Khảo Luận Về Kitô Học: Những Dạng Loại Kitô Học Trong Tân Ước (4/2)

0
1678


KHẢO LUẬN TRƯỜNG THIÊN VỀ ĐỨC KITÔ

Tác giả: Lm. F.Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

CHƯƠNG IV

NHỮNG DẠNG LOẠI KITÔ HỌC TRONG TÂN ƯỚC

 

IV. KITÔ HỌC CỦA BA PHÚC ÂM NHẤT LÃM

Các sách thường được gọi là “Tin Mừng theo…” không phải là những văn bản xưa nhất trong Tân Ước. Bốn cuốn sách ấy cũng không phải là những tập tiểu sử viết về cuộc đời của Ðức Giêsu. Dù thế, các tập sách này quả đã cung cấp những dữ liệu thiết yếu nhất để tìm biết về Ngài. Ba Phúc Âm Mt, Mc, và Lc được gọi là Phúc Âm nhất lãm, bởi vì có nội dung nói chung giống nhau, và có thể xếp thành ba cột song song để “nhìn chỉ một lần,” mà độc giả cùng lúc đọc thấy hay nắm được nội dung của cả ba. Tuy nhiên, mỗi tác giả có một cách nhìn riêng về Ðức Giêsu, làm như hoạ nên những chân dung khác nhau; hay nói cách khác: mỗi tác giả đề xuất một dạng Kitô học riêng. Dĩ nhiên là các chân dung hay là các dạng Kitô học ấy không xung khắc, mâu thuẫn với nhau. Và dù chưa được khai triển thành hệ thống, thì chúng cũng tỏ ra là rất độc đáo. Sau đây, xin phác trình sơ lược về các dạng Kitô học ấy. [20]

1. Kitô Học của Phúc Âm Máccô

Khoa chú giải thường cho “Máccô” là Phúc âm xưa nhất và, nếu Máccô là tác giả – theo ức đoán, chứ không hẳn là chắc – thì ông là chính người đã phát minh văn thể “phúc âm.” Sách này không phải là một cuốn sách lịch sử (theo nghĩa cận đại), dù có giống như các cuốn lịch sử thời cổ đại. Theo ngôn ngữ hiện nay, có thể gọi đó là sách giáo lý. [21] Dù có vẻ đơn sơ, Mc hàm dung một dạng Kitô học rất cao. Ðúng ra, các nhà chú giải nên để ý nêu rõ hơn nữa mối quan liên giữa Máccô và Gioan. Con Thiên Chúa được đồng nhất hoá với sứ mệnh, nghĩa là với Tin Mừng (theo Máccô) hoặc với Lời (theo Gioan). Cả hai đều bắt đầu với từ arkhế (nguyên thủy): Mc nói về lúc khởi sự rao giảng Tin Mừng, còn Ga thì về hồi khởi sự sáng tạo. Nội dung Phúc Âm không chỉ trình thuật những điều Ðức Giêsu đã nói lên, mà còn kể lại những điều Ngài đã làm nữa; hay nói đúng hơn, nội dung của Phúc Âm là chính bản thân Ðức Giêsu.

Máccô tập trung tư tưởng vào hai tước hiệu của Ðức Giêsu: Con Thiên Chúa và Con Người, với hậu cảnh là Is 53 (Tôi Tớ Giavê). Và đặc điểm của Phúc Âm thứ hai là điều được gọi là “bí mật về Ðấng Thiên sai” (messianic secret). Mc không nói gì về Ðức Giêsu trước khi Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, và đánh giá thấp (đại) gia đình của Ngài (x. Mc 3:21.31; 6:4).

Chân dung Ðức Giêsu được tác hoạ trong khung biện chứng giữa căn tính cao và thân phận thấp. Máccô bắt đầu: “Khởi đầu Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (có một ít thủ bản thiếu các từ “Con Thiên Chúa”). Ðó là nhan đề cuốn sách. Ðáng lưu ý là khóm từ “Ðức Giêsu Kitô” xuất hiện như là tên chỉ người, tức “Kitô” không còn là một tước hiệu, một chức năng, v.v. của Ðức Giêsu, nhưng là một tên riêng, và đó là nội dung của “Tin Mừng” này. Ðức Giêsu này là ai? – Mc trả lời: “Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” Tác giả muốn cho độc giả hiểu rõ rằng Ðức Giêsu  là Con Thiên Chúa ngay từ lúc đầu, chứ không phải chỉ như thế sau biến cố phục sinh. Nếu chưa rõ đủ, thì trên núi Tabo, lúc “biến hình” (x. Mc 9:2-8) tiếng nói từ trời sẽ một lần nữa, long trọng lặp lại lời khẳng quyết đó, và sẽ ân cần nhắc nhủ thêm: “Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Mệnh lệnh này gợi lên đoạn Ðnl 18:15-19, khi Giavê hứa sẽ sai một ngôn sứ đến để nói lời Chúa cho dân, và “ai không nghe Ngài… Ta sẽ hỏi tội người ấy.” Và cần phải hiểu trình cảnh Ðức Giêsu chịu phép rửa trong ánh sáng của Is 42:1: “Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng”; bản văn Hy lạp (LXX) dùng từ paĩs, có nghĩa hoặc là “con” hay là “tôi tớ,” và ngôn sứ loan báo thêm rằng Tôi tớ ấy sẽ được đặt “làm ánh sáng chiếu soi muôn nước” (Is 42:6). Sau khi chịu phép rửa, Ðức Giêsu đã lãnh nhận Thần Khí, tức được “xức dầu” để chu toàn sứ mệnh. Con Thiên Chúa cùng là tôi trung ấy, sẽ phải chịu khổ nhục nhiều và sẽ đổ máu ra vì muôn người (x. Mc 14:24); đó là “Giao ước với dân” mà Isaia đã tiên báo (x. Is 42:6).

Trong bối cảnh cánh chung và một cách tuyệt đối, Mc 13:32 gọi Ðức Giêsu là “Người Con,” một Người Con quen gọi Thiên Chúa bằng “Abba! Cha ơi!” (Mc 14:36). Cách gọi này để lộ cho thấy một kinh nghiệm siêu việt về và một quan hệ thiết cốt khôn tả với Thiên Chúa. Tuy nhiên, nơi dương thế, Người Con Thiên Chúa còn phải sống qua cuộc đời tùng phục Thiên Chúa, trong thân phận yếu đuối, bất lực, … như thấy được qua tình trạng Pl 2 miêu tả. Nhưng Mc không đề cập đến thái trạng tiên hữu. Nếu đối chiếu giữa hai tình cảnh “nâng cao” và “hạ nhục” trong thân phận của Ðấng Thiên Sai, tất thấy Mc đặc biệt nhấn mạnh đến cảnh chịu hạ nhục. Hơn các Phúc Âm khác, Mc mô tả Ngài như con người phàm, không biết về ngày giờ thế mạt (x. Mc 13:32), cũng “cảm thấy hãi hùng xao xuyến…, buồn đến chết được” (Mc 14:33tt) trước viễn ảnh khổ đau, nhục nhã và chết chóc.

Tước hiệu thứ hai là “Con Người.” [22] “Con Người” không có nghĩa là đối nghịch lại với “Con Thiên Chúa”; cả hai tước hiệu   chỉ về cùng một cá nhân duy nhất, tất nhiên là theo những viễn ảnh khác nhau. Gọi “Con Người” là nhìn Ðức Giêsu trong bình diện lịch sử cứu độ. Mc có ba loại văn thể:

a) Con Người có quyền bính nơi trần thế: Mc 2:10.28;

b) Con Người vinh quang trong thời đại cánh chung: Mc 8: 38; 13:26; 14:63;

c) Con Người trong thân phận khổ nhục và chết chóc: Mc 8: 31; 9:9; 12:31; 10:33.45; 14:21.41.

Các học giả cho rằng văn thể của loại b là cổ nhất, dù loại c cũng đã xuất hiện trong những truyền thống rất xưa, và đã ảnh hưởng mạnh nhất trên Kitô học của Máccô. Phúc Âm Mc nhắc đến ba lần Ðức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn của Ngài (x. Mc 8:31; 9:31; 10:33), như để cho thấy ơn cứu độ là hậu quả của việc Con Người chịu khổ đau và tử nạn: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều” (Mc 8:31). Cuộc thương khó này bao gồm cả vụ Giuđa phản nộp (x. Mc 14:21), hành động Phêrô chối Thầy mình và các môn đồ bỏ Thầy tản mát trốn chạy (x. Mc 14:27-30), cũng như việc “Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi” (x. Mc 14:41) và kinh nghiệm bị bỏ rơi trên thập giá (x. Mc 15: 34). [23]

Mc cũng nhắc đến một số tước hiệu khác, như “Kitô” (Mc 8:29), “vua dân Do thái” (Mc 15:2.9.18.26), và “tiên tri” (Mc 6: 4.15; 8:28).

