Tông Thư Spiritus Et Sponsa Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 04-12-2003)

0
932


TÔNG THƯ SPIRITUS ET SPONSA

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

NHÂN DỊP KỶ NIỆM 40 NĂM BAN HÀNH

HIẾN CHẾ “SACROSANCTUM CONCILIUM” VỀ PHỤNG VỤ THÁNH

Ngày 04 Tháng 12 Năm 2003

***

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

 

GIỚI THIỆU TÔNG THƯ

Bức Tông Thư thứ 43 tương đối ngắn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân dịp mừng kỷ niệm 40 năm Công Đồng Chung Vaticano II ban bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này tất cả gồm có 16 đoạn, ngoại trừ đoạn mở (1) và kết (16) ngắn, được chia ra làm 3 phần rõ rệt: phần thứ nhất có 4 đoạn (2-5), phần hai có 5 đoạn (6-10) và phần ba cũng có 5 đoạn (11-15). Phần nhất là để ôn lại bản Hiến Chế Phụng Vụ Thánh; phần hai để xét lại việc áp dụng thực hành văn kiện này trong 40 năm qua, và phần ba để thực hiện những gì cần thiết hầu kiện toàn Hiến Chế Phụng Vụ Thánh theo tinh thần của Công Đồng.

Trong phần nhất, Đức Thánh Cha ôn lại Hiến Chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Chung Vaticano II, bằng cách chẳng những nhắc lại một số nhận định then chốt của Công Đồng về Phụng Vụ (6-8) mà còn nhấn mạnh đến một số điểm quan trọng trong Hiến Chế quan trọng này nói riêng, như vấn đề Thánh Nhạc và Nghệ Thuật Thánh (9-10).

Trong phần thứ hai này, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc kiểm thảo sống phụng vụ (6), đến việc trung thành với ý hướng của Công Ðồng Vaticano II về việc canh tân phụng vụ (7), đến tầm quan trọng của Lời Chúa (8) cũng như đến Ngày Chúa Nhật (9), đến việc sống đạo theo Phụng Vụ bằng đời sống cầu nguyện (10).

Trong phần thứ ba, Đức Thánh Cha công nhận là việc canh tân Phụng Vụ đã gặp trục trặc, nhưng vẫn có những dấu hiệu khao khát thần linh, một khao khát chỉ được thỏa mãn nơi việc gặp gỡ Chúa Kitô (11), nơi Phụng Vụ Thánh Thể (12), trong thinh lặng nguyện cầu theo gương Chúa Kitô (13), bằng Phụng Vụ Giớ Kinh (14), theo hướng dẫn thẩm quyền của Giáo Hội để theo đúng tinh thần canh tân phụng vụ của Công Ðồng Chung Vaticano II (15).

***

TÔNG THƯ SPIRITUS ET SPONSA

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

NHÂN DỊP KỶ NIỆM 40 NĂM BAN HÀNH

HIẾN CHẾ “SACROSANCTUM CONCILIUM” VỀ PHỤNG VỤ THÁNH

 

1. “Thần linh và Hiền thê lên tiếng ‘Hãy đến’. Ai nghe thì nói ‘Xin đến’. Ai khát hãy đến, hỡi kẻ ước muốn hãy uống nước sự sống không phải tốn phí” (Rev. 22:17). Những lời này của Sách Khải Huyền âm vang trong tâm trí của Tôi khi Tôi nhớ lại 40 năm trước đây, vào đúng ngày 4/12/1963, vị tiền nhiệm đáng kính của Tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành Hiến Chế “Sacrosanctum Concilium” về Phụng Vụ Thánh. Thật vậy, Phụng Vụ còn là gì nếu không phải là tiếng của Thánh Linh cũng như của Hiền thê là Giáo Hội đồng thanh kêu lên cùng Chúa Giêsu: ‘Hãy đến’? Phụng vụ là gì nếu không phải là nguồn “nước sự sống” tinh tuyền và nguyên thủy được cống hiến cho những ai khao khát lãnh nhận được tặng ân nhưng không của Thiên Chúa (x Jn 4:10)?

