không thường đều chạy đến với bí tích Thống Hối bằng một đức tin và một lòng đạo đức chân chính. Linh mục nào mà không xưng tội nữa hoặc xưng tội một cách chẳng ra gì thì con người linh mục cũng như hoạt động linh mục sẽ mau chóng cảm thụ điều ấy và chính cộng đoàn mà linh mục là người mục tử cũng không khỏi nhận ra” (70).

Sau hết, các linh mục được mời gọi thi hành quyền bính và phục vụ Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội bằng cách thôi thúc và dẫn dắt cộng đoàn Giáo Hội, nghĩa là bằng cách quy tụ “gia đình của Thiên Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có chung một linh hồn, và, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, các linh mục dẫn dắt cộng đoàn ấy đến với Thiên Chúa là Cha” (71). Trách nhiệm cai quản ấy (“munus regendi”) là một trách nhiệm rất tế nhị và phức tạp đòi hỏi, ngoài sự chú tâm đối với từng người và từng ơn gọi khác biệt, phải có khả năng điều hợp mọi ân huệ và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong cộng đoàn bằng cách kiểm nghiệm chúng và mặc giá trị cho chúng hầu xây dựng Giáo Hội, luôn luôn trong sự hiệp nhất với các giám mục. Đây là một thừa tác vụ đời linh mục phải có một đời sống thiêng liêng sâu đậm, giầu những phẩm cách và nhân đức dành riêng cho người “chủ tọa” và “chỉ đạo” mọi cộng đoàn, cho người “niên trưởng” hiểu theo nghĩa mạnh nhất và cao quí nhất của từ ngữ, đó là lòng trung thành, tính nhất quán, sự khôn ngoan, khả năng tiếp nhận mọi người, thái độ hoà nhã, lập trường vững chắc về những điều cốt yếu, sự từ bỏ đối với những quan điểm quá chủ quan, lòng vô vị lợi tự bản thân, tính kiên nhẫn, lòng hăng say dấn thân mỗi ngày, niềm tin cậy vào hoạt động thầm kín của ân sủng được biểu lộ nơi những người đơn sơ và nơi những người nghèo (x. Tt 1,7-8).

Cuộc sống của người linh mục và tính triệt để của Tin Mừng

27. Thần Khí Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18). Chúa Thánh Thần được ban tặng nhờ bí tích Truyền Chức Thánh là nguồn mạch thánh thiện và là lời mời gọi thánh hoá. Bởi vì, trước hết, Ngài làm cho linh mục nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội và Ngài giao phó cho linh mục chu toàn sứ mệnh làm ngôn sứ, làm tư tế và làm vua nhân danh và thay mặt Đức Kitô. Tiếp đến, Ngài thôi thúc linh mục và tạo sinh khí cho cuộc sống thường nhật của linh mục, vun đắp bằng những ân huệ và những đòi buộc, những nhân đức và những khí thế, cụ thể hoá trong đức ái mục vụ. Đức ái này là tổng hợp những giá trị và những nhân đức dựa theo Tin Mừng và là sức mạnh nâng đỡ sự phát triển các giá trị và các nhân đức ấy cho tới mức trọn hảo Kitô Giáo (72).

Đối với hết mọi Kitô hữu không loại trừ một ai, tính triệt để Tin Mừng là một đòi buộc cơ bản và bất khả thay thế, phát xuất từ lời Đức Kitô mời gọi nối gót Ngài và noi gương Ngài, bằng cách cậy dựa vào sự hiệp thông đời sống chặt chẽ với Ngài, do tác động của Chúa Thánh Thần (x. Mt 8,18-20; 10,37-39; Mc 8,34-38; 10,17-21; Lc 9,57-62). Chính đòi buộc ấy cũng đồng thời liên can đến các linh mục, chẳng những bởi vì các linh mục ở “trong” Giáo Hội, nhưng còn bởi vì các linh mục đứng “trước” Giáo Hội, với tư cách là đã nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, đã được thánh hiến và đã dấn thân vào trong thừa tác vụ được phối trí, đã được thôi thúc bởi đức ái mục vụ. Trong tinh thần triệt để của Tin Mừng và để biểu lộ tinh thần ấy, có rất nhiều nhân đức và đòi buộc luân lý mang tính định đoạt đối với đời sống mục vụ và thiêng liêng của linh mục đã được khai hoa kết nhụy. Chúng ta có thể nêu dẫn chẳng hạn đức tin, thái độ khiêm nhượng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, lòng từ ái, sự cẩn trọng. Những “lời khuyên Phúc Âm” mà Đức Giêsu đề nghị trong Bài Giảng Trên Núi là một hình thức diễn đạt ưu việt của tính triệt để Tin Mừng (x. Mt 5-7). Trong số những lời khuyên được phối trí mật thiết với nhau ấy, có đức vâng phục, đức khiết tịnh và đức nghèo khó (73). Linh mục được mời gọi sống các lời khuyên ấy theo những thể thức và hơn nữa, theo những cứu cánh và ý nghĩa nguyên thủy, như chúng đã phát xuất từ căn tính của linh mục và biểu lộ căn tính ấy.

28. Trong số những đức tính cần thiết nhất cho thừa tác vụ linh mục, phải kể đến trạng thái ứng trực của tâm hồn nhờ đó các linh mục không tìm ý riêng của mình nhưng tìm ý của Đấng đã sai phái mình (x. Ga 4,34; 5,30; 6,38)” (74). Đó chính làđức vâng phục vốn mang một số đặc điểm riêng đối với trường hợp đời sống thiêng liêng linh mục.

Trước hết đó là một sự vâng phục “tông truyền”, hiểu theo nghĩa công nhận, yêu mến và phục vụ Giáo Hội trong cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội. Quả vậy, không thể có thừa tác vụ linh mục nếu không có hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và với giám mục đoàn, cách riêng với giám mục giáo phận mà linh mục mắc nợ vì đã hứa “tôn kính với tâm tình hiếu thảo và vâng phục” trong ngày thụ phong. Việc “tuân phục” nhưng vị nắm giữ quyền bính trong Giáo Hội không hề gây nhục nhã, nhưng lại là hoa quả của tự do có trách nhiệm nơi linh mục và chính linh mục đón nhận những đòi buộc của một đời sống Giáo Hội có cơ cấu và có tổ chức. Linh mục cũng đón nhận ơn phân định và ơn ý thức trách nhiệm trong những quyết định mang chiều kích Giáo Hội. Ân sủng ấy, Đức Giêsu đã tặng ban cho các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài để cho mầu nhiệm Giáo Hội được bảo tồn một cách trung thành và để cho mối dây nối kết cộng đoàn Kitô hữu được gìn giữ trên con đường duy nhất dẫn đưa Giáo Hội tới bến cứu độ.

Đức vâng phục Kitô giáo chính hiệu, với những động lực chuẩn xác và với sự tuân giữ không vì tinh thần nô lệ, giúp cho linh mục thi hành quyền bính mà linh mục có sứ vụ thi hành đối với dân Thiên Chúa, sao cho Tin Mừng như thể xuyên thấu chính mình: không theo chủ nghĩa độc tài và cũng không áp dụng những phương thế mỵ dân. Chỉ người nào biết vâng phục trong Đức Kitô mới biết làm sao để yêu cầu người khác vâng phục trong tinh thần Tin Mừng.

Ngoài ra, đức vâng phục của linh mục còn biểu lộ một đòi buộc mang chiều kích “cộng đồng”: đó không phải là sự vâng phục của một cá nhân biệt lập đối với quyền bính, nhưng ngược lại đó là sự vâng phục hội nhập một cách sâu đậm vào trong sự hiệp nhất của linh mục đoàn, trong khi linh mục đoàn, với tư cách là cộng đoàn, được mời gọi sống trong sự hợp tác chân tình với giám mục và, qua giám mục với vị kế nhiệm thánh Phêrô (75).

Khía cạnh ấy trong đức vâng phục của linh mục đòi hỏi một sự khổ chế đáng kể: một đàng, linh mục phải tập làm quen để đừng quá gắn bó với những sở thích riêng của mình và với những quan điểm riêng của mình; đàng khác linh mục phải nhượng cho các anh em đồng sự khoảng cách cần thiết để họ có thể biểu dương tài nghệ và khả năng của họ, mà không hề ganh tị, phân bì hoặc kình chống. Đức vâng phục của linh mục là một sự vâng phục liên đới, bởi vì được xây dựng trên sự kiện linh mục thuộc về linh mục đoàn duy nhất và bởi vì, luôn luôn giữa lòng linh mục đoàn và cùng với linh mục đoàn, biểu lộ những đường hướng và những lựa chọn đồng trách nhiệm.

Sau hết, đức vâng phục của linh mục mang một tính chất riêng biệt, tính chất “mục vụ”. Điều ấy có nghĩa là linh mục sống trong một bầu khí liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho mình bị “ăn” do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của đoàn chiên; những nhu cầu và đòi hỏi ấy một đôi khi cần phải được đem ra phân định và kiểm chứng, thế nhưng không thể chối cãi được rằng cuộc sống của người linh mục hoàn toàn được lấp đầy bởi sự đói khát Tin Mừng, đói khát lòng tin, đói khát hy vọng, đói khát tình yêu Thiên Chúa và đói khát mầu nhiệm Thiên Chúa, một sự đói khát, có thể được nhận thức nhiều hay ít, đang hiện hữu trong đoàn dân Thiên Chúa được giao phó cho linh mục.

29. Công đồng viết: trong số những lời khuyên Phúc Âm, “trước tiên phải kể đến hồng ân quí giá là ân sủng mà Chúa Cha đã ban cho một số người (x. Mt 19,11; 1Cr 7,7), đó là ơn tự hiến cho một mình Thiên Chúa dễ dàng hơn và với một con tim không chia sớt (x. 1Cr 7,32-34), trong bậc sống đồng trinh hoặc độc thân. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời ấy đã luôn luôn là đối tượng, về phía Giáo Hội, của một niềm vinh dự đặc biệt, như là dấu chỉ và trợ lực cho đức ái và như là nguồn mạch riêng biệt làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong thế giới” (76). Trong bậc sống đồng trinh và độc thân, đức khiết tịnh duy trì ý nghĩa cơ bản của nó, nghĩa là ý nghĩa của một đời sống tính dục con người được thể hiện như là một phương cách biểu lộ chính hiệu và như là một lối nẻo phục vụ quí giá cho tình yêu hiệp thông và trao hiến liên vị. Ý nghĩa ấy tiềm ẩn và tồn tại một cách tròn đầy trong bậc sống đồng trinh là bậc sống, mặc dầu khước từ đời sống hôn nhân, thể hiện “ý nghĩa phu thê” của thân xác, nhờ vào sự hiệp thông và sự trao hiến liên vị với Đức Giêsu Kitô và với Giáo Hội của Ngài; sự hiệp thông ấy và sự trao hiến ấy là hình ảnh tiên báo và là cảm nếm trước hương vị của sự hiệp thông trao hiến hoàn hảo và vĩnh viễn trên trời: “Trong bậc sống đồng trinh, con người ấp ủ niềm mong đợi, ngay cả trong thân xác mình, ngày dự tiệc cưới cánh chung của Đức Kitô với Giáo Hội, và con người tự trao hiến hoàn toàn chính mình cho Giáo Hội với hy vọng Đức Kitô sẽ trao tặng chính Ngài cho Giáo Hội trong chân lý trọn vẹn của đời sống vĩnh cửu” (77).