“Bí mật Thiên sai” là chủ đề đặc thù của Mc. [24] Dường như Mc muốn dùng phương cách sư phạm này để giải thích tại sao dân Chúa nói chung và các môn đệ nói riêng, đã không nhận ra Ðức Kitô lúc sinh thời. Theo Mc, chính Ðức Giêsu không muốn người ta biết Ngài là ai, mặc dầu Ngài lấy uy quyền (exousía: Mc 1:22.27) của chính mình mà thực hiện những việc lớn lao, siêu thường như những phép lạ, những tác vụ thiên sai (chẳng hạn như bánh hóa nhiều: Mc 6:34tt; 8:1tt), v.v. Hơn nữa, hình như Ngài làm các việc như thế với mục đích là để dân chúng nhận ra Ngài là ai. Thí dụ: Ngài long trọng tiến vào thành Giêrusalem (x. Mc 11:1tt), và thẳng tay đuổi quân buôn bán ra khỏi Ðền thờ (x. Mc 11:15tt); đích thân, Ngài mạc khải chính mình cho các môn đồ (x. Mc 6:50; 9:2tt). Tuy nhiên, theo Mc, Ngài còn muốn giữ kín căn tính của mình (x. Mc 1:37t.43t; 3:12; 5: 19.43; 6:31.45; 7:36; 8:26). Tại sao vậy? Có thể hiểu được đối với một vài trường hợp, như: Mc 3:12: vì Ngài không muốn ma quỷ làm chứng về Ngài; Mc 8:3: để tránh bị hiểu lầm về mặt chính trị; Mc 5:40: để tránh dị đoan, v.v. Song, không thể giải thích hết mọi trường hợp được. Còn có điều khó hiểu là cách thức Mc trình tả về dung mạo của các môn đệ: Mc cho thấy họ là những người “chậm hiểu,” “u tối,” “ngu muội” (Mc 4:13; 6: 52; 7:17t; 8:17.21) và cứng đầu (so Mc 6:52 với Mt 14:33). Có những câu có thể gây ngộ nhận, như câu giải thích tại sao Ngài chỉ giảng bằng dụ ngôn cho dân chúng, là: “để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ” (Mc 4:12). Dường như chìa khóa để hiểu những đoạn văn này là chủ ý của Mc muốn giới thiệu Ðức Giêsu như là Tôi tớ bị bỏ rơi và bị hiểu lầm (x. Mc 8:31tt): chỉ một mình Thiên Chúa Cha hiểu và an ủi Ngài. Mặt khác, theo thần học của Mc, đường lối dẫn đến chỗ quen biết thân thiết với Ðức Kitô là con đường thập giá. Chính vì thế mà trước cuộc khổ nạn và trước khi biết chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, không ai có thể đích xác nhận ra được Ngài.

Dù sao, Máccô cũng muốn cho độc giả nhận biết được Ðức Giêsu. Vì thế, ở trọng tâm của Phúc Âm, ngài đã ghi lại lời viên sĩ quan Rôma tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39); như thế để đánh tan mối nguy hiểu lầm: một người ngoại đã nhận ra được Ðấng Cứu Tinh. Ðức tin ấy không phải là tự sinh, vì trước đó, Mc đã gieo giống khi mô tả những phản ứng của dân chúng, nào là “kinh ngạc” (Mc 1:27), nào là “hoảng sợ” (Mc 4:41; 5:15)… Dân Nadarét, cùng quê với Ngài, đã tỏ ra “rất đỗi ngạc nhiên” vì mức khôn ngoan siêu quần của Ngài (x. Mc 6:2-3); các môn đệ “hoảng hốt” khi thấy Ngài bước đi trên mặt biển (x. Mc 6:50; và 7:37; 10:24.26.32); các phụ nữ (nữ môn đồ) cũng phản ứng như thế bên ngôi mộ trống: “họ run lẩy bẩy hết hồn hết vía” (Mc 16:8). Tại sao lại có những phản ứng lạ thường như thế, và những phản ứng kia có nghĩa gì? – Kinh Thánh cho thấy con người phản ứng như thế mỗi khi gặp thần linh, khi Thiên Chúa hiển hiện. [25]

Tựu trung, Mc vén mở cho thấy Ðức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng nêu bật Ngài là con người thật. Sống cuộc đời tôi tớ, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo, nhưng cuối cùng Ngài đã sống lại vinh quang (x. Mc 8:31; 10:37; 16: 6). Ý nghĩa của thân phận ấy được minh nhiên nói lên: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45; x. 9:12). Khi Máccô biên soạn Phúc Âm, thì trong lễ Tạ ơn (x. Mc 14:24), cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu chuộc từ nay được ghi chép thành văn.

2. Kitô Học của Mátthêu

Phúc Âm Mátthêu là cuốn Tin Mừng mang nhiều hơn hết, tính chất Giáo hội và Do thái; rất có thể là đã được biên soạn trong bối cảnh Galilê (x. Mt 4:14-17; 28:16-20). Chìa khóa để hiểu bản Phúc Âm này là câu Mt 21:43, hoặc theo một ý kiến khác, là các câu Mt 28:16-20; tự cơ bản, hai đoạn này không khác chi nhau mấy. [26] Cơ cấu tổ chức của Mt làm như gợi lại cách thức phân chia của Ngũ thư: có năm bài giảng (Mt 5:1–7:28; 10:6–11:1; 13:3-53; 18:3–19:1; 24:4–26:1). Có những tác giả khác so sánh Mt với Lục thư: chương 1–2 (trình thuật về ấu thời) tương ứng với sách Sáng thế; bài giảng trên núi đối ứng với sách Xuất hành; chương 10 tương ứng với sách Lêvi; bài giảng về các dụ ngôn được coi là giống với sách Dân số (miêu tả về Ðất hứa/Nước Trời); còn bài giảng thứ tư đóng giữ vai trò tương tự như Ðệ nhị Luật; và cuối cùng, bài giảng cánh chung – được ghi lại sau khi Ðức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô – được coi là tương ứng với sách Giôsuê (bước vào Ðất hứa).

Ðức Giêsu được hiểu như là Ðấng làm cho lời Kinh Thánh ứng nghiệm (x. Mt 5:17). [27] Ngài là Ðấng Thiên Sai, không phải theo cách kiểu như dân Do thái chờ đợi, nhưng là theo lời miêu tả của các ngôn sứ, đặc biệt như là Tôi tớ Giavê và như là Con Người. Ngoài “Con Thiên Chúa,” Mátthêu nêu bật ba tước hiệu khác: “Ðấng Xức Dầu” (Mêsia), “Vua” và đặc biệt là “Con Người.” So với Mc, Mt cho thấy rõ hơn Ðức Giêsu quả là “Con Thiên Chúa,” và xếp đặt những chi tiết trong cuộc đời Ngài theo nhãn quan mà các tông đồ có được sau biến cố phục sinh.

Chỉ có Lc và Mt đã ghi lại gia phả của Ðức Giêsu. Mátthêu muốn minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Thiên Sai, tức là Con của Ðavít. Ðể làm thế một cách gián tiếp, tác giả đã dùng đến phép số học ngày xưa: bản gia phả được chia làm ba phần danh sách, mỗi phần có 14 thế hệ; nhưng 14 là con số tượng trưng cho Ðavít. [28] Ðức Giêsu cũng là người “Con được hứa,” nghĩa là Người Con của Abraham; đó cũng là tư tưởng Phaolô gợi lên trong Gl 3:16-17. Qua trình thuật về ấu thời, Mt muốn chứng tỏ Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia, theo lời tiên tri về Emmanuen (x. Mt 1: 23). Khi phải trốn sang Ai cập, Ðức Giêsu mang lấy số phận của Ítraen; còn trình thuật về “ba nhà chiêm tinh” (ba vua) vén mở cho thấy Ðức Giêsu là niềm mong đợi của tất cả các dân tộc không-Do thái (dân ngoại).

Tước hiệu “Con của Ðavít” xuất hiện 9 lần trong Mt, đặc biệt là trong các câu 12:23, 15:22, và 21:9.15, là những câu không đọc thấy trong Mc và Lc. Với tước hiệu này, Mt chứng tỏ Ðức Giêsu là vua thật, nhưng không như dân chúng nghĩ; Ngài là vua khiêm nhường như ngôn sứ Dacaria tiên báo (x. Dcr 9:9, trưng dẫn trong Mt 21:5), và đồng thời Ngài là hiện thân của Tôi tớ Giavê (x. Mt 12:18t = Is 42:1-4). Những lời Giavê hứa với Ðavít xưa, nay đã được ứng nghiệm nơi Ðức Giêsu. Dân chúng trông đợi thời đại Ðấng Thiên Sai, lúc mà Thiên Chúa sẽ can thiệp vào cuộc đời của họ và mang lại ơn cứu độ, ơn lộ hiện trong các việc trừ quỷ và chữa trị. Những phép lạ chứng tỏ Ðức Giêsu là chính “Ðấng phải đến” (Mt 11:3tt).

“Phải đến” trước hết là với Ítraen mà thôi (x. Mt 10:6; 15: 24); và chỉ khi toàn dân từ chối đón nhận Ngài (x. Mt 27:25), Thiên Chúa mới mở cửa Nước của Người “cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21:43). Mệnh lệnh của Chúa (Giêsu) toàn năng (x. Mt 28:19-20) nói lên sứ mệnh cứu độ phổ quát của Ngài.