Đúng thế, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh này, Công Đồng Chung Vaticano II, hoa trái đầu mùa của “đại hồng ân sinh phúc cho Giáo Hội trong thế kỷ XX”,[1] Thánh Thần đã nói với Giáo Hội, không ngừng dẫn dắt thành phần môn đệ của Chúa “vào tất cả sự thật” (Jn 16:13). Việc cử hành mừng kỷ niệm 40 năm của biến cố này là một cơ hội tốt để tái nhận thức những đề tài sâu xa của việc canh tân phụng vụ theo ý muốn của các Nghị Phụ Công Đồng, để thẩm định vấn đề tiếp nhận việc canh tân này cũng như để hướng về tương lai.

Một thoáng nhìn về Bản Hiến Chế của Công Đồng

2. Qua giòng thời gian, căn cứ vào các hoa trái gặt hái được, người ta rõ hơn bao giờ hết tầm quan trọng của văn kiện “Sacrosanctum Concilium”. Văn kiện này đã trình bày sáng tỏ những nguyên tắc làm nền tảng cho tập truyền phụng vụ của Giáo Hội, cũng như làm khởi sắc cho việc canh tân lành mạnh theo giòng thời gian.[2] Các Nghị Phụ của Công Đồng đã đặt Phụng Vụ vào bối cảnh của lịch sử cứu độ, một lịch sử nhắm đến việc cứu độ nhân loại và việc hiển vinh Thiên Chúa. Việc cứu độ này được bắt đầu tấu lên nơi cử chỉ thần linh kỳ diệu ở Cựu Ước và được Chúa Kitô làm hoàn trọn, nhất là bằng mầu nhiệm vượt qua với cuộc khổ nạn phúc đức, tử giá, phục sinh và thăng thiên vinh hiển của Người.[3] Tuy nhiên, việc cứu độ này không phải để loan báo mà còn phải sống nữa, chính vì vậy mà “toàn thể đời sống phụng vụ được bắt nguồn từ Hiến Tế và Các Bí Tích”.[4] Chính Chúa Kitô đã hiện diện một cách đặc biệt nơi những tác động phụng vụ, liên kết Giáo Hội với chính mình Người. Bởi thế, mọi việc cử hành phụng vụ mới là việc làm của Chúa Kitô Tư Tế và của Nhiệm Thể Người, “một việc tôn thờ công khai toàn vẹn”,[5] làm cho người tham dự như được tiên hưởng Phụng Vụ của Giêrusalem thiên đình.[6] Vì vậy, “Phụng Vụ là tột đỉnh hướng tới của hoạt động Giáo Hội, đồng thời còn là nguồn mạch phát xuất tất cả mọi nhân đức của Giáo Hội”.[7]

3. Quan điểm về phụng vụ của Công Đồng không chỉ gói gọn vào phạm vi nội tại của Giáo Hội, mà là hướng về chân trời của toàn thể nhân loại nữa. Đúng thế, trong việc Người chúc tụng Cha, Chúa Kitô liên kết mình với toàn thể cộng đồng con người, và Người làm như thế một cách đặc biệt qua sứ vụ nguyện cầu của một “Giáo Hội không ngừng chúc tụng Chúa và cầu bầu ơn cứu độ cho toàn thế giới, chẳng những bằng việc cử hành Thánh Thể mà còn bằng những đường lối khác nữa, nhất là bằng việc đọc Kinh Thần Vụ”.[8]

Theo quan điểm của Hiến chế “Sacrosanctum Concilium”, đời sống phụng vụ của Giáo Hội có tính cách vươn rộng theo chiều kích vũ trụ và toàn cầu, ghi đậm nét thời gian và không gian của con người. Theo quan điểm này, người ta cũng hiểu được cái chú trọng mới được bản Hiến Chế này cống hiến cho Năm Phụng Vụ, đó là cách thức Giáo Hội lập lại mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô và sống lại mầu nhiệm này.[9]