Dưới ánh sáng ấy, người ta có thể dễ dàng hiểu được và đánh giá được những nguyên do đã dẫn tới sự lựa chọn qua nhiều thế kỷ của Giáo Hội Tây Phương và đã làm cho Giáo Hội Tây Phương, mặc cho mọi khó khăn và mọi bình phẩm được nêu lên qua nhiều giai đoạn, duy trì quyết định chỉ phong chức linh mục cho những người mà quyết mình được Thiên Chúa mời gọi sống ơn trinh khiết trong bậc sống độc thân tuyệt đối và vĩnh viễn.

Các Nghị Phục Thượng Hội Đồng đã diễn đạt tư tưởng của các ngài cách rõ rệt và mạnh mẽ trong một lời đề nghị quan trọng đáng cho chúng ta nhắc lại trọn vẹn và nguyên văn. “Mặc dầu vẫn tôn trọng kỷ luật của các Giáo Hội Đông Phương, xác tín rằng đức trinh khiết toàn vẹn trong bậc độc thân linh mục là một đặc sủng, Thượng Hội Đồng nhắc nhở các linh mục rằng đức trinh khiết ấy chính là hồng ân vô giá của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội và đức trinh khiết ấy bày tỏ cho thế giới hiện đại một giá trị ngôn sứ. Thượng Hội Đồng lần này, một lần nữa và một cách mạnh mẽ, khẳng định lại điều mà Giáo Hội La mã và một số lễ chế Đông Phương đòi hỏi, rằng chức linh mục chỉ được phong ban cho những người đã lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng ân có được ơn gọi sống trinh khiết trong bậc độc thân (không thành kiến đối với truyền thống của một số Giáo Hội Đông Phương và đối với một số trường hợp đặc biệt trong đó có những giáo sĩ sống đời đôi bạn vốn xuất thấn từ những giáo phái khác mới trở lại đạo công giáo và vốn là trường hợp ngoại lệ đối với thông điệp của Đức Phaolô VI về đời sống độc thân linh mục) [số 42]. Thượng Hội Đồng không muốn để vương vấn nơi tâm trí bất cứ ai một chút hoài nghi nào liên quan tới ý định kiên quyết của Giáo Hội là duy trì luật buộc sống độc thân vĩnh viễn do tự do lựa chọn đối với các ứng sinh được thụ phong linh mục, trong nghi lễ La Mã. Thượng Hội Đồng đề nghị bậc sống độc thân phải được trình bày và cắt nghĩa trong tất cả sự phong phú từ nơi Thánh Kinh, thần học và tu đức học, như là hồng ân quí giá mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và như là dấu chỉ của Nước Chúa vốn không thuộc về thế gian này, đồng thời là dấu chỉ cho tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian này, cũng như cho tình yêu không chia sớt của linh mục đối với Thiên Chúa và đối với dân Thiên Chúa, làm sao để cho bậc sống độc thân được nhìn nhận như là một yếu tố tích cực làm cho chức linh mục được nên phong phú” (78).

Điều rất quan trọng, đó là linh mục phải hiểu được động lực và nguyên do thần học dẫn tới luật của Giáo Hội về bậc sống độc thân. Với tính cách là luật, nó diễn đạt ý định của Giáo Hội, ngay cả trước khi chủ thể bày tỏ ý muốn đáp ứng của mình. Nhưng ý định của Giáo Hội tìm được động lực và nguyên do tối hậu nơi mối liên kết giữa bậc sống độc thân với việc Phong Chức Thánh, nhờ đó linh mục được nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân của Giáo Hội. Giáo Hội xét như là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội. Đời sống độc thân linh mục lúc ấy sẽ là sự trao hiến chính mình trong với Đức Kitô cho Giáo Hội Ngài và sẽ biểu lộ công việc phục vụ mà linh mục thực thi cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô.

Vì nhắm đến một đời sống thiêng liêng chính hiệu, linh mục cần phải quan niệm và sống bậc độc thân không phải như một yếu tố riêng rẽ và thuần túy tiêu cực, nhưng như một trong những sắc thái của một đường hướng tích cực, loại biệt và đặc trưng của nhân cách linh mục. Từ bỏ cha mẹ mình, linh mục nối gót Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành trong một sự hiệp thông tông truyền, để phục vụ dân Chúa. Bậc sống độc thân bởi đó cần phải được đón nhận với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương, cần phải được cải tiến liên lỉ, như là một hồng ân vô giá của Thiên Chúa, như là một “trợ lực cho đức ái mục vụ” (79), như là một sự tham dự riêng biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa và vào sự sản sinh của Giáo Hội, như là một chứng từ cho Vương Quốc cánh chung được ban cho thế giới. Để sống tốt cả những đòi hỏi luân lý, mục vụ và thiêng liêng của bậc độc thân linh mục, tuyệt đối cần thiết phải cầu nguyện với lòng khiêm nhượng và cậy tin, như lời nhắc nhở của Công Đồng: “Chắc hẳn, trong thế giới hiện nay, có rất nhiều người tuyên bố rằng không thể nào thực hiện được tiết dục hoàn toàn: đó là một lý do hơn nữa để các linh mục phải khiêm tốn và kiên trì cầu xin, trong sự kết hiệp với Giáo hội, ơn trung thành, là ơn không bao giờ bị từ chối với mọi người” (80). Ngoài ra, nhờ liên kết việc cầu nguyện với các bí tích của Giáo Hội và với nỗ lực khổ chế, linh mục sẽ có được niềm hy vọng trong những khó khăn, ơn tha thứ trong những lỗi phạm, lòng tin cậy và sự can đảm trong việc tiếp tục tiến bước.

30. Về đức nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đưa ra một lối mô tả cô đọng và sâu sắc hơn bao giờ hết, trình bày đức nghèo khó như là việc “đem mọi của cải (tous les biens) tùng phục Của Cải tối thượng (Bien suprême) là Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài” (81). Trong thực tế, chỉ người nào chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa như là Của Cải độc nhất và tối thượng, như là nguồn phong phú thực thụ và vĩnh viễn, mới có thể hiểu và thực hành đức nghèo khó. Đức nghèo khó chắc chắn không phải là khinh chê và từ chối những của cải vật chất, nhưng là tự do sử dụng những của cải ấy và đồng thời vui vẻ từ khước chúng với một trạng thái ứng trực nội tâm, đối với Thiên Chúa và đối với những kế hoạch của Ngài.

Sự nghèo khó của linh mục, vì lý do linh mục nhờ bí tích nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, mặc lấy những đặc điểm mục vụ chính xác. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dừng chân nơi những đặc điểm ấy bằng cách lặp lại và khai triển giáo huấn của công đồng (82). Cùng với những đặc điểm khác, các ngài viết: “Theo gương Chúa Kitô, Đấng vốn giàu sang đã hoá nên nghèo khó vì yêu thương chúng ta (x. 2Cr 8,9), các linh mục phải coi người nghèo và những người yếu đuối như là được giao phó cho mình một cách đặc biệt, và phải có khả năng nêu chứng tá nghèo khó bằng một đời sống giản dị và khắc khổ, vì đã quen từ bỏ một cách quảng đại những gì là dư thừa (Optatam totius, ĐT số 9; C.I.C, GL khoản 282)” (83).

Quả thật “thợ xứng đáng hưởng thù lao của mình” (Lc 10,7) và “Chúa đã chỉ thị cho những ai loan báo Tin Mừng sống bằng Tin Mừng” (1Cr 9,14); thế nhưng, thật ra quyền ấy của người tông đồ không được nhầm lẫn với bất cứ một kỳ vọng nào nhằm đem công việc phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội làm cái phụ thuộc cho những mối lợi và bổng lộc có thể phát sinh từ đó. Chỉ có sự nghèo khó mới chắc chắn tạo được cho linh mục tư tế ứng trực cần có để được sai đi nơi nào mà hoạt động của mình hữu ích hơn và cấp thiết hơn, ngay cả với giá của một hy sinh bản thân. Đó là điều kiện tiên quyết cho sự ngoan nguỳ của người tông đồ đối với Thần Khí, Đấng làm cho người tông đồ sẵn sàng “ra đi” mà không cần hành trang và không bị ràng buộc, chỉ một mực tuân theo ý định của Đấng là Thầy (x. Lc 9,57-62; Mc 10,17-22).

Đích thân hội nhập vào trong cộng đoàn mà mình có trách nhiệm, linh mục cần phải nêu chứng tá về một sự “trong suốt” hoàn toàn trong việc quản trị tài sản của cộng đoàn. Linh mục sẽ không bao giờ xử sự như thể các tài sản ấy là gia sản riêng tư của mình, nhưng như những gì mà mình phải thanh thỏa trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em mình, nhất là trước những người nghèo. Và, nhờ ý thức rằng mình thuộc về một linh mục đoàn duy nhất, linh mục sẽ dấn thân để tạo điều kiện thuận lợi, hoặc cho một sự phân phối của cải giữa các anh em đồng sự cao sang cho công bằng hơn, hoặc cho việc cùng hưởng dùng chung với nhau những của cải ấy (x. Cv 2,42-45).

Tự do nội tâm, được nuôi dưỡng và bảo toàn nhờ vào đức nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng, làm cho linh mục có khả năng đứng về phía những người yếu đuối nhất, liên kết chính mình với những nỗ lực của họ nhằm tái tạo một xã hội công bằng hơn, trở nên nhạy bén hơn cũng như có khả năng hiểu biết và phân định hơn đối với những hiện tượng liên can tới khía cạnh kinh tế và xã hội của đời sống, đồng thời thăng tiến chọn lựa nào là ưu tiên của người nghèo. Không loại trừ một ai trong việc loan báo và ban phát ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhận, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội, theo như mẫu mực mà Đức Giêsu đã để lại trên bước đường thừa tác vụ ngôn sứ và tư tế của Ngài (x. Lc 4,18).