Hẳn là Mátthêu trình hoạ chân dung của Ðức Giêsu như đã thấy sau biến cố phục sinh. Do đó, đếm được 19 lần Mt gọi Ðức Giêsu là “Chúa.” So sánh với Mc, Mt ít chú ý đến tình trạng bị hạ nhục của Ðức Giêsu – dù có nhắc đến (x. Mt 8:17) – và nêu bật cho thấy rõ quyền bính của Ngài (chẳng hạn qua những phép lạ), cũng như uy thế (chẳng hạn đối với Luật: Mt 5:21-48) và quyền của Ngài trong việc quyết định số phận cánh chung của bất cứ ai (x. Mt 10:32tt). Ðức Giêsu là Thầy duy nhất [29] (x. Mt 23:8.10) và là Thẩm phán của mọi người (x. Mt 25:31-46). Xem ra việc người ta đến gặp Ðức Giêsu được đặt trong một khung cảnh trang trọng của một nghi lễ triều đình: họ đứng xa (sự kiện được nói đến 52 lần trong Mt, trong khi chỉ đọc thấy 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), họ bái phục (13 lần trong Mt, 2 lần trong Mc và 3 lần trong Lc), các tín hữu gọi Ngài bằng “Chúa” (44 lần trong Mt, 6 lần trong Mc và 23 lần trong Lc) trong khi các Phúc Âm khác nói là họ gọi Ngài bằng Rabbi (thử đối chiếu Mt 8:25 với Mc 4:38).

Trước hết, Ðức Giêsu là Chúa của giao ước (x. Mt 5–7): trong bài giảng trên núi, Ðức Giêsu được ngầm chỉ như là Môsê mới, nhưng cao trọng trổi vượt hơn hẳn. Khác hẳn với các luật sĩ, Ðức Giêsu không chỉ giải thích mà còn “đổi mới” Luật nữa. Ðức Giêsu lấy uy thế của riêng mình mà nói như chính Thiên Chúa nói: Giavê phán, nhưng Ta bảo rằng… Chắc hẳn dân Do thái coi đó như là lời lộng ngôn. Trong bài giảng trên núi, Ðức Giêsu đã tự giới thiệu chính mình và dạy cho biết các mối phúc thật mới, khác với những lời hứa của Cựu Ước (x. Ðnl 28). Ðức Giêsu là Chúa của các môn đệ (x. Mt 10). Lý tưởng của một môn đệ là nên giống thầy mình, nhưng ở đây là một Vị Thầy đã phải chịu khổ nhục và tử nạn (x. Mt 10:16tt), và đòi hỏi trên hết mọi sự, phải có tình bác ái (x. Mt 10:37tt). Khi hiện ra lần cuối, “Thầy toàn năng” phái gửi các môn đệ ra đi không phải để rao giảng Tin Mừng (như đọc thấy trong Mc và Lc), song là để làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài (x. Mt 28:19). Ðức Giêsu là Chúa của Vương Quốc mà Ngài miêu tả qua các dụ ngôn (x. Mt 13). Cần phải dồn hết nỗ lực để mà vào cho được Vương Quốc dù phải bỏ tất cả mọi sự khác (như người tìm được ngọc quý: Mt 13:46). Cuối cùng, Con Người sẽ phán định chung quyết về việc ai được đón nhận vào và ai bị loại ra ngoài (x. Mt 13: 41tt). Chúa của Giáo hội: Trong bốn Phúc Âm, chỉ một mình Mt dùng đến từ ekklêsía, mà Ðức Kitô hứa sẽ xây trên nền móng Ðá tảng là Phêrô (x. Mt 16:18), và Giáo hội đó là của Thầy. Ngài đích thân tuyển chọn nhóm “Mười Hai,” huấn luyện và ủy thác sứ mệnh của Ngài cho họ. Ðức Giêsu là Chúa của tương lai: Qua ba dụ ngôn, chương Mt 25 giới thiệu Ngài như là chàng rể, người chủ và là thẩm phán cánh chung. Tương lai của mỗi người, của mọi người đều nằm trong tay Ngài, và Ngài hằng hiện diện ở giữa dòng lịch sử này cho đến tận thế (x. Mt 28:20).

Vì là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Emmanuel), Ðức Giêsu là Ðấng Cứu tinh; và đó cũng chính là ý nghĩa tên gọi của Ngài – Yehosua – (x. Mt 1:21). Vì có quyền bính, nên Ngài tha tội (x. Mt 9:1-8), và đổ máu mình ra để xóa tội nhân loại (x. Mt 20:28; 26:28).

Trong Mt, tước hiệu tất yếu của Ðức Kitô là “Con Thiên Chúa.” Lời tuyên xưng của Phêrô là trung tâm điểm của Phúc Âm. Khác với Mc và Lc, trình thuật Mt kể lại Phêrô không chỉ tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Thiên sai không thôi, mà còn xác định rõ là “Con Thiên Chúa hằng sống” nữa (Mt 16:16). Mt đã gặp thấy tước hiệu này ở Q [30] (trong trình thuật về ba cám dỗ) và ở Mc (trong trình thuật về phép rửa và biến hình). Nguyên lai, tước hiệu này có nghĩa tương tự như “Kitô,” nhưng đã được hiểu rộng thêm ra. Trong lần chịu thử thách cuối cùng (trên thập giá), hai lần trình thuật Mt (x. Mt 27:40.43) dùng tước hiệu “Con Thiên Chúa” để chỉ về Ðức Giêsu, và kết thúc với lời tuyên xưng của nhóm binh sĩ Rôma: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54). Ðáng lưu ý là tên gọi “Con,” theo một nghĩa tuyệt đối, mà Mt đã lấy từ Mc (Mc 12:6 = Mt 21:37; Mc 13:32 = Mt 24:36), và từ Q (Mt 11:27 = Lc 10:22); tức muốn nói đó là Ðấng biết rõ mầu nhiệm Thiên Chúa như chính Thiên Chúa vậy.

Ðối với Mátthêu, Ðức Giêsu là “tối hậu sự” (giải pháp cuối cùng), là chính bản thân của Thiên Chúa chung quyết can thiệp vào trong lịch sử loài người: con người không còn có thể mong chờ ai khác được nữa (x. Mt 11:3tt). Nơi Ngài, mọi lời hứa đều được ứng nghiệm. Trong câu kết thúc Phúc Âm, Mt nêu bật và nhấn mạnh đến tuyệt đỉnh địa vị của Ðức Kitô khi nhắc lại từ Hy lạp pas (= tất cả, hết mọi): mọi quyền bính đã được trao Ta,… hãy đến với mọi dân tộc,… dạy họ tuân giữ mọi điều Ta đã truyền,… Ta sẽ ở với các con mọi ngày… (x. Mt 28:18-20). Ngài là Chúa của tất cả.

3. Kitô Học của Luca Và Công Vụ Tông Ðồ

Tác giả “Luca” đã viết một tác phẩm hai tập là Phúc Âm thứ ba và sách Công vụ Tông đồ; vì thế quan niệm của tác giả về Ðức Kitô chỉ xuất hiện trọn vẹn trong cuốn thứ hai. [31] Kitô học của Luca có hai khía cạnh đặc thù là: lịch sử cứu độThần Khí. Luca thường dùng những tước hiệu giống như Mc và Mt, và không thêm ý nghĩa gì đặc biệt. Trong Tân Ước, hấp dẫn nhất trong các dung mạo về Ðức Giêsu, là dung mạo do Lc tác trình. Ngài được giới thiệu như là vị lương y nhân lành, là Ðấng nhân hậu, hằng động lòng trắc ẩn, sẵn sàng tha thứ với một thái độ khiêm tốn, v.v. Cứ đọc xem những trình thuật độc đáo của Lc thì sẽ rõ: bà góa Naim (x. Lc 7:13), người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7:36tt), người xứ Samaria nhân hậu (x. Lc 10:29tt), anh Ladarô nghèo khốn (x. Lc 16:19tt), ông Dakêu quảng đại (x. Lc 19:1tt), và đặc biệt là Lc 15, thường được coi là “con tim” của Phúc Âm Lc. [32] Lc muốn độc giả nhận rõ ra rằng Thiên Chúa đón nhận tất cả những ai xã hội loài người loại bỏ.

Sử gia Luca quan niệm lịch sử được chia làm ba giai đoạn: trước Ðức Kitô là thời đại lời hứa, sinh thời của Ðức Giêsu là “trung tâm điểm của thời gian” [33] và là thời đại các lời hứa ứng nghiệm, và sau Ðức Kitô là thời đại của Giáo hội. Hoặc cũng có thể gọi ba giai đoạn đó là: thời đại của Ítraen, của Ðức Giêsu và của Giáo hội. Ðức Giêsu đã đến và sẽ trở lại (x. Cv 1:11), dù   không bao giờ Ngài vắng mặt, bởi luôn luôn hiện diện trong Giáo hội nhờ Thần Khí.

Nếu phải dựa theo Lc để mà định nghĩa Ðức Giêsu thì phải nói Ngài là “con người mang Thần Khí,” [34] tức là Ðấng được xức dầu (“dầu” tượng trưng cho Thần Khí: Cv 10:38). Khi Ngài chịu phép rửa từ tay Gioan Tẩy Giả, Thần Khí đã lấy hình bồ câu mà hiện đến: Lc đã muốn nhấn mạnh đến tính cách hữu hình ấy (x. Lc 3:22). Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Ðức Giêsu tuyên bố:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18).

