Thần Khí Trong Thế Giới (7/2)

0
754


KHÁI LUẬN THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

Tác giả: Lm. Felipe Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

PHẦN VII: THẦN KHÍ TRONG THẾ GIỚI

 
 
V. CHÚA THÁNH THẦN VÀ VẺ ĐẸP

Chân và Mỹ luôn kề vai sát cánh bên nhau, tâm đầu ý hợp với nhau; bởi đó, Thần Khí Sự thật cũng là Thần Khí vẻ Đẹp.[25] Từ thuở tạo thiên lập địa (x. St 1:2), Thần Khí Tạo dựng đã được giới trình như là Đấng biến đổi khối vật chất hỗn độn ban đầu, làm cho nó trở nên một vũ trụ có trật tự, hài hòa, khả tri khả cảm đối với trí óc và các giác quan con người; và con người gọi đó là vẻ đẹp; vẻ đẹp luôn là thứ sản phẩm của tình yêu. Truyền thống Giáo hội cũng đã liên kết Chúa Thánh Thần với vẻ đẹp.[26] Chiêm ngắm công trình sáng tạo đượm nhuần Thần Khí, Thiên Chúa thấy nó tốt và đẹp; diễn tả ý niệm “đẹp” mà tiếng Do thái gọi là “tốt” (x. St 1:4tt); do đó, các dịch giả bản Kinh Thánh Bảy mươi đã dùng từ Hylạp kalós (đẹp), thay vì dùng từ agathós (tốt). Bởi đó, nghệ thuật cốt ở việc minh họa vẻ đẹp của thiên nhiên theo những cách thức mà nghệ sĩ – được óc sáng tạo gợi hứng – thấy hài lòng, thỏa ý nhất; nghệ thuật là một dạng biểu lộ niềm tin vào công trình tốt đẹp do chính tay Thiên Chúa làm nên. Công trình sáng tạo phản chiếu dung mạo của Đấng Tạo dựng. Thánh Âugu­ti­nô diễn tả điều này như sau: “Lạy Chúa là Đấng tuyệt mỹ, Người đã dựng nên các thụ tạo và chúng cũng mang vẻ mĩ miều; Người là Đấng tốt lành, và các thụ tạo của Người cũng tốt lành; Người hiện hữu, và nhờ đó, các thụ tạo của Người được tồn tại.”[27]

Nhìn thế giới với cặp mắt đức tin, người kitô có thể phỏng đoán được rằng hễ thứ gì chứa đầy Thần Khí hơn, thứ đó sẽ đẹp hơn. Có vậy mới hiểu lý do vì sao Đấng được lãnh nhận Thần Khí cách vô ngần vô hạn (x. Ga 3: 34), được gọi là người tuyệt mỹ vô song giữa con cái loài người: Đức Kitô (x. Tv 45:3).[28] Cách tương tự, Đấng mà người kitô ca mừng là “đầy ơn phúc” cũng được Giáo hội tung hô là tota pulchra, tuyệt mỹ: Đức Maria, người phụ nữ được hầu hết các họa sĩ – thuộc các thời đại khác nhau trong dòng lịch sử nhân loại – phác họa chân dung; chiêm ngắm Mẹ giữa khung cảnh lộng lẫy của Thiên đàng, Đantê đã ví vẻ đẹp của Mẹ như là “niềm hân hoan tràn dâng trong đôi mắt hết thảy các Thánh.”[29] Rồi đến lượt các Thánh cũng vậy: vẻ đẹp của các ngài được phản ánh trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật; điều đáng lưu ý là các tác phẩm nghệ thuật này đã lý tưởng hóa chân dung thực sự – đôi khi lại có vẻ xấu xí, xét theo những tiêu chuẩn thông thường – của các ngài, bởi vì ánh diệu quang của Thần Khí đã chiếu giãi trên cuộc đời các ngài. Các tranh ảnh thánh theo nền linh đạo Chính thống được coi như những hiện thân thu nhỏ của vinh quang – vẻ đẹp – Thiên Chúa. Một cách tự nhiên, các trẻ thơ được quan niệm như là những thụ tạo đẹp đẽ và nguyên tuyền của Thiên Chúa. Vẻ đẹp thiêng liêng vượt trỗi lên trên dáng vẻ đẹp đẽ bên ngoài, vì nó trực tiếp phản ánh vẻ đẹp của chính Thiên Chúa, như nó được chiếu giãi lên trên Thân Mình Đức Kitô. Cư ngụ trong tâm hồn người kitô, Thánh Thần – theo cách diễn tả của thánh Xyrilô – “không phải là một họa sĩ tìm cách ghi khắc vào chúng ta dấu vết bản chất thần linh như thể là Người không là chính bản chất ấy? Đó không phải là cách thức Người tạo nên bức chân dung thần linh nơi chúng ta; nhưng, vì là Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà ra, Người in chính bản thân Người vào tâm hồn những kẻ lãnh nhận Người, hệt như con dấu niêm trên mảnh sáp vậy,… và nhờ đó, Người phục hồi thiên nhiên vạn vật để chúng mặc lại vẻ đẹp của mẫu mực thần linh, và trả lại cho con người hình ảnh Thiên Chúa.”[30]