Chúng ta đừng quên ý nghĩa ngôn sứ của đức nghèo khó linh mục, đặc biệt khẩn thiết trong những xã hội tiêu dùng: “Một linh mục thật sự nghèo chắc chắn sẽ là dấu chỉ cụ thể cho sự tách biệt, cho sự chối từ chớ không phải cho sự lụy phục đối với bạo quyền trong thế giới đương thời là thế giới đặt trọn niềm tin cậy của mình nơi tiền bạc và nơi sự an toàn vật chất” (84).

Trên thập giá, Đức Giêsu Kitô mang đức ái mục vụ của Ngài đến mức trọn hảo trong một sự trần trụi tột cùng bên ngoài và bên trong; Ngài là mẫu mực và là nguồn mạch các nhân đức vâng phục, khiết tịnh và nghèo khó mà linh mục được mời gọi sống như là biểu hiện tình yêu mục vụ của mình đối với anh em. Theo như những điều Phaolô viết cho các Kitô hữu Philipphê, linh mục phải có “cùng những tâm tình” như Đức Giêsu, phải tự tước bỏ khỏi cái tôi riêng rẻ của mình để, trong đức ái vâng phục, khiết tịnh và nghèo khó, tìm gặp được con đường vương giả đưa tới sự nối kết với Thiên Chúa và tới sự hiệp nhất với các anh em (x. Pl 2,5).

Thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương

31. Cũng như bất cứ đời sống thiêng liêng Kitô giáo chính hiệu nào, đời sống thiêng liêng của linh mục cũng sở đắc một chiều kích giáo Hội cốt yếu và bất khả thay thế: đời sống ấy tham dự vào sự thánh thiện của chính Giáo Hội, Giáo Hội mà trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng là “các Thánh cùng thông công”. Sự thánh thiện của Kitô hữu bắt nguồn từ sự thánh thiện của Giáo Hội, biểu lộ sự thánh thiện ấy và đồng thời làm giàu cho sự thánh thiện ấy. Chiều kích Giáo Hội này mang những thể thức, những cứu cánh và những ý nghĩa đặc thù trong đời sống thiêng liêng của linh mục, vì tương quan loại biệt đối với Giáo hội, luôn luôn khởi đi từ việc linh mục nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, từ thừa tác vụ được phân bổ và từ đức ái mục vụ của linh mục.

Trong nhãn quan ấy, cần phải coi việc linh mục thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương như là giá trị thiêng liêng của ngài. Các thực tại ấy không những chỉ khởi phát vì những lý do tổ chức và kỷ luật. Ngược lại, quan hệ với giám mục trong sự hiệp nhất của linh mục đoàn, sự san sẻ niềm ân cần săn sóc của giám mục đối với Giáo Hội, lòng tận tụy mục vụ nhằm phục vụ dân Thiên Chúa trong những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của Giáo Hội địa phương là những yếu tố mà người ta không thể coi thường khi muốn phác hoạ chân dung của linh mục và của đời sống thiêng liêng linh mục. Trong chiều hướng ấy, “nhập vụ” không chỉ giản lược vào một liên hệ, nhưng còn giả thiết một chuỗi những thái độ, những lựa chọn mục vụ và thiêng liêng góp phần kiến tao một diện mạo riêng biệt cho ơn gọi của linh mục.

Điều cần thiết là linh mục phải ý thức rằng sự kiện ở trong một Giáo Hội địa phương tự nó là một yếu tố định đoạt để sống một đời sống thiêng liêng Kitô giáo. Với ý nghĩa ấy, linh mục tìm ngay trong việc mình thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương một nguồn mạch cho những ý nghĩa, những tiêu chuẩn phân định và hành động tạo khuôn khổ cho sứ mệnh phục vụ và đời sống thiêng liêng của mình.

Trên bước đường tiến tới trọn hảo, cũng có thể có sự trợ giúp đến từ những thần hứng hoặc những qui chiếu nơi các truyền thống đời sống thiêng liêng khác, có khả năng làm giàu cho đời sống linh mục của nhiều người và tạo sinh khí cho linh mục đoàn nhờ vào những ân huệ thiêng liêng quí giá. Đó là trường hợp của nhiều hiệp hội cũ và mới trong Giáo Hội vốn đón nhận cả những linh mục trong hàng ngũ của mình, từ những hiệp đoàn tông đồ cho đến những tu hội đời linh mục, từ những dạng thức hiệp thông và chia sẻ thiêng liêng đa dạng cho đến các phong trào Giáo Hội. Các linh mục thuộc những đan viện và những hội dòng chính là nguồn phong phú thiêng liêng cho toàn thể linh mục đoàn giáo phận, đóng góp cho linh mục đoàn những đặc sủng loại biệt của họ cũng như những thừa tác vụ chuyên biệt của họ : do bởi sự hiện diện của mình, họ khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều kích hướng mở phổ quát của Giáo Hội ấy (85).

Việc linh mục thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương đến độ trao hiến mạng sống mình, ngõ hầy xây dựng Giáo Hội “thay mặt” cho Đức Kitô Đầu và Mục Tử, nhằm phục vụ toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, trong sự liên kết chân tình và hiếu thảo với giám mục, cần phải được tô đậm bởi bất cứ đặc sủng nào khả dĩ khởi hứng trực tiếp hoặc gián tiếp cho đời sống của một linh mục (86).

Để cho các ân huệ dư tràn của Thần Khí được đón nhận trong niềm vui và để cho chúng được sinh hoa kết trái nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn thể Giáo Hội, trước hết mọi người cần phải nhận thức và phân định những đặc sủng riêng của mình và những đặc sủng của tha nhân. Tiếp đến, việc thực thi các đặc sủng ấy phải luôn luôn đi kèm với lòng khiêm nhượng Kitô giáo, với sự can đảm dám tự phê phán chính mình, với ý hướng trổi vượt trên mọi bận tâm khác nhằm giúp xây dựng toàn thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn ấy. Ngoài ra mọi người đều được yêu cầu phải có một nỗ lực chân thành nhằm quý chuộng lẫn nhau, nhằm tôn trọng lẫn nhau và nhằm đánh giá sao cho hoà hợp những dị biệt tích cực và chính đáng hiện có nơi linh mục đoàn. Tất cả những yếu tố ấy cũng nằm trong đời sống thiêng liêng và trong sự khổ chế liên lỉ của linh mục.

32. Thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy đối với Giáo Hội địa phương thì không phải là tất cả hoạt động và đời sống linh mục đều đóng khung trong Giáo Hội ấy. Không thể đem giản lược các đặc tính ấy vào nơi Giáo Hội địa phương bằng cách nại tới chính bản chất của Giáo Hội địa phương (87) và tới bản chất của thừa tác vụ linh mục. Về vấn đề này, Công Đồng viết : “ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị cho các linh mục, không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng vào một sứ vụ cứu độ có tầm mức phổ quát, cho đến mút cùng trái đất” (Cv 18); thực vậy, bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích hoàn vũ của sứ vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (88).

Bởi đó, đời sống thiêng liêng của các linh mục cần phải được đánh dấu sâu đậm bởi khí thế và năng động thừa sai. Họ có trách nhiệm, trong việc thi hành thừa tác vụ và làm chứng bằng đời sống của mình, biến cộng đoàn được giao phó cho mình thành một cộng đoàn thừa sai chính hiệu. Như Tôi đã viết trong thông điệp Redemptoris missio, “tất cả các linh mục đều phải có một tâm hồn và một não trạng thừa sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú trọng tới những người xa cách nhất, và trên hết tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình. Trong kinh nguyện và cách riêng trong hy lễ tạ ơn, các linh mục phải cưu mang niềm ân cần của toàn thể Giáo Hội đối với toàn bộ nhân loại” (89).

Nếu tinh thần thừa sai ấy tạo sinh khí dạt dào cho đời sống các linh mục, việc đáp ứng tình huống hiện đang ngày càng nghiêm trọng hơn trong Giáo Hội, tình huống phát xuất từ tình trạng phân phối hàng giáo sĩ không đồng đều, sẽ trở nên dễ dàng hơn. Về điểm này, Công đồng đã phát biểu hết sức rõ ràng và mạnh mẽ: “Do đó, các linh mục phải nhớ rằng cách ngài cần ủ ấp trong tim mối ưu tư của tất cả Giáo Hội. Vì thế, những linh mục thuộc các giáo phận giàu ơn gọi phải sẵn sàng tự nguyện ra đi, dĩ nhiên với phép của Đấng Bản Quyền hoặc với lời kêu gọi của ngài, để thi hành thừa tác vụ của mình trong những xứ sở, những hội thừa sai hoặc những hoạt động đang lâm vào cảnh thiếu thốn linh mục (90).

“Xin hãy canh tân nơi chúng sự tuôn đổ Thần Khí thánh thiện của Ngài”

33. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi. Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn làm vọng lên trong con tim linh mục chúng ta những lời Ngài đã phát biểu trong hội đường Nagiarét. Thật vậy, đức tin chúng ta mạc khải cho chúng ta sự hiện diện tích cực của Thần Khí Chúa Kitô nơi hữu thể chúng ta, nơi hành động và đời sống chúng ta, bằng cùng một phương cách như đã được bí tích Truyền Chức Thánh định hình, trang bị và uốn nắn.

Đúng vậy, Thần Khí Chúa là vị hướng đạo vĩ đại của đời sống thiêng liêng chúng ta. Thần Khí Chúa tạo dựng “quả tim mới”, ban sinh khí và dẫn dắt quả tim ấy với “lề luật mới” của đức ái, của đức ái mục vụ. Ý thức rằng linh mục không bao giờ thiếu ân sủng của Chúa Thánh Thần, xét như là ơn hoàn toàn nhưng không và như là sự dấn thân trong trách nhiệm, đó là yếu tố định đoạt cho sự phát triển đời sống thiêng liêng linh mục. Sự ý thức về ân huệ ấy thâm nhập và đỡ nâng lòng tin cậy không thể chuyển lay của linh mục giữa những khó khăn, những cám dỗ, những yếu đuối vẫn thường xảy đến trên hành trình thiêng liêng.