Từ ấu thời, Ðức Giêsu đã được nhìn nhận là “Ðấng Kitô của Ðức Chúa” (Lc 2:26), hoặc như thiên thần báo tin cho các mục đồng, Ngài là “Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2:11). Thực thế, trình thuật của Luca về ấu thời Ðức Giêsu quả là đượm đầy sự hiện diện và tác động của Thần Khí, đến nỗi “tin mừng” không chỉ đơn thuần liên quan tới sự việc “Ðấng Thiên sai đến,” mà còn bao gồm cả việc “Thần Khí xuống” nữa. Quả vậy, Thần Khí đã đặc biệt ngự xuống trên Ðức Maria và bởi đó ngài đã thụ thai Con Thiên Chúa (x. Lc 1:35); rồi sau đó, Thần Khí cũng đã ngự xuống trên Gioan Tẩy Giả trước khi thánh nhân chào đời (x. Lc 1:15) cũng như trên cha mẹ của thánh nhân là Dacaria và Êlidabét (x. Lc 1:41.67). Chắc hẳn Luca cũng đọc thấy Phaolô viết trong Rm 8:9-14 rằng con cái Thiên Chúa tất phải bởi Thần Khí mà ra (x. Rm 8:9-14).

Ðức Giêsu được Thần Khí hướng dẫn trong hết mọi đường đi nước bước, khi thi hành nhiệm vụ. “Ðược đầy Thánh Thần,” Ðức Giêsu “đi vào trong hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” (Lc 4:1); rồi tiếp đó Ngài lại khởi đầu nhiệm vụ tiên tri trong Thần Khí (x. Lc 4:18tt). Ngài sẽ làm phép rửa trong Thần Khí và lửa (x. Lc 3:16). “Ðược Thần Khí tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng” tạ ơn Chúa đã mạc khải mầu nhiệm cho những người bé mọn (x. Lc 10:21). Luca ghi lại lời Ðức Giêsu nói rằng Thiên Chúa sẽ ban Thần Khí cho những ai cầu nguyện với kinh “Lạy Cha” (x. Lc 11:13, và so với Mt 7:11). Ðể Thần Khí tuôn trào dồi dào trên loài người, thì Ðức Giêsu phải phó thác tinh thần (pneũma) Ngài trong tay Cha (x. Lc 23:46); vì thế, sau đó, thời đại của Thần Khí bắt đầu: Thần Khí sẽ tuôn đổ tràn đầy trên Giáo hội (x. Cv 2). Ðó là trọng tâm của kế hoạch cứu độ; vì vậy, Luca nhấn mạnh đến sự việc Ðức Kitô phải chịu đau khổ (x. Lc 9:22; 17:25; 22:37; 24:7.26.46; Cv 17:3; 26:23) đúng theo ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Có một tước hiệu mang đầy ý nghĩa trong bối cảnh văn hóa Hy lạp, đó là Ðấng Cứu Ðộ. Tin mừng loan ra lúc Ðức Giêsu mới sinh là: “Hôm nay, một Ðấng Cứu độ đã sinh ra…” (Lc 2: 11). Ðó cũng là chứng từ các tông đồ đã mạnh mẽ nói lên trước Thượng Hội Ðồng Do thái: “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền mà nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Ðấng Cứu độ…” (Cv 5: 31); còn Phaolô thì giải thích là “từ dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến… một Ðấng Cứu độ là Ðức Giêsu” (Cv 13:23). [35] Trong văn hóa Hy lạp, các hoàng đế và những thần linh được gọi là những “vị cứu tinh” (x. Lc 22:25); bởi vậy, Luca giới thiệu tác vụ của Ðức Giêsu qua sự việc “đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10:38), với quyền uy siêu việt và hiệu quả cao quý vượt hẳn lên trên hết thảy các cuộc quang lâm của vua chúa trần gian. Ðiều này trước hết, có nghĩa là Ngài làm cho những chờ mong và “niềm an ủi của Ítraen” (Lc 2:25) được ứng nghiệm, tức là “ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2:38) đã đến. Rồi Ngài cứu chữa dân chúng như các tiên tri ngày xưa (x Lc 8:36.48; 17:19). Nếu Mt đã coi Ðức Giêsu là con vua Ðavít, thì khác hẳn, Lc giới thiệu cho độc giả thấy Ngài là “con Ađam, con Thiên Chúa” (Lc 3:38, tức là Ðấng Cứu Ðộ nhân loại, vì đã sinh ra để làm “ánh sáng soi cho dân ngoại” (Lc 2:32). Lc nhấn mạnh đến phổ quát tính của ơn cứu độ: khác với Mt 3:3 và Mc 1:3, Luca trích dẫn thêm một câu của Isaia (40:5) nói là: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:6).

Ðể cho thấy rõ phổ quát tính này, nhiều lần Ðức Giêsu đã đi ra khỏi lãnh vực hạn hẹp của “Ítraen công chính” để ngồi cùng bàn với “phường tội lỗi” (x. Lc 5:29-30; 15:2; 19:7), cũng như công khai khen dân Samaria (x. Lc 10:29-37; 17:11-19), và giao tiếp với phụ nữ (x. Lc 8:2-3; 23:49), v.v…

Nhưng Ðấng Cứu Ðộ này còn mang lại một ơn cao siêu hơn, đó là ơn tha tội (x. Lc 5:20; 7:47). Theo Lc, nội dung của sứ điệp kitô là “nhân danh Ðức Giêsu, rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:47), như Phaolô cũng đã giải thích rõ tại hội đường Do thái ở Antiôkhia (x. Cv 13:38-39). Giáo lý của Luca rõ như ban ngày: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ” (Cv 4:12). Như thế có nghĩa: Ðức Giêsu là Ðấng Cứu độ duy nhất. Ngài không chỉ ban ơn cứu độ trong tương lai, nhưng ngay bây giờ, bởi Ngài bảo Dakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19:9); và người trộm lành có lòng sám hối trên thập giá, đã được Ngài cho biết: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23:43). Lúc bị ném đá, Têphanô đã thấy Ðấng Cứu Ðộ hiện ra để đón ông (x. Cv 7: 55-56). Ðối với Luca, tước hiệu này thật phong phú; ơn cứu độ bao gồm ơn tha tội, ơn chữa khỏi bệnh tật, khỏi sự chết, và vận mệnh con người trước Thiên Chúa.

So với các Phúc Âm khác, Lc làm như quên đề cập đến đề tài “chuộc tội bằng máu” hoặc “cứu chuộc và thục tội,” rồi cũng chẳng đặc biệt nêu bật ý nghĩa của thập giá. Quả thế, Lc không ghi lại Mc 10:45, và, dù có trích dẫn Is 53 trong trình thuật về cuộc khổ nạn, thì cũng không ám chỉ gì đến ý niệm “thay thế cho” (hyper). Lý do là vì đối với Lc, toàn bộ cuộc đời Ðức Giêsu chính là công trình thục tội, chứ không phải chỉ thập giá đơn thuần; từ đầu, Lc đã giới thiệu Ðức Giêsu như là chính Thiên Chúa đến “viếng thăm cứu chuộc dân Ngài” (Lc 1:68). Theo kế hoạch của Thiên Chúa, thế giới phải được Thần Khí biến đổi. Với biến cố giáng sinh, một thời đại bắt đầu. Ðức Giêsu khai mở Nước Thiên Chúa; thực thế, đó là Vương Quốc của Ngài: Lc là Phúc Âm duy nhất nói về vương quốc của Ðức Giêsu (x. Lc 22:30). Một mặt, Nước Thiên Chúa còn ở trong tương lai (x. Cv 1:7t); mặt khác, Vương Quốc ấy đang thực sự hiện diện (x. Lc 17:21) trong hành động của Ðức Giêsu (x. Lc 11:20). Ngài là “người mạnh hơn” đã thắng được ma quỷ (x. Lc 11:22). Ðức Giêsu của Lc được giới thiệu như là không bị hạ nhục, song như là người có quyền bính, là Thầy kêu gọi và phái gửi các môn đồ trong uy lực (x. Lc 6:46; 9:57tt; 10:1tt, v.v.). Cuộc đi lên Giêrusalem (x. Lc 9:51tt) là một hành trình vinh quang, thực hiện nhằm chu tất thiên mệnh của một vị tiên tri (x. Lc 13:33), và kết thúc trong khải hoàn (x. Lc 19:28t). Lc quan niệm cuộc tử nạn của Ngài như là cuộc “xuất hành” – exodos – (x. Lc 9:31), tựa như cuộc giải phóng quang vinh của dân Chúa ở Ai cập.

Luca thừa biết dân chúng đã coi Ðức Giêsu như một ngôn sứ (x. Lc 9:8-9), và cả giới biệt phái (x. Lc 7:39) cũng như nhóm môn đồ (x. Lc 24:19t) đều nhìn nhận Ngài là thế; chính Ðức Giêsu cũng ý thức rõ về thân phận ngôn sứ của mình (x. Lc 13: 33 là câu chỉ đọc thấy ở trong Lc). Luca cho thấy Ngài quả là Vị Ngôn Sứ Môsê đã hứa (x. Cv 3:22-23); 7:37, trích dẫn Ðnl 18:18). Sứ mạng của Ngài sẽ còn tiếp tục trong Giáo hội.