Nếu Phụng Vụ là tất cả những điều ấy thì Công Đồng đã có lý để xác nhận rằng hết mọi tác động phụng vụ ”là tác động thánh hảo đệ nhất, không có một hành động nào khác của Giáo Hội tương đương với giá trị của tác động phụng vụ này ở cùng một cấp độ”.[10] Ngoài ra, Công Đồng còn nhìn nhận rằng “Phụng Vụ thánh không là tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội”.[11] Thật vậy, một mặt Phụng Vụ bao hàm việc loan báo Phúc Âm, mặt khác, lại cần đến chứng từ của Kitô hữu trong giòng lịch sử. Mầu nhiệm được phác họa cho việc giảng dạy và giáo lý, một mầu nhiệm được đức tin lãnh nhận và được Phụng Vụ cử hành, cần phải khuôn đúc toàn thể đời sống của người tín hữu, thành phần được kêu gọi để loan báo tin mừng của phụng vụ trên thế giới.[12]

4. Trong số những thực tại khác nhau được hàm chứa nơi việc cử hành phụng vụ, Hiến Chế này đặc biệt chú trọng tới tầm quan trọng của thánh ca “Musica Sacra”. Công Đồng nâng cao thánh ca khi nói đến mục đích của nó là “vinh hiển Thiên Chúa và việc thánh hóa tín hữu”.[13] Thật vậy, thánh nhạc là một phương tiện thuận lợi để làm cho tín hữu dễ dàng chủ động tham dự vào tác động linh thánh, như đã được vị tiền nhiệm của Tôi là Thánh Piô X mong muốn trong văn kiện Motu Proprio “Tra le Sollecitudini” của Ngài, một văn kiện được Ngài ban hành cách đây đúng 100 năm. Chính cuộc mừng kỷ niệm này mới đây đã cho Tôi cơ hội để xác nhận là, theo những điều hướng của Hiến chế “Sacrosanctum Concilium”,[14] cần phải bảo trì ca nhạc và làm tăng thêm vai trò của nó trong các việc cử hành phụng vụ, bằng cách chú trọng tới chính tinh chất của Phụng Vụ cũng như cảm thức của thời đại chúng ta cũng như đến các truyền thống ca nhạc ở các miền đất khác nhau trên thế giới.

5. Một đề tài phong phú khác được khai triển trong bản Hiến Chế của Công Đồng này là đề tài liên quan đến nghệ thuật thánh. Công Đồng đã minh định là việc thờ phượng có thể sáng ngời nhờ việc trang trí cùng vẻ đẹp của nghệ thuật phụng vụ, và việc thờ phượng này sẽ tiếp tục giữ một địa vị quan trọng trong thời của chúng ta đây. Để đạt được mục đích này, cần phải khởi xướng việc huấn luyện những công nhân khéo léo cùng với những chuyên viên nghệ thuật, được kêu gọi thực hiện việc kiến thiết cùng với kiểu cách của những dinh thự được ấn định dùng vào việc thờ phượng.[15] Căn bản của những chiều hướng này đó là quan điểm về nghệ thuật, nhất là nghệ thuật thánh, một thứ nghệ thuật liên hệ với “vẻ đẹp thần linh vô cùng, một vẻ đẹp cần phải được thể hiện một cách nào đó nơi các công trình của con người”.[16]