Một lần nữa, Tôi đề nghị với mọi linh mục điều mà vào một dịp khác Tôi đã nói với nhiều người trong anh em: “ơn gọi linh mục cốt yếu là một lời mời gọi nên thánh với mô hình bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh. Sự thánh thiện là tình thân mật đối với Thiên Chúa, là nỗ lực noi gương Đức Kitô nghèo khó, khiết tịnh và khiêm nhượng; là tình yêu không hạn chế đối với các linh hồn và là sự trao hiến chính mình vì lợi ích đích thực của các linh hồn; là tình yêu đối với Giáo Hội, một Giáo Hội thánh thiện, một Giáo hội muốn chúng ta nên thánh bởi vì đó chính là sứ vụ mà Đức Kitô đã giao phó cho Giáo Hội. Mỗi người trong anh em cũng phải nên thánh để có thể giúp các anh em khác thực hiện ơn gọi nên thánh.

“Làm sao lại không suy tư […] về vai trò thiết yếu mà Chúa Thánh Thần nắm giữ trong lời mời gọi loại biệt nên thánh dành riêng cho thừa tác vụ linh mục ? Chúng ta hãy nhắc lại những lời trong nghi thức Phong Chức được coi như trọng tâm của công thức bí tích: “Lạy Chúa Cha toàn năng, chúng con khẩn nguyện Cha, xin Cha ban cho các tôi tớ Cha đây được gia nhập hàng linh mục. Xin Cha hãy tuôn đổ một lần nữa Thần Khí thánh thiện vào nơi đáy thẳm tâm hồn họ. Lạy Chúa, xin cho họ được lãnh nhận nơi Chúa trọng trách phục tùng hàng giám mục. Xin cho họ biết dùng gương đời sống của mình mà thúc đẩy cho các phong tục tập quán được nên tinh tuyền”.

“Hỡi những người bạn thân mến, nhờ việc Phong Chức, anh em đã lãnh nhận chính Thần Khí của Đức Kitô. Đấng làm cho anh em nên giống với Đức Kitô, ngõ hầu anh em có thể hành động nhân danh Đức Kitô và mặc lấy nơi anh em cùng những tâm tình như Ngài. Sự thông hiệp mật thiết với Thần Khí Đức Kitô bảo đảm cho hiệu năng của hoạt động bí tích mà anh em thực hiện “thay mặt Đức Kitô”, sự thông hiệp ấy còn đòi phải được biểu lộ trong việc sốt sắng cầu nguyện, trong tính nhất quán của đời sống, trong đức ái mục vụ của một thừa tác vụ không ngơi qui hướng về ơn cứu độ của mọi người. Nói vắn tắt, sự thông hiệp ấy đòi hỏi anh em phải thánh hoá bản thân mình” (91).

***

CHƯƠNG IV

HÃY ĐẾN MÀ XEM

Tìm theo, ở lại

34. “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39). Đức Giêsu đã trả lời cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả như thế, khi hai vị hỏi Ngài ở đâu. Chúng ta tìm thấy nơi câu nói này ý nghĩa của ơn gọi.

Sau đây là cách mà thánh Gioan tác giả Tin Mừng thuật lại ơn gọi của Anrê và Phêrô: “Ngày hôm sau, Gioan lại có mặt ở đó cùng với hai môn đệ của mình. Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan đưa mắt hướng nhìn Ngài và nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’. Hai môn đệ nghe nói thế liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại và thấy họ theo Ngài. Ngài nói với họ: “Các anh muốn gì?” Họ trả lời: “Rabbi (nghĩa là Thưa Thầy), Thầy ở đâu ?” Ngài nói: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và đã xem thấy nơi Ngài ở và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

“Anrê, em Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe lời Gioan và đã đi theo Đức Giêsu. Trước hết, Anrê gặp Simon anh mình và nói với anh: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia’ – nghĩa là Đức Kitô. Anrê dẫn anh đến với Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: ‘Anh là Simon, con ông Gioan; anh sẽ được gọi là Kêpha’ – nghĩa là Đá” (Ga 1,35-42).

Trang Tin Mừng này là một trong nhiều trang Sách Thánh mô tả “mầu nhiệm” ơn gọi; trong trường hợp hiện tại, điều được đề cập là mầu nhiệm ơn gọi nơi các Tông Đồ của Đức Giêsu. Trang Tin Mừng của Gioan cũng có ý ám chỉ ơn gọi Kitô hữu nói chung, nhưng lại có giá trị mẫu mực cho ơn gọi linh mục. Với tư cách là cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu, Giáo Hội được mời gọi gắn chặt cái nhìn của mình vào hoạt cảnh này là hoạt cảnh, một cách nào đó, không ngừng tái diễn trong lịch sử. Giáo Hội được mời gọi đào sâu ý nghĩa nguyên tuyền và ngã vị của lời mời gọi đi theo Đức Kitô trong thừa tác vụ linh muc, đào sâu mối liên hệ bất khả phân giữa ân sủng của Thiên Chúa với trách nhiệm của con người, mối liên hệ được gồm chứa và được mạc khải trong lời mời mọc mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Tin Mừng: hãy đến và theo Ta (x. Mt 19,21). Giáo Hội được mời gọi cắt nghĩa và mô tả sự năng động đặc thù của ơn gọi, sự phát triển từng cấp và cụ thể theo những giai đoạn sau: tìm Đức Giêsu, theo Ngài và ở lại với Ngài.

Giáo Hội tìm thấy trong “Tin Mừng về ơn gọi” này mẫu mực, sức mạnh và niềm hăng say cần thiết cho mục vụ của Giáo Hội về ơn gọi, nghĩa là sứ vụ nhắm tới việc chăm lo cho sự nảy sinh, cho sự phân định và cho sự sát cánh các ơn gọi, cách riêng ơn gọi hướng đến chức linh mục. Bởi vì “thiếu hụt linh mục chắc chắn là nỗi buồn của toàn thể Giáo Hội” (92), mục vụ các ơn gọi, nhất là ngày nay, cần phải được khởi xướng với một niềm hăng say mới, mãnh liệt và xác định hơn, do mọi thành phần trong Giáo Hội. Cần phải xác tín rằng nền mục vụ ấy không phải là một yếu tố đệ nhị hoặc phụ tùy, không phải là một thì biệt lập hoặc hạn hữu như thể là đơn thuần một “phần”, cho dẫu có quan trọng đến đâu, trong nền phục vụ bao quát của Giáo Hội. Đúng hơn, theo như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lặp lại, đó là một sinh hoạt mật thiết lồng vào trong nền mục vụ chung của toàn thể Giáo Hội (93), một trọng trách cần phải được tháp nhập và phải được đồng hoá trọn vẹn với cái mà người ta thường gọi là “trọng trách đối với các linh hồn” (94), một chiều kích đồng bản chất và thiết yếu với mục vụ của Giáo Hội, cũng giống như với sự sống và sứ vụ của Giáo Hội (95).

Đúng vậy, chủ đề ơn gọi có cùng bản chất với mục vụ của Giáo Hội và thiết yếu đối với nền mục vụ ấy. Sở dĩ như thế là bởi vì, hiểu theo một nghĩa nào đó, ơn gọi tạo thành hữu thể thâm sâu của Giáo Hội ngay cả trước khi ơn gọi được tác động. Ecclesia, danh xưng của Giáo Hội, chỉ dẫn cho thấy bản chất của Giáo Hội gắn liền một cách sâu rộng với ơn gọi, bởi vì Giáo Hội thật sự là “triệu tập”, là tập thể qui tụ những ai được mời gọi: “Cái tập thể qui tụ những người trong niềm tin ngước nhìn Đức Giêsu, tác giả ơn cứu độ, nguyên lý hiệp nhất và bình an ấy, Thiên Chúa đã triệu tập và đã làm thành Giáo Hội, để cho tập thể này, đối với con mắt mọi người và từng người, trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ” (96).

Chỉ bằng cách khởi đi từ mầu nhiệm Giáo Hội, xét như là mysterium vocationis, người ta mới có thể đọc được một cách thuần túy thần học cái gọi là ơn gọi linh mục và cái gọi là mục vụ liên quan tới ơn gọi ấy.

Giáo Hội và ơn gọi được ban tặng

35. Ơn gọi Kitô hữu nào cũng đặt nền tảng trên sự tuyển chọn nhưng không và khởi xướng trước từ phía Chúa Cha “Đấng đã chúc lành cho chúng ta bằng đủ loại phúc lành thiêng liêng, trên trời, trong Đức Kitô. Chính bởi đó mà Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Ngài, ngay cả trước khi tạo dựng thế giới, để chúng ta trở nên thánh thiện và vô tì vết dưới con mắt Ngài, trong tình yêu, và, ngay từ trước, đã xác định cho chúng ta được nên dưỡng tử của Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó chính là sở nguyện trong ý định của Ngài” (Ep 1,3-5).

Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phải phát xuất từ Thiên Chúa, đều là ân huệ của Thiên Chúa; thế nhưng không bao giờ ơn gọi Kitô hữu được ban ngoài Giáo Hội và không lệ thuộc vào Giáo Hội. Ơn gọi Kitô hữu luôn luôn ngang qua Giáo Hội và trong Giáo Hội bởi vì, như lời nhắc nhở của Công Đồng Vaticanô II, “Thiên Chúa đã không muốn cho con người lãnh nhận sự thánh hoá và ơn cứu độ một cách lẻ loi bên ngoài mọi liên hệ hỗ tương; ngược lại, Ngài đã muốn làm cho con người trở thành một dân tộc, một dân tộc nhận biết Ngài theo đúng sự thật và phục vụ Ngài trong thánh thiện” (97).

Chẳng những Giáo Hội đón nhận trong nhà mình tất cả mọi ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội trên lối đường cứu độ của mình, nhưng chính Giáo Hội còn mặc lấy cho mình những đường nét của một mầu nhiệm ơn gọi, phản ảnh sống động và rạng rỡ của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong thực tế, là “dân kết tụ thành một nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (98), Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Cha, Đấng không ai kêu mời cũng không do ai sai phái (x. Rm 11,33-35), Đấng mời gọi mọi người thánh hoá danh Ngài và chu toàn ý muốn của Ngài; Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Con, Đấng được Chúa Cha mời gọi và sai đến để loan báo Nước Thiên Chúa cho mọi người, Đấng mời gọi mọi người đi theo Ngài. Sau hết Giáo Hội nắm giữ mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hiến cho sứ vụ tất cả những người nam và người nữ mà Chúa Cha kêu gọi nhờ Con Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Tự bản chất là “ơn gọi”, Giáo Hội sinh thành các ơn gọi và đồng thời giáo dục các ơn gọi. Giáo Hội làm công việc ấy trong chính thực thể “bí tích” của mình, với tư cách là “dấu chỉ” và là “khí cụ” trong đó ơn gọi Kitô hữu vang vọng và được chu toàn; Giáo Hội làm công việc ấy trong hoạt động của mình, nghĩa là trong việc thi hành thừa tác vụ loan báo Lời Chúa, cử hành các bí tích, phục vụ và làm chứng cho đức ái.