Các học giả thường nêu lên ba đặc điểm của Phúc âm Luca:

a) Cầu nguyện: trong những giờ phút quan trọng, bao giờ Ðức Giêsu cũng cầu nguyện: ở sông Giođan (x. Lc 3:21), trên núi Tabo (x. Lc 9:29), suốt đêm trước khi tuyển chọn mười hai tông đồ (x. Lc 6:12), cũng thế cả trong lúc bận việc: “Ngài lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Lc 5:16). Muốn noi gương Thầy, các môn đệ đã xin: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11:1), và Ngài dạy “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18:1tt). Sau này, trong Công vụ Tông đồ, Luca cũng kể lại việc cộng đoàn kitô luôn siêng năng cầu nguyện (x. Cv 1:24; 2:42; 3:1; 4:24-30; 6:6, v.v…).

b) Khó nghèo: Luca để lại một giáo lý rất nghiêm ngặt về sở hữu của cải. “Tiền của bất chính” là kẻ thù đối nghịch với Thiên Chúa (x. Lc 16:9.11.13). Ðộc giả có thể có cảm tưởng là “nghèo-giàu” tương tự như là “tốt-xấu” (x. Lc 16: 19-31). Lc nhắc lại lời ví con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Thiên đàng (x. Lc 18:25), và tương ứng với các mối phúc, có bốn mối họa dành cho kẻ giàu có (x. Lc 6:24-26). Một môn đồ của Chúa Kitô là người từ bỏ mọi sự (x. Lc 14:33; 18:22), và cộng đồng kitô phải sẵn sàng chia sẻ của cải với tha nhân (x. Cv 2:44-45; 3:6; 4:32-35.37; 5:1-11).

c) Lòng nhân hậu: là đặc nét trong thái độ Ðức Giêsu đối với người tội lỗi, nghèo khó, thấp hèn, bị gạt ra ngoại lề xã hội. Ngài lý giải sứ mệnh của mình là “đi tìm và cứu vớt những gì đã mất” (x. Lc 19:10), sứ mệnh Ngài thực hiện chu đáo đến đỗi kẻ thù gọi Ngài là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7:34). Quả thật, Ðức Giêsu nhân hậu vì Thiên Chúa là Ðấng nhân từ: [36] Mt gọi Thiên Chúa là Ðấng “hoàn thiện” (Mt 5:48), còn Lc thì gọi là Ðấng “nhân từ” (Lc 6:36); đó là Thiên Chúa môn đồ phải bắt chước; đó là Thiên Chúa Lc giới thiệu ở trong chương 15. Ðức Giêsu trên thập giá đã tỏ lộ lòng nhân hậu ấy, lòng xót thương đối với cả đến “kẻ thù” của mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

V. KITÔ HỌC CỦA GIOAN

Phúc Âm của Gioan là tột đỉnh của Kitô học Tân Ước. Nói “Gioan” là muốn nói đến văn bộ Gioan, gồm Phúc Âm thứ tư, ba thư của Gioan và sách Khải huyền. Dù có những quan niệm ít nhiều khác nhau, thì đại để các tác phẩm ấy cũng thuộc về cùng một trường phái và theo những nét chung trong khi trình hoạ chân dung Ðức Kitô. Ðối chiếu với ba Phúc Âm trước, thì sẽ thấy Gioan làm như đưa dẫn người đọc vào một thế giới khác và giới thiệu một Ðức Giêsu khác. Vì vậy, trong Tân Ước, Kitô học của Gioan được nghiên cứu nhiều nhất. [37]

Trước hết, Ðức Giêsu của Gioan là Ðấng mạc khải. [38] Ngài là Lời của Thiên Chúa, làm cho loài người biết Chúa Cha bằng lời nói, việc làm và nhất là bằng chính con người của Ngài. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1:18). Khi Ðức Giêsu nói là chính Thiên Chúa Cha nói: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy” (Ga 14:24). Việc làm của Ðức Giêsu tỏ lộ dung mạo của Thiên Chúa, vì “điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy” (Ga 5:19). Và đặc biệt, vì đã có thể nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30), nên Ðức Giêsu bảo với Philipphê là: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Mục đích của cuộc đời Ðức Kitô là biểu hiện vinh quang của Chúa Cha và thực hiện công cuộc cứu độ loài người, hoặc, để nói theo ngôn ngữ của Gioan: làm cho con người được sống đời đời; mà “sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17:3). [39]

Gioan đã khai triển điều mà các học giả thường gọi là “Kitô học Khôn ngoan” hoặc “Kitô học Ngôi Lời.” [40] Trong Cn 1:20-33 và 8:1–9:6, Khôn ngoan được nhân cách hóa, phát xuất từ miệng Thiên Chúa (x. Hc 24:3), và ứng xử như là Lời Chúa (x. Kn 9:1-2). Trong Ga 1, có thể đọc thấy nhiều câu song song với văn chương khôn ngoan, chẳng hạn như: Ga 1:1 so với Cn 8:22-3 và Hc 1:1; Kn 7:25-6 giống như Ga 1:14, hoặc khi Ga nói về Ðức Kitô như là ánh sáng (Ga 8:12; 9:5). Tĩnh từ monogenês (“duy nhất”) được Kn 7:22 áp dụng cho Khôn ngoan; còn Ga 1: 18, 3:16.18 và 1Ga 4:9 thì quy áp cho Ðức Kitô. Các bản văn này nêu bật vai trò của Khôn ngoan trong cuộc sáng tạo, như đọc thấy trong Ga 1:3; và nếu Ga xác định Ngôi Lời là “ánh sáng” cùng là “sự sống,” thì Khôn ngoan cũng đã được xác định tựa như vậy (x. Kn 8:35). Khôn ngoan “cắm lều” ở giữa Ítraen như Ngôi Lời cư ngụ (“cắm lều”) giữa chúng ta (x. Ga 1:14). Vai trò đặc biệt của Khôn ngoan là dạy dỗ cho biết ý của Thiên Chúa, [41] như Ðức Giêsu mạc khải cho dân Chúa biết mầu nhiệm của Thiên Chúa Cha. Cuối cùng, Khôn ngoan gọi môn đồ là “con bé nhỏ” (x. Cn 8:32-33; Hc 4:11; 6:18); Ðức Giêsu cũng gọi các môn đồ mình như vậy (x. Ga 13:33). Những đề tài của văn chương khôn ngoan đã giúp cho Gioan quan niệm Ðức Kitô là Lời (lógos) và đã ảnh hưởng sâu rộng đến cách thức diễn đạt của Ðức Giêsu trong Phúc Âm thứ tư. [42]

Ðức Giêsu cũng là tiên tri (x. Ga 4:19.44; 9:17), và hơn nữa là vị ngôn sứ Ítraen mong đợi (x. Ga 6:14; 7:40). Sách Khải huyền là lời tiên tri của Ðức Giêsu mạc khải thiên phận và sứ mệnh của Giáo hội. Trong Cựu Ước, vị ngôn sứ cao nhất là Môsê, vì đã được đàm đạo với Thiên Chúa diện đối diện (x. Xh 33: 11; Ds 12:8), và do đó có uy thế để truyền đạt cho dân ý định của Giavê được kết tinh ở trong Luật. Nguồn cội phát nguyên uy tín của Ðức Giêsu là chính Chúa Cha: Ngài chỉ nói “những điều đã thấy nơi Cha” (Ga 8:38), vì thế, đạo lý của Ngài là của Ðấng đã sai Ngài (x. Ga 7:16): “Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8:28). Kết quả là chân lý của Ðức Giêsu là chân lý của chính Thiên Chúa (x. Ga 8:40). Có lẽ vì trong công đoàn của Gioan, có nhiều thành phần gốc Samaria, nên Ga đã đề cập nhiều đến Môsê (đối với dân xứ Samaria, chỉ có Ngũ thư mới là Kinh Thánh) trong các đoạn văn quan trọng. [43] Quả vậy, Ga cho là Môsê (Ngũ thư) viết về Ðức Giêsu (x. Ga 5: 46), vì thế, Ðức Giêsu cao trọng hơn Môsê, như “ân sủng và sự thật” thì cao trọng hơn Lề Luật (x. Ga 1:17), và bánh trường sinh thì quý giá hơn manna ngày trước Ítraen đã ăn mà vẫn chết (x. Ga 6:49-50). Hơn nữa, theo Cựu Ước, chưa chắc gì Môsê đã thật sự thấy được Thiên Chúa (x. Xh 33:18-20); còn về Ðức Giêsu, Ga quả quyết: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha bao giờ đâu, nhưng chỉ có Ðấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Ðấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46; x. 1:18). Khác với Môsê, Ðức Giêsu không cần lên núi mới gặp được Thiên Chúa; bởi Ngài từ Trời mà xuống… (x. Ga 3:13).

Trong Kinh Thánh, trung gian điển hình của mạc khải là một ngôn sứ; các ngôn sứ thường nói: “Chúa phán…” và sau khi nói lên lời sấm thì mới được thưa “amen,” nghĩa là “đúng thế,” “tôi nhận vậy” (x. Gr 11:1-5; Ðnl 27:15-26). Còn Ðức Giêsu thì tự mình nói lên lời giảng dạy, và bắt đầu lời giảng với từ “amen, amen” (đếm được 25 lần trong Ga); như thế là để xác định rằng: “lời tôi nói là sự thật.” [44] Sâu xa hơn nữa, sách Khải huyền gọi Ðức Kitô là Amen (x. Kh 3:14) tựa như Ga 1:1 gọi là Lời, vì không chỉ đơn thuần những lời Ngài nói ra không thôi, mà trọn cả con người của Ngài chính là mạc khải.