Từ Việc Canh Tân đến Tầm Mức Thâm Sâu Hơn

6. Qua 40 năm nhận định, đây là dịp để thẩm định mức tiến bộ của việc canh tân phụng vụ này cho tới nay. Có những dịp Tôi đã đề nghị thực hiện một thứ gọi là kiểm thảo lương tâm liên quan đến việc chấp nhận Công Đồng Chung Vaticano II.[17] Việc kiểm thảo này không thể châm chước đối với đời sống phụng vụ và bí tích. “Phụng vụ đã được sống như là ‘nguồn mạch và tột đỉnh’ của sinh hoạt Giáo Hội chưa, theo giáo huấn của Hiến chế ‘Sacrosanctum Concilium’?”.[18] Việc tái nhận thức giá trị của Lời Chúa được việc canh tân Phụng Vụ phác họa đã có một tác dụng tích cực trong việc cử hành phụng vụ của chúng ta chưa? Phụng Vụ đã đi vào cuộc sống cụ thể của người tín hữu ở mức độ nào và Phụng Vụ đã phản ảnh nhịp sống của các cộng đồng riêng biệt ở mức độ nào? Phụng vụ có được hiểu là phương tiên nên thánh, là một nội lực của hoạt động tông đồ và sứ vụ của Giáo Hội hay chăng?

7. Việc công đồng canh tân Phụng Vụ được thể hiện rõ ràng nhất nơi việc phát hành các sách về phụng vụ. Sau giai đoạn khởi đầu là giai đoạn từ từ thêm các sách đổi mới về việc cử hành phụng vụ, đến giai đoạn cần phải đi sâu hơn vào những kho tàng cùng những chất chứa nơi những việc cử hành phụng vụ này. Tính cách sâu xa này cần phải được thực thi nguyên tắc hoàn toàn trung thành với Sách Thánh và Truyền Thống là những gì được Công Đồng Chung Vaticano II đặc biệt diễn giải với thẩm quyền của mình, một Công Đồng có những giáo huấn được Huấn Quyền sau đó xác nhận và khai triển. Việc trung thành này trước hết áp dụng cho tất cả những ai thuộc hàng giáo phẩm có “nhiệm vụ hiến dâng việc tôn thờ của Kitô giáo lên Vị Thần Linh Cao Cả và nhiệm vụ điều hành nó theo những chỉ thị của Chúa cùng với luật lệ của Giáo Hội”;[19] việc trung thành này cũng bao gồm cả toàn thể cộng đồng giáo hội “theo tính cách đa dạng của bậc sống, vai trò và việc tham dự thật sự”.[20]

Theo chiều hướng này thì hơn bao giờ hết lại càng cần phải cổ võ sinh hoạt phụng vụ trong các cộng đồng của chúng ta, bằng một cuộc huấn luyện đầy đủ cho các vị thừa tác viên cũng như cho tất cả mọi tín hữu, nhắm đến việc tham dự một cách trọn vẹn, ý thức và chủ động vào các việc cử hành phụng vụ theo ý hướng của Công Đồng.[21]

8. Bởi thế, vấn đề cần thiết đó là chương trình mục vụ về phụng vụ được thi hành hoàn toàn trung thành với những lãnh vực mới. Qua chương trình này, cần phải làm sống lại niềm hứng khởi đối với Lời Chúa theo chiều hướng của Công Đồng trong việc muốn có “những bài đọc Thánh Kinh dồi dào hơn, đổi khác hơn và chọn lọc hơn”.[22] Chẳng hạn những bài sách thánh mới cho thấy việc chọn lựa nhiều các đoạn Thánh Kinh đã làm thành một nguồn mạch bất tận cho Dân Chúa kín múc. Thật vậy, chúng ta không được quên rằng “trong việc lắng nghe lời Chúa, Giáo Hội được xây dựng và phát triển; chúng ta cũng không được quên những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã thi hành trong lịch sử cứu độ là những gì, theo sự thật mầu nhiệm của chúng, được phản ảnh qua các dấu hiệu của việc cử hành phụng vụ”.[23] Trong việc cử hành phụng vụ, Lời Chúa thể hiện tất cả ý nghĩa của mình, phấn khích đời sống Kitô hữu trong việc liên tục canh tân mình, vì “những gì đã nghe thấy nơi việc cử hành phụng vụ thì sau đó được mang ra tác hành trong đời sống”.[24]