Bởi đó cần phải lưu ý rằng ơn gọi Kitô hữu thoạt tiên ngang một chiều kích Giáo Hội. Ơn gọi không chỉ phát xuất “từ”Giáo Hội và từ vai trò trung gian của Giáo Hội; ơn gọi không chỉ được nhận biết và thực hiện “trong” Giáo Hội; nhưng – trong việc phục vụ cơ bản nhằm đáp đền cho Thiên Chúa – ơn gọi cũng tự bày tỏ một cách thiết yếu như là làm công việc phục vụ “cho” Giáo Hội. Dưới mọi hình thức, ơn gọi Kitô hữu là một hồng ân nhắm mục đích xây dựng Giáo Hội, làm tăng triển Nước Thiên Chúa trên thế giới (99).

Những gì chúng ta nói về mọi ơn gọi Kitô hữu được thể hiện cách riêng trong ơn gọi linh mục. Ơn gọi này, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh được lãnh nhận trong Giáo Hội, là một lời mời gọi đặt mình vào việc phục vụ dân Thiên Chúa với tư cách đặc biệt thuộc về Đức Giêsu Kitô và nên đồng hình dạng với Ngài, đồng thời bao gồm quyền hành động “nhân danh và thay mặt” Đấng Đầu và Mục Tử của Giáo Hội.

Trong nhãn quan ấy, chúng ta hiểu được điều mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng viết: “Ơn gọi của mỗi linh mục hiện hữu trong Giáo Hội và cho Giáo Hội: chính nhờ Giáo Hội mà ơn gọi ấy được thể hiện. Từ đó, mọi linh mục lãnh nhận ơn gọi của Chúa, qua trung gian Giáo Hội, như một hồng ân diễm phúc, một ân sủng gratis data (đặc sủng). Giám mục hoặc vị bề trên có thẩm quyền chẳng những có bổn phận duyệt xét, nhưng còn có bổn phận công nhận khả năng thích ứng và ơn gọi của ứng sinh. Một sự can thiệp của Giáo Hội như thế vốn nằm trong ơn gọi hướng đến thừa tác vụ linh mục hiểu theo đúng nghĩa. Ứng sinh của hàng linh mục phải lãnh nhận ơn gọi mà không áp đặt những điều kiện riêng tư của bản thân mình, nhưng lại chấp nhận những tiêu chuẩn và điều kiện do chính Giáo Hội đề ra theo đúng trách nhiệm thuộc về Giáo Hội” (100).

Cuộc đối thoại trong ơn gọi: Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả

36. Lịch sử của mọi ơn gọi linh mục, cũng như đàng khác của mọi ơn gọi Kitô hữu, là lịch sử của một cuộc đối thoại khôn tả giữa Thiên Chúa và con người, giữa tình yêu của Thiên Chúa là Đấng mời gọi với tự do của con người là kẻ đáp lại Thiên Chúa trong tình yêu. Hai khía cạnh bất khả phân ly ấy của ơn gọi, ân huệ nhưng không của Thiên Chúa và tự do hữu trách của con người, được mô tả một cách rất rõ ràng và hết sức mạnh mẽ trong những lời vắn gọn những vững chắc qua đó thánh Máccô tác giả Tin Mừng trình bày ơn gọi của Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu “leo lên núi và Ngài gọi những kẻ Ngài muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài” (3,13). Một đàng, có sự quyết định tuyệt đối tự do của Đức Giêsu, đàng khác có việc Nhóm Mười Hai “đến”, hay nói cách khác, việc họ “đi theo Đức Giêsu”.

Đó chính là mẫu mực có giá trị trường tồn, là những dữ kiện bất khả phân ly của mọi ơn gọi: ơn gọi của các ngôn sứ, của các tông đồ, của các linh mục, của các tu sĩ, của các tín hữu giáo dân, của mọi người.

Thế nhưng, yếu tố chiếm hoàn toàn ưu thế và còn là tiên quyết và có tính định đoạt, đó là sự can thiệp tự do và nhưng không của Thiên Chúa, Đấng mời gọi. Thiên Chúa có sáng kiến mời gọi. Chẳng hạn, đây là kinh nghệm của ngôn sứ Giêrêmia: “Lời Chúa đã ngỏ với tôi như thế này : ‘Trước khi ngươi hình thành trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi được đưa vào vùng ánh sáng, Ta đã thánh hiến ngươi; Ta đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân’” (Gr 1,4-5). Thánh Tông Đồ Phaolô đã trình bày cùng một chân lý ấy, ngài gắn chặt mọi ơn gọi vào sự tuyển chọn từ muôn thuở của Đức Kitô, sự tuyển chọn đã được thực hiện “trước khi tạo dựng vũ trụ” và “tùy theo sở nguyện của ý định Ngài” (Ep 1,5). Ưu thế tuyệt đối của ân sủng trong ơn gọi được khẳng định một cách rõ rệt nhất trong lời của Đức Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt đặt anh em để anh em ra đi và mang lại hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16).

Nếu tính ưu việt của ân sủng là điều được ơn gọi linh mục chứng tỏ một cách không thể bàn cãi, thì quyết định tự do và tối thượng của Thiên Chúa trong việc mời gọi con người lại đòi hỏi phải được tôn trọng một cách tuyệt đối: quyết định ấy không hề có thể bị ép buộc do bất cứ một tham vọng nào của con người, cũng không thể được thay thế bởi bất cứ một quyết định nào của con người. Ơn gọi là điều được ban tặng do ân sủng của Thiên Chúa chứ không bao giờ là một quyền lợi của con người. Chính vì thế, “không bao giờ được coi đời sống linh mục như là một sự thăng tiến thuần túy nhân bản, cũng như không bao giờ được coi sứ vụ của thừa tác viên như là một phương án đơn thuần của con người” (101). Từ đó, cần phải triệt để loại trừ mọi kỳ vọng hoặc cao vọng từ phía những người được kêu gọi (x. Dt 5,4). Trọn vẹn khoảng thiêng liêng trong con tim cần phải được phủ lấp bằng một niềm tri ân đầy thán phục và cảm mến, và bằng một niềm hy vọng không hề chuyển lay, bởi vì các ứng sinh nhận thức rằng nguồn cậy dựa của họ không phải ở nơi sức lực riêng của họ, nhưng chỉ ở nơi sự trung thành vô điều kiện của Thiên Chúa là Đấng mời gọi.

“Ngài gọi những kẻ Ngài muốn và họ đến với Ngài” (Mc 3,13). Việc họ “đến”, ở đây cũng đồng thời là việc họ nối gót “theo” Đức Giêsu, diễn tả sự đáp trả tự do của Nhóm Mười Hai trước lời mời gọi của Đấng là Thầy. Trường hợp của Phêrô và Anrê cũng y như vậy: “Ngài nói với họ: ‘Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các anh trở nên những ngư phủ chài lưới người”. Và lập tức họ đã bỏ lưới mà đi theo Ngài” (Mt 4,19-20). Kinh nghiệm của Giacôbê và Gioan cũng tương tự như thế (x. Mt 19,21-22). Và cứ như thế, mãi mãi, trong ơn gọi, có sự chiếu sáng cùng với nhau của tình yêu nhưng không từ phía Thiên Chúa và của sự vươn lên cao nhất có thể từ phía tự do con người, tự do gắn bó với lời mời gọi của Thiên Chúa và tự do tin cậy nơi Ngài.

Quả thật, ân sủng và tự do không đối chọi nhau. Ngược lại, ân sủng thôi thúc và nâng đỡ tự do nhân linh, giải thoát tự do ấy khỏi ách nô lệ của tội (x. Ga 8,34-36), cứu chữa tự do ấy và nâng cao tự do ấy trong những khả năng cởi mở và đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Nếu như sự khởi xướng hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa Đấng mời gọi là điều không thể phản bác thì, cũng vậy và hơn nữa, không thể chối bỏ tính nghiêm trọng tột bực trong tự do của con người khi phải đương đầu và đáp trả. Chính vì thế mà đáp lại lời mời “hãy đến và theo Ta” của Đức Giêsu, người thanh niên giầu có đối chọi bằng sự từ chối, là dấu chỉ – mặc dầu tiêu cực – cho thấy tự do của anh: “nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, vì anh ta có lắm tiền nhiều của” (Mc 10,22).

Do đó, tự do là thiết yếu cho ơn gọi, một sự tự do, trong lời đáp trả tích cực, mặc lấy ý nghĩa của một sự gắn bó bản ngã sâu đậm, với tính cách trao hiến tình yêu hay đúng hơn với tính cách trả nợ cho Đấng Trao Ban là Thiên Chúa, tác giả của lời mời gọi, với tính cách tận hiến. Đức Phaolô VI đã nói: “Lời mời gọi đối xứng với lời đáp trả. Chỉ có thể có những ơn gọi tự do, nghĩa là những ơn gọi chấp nhận dâng hiến chính mình một cách hồn nhiên, ý thức, quảng đại, toàn diện… Chúng tôi gọi ơn gọi là những của lễ: và trong cụ thể, đó là đích thực vấn đề. Ngày hôm nay cũng như hôm qua và còn hơn hôm qua, Đức Kitô vẫn nói bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và xuyên thấu: “Hãy đến”. Tự do được đặt trước thử thách cao cả nhất: đúng vậy, đó là tự do trở thành của lễ, tự do dẫn tới sự quảng đại, lòng hy sinh” (102).

Làm thành hạt nhân mật thiết nhất trong lời đáp trả của con người trước Thiên Chúa Đấng mời gọi, của lễ tự do tìm được mẫu mực không thể sánh ví hay đúng hơn, cội rễ sắc bén của nó trong của lễ rất tự do của Đức Giêsu Kitô, vị tiên phong của những ai được mời gọi, dâng theo ý muốn của Chúa Cha: “Chính vì thế, khi bước vào thế giới, Đức Kitô nói: ‘Hy sinh và lễ vật Ngài đã chẳng ưng, nhưng Ngài đã tác thành thân thể cho con… Vậy con xin thưa: Này đây, lạy Thiên Chúa, con xin đến để thực hành thánh ý Ngài” (Dt 10,5-7).

Trong sự hiệp thông mật thiết với Đức Kitô, Đức Maria Mẹ Đồng Trinh đã là tạo vật hơn tất cả mọi tạo vật sống trọn vẹn chân lý ơn gọi, bởi vì không một ai đã đáp trả như Đức Maria bằng một tình yêu cao cả đến thế đối lại tình yêu bao la của Thiên Chúa (103).