Nếu phân biệt Kitô học thành hai loại “chức năng” và “hữu thể,” thì kitô học của Gioan thường được coi là thuộc loại “hữu thể,” và là hữu thể nhất trong Tân Ước. Tuy nhiên, Gioan cũng đã mạnh mẽ khai triển một dạng “kitô học chức năng.” Hơn các Phúc Âm khác, Gioan nhấn mạnh sự việc Ðức Giêsu đã được sai đến (40 lần trong Ga và 3 lần trong 1Ga) để cứu độ trần thế (x. Ga 3:17; 4:37; 6:39; 1Ga 4:9, v.v.). Ga cho thấy rõ bao giờ ơn cứu độ cũng “từ nơi khác” mà đến, và vừa mang tính chất siêu nghiệm (từ Trời, từ Chúa Cha), mà cũng vừa là một thực tại lịch sử (từ dân Do thái: x. Ga 4:22), dĩ nhiên không phải là một “sản phẩm bản xứ” mà là ân huệ nhưng không (x. Ga 15:5). Nếu Ðức Giêsu không “từ trên” mà xuống, thì Ngài sẽ không làm được gì để cứu độ loài người. Kitô học này thường xuất hiện qua những tước hiệu dành cho Ðức Giêsu. Nói chung, tước hiệu Ðấng Cứu thế (Ga 4 4; 1Ga 4:14) cho thấy rõ sứ mạng của Ðức Giêsu.

Ga vẫn giữ lại nhiều tước hiệu đọc thấy trong ba Phúc âm nhất lãm, như Ðấng Thiên sai, Con Người, Vị Ngôn sứ, Vị Cứu tinh… nhưng với ý nghĩa sâu xa hơn. Thật ra, Ga soạn Phúc Âm để giúp độc giả “tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để qua lòng tin ấy mà được sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:31). Vì là “Kitô” (Mêsia) nên Ngài là vua thật, tuy nhiên không phải là vua trần gian (x. Ga 18:36-37); dẫu vậy, chính trị cũng đã đóng một vai trò đáng kể trong phận mệnh Ngài (x. Ga 6:15; 19:14-15.19-22). Trong tiếng Hy lạp, “Kitô” (Khristós) đã trở thành tên riêng của Ðức Giêsu, là Giêsu Kitô mà Ga dùng đến 2 lần, và đọc thấy 4 lần trong ba Thư của Gioan. Con Người (Ga 1:51) có lẽ là tên tự xưng của Ðức Giêsu lúc sinh tiền. [45] Ga dùng tước hiệu này để tỏ rõ nhân tính Ngài là “tòa” của vinh quang Thiên Chúa. Ngài từ trời xuống, nhưng cần phải “được giương cao” như con rắn (đồng) của Môsê, để trở nên nguồn sống muôn đời (x. Ga 3:13-14). Cũng như Mt 14:27-8 và 26:64, Ga đặt tước hiệu này trong bối cảnh cánh chung: Con Người là thẩm phán, quả thế, “Chúa Cha ban cho Người Con quyền xét xử vì là Con Người” (Ga 5:22.27). Con Người nói về giờ của Ngài, là thời Con Người sẽ được vinh hiển và thế gian sẽ bị xét đoán (x. Ga 9:39; 12:23.31; 13:31). [46] Cuộc “phán xét” này hiện đang xảy ra khi một cá nhân hoặc một tập thể gặp Ðức Kitô trong thái độ đón nhận hay khước từ Ngài.

Con Thiên Chúa là tước hiệu mà Gioan nêu bật nhiều nhất: Ga gọi Ðức Giêsu là “Con Thiên Chúa” 31 lần, đó là chưa kể 21 lần trong các thư 1-2Ga. Trong Phúc Âm thứ tư đếm được 23 lần (chỉ có 4 lần trong Lc, và không có lần nào trong Mc), Ðức Giêsu gọi Thiên Chúa Cha tôi. Khi Ðức Giêsu gọi các tín hữu là “con Thiên Chúa,” tác giả phúc âm dùng từ téknon, và dành riêng từ huios để chỉ áp dụng cho Ðức Giêsu: sự khác biệt nổi bật hẳn; ý nghĩa khác biệt tiềm ẩn trong câu Ðức Giêsu nói: “Cha của Thầy và Cha của anh em” (Ga 20:17). Ga nói rõ Ðức Giêsu là Con duy nhất, là Con Một của Thiên Chúa (x. Ga 1: 14.18; 3:16.18). Trong Tân Ước, 2Ga 3 là văn bản duy nhất dùng đến cách biểu đạt sau đây: “Ðức Giêsu Kitô là Con Chúa Cha.” Quan hệ giữa Cha và Con của Người là như thế nào? – Vừa ngang nhau mà cũng vừa khác nhau. Lời trong Ga 10:30 “Tôi và Chúa Cha là một,” sẽ đưa Giáo hội tới chỗ tuyên xưng Ngài “đồng bản tính với Ðức Chúa Cha” như đọc thấy trong kinh tin kính. Ga thường trình bày cho hiểu là Ðức Giêsu ngang hàng với Thiên Chúa trong chức năng: có hình ảnh như nhau (x. Ga 14:9), cùng có chung “mọi sự” (x. Ga 16:15), cùng hoạt động như nhau (x. Ga 14:30). Phải tin như nhau vào cả hai (x. Ga 8: 10; 16:3), và có yêu mến hay thù ghét thì cũng như đối với một, không thể phân biệt (x. Ga15:23-24). Cả hai, Cha và Con, đều cư ngụ trong kẻ yêu mến Ðức Giêsu (x. Ga 14:23). Như nhau, Cha và Con biết lẫn nhau và thông chuyển vinh quang cho nhau (x. Ga 8:49-50.54; 10:15). Thần học gọi quan hệ ấy là quan hệ “tương tại,” nghĩa là “Con ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Ga 14:10).

Mặt khác, hẳn là Cha và Con khác nhau. Người Con có gì thì cũng vì đã nhận được từ nơi Cha (x. Ga 3:35; 5:20.36): từ đời sống (x. Ga 6:57) cho đến lời nói việc làm, hay giáo lý (x. Ga 8:28; 10:50; 14:24; 15:15). Trong sứ mệnh của Ðức Giêsu, sáng kiến là do Cha (x. Ga 5:19): Chúa Cha ra lệnh để Con chấp hành (x. Ga 10:18; 15:10). Ðức Kitô hoàn toàn tùy thuộc Chúa Cha, vì thế Ngài nói với các môn đồ: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Thần học sẽ lý giải tình trạng “nghịch lý” này nhờ giáo thuyết về hai bản tính của Ðức Kitô.

Ðể trình bày mầu nhiệm đa dạng của Ðức Kitô, Gioan dùng những thành ngữ: “Tôi là…” hoặc “Ngài là…” Thường thường, mỗi thuộc tính là một ẩn dụ ám chỉ tới một khía cạnh trong sứ vụ của Ðức Kitô, Ðấng Trung gian cứu độ. Ngài là: Lời, Ánh sáng, Chiên Thiên Chúa, Bánh ban sự sống, Nước hằng sống, Cây nho, v.v. Ngài là trung gian sáng tạo (x. Ga 1:3.10) và chính là mạc khải (x. Ga 1:9.18, v.v.). Vì là “con đường, sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), nên Ngài đưa dẫn loài người lên cùng Cha. Vì là “Cửa” (x. Ga 10:7.9), và là “Bánh hằng sống” nên Ngài nuôi dưỡng đàn chiên, tức Giáo hội, với “lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Cuối cùng, vì Ngài “vô tội” (Ga 8:46), nên có thể “xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29).

Ðiểm độc đáo và đạt tới tột đỉnh trong Kitô học của Gioan là giáo lý về mầu nhiệm Nhập thể. Toàn bộ Kitô học của Gioan dựa vào ý niệm này. Trong Lời tựa, Ga khẳng định rõ: “Lúc đầu đã có Ngôi Lời… và Ngôi Lời đã trở nên người phàm (xác thịt)” (Ga 1:1.14). Không đọc thấy trong Kinh Thánh một công thức nào nói lên mầu nhiệm chủ chốt ấy rõ hơn câu này. [47] Chống lại những sai lầm ngộ giáo, 1Ga đã lấy giáo lý này làm tiêu chí cho chính thống tính của Kitô giáo: “Thần khí nào tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt (= trở nên người phàm) thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1Ga 4:2), còn ai phủ nhận tín điều này “thì đó là thần khí của tên Phản Kitô” (1Ga 4:3; x. 2Ga 7). Tầm trọng yếu của giáo lý này không chỉ giới hạn ở trong phạm vi tín lý, mà còn mở rộng ra đến lãnh vực cứu độ học nữa: bởi giáo lý ấy nói lên ý nghĩa cứu độ hàm tích trong cuộc đời nhân thế của Ðức Giêsu. Ðối với Phaolô, nhập thể của Ngôi Con là tự hủy, là tự hạ nhục; còn đối với Gioan thì trái lại: nhập thể là vinh quang (x. Ga 1:14), tỏ lộ rực rỡ trong công trình Ðức Giêsu (x. Ga 2:11; 11:40), trong tác vụ giảng dạy (x. Ga 7:18; 8:54), và cả trong tử nạn mà Ga coi như là cuộc nâng cao (x. Ga 3:14; 12:32.34).