Đức tin là ân huệ đầu tiên của Chúa Thánh Linh; Người không giúp thì không ai có khả năng tuyên xưng Đức Giê­su là Chúa! Nghiên cứu về đức tin, thần học chú trọng chủ yếu vào chân lý; chính nhờ Hans Urs Von Balthasar thì mới mở ra được chiều kích “thẩm mỹ thần học,” qua việc mời gọi tín hữu chiêm ngắm vẻ đẹp của Thiên Chúa và tận hưởng niềm tin.[31] Chính vẻ đẹp của đức tin đã đưa đến chỗ tìm ra cách biểu đạt và làm phát sinh không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật lạ lùng. Thử nhìn lại các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, như chẳng hạn các nhà thờ chính tòa, các tác phẩm hội họa và điêu khắc, hoặc là những lối trang họa các bộ sách thời Trung cổ cũng như vẻ quang ánh của các thánh giá kiểu Êtiôpi; nơi các tác phẩm ấy, nổi bật vẻ đẹp của đức tin được điêu khắc chạm trổ cực kỳ tinh tế đẹp đẻ. Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta nhận thức được Kitô giáo bằng phạm trù thẩm mỹ, và như thế cảm nghiệm được niềm vui trong địa vị làm con Thiên Chúa. Có lẽ gốc rễ của tình trạng khủng hoảng hiện nay nằm tại chỗ này. Chẳng thế mà, các giám mục Châu Mỹ Latinh đã cầu xin: “Thưa lên cùng Chúa Thánh Linh lời kêu cầu đầy tin tưởng, chúng ta xin Người làm sao cho chúng ta tìm lại được vẻ cao đẹp và niểm vui của danh phận làm kitô hữu” [32]

Trong bức thư gửi giới nghệ sĩ, Đức Gioan Phaolô II đã viết rằng: “Thần Khí là Nghệ sĩ huyền diệu của vũ trụ.”[33] Vẻ đẹp của các tầng trời luôn là nguồn gợi hứng cho các thi sĩ, như tác giả Thánh vịnh đã xác nhận: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19:1; x. 57:5.11, v.v.), và trầm trồ coi đó là một kỳ công: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài…” (Tv 8:4). Chỉ mới chiêm ngưỡng bầu trời bằng cặp mắt thường mà họ đã lấy làm kinh ngạc như vậy rồi, huống hồ là được ngắm vũ trụ qua những chiếc kính viễn vọng hiện đại: ắt họ sẽ còn nghiêng mình kính cẩn đến đâu nữa! Vì Thần Khí là Đấng hoàn tất các công trình của Thiên Chúa, nên hẳn là Người sẽ không cảm thấy hài lòng với một vũ trụ chỉ đơn thuần thuộc hạng “chạy được”; nó còn phải trở nên huy hoàng, tuyệt mỹ nữa thì mới được. Tuy nhiên, vì vẻ đẹp chỉ hiển hiện trong mắt người xem, nên Thần Khí còn tạo nên những đôi mắt biết cách chiêm ngắm và reo vui với vẻ đẹp ấy nữa; thiếu bóng con người, vũ trụ sẽ hóa ra vô nghĩa. Vả lại, vẻ đẹp của vũ trụ và khoái cảm thẩm mỹ của con người chỉ thực sự mặc lấy ý nghĩa nơi Thần Khí vẻ Đẹp là Đấng dựng nên cả hai. Dù vậy, trước ai hết, Thần Khí Sáng tạo – nguồn gốc của mọi khiếu năng thẩm mỹ – là Đấng sững sờ trước nét hùng vĩ của các dải ngân hà, ngất ngây trước vẻ nên thơ của những buổi hoàng hôn. Sách Châm ngôn mô tả việc Đức Khôn Ngoan – Thần Khí – hân hoan thưởng ngoạn công trình tạo dựng của Thiên Chúa: “khi Người định ranh giới cho biển, để nước khỏi tràn bờ, khi Người đặt nền móng cho đất. Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả. Ngày ngày, ta là niềm vui của Người; trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi; vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người” (Cn 8:29-31).