9. Việc tưởng nhớ đặc biệt đó là biến cố Phục Sinh của Chúa Kitô vào Chúa Nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh là trọng tâm của đời sống phụng vụ, như “nền tảng và là cốt lõi của toàn thể phụng niên”.[25] Việc chăm sóc mục vụ thật sự đã thực hiện được những nỗ lực đáng kể nhờ đó giá trị của Chúa Nhật hiện được tái nhận thức. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh ở điểm này, đó là “những kho tàng tu đức và mục vụ của Chúa Nhật, như đã được truyền lại cho chúng ta, thật sự lớn lao. Khi hiểu được trọn vẹn tính cách quan trọng cùng những ý nghĩa ngày của Chúa thì Chúa Nhật trở thành một tổng hợp cho đời sống Kitô hữu và là điều kiện để sống ngày này đàng hoàng nữa”.[26]

10. Đời sống tu đức của người tín hữu được nuôi dưỡng bằng việc cử hành phụng vụ. Chính từ Phụng Vụ mới cần phải sống theo nguyên tắc đã được Tôi đề ra trong Tông Thư “Mở Màn Tân Thiên Kỷ”, đó là “việc huấn thánh đòi đời sống Kitô hữu nổi bật trên hết trong nghệ thuật cầu nguyện”.[27] Hiến chế “Sacrosanctum Concilium” đã dẫn giải nhu cầu khẩn trương này bằng một viễn quan, khi phấn khích cộng đồng Kitô hữu hãy tăng gia đời sống nguyện cầu, chẳng những bằng Phụng Vụ mà còn bằng “những thực hành đạo đức” nữa, miễn là những thực hành này hợp với Phụng Vụ, nếu chúng phát xuất từ Phụng Vụ và dẫn đến Phụng Vụ càng hay.[28] Kinh nghiệm mục vụ trong những thập niên vừa qua đã xác nhận cái trực giác này của Hiến Chế này. Theo chiều hướng ấy có việc góp phần quí báu của Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích với Bản Hướng Dẫn về Việc Đạo Đức Phổ Thông và Phụng Vụ.[29] Rồi chính Tôi, qua Tông Thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria”[30] và việc mở Năm Mân Côi, muốn làm sáng tỏ những gì phong phú về chiêm niêm của kinh nguyện truyền thống này, một kinh nguyện đã được thiết lập lâu đời nơi Dân Chúa, và Tôi khuyến dụ hãy tái nhận thức kinh nguyện này như là một đường lối thuận lợi cho việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô nơi học đường của Mẹ Maria.

Những viễn ảnh

11. Nhìn về tương lai, Phụng Vụ cần phải đáp ứng một vài thách đố. Trong giòng thời gian 40 năm này, xã hội đã trải qua những đổi thay sâu xa, trong số đó có những thay đổi rất gian nan khốn khó đối với cuộc dấn thân của Giáo Hội. Chúng ta đang đối diện với một thế giới làm cho những dấu hiệu của Phúc Âm đang bị suy yếu đi, kể cả ở những miền đất có truyền thống Kitô giáo lâu đời. Đây là thời gian của một cuộc tân truyền bá phúc âm hóa. Phụng vụ phải trực diện với cuộc thách đố này.

Thoạt nhìn thì đường như phụng vụ bị loại trừ ở một xã hội đang bị tục hóa rất nhiều. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, bất chấp vấn đề tục hóa, thời đại của chúng ta lại hiện lên một nhu cầu mới về linh đạo dưới rất nhiều hình thức. Làm sao người ta lại không thấy nơi hiện tượng này chứng cớ về sự kiện tận là thâm tâm của mình con người không thể nhận chìm được nỗi khát khao Thiên Chúa? Có nhiều vấn nạn chỉ tìm thấy giải đáp nơi việc giao tiếp riêng tư với Chúa Kitô mà thôi. Chỉ khi nào sống thân mật với Người thì hết mọi cuộc sống mới có ý nghĩa, và mới có thể tiến đến chỗ cảm nghiệm được niềm vui được Thánh Phêrô nói lên trên núi Biến Hình: “Lạy Thày chúng con được ở đây thì hay quá” (Lk 9:33 par).