Chính vì thế mà Kitô học của Gioan được gọi là “Kitô học vinh quang” hoặc “Kitô học vinh tụng;” [48] do đó, số lớn các công thức Ga dùng, xem ra phát nguyên từ phụng vụ. Trong lúc Cựu Ước thường gắn liền vinh quang Thiên Chúa với Lề Luật (x. Xh 24:15-16), với Ðền thờ (x. Xh 40:34; 1V 8:10-11; Ed 44:4) và với kỳ công giải phóng của Giavê (x. Xh 15:5), thì Gioan quy áp vinh quang ấy cho chính bản thân của Ðức Giêsu: Ngài ban Lề Luật mới (x. Ga 13:34) và điều răn của Ngài (x. Ga 14:15.21); chính Ngài là Ðền thờ (x. Ga 2:19.21), và là Ðấng giải phóng (x. Ga 4:42; 8:36). Phụng vụ đạt đến tột đỉnh ở trên trời, khi cộng đồng vinh hiển cất cao lời tán tụng: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc” (Kh 5:12). Vinh quang cánh chung ấy, Gioan đã nhận thấy rõ ở trong cuộc đời dương thế của Ðức Giêsu (x. 1Ga 1:1-4).

Nền tảng của xác tín trên đây là niềm tin vào thiên tính của Ðức Kitô, với hệ luận là thực trạng tiên hữu của Ngài, như đã bàn trước đây. Phúc Âm thứ tư bắt đầu với lời khẳng định Ngôi Lời đã có trước thế gian (x. Ga 1:1-2; x. 17:5; 1Ga 1:1-2). Rồi tiếp đó, tác giả đã khai triển tư tưởng này bằng nhiều cách, như: khi trình thuật về sự việc Ðức Giêsu xác quyết mình có trước Abraham (x. Ga 8:58), hoặc nói rằng ngôn sứ Isaia đã thấy vinh quang của Ngài (x. Ga 12:41); và nhất là khi xác định lại Ðức Giêsu đã được sai đến, hoặc đã từ trời xuống thế (x. Ga 3:17.31; 10:36, v.v…).

Ðỉnh cao của dạng Kitô học này là thiên tính của Ðức Kitô. Trong nhiều nơi và bằng nhiều cách, Gioan nói rõ về giáo lý đó. Minh nhiên nhất là qua lời tuyên xưng của tông đồ Tôma: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28). Lời tựa cũng cho thấy rõ sự việc lúc khởi đầu đã có (Ngôi) Lời ở với Thiên Chúa, và là Thiên Chúa (x. Ga 1:1). Nhiều học giả đã cố truy tầm cho ra nguồn gốc của từ lógos (Lời) trong triết học Hy lạp, và rồi chẳng đi đến đâu. [49] Trong Kinh Thánh, có một câu hàm dung ý nghĩa tương tự, đó là câu St 1:1, và nhiều nơi khác có nói về “lời,” coi đó như là trung gian sáng tạo của Giavê (như Tv 33:6 chẳng hạn). Ðiều mới lạ là Ga hiểu về Lời như là một ngôi vị; và ngôi vị này Thiên Chúa và đã trở nên xác thịt: xưa nay chưa ai phát minh được một công thức ngắn gọn hơn và chính xác hơn để miêu tả mầu nhiệm Nhập thể. Ga ghi rằng Thiên Chúa và con người là một trong Ðức Giêsu, và đặt thiên tính của Ðức Kitô trong quan hệ mật thiết với Chúa Cha, cũng như  quy áp cho Ðức Giêsu những thuộc từ Cựu Ước dùng để trình tả về Giavê. Quả vậy, Ga 20:28 là như một bản tổng hợp các danh hiệu Cựu Ước dùng để chỉ về Thiên Chúa: Yhwh (Chúa) và Elohim (Thượng đế: gần như trong Tv 35:23: “Xin thức dậy, đứng lên xét xử và biện hộ cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ”). Nói đến thánh danh Thiên Chúa, tất sẽ nghĩ ngay đến Xh 3:14. [50] Thế mà Ga cho thấy Ðức Giêsu đã nói như Giavê: “Ta có” hoặc “Tôi hằng hữu” (Ga 8:58; 13:19): đó là chính tên của Thiên Chúa mà Chúa Cha đã ban cho Con (x. Ga 17:1. 12). Những thuộc từ khác của Thiên Chúa cũng được quy áp cho Ðức Kitô, thí dụ như “Alpha và Omega, Ðầu và Cuối” (Kh 22:13), là danh hiệu của Chúa Cha (x. Ga1:8; 21:6). Trong Kinh Thánh, danh hiệu thay thế cho ngôi vị: mang thánh danh và tước hiệu của Thiên Chúa, tức chính Thiên Chúa vậy. Do đó, cùng với Thiên Chúa, Ðức Kitô chia sẻ vinh quang (x. Kh 5:12; 7:12) và ngai vị (x. Xh 7:17; 22:1.3).

Cũng nên nêu lên một số đặc tính khác trong Kitô học của Gioan. Vì Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4:8), nên tình yêu là động cơ trong kế hoạch Thiên Chúa cứu độ. Tình yêu là nguồn gốc phát sinh của Ðức Kitô và sứ mệnh của Ngài (x. 1Ga 4:9; Ga 3:16-7); do thế mà ơn cứu độ mang được phổ quát tính vô hạn. Nếu Ðức Giêsu đã thực hiện công trình cứu độ qua việc hy sinh mạng sống mình, thì chính là vì Ngài yêu mến Cha (x. Ga 14:31), cũng như vì thương yêu, muốn mang lại ân huệ cho loài người chúng ta (x. Ga 10:11-18; 15:13). Thế nên, tình yêu giữa Thầy và các môn đồ làm cho công trình ấy tồn tại (x. Ga 15:9-10). Và tình yêu thương nhau giữa các môn đồ chính là bằng chứng cho thế gian nhận biết Thầy mình (x Ga 13:34-35). Thật vậy, Ðức Giêsu là ân huệ của tình yêu Chúa Cha ban xuống cho con người (x. Ga 3:16; 4:10, v.v…).

“Cứu chuộc” không phải là thuật ngữ của Gioan; quả vậy, chỉ đơn thuần đọc thấy trong Kh 5:9 câu của một ca vịnh tán tụng Con Chiên “đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người.” Vì thế, đôi lúc Kitô học của Gioan bị phê bình là đã bỏ sót công trình cứu chuộc và mầu nhiệm Phục sinh, để nêu bật quá đáng mầu nhiệm Nhập thể. Ðể làm cho sáng tỏ vấn đề, xin được lưu ý về một vài điểm như sau:

1) Như đã trình bày trước đây về giờ của Ðức Giêsu: đó là lúc Ngài trải qua hành trình đi từ thế gian về với Cha; và giờ đó chính là ngày lễ Vượt qua (x. Ga 13:1). Hẳn là Gioan nhìn cuộc tử nạn trên thập giá trong nhãn quan của sự sống lại; vì thế, việc “nâng lên” ấy là hành động mang lại vinh quang cho Ðức Giêsu, cho dù “cần thiết” phải đi qua con đường chết chóc (x. Ga 12: 34) kinh hãi (x. Ga 12:27).

2) Dạng Kitô học “thấp” của 1Ga đã lưu ý đến ý nghĩa cứu độ của nhân tính và đời sống Ðức Giêsu, là Ðấng “đã đến trong xác thịt.” Mặt khác, máu đào của Ðức Kitô xuất hiện như giá cứu chuộc chúng ta: “rửa sạch tội lỗi” (1Ga 1:7; x. Kh 1:5; 5:9; 7:14; 12:11; 22:14). Quả thế, Ngài “đã đến nhờ nước và máu” (1Ga 5:6), tượng trưng cho cuộc chịu chết trên thập giá (x. Ga 19:34). Và cuối cùng, Ðức Giêsu là “Con Chiên đã bị giết” (Kh 5:6.12; 13:8).

Gioan quan niệm việc cứu chuộc như là hy lễ đền tội thay cho loài người chúng ta (x. 1Ga 2:2; 4:10), [51] không khác chi với thư Rôma và Do thái (x. Rm 3:25; Dt 9:14.28; 10:12). Dù Gioan không gọi Ðức Kitô là tư tế, nhưng cũng đã giới thiệu Ngài như là Ðấng cầu thay nguyện giúp trên trời (x. 1Ga 2:1; Dt 7:25). Ðó là ý nghĩa về Con Chiên đang đứng trước ngai Thiên Chúa (x. Kh 5:6). Kết quả của việc cứu chuộc được truyền thông cho chúng ta một cách hữu cơ, y như cây chuyền nhựa sống cho các nhánh. Chúa Con chia sẻ tất cả cho loài người: Vì là Con, nên Ðức Kitô ban khả năng cho con người trở nên con cái Thiên Chúa (x. Ga1:12), tức là chia sẻ tử hệ (Chúa Cha, Mẹ Ngài, Thần Khí), chia sẻ chính mình Ngài (mình máu trong Thánh thể), và chia sẻ sứ mệnh của chính Ngài (giáo lý, quyền năng, thân phận).

Dạng Kitô học này còn bất toàn nếu sót mất Thần Khí. Theo Gioan, Thánh Thần thay mặt Ðức Kitô trong lịch sử loài người để tiếp tục công trình cứu độ (x. Ga 14:16tt.26; 15:26; 16:8tt). Ðấng bảo trợ là Vị đại diện Ðức Kitô trong sứ mệnh, để làm chứng cho Ngài và để giải thích chân lý của Ngài; làm như vậy là Thần Khí phán xét thế gian (x. Ga 16:8-11). Thần Khí là ân huệ của Cha (x. Ga 14:16) và của Con (x. Ga 15:26), kết quả của sự tôn vinh Ngài (x. Ga 7:39). Thần Khí cư ngụ trong các môn đệ (x. Ga 14:17), y như Cha và Con cư ngụ nơi họ vậy (x. Ga 14:23).