Dù lấy làm kinh ngạc khi ngắm nhìn vẻ tươi đẹp của thiên nhiên, nhưng con người vẫn mơ về một thế giới tốt đẹp hơn thế nữa. Thần Khí – Đấng đang rên siết trong muôn loài thụ tạo (x. Rm 8:25) – đã báo trước và cũng hứa rằng một thế giới tốt đẹp hơn là điều có thể trở thành hiện thực. Tiên tri Isaia đã tiên báo: “Cho đến ngày, từ trên cao, Thần Khí sẽ được đổ xuống trên chúng ta; bấy giờ, sa mạc sẽ trở nên vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ được coi như một cánh rừng. Lẽ chính trực sẽ ở trong sa mạc, và đức công minh trong vườn cây ăn trái” (Is 32:15-16). Thần Khí hoạt động trong khoảng căng giữa tiềm năng và hiện thể, giữa hạt giống và hoa trái, giữa triển vọng và thành quả; Giáo hội chính là khu vực đặc biệt để Thần Khí tiến hành các hoạt động kia. Đức Cha Tom Wright – giám mục Anh giáo, giáo phận Durham – đã viết như sau: “Vẻ đẹp của thế giới hiện tại cũng giống vẻ đẹp của một chén thánh: tự mình, chén thánh đã đẹp rồi, nhưng nó còn đẹp hơn nữa vì chúng ta biết được mục đích của nó là để đựng Máu Chúa. Vẻ đẹp của thế giới hiện tại cũng giống vẻ đẹp của một cây vĩ cầm: tự mình, cây vĩ cầm đã đẹp, nhưng nó còn đẹp hơn nữa vì chúng ta biết rằng nó được thiết kế nên là để chơi nhạc.”[34] Thần Khí là chiếc “động cơ” đẩy Giáo hội và toàn thể nhân loại tiến về một thế giới tốt đẹp hơn. Chiếc “động cơ” này đã được “lắp vào” các ngôn sứ, các thiên tài, những thi sĩ và những người có đầu óc nghệ sĩ khác.

Nơi dòng văn chương ngôn sứ, có thể lượm lặt được biết bao là các “viên ngọc” của vẻ đẹp; thử lấy sách Isaiah làm điển hình: chẳng hạn, cuộc thần hiển oai nghiêm được mô tả rõ ràng xuyên suốt chương 6; hay, giấc mơ đẹp đẽ về cảnh hài hòa của thiên nhiên, trong đó, sói sẽ ở với chiên con, beo sẽ nằm bên dê nhỏ, trẻ thơ chơi với rắn lục… (x. Is 11:6-9; 65:25); hoặc, Thiên Chúa được trình họa như là “vòng hoa diễm lệ cho số còn sót lại của dân Người” (28:5); hoặc, niềm hân hoan sau cảnh lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo tin mừng” (52:7); v.v. Còn nhắc đến các thi sĩ, ắt phải nhớ ngay đến thánh phó tế Ephrem, người được gọi là “Cây đàn Lia của Chúa Thánh Thần.” Thánh Gioan Thánh Giá thì mô tả cảnh Đức Kitô băng ngang một cánh rừng và “chỉ nguyên hình ảnh Người thôi cũng đủ khoác vẻ đẹp lên cả khu rừng.”[35] Nhiều thi sĩ khác, sống gần với thời hiện đại hơn, như Keats chẳng hạn, thì quả quyết ngắn gọn như sau: “Vẻ đẹp là chân lý, chân lý là vẻ đẹp: đó là tất cả;”[36] hoặc Gerard Manley Hopkins, một Giêsu hữu, đã đưa Thần Khí vào trong toàn bộ các tác phẩm văn thơ của mình;[37] và còn rất nhiều thi sĩ khác nữa. Óc sáng tạo của những bậc thiên tài luôn làm cho nhiều người phải thấy kinh ngạc, sửng sốt; ở đây, có thể trích dẫn câu nói của A. Einstein làm điển hình: “Các lý tưởng hằng soi đường dẫn lối tôi đi – và đã tiếp thêm cho tôi lòng can đảm mới mẻ để đối diện với cuộc đời trong niềm hân hoan, phấn khởi – chính là cái Thiện, cái Mỹ và cái Chân.”[38] Hết thảy những con người thuộc dạng vừa nêu, là những khí cụ Thần Khí chọn lựa để tạo hình một tân thế giới.