37. “Nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, bởi vì anh ta có lắm tiền nhiều của” (Mc 10,22). Người thanh niên giàu có trong Tin Mừng đã không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu, nhắc nhở cho chúng ta những trở ngại lớn lao có thể làm bế tắc hoặc ngăn cản sự đáp trả tự do từ phía con người: chẳng những của cải vật chất có thể khép chặt lòng người trước những giá trị của Thần Khí và trước những đòi buộc triệt để của Nước Thiên Chúa, mà ngay cả một số điều kiện xã hội và văn hoá thời đại cũng có thể tạo ra nhiều mối đe dọa và có thể áp đặt những nhãn giới lêch lạc và sai lầm về bản chất thật sự của ơn gọi, làm cho sự đón nhận và cả đến sự thấu hiểu trở nên khó khăn nếu không nói là bất khả thực hiện.

Nhiều người hình dung về Thiên Chúa bằng một ý niệm khái quát và mơ hồ đến độ gần giống với những hình thức tôn giáo phi Thiên Chúa trong đó người ta quan niệm thánh ý Thiên Chúa như là một thứ định mệnh cố định và bất khả tránh né mà con người chỉ có việc thích nghi và cam chịu một cách hoàn toàn thụ động. Nhưng đó không phải là dung nhan Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô đã muốn mạc khải cho chúng ta. Thực ra, Thiên Chúa là Cha và, bằng một tình yêu vĩnh cữu cho Ngài khởi xướng trước, Ngài kêu gọi con người và móc nối với con người một cuộc đối thoại kỳ diệu và lâu bền, mời con người chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài với tư cách làm con. Chắc chắn rằng với một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa, con người còn không thể hiểu được chính mình là như thế nào cho đúng với sự thật, bởi vì ơn gọi không thể nào được tri thức và cảm nhận trong giá trị chính hiệu của nó: ơn gọi lúc ấy chỉ có thể được nhận chịu như là một gánh nặng áp đặt và không chịu đựng nổi.

Cũng vậy, một số tư tưởng sai lạc về con người, thường được biện minh bởi những luận chứng mệnh danh là triết lý hay khoa học, một đôi khi dẫn con người đến chỗ quan niêm cuộc hiện hữu của mình và tự do của mình như là hoàn toàn được ấn định và chi phối bởi những yếu tố bên ngoài thuộc cấp trật giáo dục, tâm lý, văn hoá hay xã hội. Trong một số trường hợp, tự do được hiểu bằng những từ ngữ như sự độc lập tuyệt đối, tự coi mình là nguồn cội duy nhất và tối hậu của những lựa chọn cá nhân, tự định nghĩa như là sự khẳng định chính mình với bất cứ giá nào. Nhưng, bằng cách đó, không thể nào hiểu và sống ơn gọi như một cuộc đối thoại tự do bằng tình yêu là cuộc đối thoại nảy sinh từ mối thông hiệp giữa Thiên Chúa với con người và hoàn tất, nơi con người, bằng sự trao hiến chính mình một cách chân thành.

Trong bối cảnh hiện đại, người ta cũng gặp thấy một xu hướng tư duy về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người theo cách thế của chủ nghĩa cá nhân và của chủ nghĩa thân tình, coi lời mời gọi của Thiên Chúa như thể được ngỏ với từng cá nhân một cách trực tiếp, không hề qua trung gian của cộng đoàn, và coi lời mời gọi ấy như thể nhắm đến mục tiêu là một lợi ích, hoặc là ơn cứu độ của từng ứng sinh chớ không phải là sự trao hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa nhằm phục vụ cộng đoàn. Chúng ta cũng còn gặp một mối đe dọa khác thâm sâu hơn, đồng thời tinh vi hơn : mối đe dọa ngăn cản nhận biết và đón mừng chiều kích Giáo Hội được khắc ghi do tự bản chất trong mọi ơn gọi Kitô hữu, đặc biệt trong ơn gọi linh mục. Thật vậy, như Công đồng nhắc nhở, chức linh mục thừa tác đạt được ý nghĩa chính hiệu và thể hiện được chân lý trọn vẹn trong việc phục vụ và trong sự tăng triển của cộng đoàn Kitô hữu và của chức tư tế thuộc về giáo dân (104).

Bối cảnh văn hoá chúng ta vừa gợi lên, mà ảnh hưởng chắc hẳn lan tới các Kitô hữu, đặc biệt tới những người trẻ, giúp hiểu được tầm cỡ của cuộc khủng hoảng chính các ơn gọi linh mục vốn liên can, tự nguồn gốc và trải qua tiến trình phát triển, tới rất nhiều khủng hoàng trầm trọng hơn về đức tin. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã minh bạch tuyên bố điều ấy, các ngài công nhận rằng cuộc khủng hoảng các ơn gọi linh mục có những căn rễ sâu xa trong môi trường văn hoá, trong não trạng và trong cách giữ đạo của các Kitô hữu (105).

Bởi đó, điều khẩn thiết là mục vụ về các ơn gọi của Giáo Hội phải dứt khoát và ưu tiên chăm lo lái tập “não trạng Kitô giáo”, phát sinh từ đức tin và được đức tin nâng đỡ. Hơn bao giờ hết, công cuộc phúc âm hoá hệ tại chỗ trình bày một cách không nhàm chán khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha Đấng trong Đức Giêsu Kitô, kêu gọi mỗi người chúng ta, đồng thời trình bày ý nghĩa chính hiệu của tự do nhân linh, xét như là nguyên lý và là sức mạnh của sự trao hiến chính mình một cách có trách nhiệm. Chỉ bằng cách đó mới có thể thiết lập được những nền tảng cần thiết để cho mọi ơn gọi, kể cả ơn gọi linh mục, có thể được cảm nhận trong chân lý của nó, được quí mến trong vẻ đẹp của nó, và được sống với lòng tận tụy hoàn toàn và với niềm vui sâu xa.

Nội dung của mục vụ các ơn gọi và những phương thế được ứng dụng

38. Ơn gọi chắc chắn là một mầu nhiệm không thể dò thấu bao hàm mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với con người: độc nhất và không thể văn hồi; là mầu nhiệm được truy nhận và cảm nghiệm như một lời mời gọi đón chờ một sự đáp trả đến từ nơi thâm cung của lương tâm, “nơi thánh điện, ở đó con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và ở đó tiếng Chúa được đón nghe” (106). Thế nhưng điều ấy không loại bỏ chiều kích cộng đồng và đặc biệt chiều kích Giáo Hội của ơn gọi; Giáo Hội cũng thực sự hiện diện và hành động trong ơn gọi của mọi linh mục.

Nhằm phục vụ ơn gọi linh mục cũng như hành trình của ơn gọi ấy, nghĩa là sự hình thành, sự phân định và sự sát cánh ơn gọi, Giáo Hội có thể tìm được mẫu gương nơi Anrê, một trong hai môn đệ đầu tiên đã đi theo Đức Giêsu. Chính Anrê đã thuật lại cho người anh điều đã xảy đến cho mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (nghĩa là Đấng Kitô)” (Ga 1,44). Và lời tường thuật cuộc “khám phá” ấy mở lối cho cuộc gặp gỡ: “Và Anrê dẫn anh mình đến với Đức Giêsu” (Ga 1,42). Không hề có thể hoài nghi về sự đề xướng hoàn toàn tự do và về quyết định tối thượng của Đức Giêsu chính Đức Giêsu gọi Simon và đặt cho Simon một tên mới: “Đức Giêsu nhìn Simon và nói: ‘Ngươi là Simon con ông Gioan; ngươi sẽ được gọi là Kêpha’ (nghĩa là Đá)” (Ga 1,42). Thế nhưng Anrê cũng đã góp phần trong sự đề xướng : Anrê đã khuyến khích anh mình đi gặp Đức Giêsu.

“Và Anrê dẫn anh mình đến với Đức Giêsu”. Chính ở đây, hiểu theo một nghĩa nào đó, chúng ta gặp thấy tâm điểm của mọi nền phục vụ về ơn gọi qua đó Giáo Hội quan tâm đến sự hình thành và đến sự tăng triển của các ơn gọi, bằng cách sử dụng những ân huệ và những trách nhiệm, những đặc sủng và thừa tác vụ đã lãnh nhận từ nơi Đức Kitô và từ nơi Thần Khí của Ngài. Với tư cách là dân tư tế, ngôn sứ và vương giả, Giáo Hội có trọng trách cổ võ và phục vụ sự hình thành cũng như sự chín muồi của các ơn gọi linh mục, nhờ kinh nguyện và đời sống bí tích, nhờ việc loan báo Lời Chúa và việc giáo dục đức tin, dưới ảnh hưởng và với chứng từ của đức ái.

Trong phẩm vị và trong trách nhiệm làm dân tư tế. Giáo Hội chỉ dẫn cho thấy kinh nghiệm và việc cử hành phụng cụ là những nhịp cốt yếu và tiên khởi của mục vụ các ơn gọi. Quả vậy, được Lời Chúa nuôi dưỡng, kinh nghiệm Kitô giáo tạo nên khoảng không gian lý tưởng để cho mỗi người có thể khám phá ra chân lý của hữu thể mình và căn tính của phương án đời sống, cá vị và duy nhất, mà Chúa Cha tạo tác cho mình. Do đó, điều cần thiết là phải giáo dục các thiếu nhi và thanh niên sao cho họ trung thành với việc cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa; trong thinh lặng và đón nghe, họ sẽ có thể nhận ra được lời mời gọi của Chúa tiến đến chức linh mục và mau mắn quảng đại đi theo Ngài.