Như vậy, Kitô học của Gioan mở ra một viễn cảnh lạc quan, và đầy hứa hẹn về hạnh phúc cho tương lai: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29). Dựa vào Kitô học này, Giáo hội đã khai triển giáo lý để minh định qua kinh tin kính, Ðức Kitô là: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng.”
 


[20] Không kể ra hết được các sách viết các dạng này vì quá nhiều; ở đây, chỉ xin đề nghị một số tác phẩm dễ đọc hơn cả: McKenzie, J.L., The Power and the Wisdom. An Interpretation of the New Testament, Milwaukee: The Bruce P.C., 1965; Dunn, J.D.G., The Evidence for Jesus, Philadelphia: Westminster 1985; Witherington, B., The Christology of Jesus, Philadelphia 1990; Harrington, W., The Jesus Story, Collegeville: M.Glazier 1991; Fitzmyer, J. A., A Christological Catechism, New York: Paulist Press 1991; Caird, G.B., New Testament Theology…

[21] Phillips, J. B., Peter’s Portrait of Jesus, Abingdon 1976; Lamarche, P., Révélation de Dieu chez Marc, Paris 1976; Robbins, V. K., Jesus the Teacher. A Socio-Rhetorical Interpretation of Mark, Minneapolis: Fortress 1992;  Juel, D.H., “The Origin of Mark’s Christology,” trong  Charlesworth, J.H. (ed), The Messiah, tr. 449-460;  Myers, Ched, Binding the Strong Man. A Political Interpretation of Marks’s story of Jesus, Maryknoll 1995; Telforf, W. R. (ed), The Interpretation of Mark, Edinburgh: T&T Clark 1995.

[22] Xin xem Hooker, M. D., The Son of Man in Mark, London: SPCK 1967.

[23] Xin xem Kim, Song, ‘The Son of Man’ as the Son of God, Grand Rapids: Eerdmans 1983.

[24] Xin xem Minette de Tillesse, G., Le secret messianique dans l’évangile de Marc, Paris: Lectio Divina 47, 1968; Tuckett, C. M., (ed), The Messianic Secret, Philadelphia 1983 và Kertelge, K., “The Epiphany of Jesus in the Gospel (Mark),” trong Telford W. R., The Interpretation… tt. 105-123; Raisanen, H., The ‘Messianic Secret’ in Mark, Edinburgh: T&T Clark 1990.

[25] Xin xem Bible de Jerusalem (Jerusalem Bible) Xh 33:20 và chú thích; Derousseaux, L., La crainte de Dieu dans l’Ancient Testament, Paris: Lectio Divina 63, 1970.

[26] Xin xem Kingsbury, J. D., Matthew: Structure, Christology, Kingdom, Minneapolis: Fortress 1975; Léon-Dufour, X., L’évangile selon saint Matthieu, in A. George-P. Grelot, Introduction à la Bible, III/2, Paris 1976; Meier, J. P., The Vision of Matthew, New York: Crossroad 1979; Harrington, D. J., The Gospel of Matthew, The Liturgical Press 1991; Deutsch, Celia M., Lady Wisdom, Jesus, and the Sages, Valley Forge: Trinity Press 1996.

[27] R.H. Gundry, The Use of the Old Testament in Matthew’s Gospel,  Leiden: Brill 1967; G.M. Soares-Prabhu, The Formula Quotations in the Infancy Narrative of Matthew, Rome: PBI 1976.

[28] Xin xem Tân Ước do Nhóm Phiên Dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ, Sàigòn 1994, những chú cước về Mt 1:1tt.

[29] S. Byrskog, Jesus the Only Teacher, Stockholm: CBNTS 24, 1994.

[30] Gọi là Q (tiếng Ðức Quelle = nguồn) một văn kiện mà nhiều nhà chú giải giả thiết là đã phải có (dù không ai đã đọc thấy), để giải quyết vấn đề nhất lãm theo thuyết hai nguồn văn.

[31] E. Franklin, Christ the Lord: A Study in the Purpose and Theology of Luke-Acts, Philadelphia: Westminster 1975.

[32] Xin xem Wilcock, M., Savior of the World. The Message of Luke’s Gospel, Intervarsity Press 1979; Conzelmann, H., The Theology of St. Luke, Philadelphia: Fortress 1982; Schneider, G., Lukas, Theologie der Heilsgeschichte, BBB 59, 1985; Fitzmyer, J., The Gospel According to Luke, (3. Vols.) New York 1981-86; Neyrey, H. (ed), The Social World of Luke-Acts, Hendrickson Publ. 1991; Harrington, Wilfrid J., Luke: Graceful Theologian. The Jesus of Luke, The Columba Press 1997.

[33] Xi xem tác phẩm nổi tiếng của Conzelmann, H., Die Mitte der Zeit, Tuebingen 19645.

[34] Dunn, J. D. G., Jesus and the Spirit, London 1975, tt. 157tt.

[35] Strauss, M. L., The Davidic Messiah in Lukes-Acts: The Promise and Its Fulfillment in Lukan Christology, Shefield 1995.

[36] Hoffman, Elke, “Jesus – the embodiment of God’s compassion,” Jeevadhara 27 (1997) 173-187.

[37] Sabugal, S., Christos: Investigación exegética sobre la cristología joannea, Barcelona: Herder 1972; Mueller, U. B., Die Geschichte der Christologie in der johanneischen Gemeinde, Stuttgart 1975; De la Potterie, I., La vérité dans Saint Jean, (2 vols.) Rome: Bibl. Inst. 1977; Maloney, F. J., The Word Became Flesh: A Study of Jesus in the Fourth Gospel, Dublin 1977; Kysar, R., John’s Story of Jesus, Philadelphia: Fortress 1984; Thompson, M., The Humanity of Jesus in the Fourth Gospel, Minneapolis: Fortress 1988; Neyrey, J., An Ideology of Revolt: John’s Christology in Social-Science Perspective, Minneapolis: Fortress 1988; Boismard, M.-E., Moðse ou Jésus: Essai de Christologie Johannique, Leuven 1988; Loader, W., The Christology of the Fourth Gospel, Frankfurt: Peter Lang 1989.

[38] Forestell, J. T., The Word of the Cross: Salvation as Revelation in the Fourth Gospel, Rome: Biblicum 1974; O’Day, G., Revelation in the Fourth Gospel. Narrative Mode and Theological Claims, Philadelphia: Fortress 1989.

[39] Xin xem Mollat, D., La Parole et l’Esprit. La Vie et la Gloire, Paris 1980.

[40] Willett, M.E., Wisdom Christology in the Fourth Gospel, San Francisco: Mellen 1992.

[41] Xin xem G 11:6-7; Kn 6:22; 8:4; 9:9-10.16-18; Cn 8:7, v.v.

[42] Xin xem Petersen N. R., The Gospel of John and the Sociology of Light, Trinity Press 1993.

[43] Xin xem  Ga 1:17; 3:14; 5:45-47; 6:31-32.49-50; 7:19.22-23; 9:28-29.

[44] Hasler, V., Amen, Zurich-Stuttgart 1969; Strugnell, J. “Amen, I say unto you,” Harvard Theo. Rev., 67 (1964) 177-182.

[45] Maloney, F. J., The Johannine Son of Man, Rome: LAS 1978. Theo một ít tài liệu Do thái, lúc bắt đầu xuất hiện, amen có nghĩa là: đó là lời có uy thế.

[46] Xin xem, Feuillet, A., “L’heure de Jésus et le signe de Cana,” Eph. Theol. Lov. 36 (1960) 5-22; de la Potterie, I., The Hour of Jesus. The Passion and the Resurrection of Jesus According to John, New York: Alba House 1989; Beutler, J., “Greeks Come to See Jesus (John 12:20f),” Biblica 71(3,1990) 333-347.

[47] Lamarche, P., “Le prologue de Jean,” Rev. de Scienc. Rel. 52 (1964) 497-537; Maloney, F. J., Belief in the Word. Reading John 1-4, Minneapolis: Fortress 1993.

[48] “Christology of Glory,” “Doxological Christology.” 

[49] Klappert B.(et alii), “Word” trong Brown C., (ed) The New Intern. Dict. of N.T. Theol., Grand Rapids: Zondervan 1979, 1081-1146; Cahill, P. J., “The Johannine Logos as Center,” Cath. Bibl. Quart. 38 (1976) 54-72; Evans C. A.,Word and Glory. On the Exegetical and Theological Background of John’s Prologue, Sheffield 1993.

[50] Là thành ngữ khó dịch nhất ra tiếng Việt: Cha Thuấn dịch: “Ta có sao Ta có vậy” và đại từ ngôi thứ nhất là “Ta có.” Nhóm Phiên dịch các giờ kinh dịch ego eimi bằng “Tôi hằng hữu.” Xem Harner, P. B., The “I Am” of the Fourth Gospel, Philadelphia: Fortress 1970.

[51] Lyonnet, S., “The Noun hylasmos in the Greek Old Testament and in 1John,” trong S. Lyonnet–L. Sabourin, Sin, Redemption, and Sacrifice, Rome: Biblicum 1970, tt. 148-155; Clavier, H., “Notes sur un mot-clef du johannisme et de la sotériologie biblique: hylasmos,Novum Testamentum 10 (1968) 287-304.