Còn trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình, Thần Khí cũng hoạt động tích cực không kém. Trong sách Xuất hành, có một văn đoạn đáng lưu ý như sau: “Ngươi hãy coi: Ta đã gọi đích danh Bơxanên con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa. Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa, để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc” (Xh 31:2-5; 35:30tt). Việc Thiên Chúa truyền hứng cho các nghệ sĩ cũng tương tự như tác động linh ứng trên các ngôn sứ, vì công việc của các nghệ sĩ cũng nhắm đến vinh quang Người; và vinh quang này chiếu giãi trên vẻ đẹp của vạn vật. Bước vào Vương cung Thánh đường thánh Phêrô và chiêm ngưỡng bức vẽ “Vinh quang” với hình ảnh chim câu của Chúa Thánh Thần, người ngắm được mời gọi nhìn đằng sau vẻ đẹp lộng lẫy nơi bức vẽ kia để khám phá ra Đấng Gợi hứng cho các nghệ sĩ. Có thể cảm nhận được nguồn gợi hứng kia khi chiêm ngắm Vương cung Thánh đường thánh Phêrô đồ sộ, nguy nga, hay công trình “Vinh quang” của Bernin với chim bồ câu, biểu tượng của Thần Khí ở nơi hậu cung, khi nhìn Nhà nguyện Sixtine lộng lẫy, tráng lệ, khi đứng trước một bức họa của El Greco, trước một ảnh tượng của Rublev, hoặc trước những đường chạm hoa mỹ của Rubens, v.v. Bên cạnh đó, như người ta thường nói, âm nhạc mang tính chất “tinh thần” nhiều hơn; và có vẻ đúng là như vậy; lắng nghe những bản fuga của Bach, những giai điệu minuet của Mozart, hay hàng loạt các bản tấu dặt dìu của Beethoven, người nghe buộc lòng phải nâng tâm hồn mình vượt cả lên trên những âm thanh kia để rồi chỉ còn lắng nghe tiếng thì thầm khe khẽ của Thần Khí. Đức Gioan Phaolô II đã diễn tả điều này như sau: “Mỗi một nguồn cảm hứng đích thực đều chứa đựng ít nhiều sức rung động của “hơi thở” mà Thần Khí Sáng tạo đã thổi lan tràn khắp công trình tạo dựng ngay từ lúc khởi nguyên… Bởi đó, quả đúng khi nói – dù là theo cách loại suy – đến ‘những khoảnh khắc ân sủng’, vì nhân loại có thể kinh nghiệm được, bằng cách thức nào đó, Thiên Chúa Tuyệt đối, Đấng trỗi vượt hoàn toàn.”[39]

Giáo hội đã yêu mến nghệ thuật ngay từ những thời kỳ tín hữu kitô còn sống chui nhủi trong các hang toại đạo. Những kẻ chủ trương bài trừ ảnh thánh đã bị kết án như một dạng lạc giáo. Tìm được mảnh đất dụng võ nơi các giáo đường kitô, ở cả bên Đông lẫn bên Tây, vẻ đẹp hiển hiện không chỉ nơi các công trình kiến trúc bên ngoài, mà còn ở nơi các bức họa và bức tượng, các đường chạm trổ cực kỳ xảo diệu nơi các đồ dùng phụng tự, hay những đường trang trí khéo léo nơi các lễ phục phụng vụ.[40] Những chỉ dẫn viết bằng chữ đỏ trong phụng vụ cũng cho thấy óc thẩm mỹ tinh tế; cung cách cử hành Thánh Lễ cũng được gọi là Ars celebrandi, “Nghệ thuật Cử hành”. Phụng vụ cũng sản sinh ra những bản bình ca tuyệt vời, những hình thức rước kiệu sinh động, những nghi thức long trọng và nhiều thể thức thờ phượng đa dạng, phong phú; tất cả đều là những ân huệ do Thần Khí, Đấng làm cho chúng trở nên sống động. Tất nhiên, Thánh Lễ không phải là một thứ “sô diễn” hoặc một kiểu “kinh nghiệm liệu pháp nhóm”, nhưng là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, và là nơi mà vẻ đẹp đóng giữ một vai trò hết sức quan trọng.