12. Nếu có nỗi khát mong được gặp gỡ Thiên Chúa ấy, thì Phụng Vụ mới cung cấp câu giải đáp sâu xa nhất và hiệu nghiệm nhất. Phụng Vụ làm điều này nhất là nơi Thánh Thể, một bí tích giúp chúng ta được kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô và được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Người. Tuy nhiên, Các Vị Mục Tử cần phải thực hiện điều này để làm sao cho ý nghĩa của mầu nhiệm ấy thấm nhập vào lương tâm con người, bằng việc tái nhận thức và thực hành một thứ nghệ thuật ‘thần nhiệm’ được các Vị Giáo Phụ yêu chuộng.[31] Các Vị Chủ Chăn đặc biệt có nhiệm vụ phải cổ võ những việc cử hành xứng đáng, chú trọng tới những tầng lớp dân chúng khác nhau, như trẻ em, giới trẻ, người lớn, lão thành và người khuyết tật. Tất cả cần phải cảm thấy họ được cộng đoàn của chúng ta đón nhận, nhờ đó có thể hít thở bầu khí của cộng đồng tín hữu tiên khởi, đó là “họ chuyên chú lắng nghe giáo huấn của các vị tông đồ và vào cuộc sống chung, vào việc bẻ bánh và việc nguyện cầu” (Acts 2:42).

13. Một khía cạnh cần phải được dấn thân hơn nữa vun trồng trong các cộng đồng của chúng ta đó là kinh nghiệm thinh lặng. Chúng ta cần phải thinh lặng “để lãnh nhận trong tâm hồn mình âm vang trọn vẹn của tiếng nói Thánh Linh, cũng như để liên kết nguyện cầu một cách tâm giao hơn nữa với Lời Chúa cũng như với tiếng nói công khai của Giáo Hội”.[32] Trong một xã hội sống hào nhoáng, một xã hội bị rối loạn bởi những lời đồn thổi và bị phân tâm nơi những gì mau qua chóng hết thì cần phải tái nhận thức được giá trị của thinh lặng. Không phải là tình cờ mà ngoài việc thờ phượng của Kitô giáo, còn có việc thực hành suy niệm đang được lan tràn làm tăng thêm tầm quan trọng cho việc phản tỉnh. Tại sao lại không dám theo sư phạm để thực hiện một cuộc giáo dục đặc biệt về sự thinh lặng trong giới hạn của kinh nghiệm Kitô giáo nhỉ? Chúng ta phải lấy gương sống của Chúa Giêsu, Đấng “đã chỗi dạy đi đến một nơi cô tịch mà cầu nguyện” (Mk 1:35). Phụng vụ, trong những thời khắc và dấu hiệu khác nhau của mình, không thể bỏ qua cái thinh lặng này.