Giáo Hội phải đón nhận mỗi ngày lời mời gọi bức bách và khẩn thiết của Đức Giêsu, Ngài yêu cầu “cầu nguyện với Chủ mùa gặt để Chủ ấy sai thợ đến gặt hái” (Mt 9,38). Tuân theo giới lệnh của Đức Kitô, trên hết mọi sự, Giáo Hội chu toàn việc khiêm tốn tuyên xưng đức tin: trong khi cầu nguyện cho các ơn gọi vì cảm nhận được sự khẩn cấp của ơn gọi đối với đời sống và sứ vụ của mình, Giáo Hội nhận ra rằng các ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa và, xét theo bản chất, các ơn gọi ấy phải được van xin bằng một sự cầu khẩn liên lỉ và tín thác. Chẳng những từng người nhưng là toàn thể các cộng đoàn Giáo Hội cần phải thực hành việc cầu nguyện vì đó là điểm tựa, là giá đỡ nâng của mọi nền mục vụ các ơn gọi. Không ai còn nghi ngờ về tâm quan trọng của những sáng kiến đặc thù trong việc cầu nguyện, của những thời khắc đặc biệt dành riêng cho yêu cầu ấy, trước hết phải kể đến Ngày thế giới hằng năm dành cho các ơn gọi, và của sự dấn thân một cách minh thị nơi những người và những nhóm nhạy cảm cách riêng với vấn đề các ơn gọi linh mục. Thế nhưng, ngày nay, sự mong chờ những ơn gọi mới trong việc cầu nguyện phải càng ngày càng trở thành một tập quán trường kỳ với sự tham gia một cách rộng rãi của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo và của trọn vẹn thực thể Giáo Hội. Chính nhờ đó mà người ta có thể lặp lại bằng cuộc sống kinh nghiệm của các Tông Đồ : các ngài đã hiệp nhất với Đức Maria, trong Phòng Tiệc Ly, và đã cầu nguyện để mong chờ sự tuôn đổ Thần Khí (x. Cv 1,14), Đấng vẫn không ngừng khơi dậy từ trong toàn dân Thiên Chúa “những linh mục mà thế giới đang cần đến, để phục vụ cho việc cầu nguyện, cho bí tích Thánh Thể và để loan báo Tin Mừng là Đức Kitô” (107).

Là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội (108), cách riêng của mọi kinh nguyện Kitô Giáo, phụng vụ cũng chiếm giữ một vai trò cần thiết và một ảnh hưởng biệt đãi trong mục vụ các ơn gọi. Thực ra, phụng vụ tạo thành một kinh nghiệm sống động về ân huệ của Thiên Chúa và một trường học đáng kể cho việc đáp trả lời mời gọi của Ngài. Xét theo bản chất, mọi việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành bí tích Thánh Thể, mang lại rất nhiều hiệu quả. Phụng vụ mạc khải cho chúng ta dung nhan đích thực của Thiên Chúa; phụng vụ laà cho chúng ta thông hiệp vào mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là vào giờ mà Đức Giêsu đã đến trong thế gian và vào giờ mà Ngài đã tự do và tự nguyện bước tới, vì vâng theo tiếng gọi của Chúa Cha (x. Ga 13,1); sau hết, phụng vụ tỏ lộ cho chúng ta khuôn mặt của Giáo Hội, xét như là đoàn dân tư tế và như là cộng đoàn gắn chặt với nhau một cách keo sơn, với sự dị biệt và bổ khuyết lẫn nhau của các đặc sủng và các ơn gọi. Hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành trong mầu nhiệm, mang lại một giá trị đặc biệt cao quí cho sự khổ đau được cảm nhận bằng cuộc sống trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã mời gọi chúng ta đừng bao giờ quên rằng “nhờ của lễ gồm những khổ đau rất thường tình trong đời sống con người, bệnh nhân Kitô hữu tiến dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, theo gương Đức Kitô Đấng đã tự hiến chính mình cho mọi người chúng ta (x. Ga 17,19)” và rằng “của lễ gồm những khổ đau dâng theo ý hướng ấy mang lại ích lợi lớn lao cho sự thăng tiến các ơn gọi” (109).

39. Trong việc thực hành sứ vụ ngôn sứ, Giáo Hội cảm thấy rằng bổn phận không thể né tránh của mình là loan báo và bày tỏ ý nghĩa Kitô Giáo của ơn gọi mà chúng ta có thể gọi là “Tin Mừng về ơn gọi”. Giáo Hội cũng nhận thức trong lãnh vực này sự bức xúc được diễn tả qua lời của Thánh Tông Đồ: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16). Trên tất cả, lời khuyến cáo ấy vang vọng cho chúng tôi là những mục tử và, đồng thời với chúng tôi, liên can đến mọi nhà giáo dục trong Giáo Hội. Công việc giảng thuyết và huấn giáo phải luôn làm nổi bật những mối tương quan mật thiết với các ơn gọi: Lời Thiên Chúa mang lại cho các tín hữu ánh sáng cần thiết để nhận thấy cuộc đời là một sự đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa sát cánh với các tín hữu để họ đón nhận, trong đức tin, ân huệ ơn gọi bản thân.

Thế nhưng, mặc dầu quan trọng, tất cả những điều ấy vẫn chưa đủ : cần có một “khoa rao giảng trực tiếp về mầu nhiệm ơn gọi trong Giáo Hội, về giá trị của chức linh mục thừa tác, về sự cần thiết bức bách của chức linh mục thừa tác đối với dân Thiên Chúa” (110). Một nền giáo huấn hữu cơ và mở rộng cho mọi thành phần trong Giáo hội giúp xua tan những nghi hoặc, đánh bại những ý niệm một chiều và sai lệch về thừa tác vụ linh mục, đồng thời mở rộng tâm hồn các tín hữu cho việc mong chờ hồng ân và tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành những ơn gọi mới. Đã đến lúc phải can đảm đề cập đến đời sống linh mục như là một giá trị vô song và như là một hình thức sống đời sống Kitô hữu rạng rỡ và ưu việt. Các nhà giáo dục và đặc biệt các linh mục đừng ngần ngại đề xuất một cách minh bạch và mạnh mẽ ơn gọi hướng đến chức linh mục như là một sự khả thi thiết thực đối với những người trẻ có tài năng và có đức tính xứng hợp. Làm như vậy không có nghĩa là chi phối và hạn chế tự do của những người trẻ, ngược lại, một sự đề xuất chính xác, được thực hiện đúng lúc, có thể có giá trị định đoạt để rồi khơi dậy nơi những trẻ một sự đáp trả tự do và chính hiệu. Ngoài ra, lịch sử của Giáo Hội và lịch sử của biết bao ơn gọi linh mục, được nở rộ ngay cả vào lúc tuổi thơ, là một chứng cớ hùng hồn cho tính chất quan phòng của việc sống kề cận với linh mục và của việc nghe lời linh mục nói: không những lời nói nhưng còn là sự kề cận, nghĩa là một chứng từ cụ thể, vui tươi, có khả năng làm trổi hiện những vấn nạn và dẫn đến những quyết định dứt khoát.

40. Với tư cách là dân vương giả, Giáo Hội nhận thức mình được bén rễ trong “lề luật của Thần Khí là Đấng ban sự sống” (Rm 8,2), và được thôi thúc bởi lề luật ấy. Lề luật ấy vốn dĩ thiết yếu là lề luật vương giả của đức ái (x. Gc 2,8) hay lề luật trọn hảo của tự do (x. Gc 1,25). Chính vì thế, Giáo Hội chu toàn sứ vụ của mình khi Giáo Hội dẫn dắt mọi tín hữu khám phá và sống ơn gọi của riêng mình trong tự do và gánh vác ơn gọi ấy cho tới hoàn thành trong đức ái.

Trong công việc giáo dục, với một sự chú tâm biệt đãi, Giáo Hội nhằm khơi dậy nơi các trẻ nhỏ, nơi các thanh thiếu niên niềm khát vọng và ước muốn nối gót Đức Giêsu Kitô trong mọi sự và một cách kề cận. Công trình giáo dục, mặc dầu liên quan tới cộng đoàn Kitô hữu xét như là cộng đoàn, cần phải đáp ứng cho từng người một: quả vậy, qua lời mời gọi của Ngài, Thiên Chúa đạt thấu lòng mỗi người, và Thần Khí, Đấng cư ngụ trong lòng mỗi môn đệ (x. 1Ga 3,24), được trao ban cho từng Kitô hữu với những đặc sủng dị biệt và với những biểu hiện riêng rẽ của mình. Như thế mỗi người cần được giúp đỡ để lãnh nhận ân huệ được giao phó cho mình một cách cá nhân, với tư cách một ngôi vị độc nhất và bất khả thay thế, và cần được giúp đỡ để đón nghe những lời mà Thần Khí Thiên Chúa ngỏ với mình.

Trong nhãn quan ấy, mối ưu tư về các ơn gọi hướng đến chức linh mục cũng có thể được diễn đạt bằng một sự đề xuất quyết liệt và thuyết phục trong việc linh hướng. Điều cần thiết là phải khám phá lại truyền thống cao cả về việc sát cánh thiêng liêng với từng người, là công việc đã luôn mang lại nhiều hoa trái quý giá trong đời sống Giáo Hội, tiến trình linh hướng này có thể được bổ khuyết, trong những trường hợp nhất định và với những điều kiện chính xác, bằng những hình thức phân tích hay những trợ lực tâm lý, chớ không được thay thế bởi chúng (111). Các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên phải được mời gọi khám phá và đánh giá ơn được ban là việc linh hướng, truy tầm ơn ấy, thực tập ơn ấy, yêu cầu ơn ấy, bằng một thái độ tha thiết và tin cậy, nơi các vị giáo dục mình trong đức tin. Về phía mình, các linh mục phải là những người tiên phong cống hiến thời giờ và năng lực cho công trình giáo dục và trợ giúp thiêng liêng cho từng cá nhân : ước chi các linh mục đừng bao giờ hối tiếc vì đã coi thường hoặc đã để vuột mất sang hàng thứ yếu nhiều điều khác, ngay cả những điều đẹp đẽ và hữu ích, nếu như đó là sự việc không thể tránh khỏi để vẫn tiếp tục tin vào thừa tác vụ của mình là cộng tác với Thần Khí hầu soi sáng và hướng dẫn những ai được mời gọi.

Cùng đích của việc giáo dục người Kitô hữu là đạt tới, dưới ảnh hưởng của Thần Khí, “sự trưởng thành viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13). Điều này được thể hiện khi, nhờ noi theo và chia sẻ đức ái của Chúa Kitô, người ta làm cho trọn vẹn cuộc sống mình trở nên việc phục vụ tình yêu (x. Ga 13,14-15), bằng cách tiến dâng lên Thiên Chúa sự thờ phượng thiêng liêng đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1) và bằng cách xả thân cho anh em. Công việc phục vụ tình yêu là hướng đi cơ bản của mọi ơn gọi, và điều ấy nghiệm đúng một cách hết sức đặc biệt cho ơn gọi linh mục vì, quả thực, linh mục được mời gọi lặp lại bằng cuộc sống phương cách triệt để nhất có thể để thực thi đức ái mục vụ của Chúa Giêsu, nghĩa là tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành “hiến mạng sống mình vì đoàn chiên” (Ga 10,11).