Phụng vụ là nơi Thần Khí được tập trung mạnh nhất; và mọi vẻ đẹp tuôn trào từ sự hiện diện đầy tràn đó, biến đổi không và thời gian trở thành một dạng đền thờ. “Một dạng phụng vụ mặc lấy vẻ đẹp đích thực sẽ giúp tiến vào dạng ngôn ngữ đức tin đặc thù được cấu thành từ những biểu tượng cùng những gì mà mầu nhiệm đang được cử hành khơi gợi lên… Vẻ đẹp của phụng vụ… trước hết là vẻ tuyệt mỹ nơi cuộc gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa, hiện diện giữa loài người qua hoạt động trung gian của Con, Đấng ‘vô song tuyệt mỹ giữa con cái loài người’ (Tv 45:3)… là vẻ đẹp của một mối hài hòa được diễn tả qua những cử chỉ, biểu tượng, lời nói, hình ảnh và các giai điệu có sức đánh động tâm hồn và gợi dậy lòng kinh ngạc và khát khao gặp gỡ Chúa phục sinh, chính là Mỹ Môn (Door of Beauty).”[41]

Nếu được nhìn dưới ánh sáng của cánh chung học, ắt vẻ lộng lẫy của cái đẹp – mà Chúa Thánh Thần đã ghi khắc trên Giáo hội, cách riêng là nơi phụng vụ – sẽ trở nên rõ ràng hơn nữa. Người kitô đã lãnh nhận dạng “ân huệ mở đầu” mà rồi đây, vào hồi chung cục, sẽ đơm bông kết trái ở thành Giêrusalem trên trời. Bình luận về thị kiến được ghi chép nơi sách Khải huyền, Đức Bênêđíctô XVI đã nói như sau: “Đó là một hình ảnh về vẻ đẹp đáng kính sợ; nơi đó, chẳng có thứ gì là thừa, vì mọi vật sẽ góp phần vào tình trạng hoàn hảo vô cùng của Thành Thánh. Qua thị kiến của mình, thánh Gioan nhìn thấy Thành “từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa” (Kh 21:10). Và bởi vì vinh quang Thiên Chúa là Tình Yêu, nên thành Giêrusalem trên trời chính là thánh tượng của Giáo hội, vô cùng thánh thiện và huy hoàng, vô tì vô vết (cf. Ep 5:27), với con tim và mỗi thành phần được thấm đượm bởi sự hiện diện của Thiên Chúa là Tình Yêu… Thánh tượng cao quý này mang một giá trị cánh chung: nó diễn tả nét huyền nhiệm của thứ vẻ đẹp vốn đã trở nên dạng thái thiết yếu của Giáo hội rồi, ngay cả khi nó chưa đạt đến tầm mức viên mãn của nó.”[42] Cử hành phụng vụ trong Thần Khí, tâm hồn thoáng cảm nhận được thực thể vĩ đại trên cao, là tiêu đích người kitô nhắm tới; nơi đó, công lý và tình yêu, chân lý và vẻ đẹp rốt cuộc sẽ trở thành duy nhất.

Ngày nay, có lẽ “con đường của vẻ đẹp” chính là nơi con người dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần nhất; đó chính là điều Đức Gioan Phaolô II đã chia sẻ với những người thuộc phong trào Canh tân trong Thần Khí: “Thời đại chúng ta đang rất cần những con người nam nữ – như những tia sáng – có đủ sức chiếu tỏa hấp lực của Tin Mừng và vẻ mỹ lệ của sự sống mới trong Thần Khí.”[43]

VI. CUỘC TẠO DỰNG MỚI

Câu cuối cùng trong kinh Tin kính – nằm trong đoạn triển khai tín khoản thứ ba: tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần – nói về cuộc phục sinh thân xác và sự sống đời đời: đó là niềm hy vọng sau hết của người kitô. Kế hoạch cứu độ của Cha, được thực hiện qua sứ mạng kết hợp giữa Con với Thần Khí, khởi sự nơi công cuộc sáng tạo và kết thúc nơi cuộc tái tạo là cuộc đưa thế giới này đạt đến cảnh giới hoàn thiện để chuyển mình trở thành “thế giới mai sau”. Ơn cứu độ mặc lấy một chiều kích vũ trụ và sẽ được hoàn tất khi “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (x. 1Cr 15:28). Cuộc tạo dựng mới, hoặc công cuộc tái tạo, thường được đặc biệt quy gán cho Thần Khí như là dạng công tác đặc thù của Người. 