14. Chương trình mục vụ về phụng vụ, khi nói đến những việc cử hành khác nhau, cần phải mớm thêm cả hương vị nguyện cầu nữa. Việc này chắn chắn được thực hiện khi chú trọng tới khả năng của các tín hữu cá biệt, theo hoàn cảnh sống khác nhau về tuổi tác và trình độ giáo dục của họ; thế nhưng việc này cũng được thực hiện nữa nếu không thỏa nguyện với những gì là “tối thiểu”. Khoa sư phạm của Giáo Hội là ở chỗ “dám làm”. Cần phải giới thiệu cho tín hữu việc cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh, “vì đó là lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, là nguồn mạch đạo hạnh và là dưỡng chất cho việc cầu nguyện tư riêng”.[33] Đây không phải là một tác động cá nhân hay tư riêng “mà là việc thuộc về toàn thể Thân Mình của Giáo Hội. […] Bởi thế, nếu tín hữu được triệu hợp cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh và nếu họ hợp lại với nhau, đồng thanh nhất trí, họ bộc lộ cho thấy Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô”.[34] Việc chú trọng đặc biệt này đối với vấn đề cầu nguyện theo phụng vụ như thế không được trở nên căng thẳng đối với việc cầu nguyện theo cá nhân, trái lại, việc cầu nguyện theo phụng vụ mặc lấy và cần đến việc cầu nguyện theo cá nhân,[35] cùng bao gồm nó với những hình thức khác của việc cầu nguyện cộng đồng, nhất là khi việc cầu nguyện cộng đồng này được Thẩm Quyền Giáo Hội công nhận và khuyến khích.[36]

15. Phận sự của các Vị Chủ Chăn là những gì không thể châm chước, trong việc giáo dục cầu nguyện, nhất là trong việc cổ võ đời sống phụng vụ. Nó bao hàm nhiệm vụ nhận thức và hướng dẫn. Nhiệm vụ này không được nhận định như là một nguyên tắc cứng cỏi, ngược lại với nhu cầu của tinh thần Kitô giáo phó mình cho tác động của Thần Linh Chúa, Đấng chuyển cầu trong chúng ta và “cho chúng ta bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26). Trái lại, qua việc hướng dẫn của các Vị Chủ Chăn, cần thực hiện nguyên tắc “bảo đảm” theo dự định của Thiên Chúa đối với Giáo Hội, một Giáo Hội được quản trị nhờ Thánh Linh hỗ trợ. Việc canh tân phụng vụ được thể hiện trong những thập niên này đã cho thấy cách thức có thể hòa hợp cái qui tắc có thể bảo đảm Phụng Vụ giữ được căn tính của mình cùng với tác hành thích hợp của mình, mà vẫn có chỗ cho việc sáng tạo và thích nghi, khiến nó gần gũi với những nhu cầu minh nhiên của các miền đất khác nhau, các hoàn cảnh khác nhau và các thứ văn hóa khác nhau. Nếu không tôn trọng qui chuẩn phụng vụ, có những lúc thậm chí người ta tiến đến chỗ thực hiện những lạm dụng trầm trọng làm lu mờ đi thực tại của mầu nhiệm và tạo nên tình trạng phiền toái cũng như căng thẳng nơi Dân Chúa.[37] Những lạm dụng như vậy không hề có liên quan gì tới tinh thần đích thực của Công Đồng hết, và là những lạm dụng cần phải được Các Vị Mục Tử sửa chữa bằng một thái độ mạnh mẽ khôn khéo.

Kết luận

16. Trong đời sống của Giáo Hội, việc ban hành Hiến Chế phụng vụ này đã đánh dấu một hết sức giai đoạn quan trọng cho việc phát động và phát triển về Phụng Vụ. Giáo Hội, được sinh động bởi hơi thở Thần Linh, sống sứ vụ của mình “là bí tích, tức là dấu hiệu và là dụng cụ cho mối hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa cũng như cho mối hiệp nhất của toàn thể nhân loại”,[38] thấy được nơi Phụng Vụ cái thể hiện cao cả nhất cho mầu nhiệm và thực tại của mình.

Trong Chúa Giêsu Kitô và trong Thần Linh của Người, toàn thể cuộc sống Kitô hữu trở thành “một hy tế sống động, thánh hảo và đáng Chúa chấp nhận”, “một việc tôn thờ linh thiêng” đích thực (Rm 12:1). Thật vậy, Mầu nhiệm được hiện thực nơi Phụng Vụ thực là cao cả. Mầu nhiệm này hướng về trái đất một thoáng nhìn của Trời Cao làm cho cộng đồng tín hữu được nâng lên, hợp với cuộc xướng hát của Giêrusalem trên trời, hát bài thánh ca chúc tụng ngàn đời: “Sanctus, Sanctus, Sanctus, Dominus Deus Sabaoth. Pleni sunt caeli et terra gloria tua. Hosanna in excelsis!” – “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Trời đất đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!”.