Chính vì thế, một nền phục vụ chính hiệu về ơn gọi sẽ không bao giờ nản chí trong việc giáo dục các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên về khát vọng dấn thân, về ý nghĩa của việc phục vụ nhưng không, về giá trị của hy sinh, về sự trao hiến chính mình một cách vô điều kiện. Phong trào tự nguyện, ngày càng thu hút đối với nhiều người trẻ, là một phong trào rất hữu ích, với điều kiện đó là tự nguyện do động lực Tin Mừng, giúp giáo dục những người trẻ biết phân định các nhu cầu, giúp họ mỗi ngày một sống tận tụy và trung thành, giúp họ sẵn sàng đón nhận khi cần kíp cuộc dấn thân dứt khoát trong đời tận hiến, lấy việc cầu nguyện làm lương thực. Tự nguyện như thế sẽ đỡ nâng cách chắc chắn hơn một cuộc đời dấn thân vô vị lợi và nhưng không, và sẽ làm cho người nào đeo đuổi cuộc đời ấy trở nên bén nhạy hơn đối với tiếng nói của Thiên Chúa là Đấng có thể mời gọi người ấy tiến đến chức linh mục. Ngược lại với người thanh niên giàu có, kẻ nhẹ dạ vẫn có thể đón nhận lời mời gọi tràn đầy tình yêu mà Đức Giêsu ngỏ với mình (x. Mc 10,21); người ấy sẽ có thể đón nhận lời mời gọi bởi vì của cải (biens) của người ấy đã hệ tại chỗ trao hiến chính mình cho ngươờ khác và ở chỗ “thiệt mất” chính mình.

Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục

41. Ơn gọi linh mục là một ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ ấy chắc chắn tạo thành một thiện ích lớn lao đối với người đầu tiên được trao gởi. Thế những đó cũng là một ân huệ dành cho toàn thể Giáo Hội, một thiện ích cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Bởi đó, Giáo Hội được mời gọi bảo tồn ân huệ ấy, quí chuộng và yêu mến ân huệ ấy : Giáo Hội có trách nhiệm đối với sự hình thành và đối với sự chính muồi của các ơn gọi linh mục. Do vậy, chủ thể chủ động, chiến hữu tiên phong của mục vụ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội xét như là cộng đoàn, trong mọi hình thái biểu hiện khác biệt của cộng đoàn ấy: từ Giáo Hội phổ quát đến Giáo Hội địa phương và, một cách loại suy, từ Giáo Hội địa phương đến giáo xứ và đến mọi thành phần Dân Chúa.

Điều bức bách hơn bao giờ hết, nhất là ngày nay, là phải lan truyền và củng cố niềm xác tín rằng tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không loại trừ một ai, đều nhận được ân sủng và đều mang lấy trách nhiệm chăm lo cho các ơn gọi. Công Đồng Vaticanô II đã tỏ ra minh bạch hết mực khi quả quyết rằng “bổn phận tạo thuận lợi cho sự gia tăng các ơn gọi linh mục là của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, cộng đoàn Kitô hữu được giao phó phải thanh thỏa bổn phận ấy trước tiên bằng một đời sống trọn vẹn là Kitô hữu” (112). Chỉ trên nền tảng niềm xác tín ấy mà mục vụ các ơn gọi mới có thể biểu lộ dung nhan thật sự Giáo Hội của mình và mới có thể phát huy một hoạt động hoà diệu, bằng cách cũng sử dụng những bộ phận đặc biệt và những phương thế thích ứng với sự hiệp thông và với tinh thần đồng trách nhiệm.

Trách nhiệm đầu tiên của nền mục vụ hướng về các ơn gọi linh mục, đó là trách nhiệm của giám mục (113), giám mục được mời gọi đích thân đảm nhận trách nhiệm ấy, ngay cả khi ngài có thể và phải cổ võ những nguồn cộng tác đa dạng. Giám mục là một người cha và là một người bạn đối với linh mục đoàn của mình, trách nhiệm của ngài là phải “duy trì cho liên tục” đặc sủng và thừa tác vụ linh mục bằng cách kết hiệp thêm những lực lượng mới nhờ việc đặt tay. Giám mục phải chăm lo sao cho chiều kích các ơn gọi luôn luôn hiện diện trong toàn bộ mục vụ bình thường, hơn nữa sao cho chiều kích ấy được hội nhập và được đồng hoá với mục vụ. Chính giám mục có trách nhiệm cổ võ và điều hợp các sáng kiến dị biệt ấy để mưu ích cho các ơn gọi (114).

Giám mục biết rằng, trên tất cả, ngài có thể cậy dựa vào sự cộng tác của linh mục đoàn. Tất cả các linh mục, cùng với ngài, đều liên đới với nhau, và đồng trách nhiệm với nhau trong việc mưu cầu và trong việc thăng tiến các ơn gọi linh mục. Thật vậy, như lời quả quyết của Công Đồng, “với tư cách là những nhà giáo dục đức tin, các linh mục có trách nhiệm chăm lo sao cho mỗi Kitô hữu, trong Chúa Thánh Thần, đạt tới sự triển nở ơn gọi của bản thân mình” (115). Và đó là “một bổn phận bắt nguồn từ chính sứ vụ linh mục, nhờ đó linh mục thông chia mối ưu tư của toàn thể Giáo Hội là làm sao, mãi mãi nơi trần thế này, tránh khỏi nạn thiếu hụt những người thợ trong đoàn dân Thiên Chúa” (116). Đời sống các linh mục, lòng tận tụy tuyệt đối của các ngài dành cho dân Thiên Chúa, việc các ngài làm chứng bằng cách phục vụ Chúa và Giáo Hội của Chúa trong tình yêu – đây là một chứng từ in hằn dấu thánh giá, thánh giá được chấp nhận trong hi vọng và trong niềm vui phục sinh – sự hoà hợp huynh đệ của các ngài và nhiệt tâm của các ngài trong việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới, đó là những yếu tố đệ nhất và có tính thuyết phục nhất cho thấy các ơn gọi quà thật phong nhiêu (117).

Một trách nhiệm rất đặc thù được giao phó cho gia đình Kitô giáo bởi vì, nhờ vào bí tích hôn nhân, gia đình thông phần một cách đặc biệt và độc đáo vào sứ vụ giáo dục của Giáo Hội là Mẹ và là Thầy. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết, “quả thực như một ‘Giáo Hội tại gia’ (Lumen gentium, GH, số 11), gia đình đã luôn cống hiến và còn tiếp tục công shiến những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các ơn gọi. Bởi vì, ngày nay, hình ảnh gia đình Kitô giáo đang gặp hiểm hoạ, cần phải dành một tầm quan trọng lớn lao cho mục vụ gia đình. Bằng cách ấy, một khi quảng đại đón nhận ơn sự sống con người, chính các gia đình sẽ trở thành “như thể chủng viện đầu tiên” (Optatam totius, ĐT số 2), trong đó các trẻ em sẽ có thể đạt được, ngay từ buổi đầu, ý thức về đạo đức, về việc cầu nguyện và về tình yêu đối với Giáo Hội” (118). Trong dòng liên tục và hoà điệu với hoạt động của các cha mẹ và của gia đình, phải kể đến học đường, là bộ phận được mời gọi sống căn tính “cộng đoàn giáo dục” của mình với một phương án văn hoá có khả năng chiếu tỏa ánh sáng trên chiều kích của ơn gọi, xét như là giá trị tự nhiên và cơ bản của con người. Trong chiều hướng ấy, bằng một đức tin nhất thiết được điểm tô bằng tinh thần Kitô giáo (hoặc nhờ tôn giáo được hiện diện cách minh nhiên nơi học đường Nhà Nước, theo những sự sắp đặt của quốc gia, hoặc nhất là trong trường hợp học đường công giáo), học đường có thể ghi tạc “vào trong tâm trí các trẻ nhỏ và các thanh thiếu niên niềm khát vọng thi hành ý Thiên Chúa trong bậc sống thích hợp nhất cho từng người, mà không bao giờ loại trừ ơn gọi tiến đến thừa tác vụ linh mục” (119).

Các tín hữu giáo dân, cách riêng các giáo lý viên, những nhà giảng dạy, những nhà giáo dục, những linh động viên của mục vụ cho người trẻ, mỗi người tùy theo tài nguyên và khả năng riêng của mình, đóng một vai trò rất quan trọng trong mục vụ ơn gọi linh mục. Thực vậy, càng đào sâu ý nghĩa của ơn gọi và của sứ vụ mình trong Giáo Hội, họ càng có thể nhận ra giá trị và tính chất bất khả thay thế của ơn gọi và của sứ vụ linh mục.

Trong khuôn khổ các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, những nhóm suy tư về ơn gọi cần phải được quí chuộng và khích lệ. Các thành viên trong những nhóm ấy cống hiến phần đóng góp bằng cầu nguyện và bằng những khổ đau của mình cho những ơn gọi linh mục và tu sĩ, đồng thời nâng đỡ các ơn gọi ấy về tinh thần cũng như vật chất.

Ở đây cũng cần phải nhắc tới nhiều nhóm, nhiều phong trào và hiệp hội tín hữu giáo dân mà Chúa Thánh Thần khởi động và làm tăng trưởng trong Giáo Hội, trong tương quan với sự kiện người Kitô hữu hiện diện một cách thừa sai hơn trong thế giới. Các tổ chức giáo dân ấy được nhìn nhận là một môi trường đặc biệt giàu ơn gọi tận hiến, như là những địa điểm thực sự thích ứng với việc đề xuất và tăng triển ơn gọi. Thật vậy, nhiều người trẻ, trong chính khuôn khổ ấy và nhờ vào những hiệp hội ấy, đã nghe được lời Chúa mời gọi đi theo Ngài trên con đường linh mục thừa tác và đáp trả với một lòng quảng đại đáng khích lệ (120). Bởi vậy, vần phải đề cao những tổ chức ấy để, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và nhờ các tổ chức ấy nên lớn mạnh, các tổ chức ấy đóng góp phần riêng của mình vào sự phát triển mục vụ các ơn gọi.

Những tiến kêu nài vang vọng từ nhiều phía, những thành phần khác nhau trong Giáo Hội dấn thân cho mục vụ ơn gọi, tất cả hoạt động cho ơn gọi ấy càng trở nên hữu hiệu nếu như càng làm cho cộng đoàn Giáo Hội, khởi từ giáo xứ, hiểu được rằng tuyệt đối không thể đem vấn đề ơn gọi linh mục ủy thác cho một số “chuyên gia để rồi trút bỏ trách nhiệm trên họ” (các linh mục nói chung và các linh mục phụ trách chủng viện nói riêng), nhưng là “một vấn đề sống còn nằm ngay giữa lòng Giáo Hội” (121), và rằng cần phải đem đặt vấn đề ấy vào trong tâm điểm tình yêu của mọi Kitô hữu đối với Giáo Hội.