Đang hiện lên có một “thứ linh đạo về phụng vụ” ở vào đầu thiên niên kỷ đây, một linh đạo làm cho người ta nhận thức được rằng Chúa Kitô là vị đệ nhất “phụng gia”, Đấng đã không thôi tác hành trong Giáo Hội cũng như trên thế giới bằng quyền năng của mầu nhiệm vượt qua được cử hành liên tục, và là Đấng liên kết Giáo Hội với bản thân Người để chúc tụng Cha trong sự hiệp nhất của Thánh Linh.

Với nhận thức này, Tôi hết lòng ban Phép Lành của Tôi cho tất cả mọi người.

 

Ban hành tại điện Vatican, ngày 4 tháng 12 năm 2003,

năm thứ 26 Giáo Triều của Tôi.

+ IOANNES PAULUS II

Giáo Hoàng

 

 

 


[1] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới” (6/1/2001), n. 57: AAS 93 (2001), pp. 308; cf. Tông Thư “Vicesimus Quintus” (Kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Phụng Vụ Thánh) (4/12/1988), n. 1: AAS 81 (1989), pp. 897. 

[2] Cf. Ibid., n. 3.

[3] Cf. Ibid., n. 5.

[4] Ibid., n. 6.

[5] Ibid., n. 7.

[6] Cf. Ibid., n. 8.

[7] Ibid., n. 10.

[8] Ibid., n. 83.

[9] Cf. Ibid., n. 5.

[10] Ibid., n. 7.

[11] Ibid., n. 9.

[12] Cf. Ibid., n. 10.

[13] Ibid., n. 112.

[14] Cf. Ibid., n. 6.

[15] Cf. Ibid., n. 127.

[16] Ibid., n. 122.

[17] Cf. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Ngàn Năm Mới Đang Đến” (10/11/1994), n. 36: AAS 87 (1995), pp. 28.

[18] Ibidem.

[19] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), n. 26.  

[20] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, n. 26.  

[21] Cf. Ibid., n. 14; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Vicesimus Quintus” (Kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Phụng Vụ Thánh) (4/12/1988), n. 15: AAS 81 (1989), pp. 911-912.

[22] Ibid., n. 35.

[23] “Ordo Lectionum Missae”, n. 7.

[24] Ibid., n. 6.

[25] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, n. 106; cf. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Vicesimus Quintus” (Kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Phụng Vụ Thánh) (4/12/1988), n. 22: AAS 81 (1989), pp. 917.

[26] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Dies Domini” (Ngày của Chúa) (31/5/1998), n. 81: AAS 90 (1998), pp. 763.

[27] Ibid., n. 32: AAS 93 (2001), pp. 288.

[28] Cf. Ibid., n. 13.

[29] Vatican City, 2002.

[30] Cf. AAS 95 (2003), pp. 5-36.

[31] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư “Vicesimus Quintus” (Kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Phụng Vụ Thánh) (4/12/1988), n. 21: AAS 81 (1989), pp. 917.

[32] “Institutio Generalis Liturgiae Horarum”, n. 213.

[33] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, n. 90.

[34] “Institutio Generalis Liturgiae Horarum”, n. 20.22.

[35] Cf. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, n. 12.

[36] Cf. Ibid., n. 13.

[37] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (Giáo Hội từ Bí tích Thánh Thể) (17/4/2003), n. 52: AAS 95 (2003), pp. 468; Tông Thư “Vicesimus Quintus” (Kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Phụng Vụ Thánh) (4/12/1988), n. 13: AAS 81 (1989), pp. 910-911.

[38] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), n. 1.