Chiều kích cánh chung trong niềm tin của người kitô đóng giữ một vai trò thiết yếu đối với Kitô giáo. Niềm trông đợi “trời mới đất mới” đã được các ngôn sứ tiên báo (xem chẳng hạn, Is 51:16; 65:17; 66:22), và đã được xác nhận trong cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh: “Bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất. Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa” (Kh 21:1, 4; 22:3). Bởi đó – như lời thánh Phêrô viết – “theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3:10-13). Cuộc tái tạo ấy chính là động tác dứt điểm của Chúa Thánh Thần nhằm hoàn tất công trình của Thiên Chúa. Nếu Thần Khí là Đấng khởi sự đức tin nơi người kitô (không ai có thể tuyên xưng “Đức Giêsu là Kitô” nếu không nhờ Chúa Thánh Thần), tất Người cũng là Đấng hoàn tất đức cậy của người kitô. Niềm trông đợi đó sẽ thực sự hóa thành hiện thực vào hồi Quang lâm, lúc Chúa sẽ đến để hoàn tất lịch sử.

Trong khi đó, người kitô đang sống trong một niềm cậy trông có sức đem lại ơn cứu độ – như thánh Phaolô nói: “nhờ niềm trông cậy mà chúng ta được cứu” (Rm 8:24) – và do đó, người kitô phải ý thức rằng ơn cứu độ này đang hiện diện bên trong bản thân mình.[44]

Ở đây chúng tôi bàn đến chiều kích “thần khí” của thiên nhiên và lịch sử như là một công trình đang được thực hiện và đang tiến đến chỗ thành tựu. Hoạt động sáng tạo hiện tại của Thiên Chúa nơi thế giới này không đơn thuần nhắm đến việc bảo tồn, duy trì, nhưng còn nhằm vào việc chuẩn bị nữa. J. Moltmann lưu ý rằng “creatio nova là chính cre­a­­­­tio anticipativa. Hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa trong dòng lịch sử là hành động tiên báo cuộc hoàn tất trong thời gian… Mạc khải về Thiên Chúa trị vì trong dòng lịch sử đã khởi sự cuộc hoàn tất công trình sáng tạo là Nước Thiên Chúa.”[45] Hiện tại, “cuộc sáng tạo mới” đơn thuần chỉ là sự hiện diện ngày một đầy tràn hơn của Nước Thiên Chúa ở giữa nhân loại: tựa như một hạt giống được gieo xuống đất mà nảy mầm lên đòng lúa cách ta không hiểu (Mc 26-29); như men vào bột (Mt 13:33); như kho tàng giấu trong ruộng (Mt 13:44), v.v. Cuộc sáng tạo mới này quả thực đã hiện diện rồi: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới” (2Cr 5:17), nhưng chưa được hoàn tất trong mức viên mãn mà Thiên Chúa đã định liệu trong tình yêu của Người.

Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi, và việc canh tân thế giới được thiết lập một cách bất khả phục hồi và thực sự đã được bắt đầu một cách nào đó ngay tự bây giờ” trong Giáo hội (LG 48), và rằng người kitô đang sống trong “những ngày cuối cùng”, tức là những ngày dư tràn Thần Khí. Thánh Phêrô thấy rằng những ngày cuối cùng này đã được khai mở trong cuộc Hiện Xuống đầu tiên (Cv 2:16tt), lúc Giáo hội sơ khai cảm nghiệm được sức hoạt động mạnh mẽ của Thần Khí, vốn là điều cần thiết phải có để Giáo hội có thể đâm rễ vào trong thế giới; tuy nhiên, hoạt động ấy đã không chấm dứt ở đó, để rồi trong lúc này đây, người kitô đang chứng kiến lại một sức tác động ồ ạt của Thần Khí nhằm cứu vớt “lòng tin bé mọn” của chúng ta; và Người sẽ tiếp tục hoạt động như thế, theo những cách thức đa dạng và tự do, cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang để thu hoạch những gì Người đã gieo trồng. Chúa Thánh Thần đã đến với Đức Ma­ria để làm cho Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng ngài; cũng vậy, Người đến với Giáo hội, để làm cho Nước Thiên Chúa nhập thể vào trong cung lòng Mẹ Giáo hội. Lúc Con trở thành người, là khi vĩnh cửu đi vào thời gian và biến đổi ý nghĩa, nội dung và phương hướng của nó: không còn có thêm những chu kỳ nữa ngoài một tiêu đích, để trở thành Thân Mình Đức Kitô, là Đầu của nó.

Đức Giêsu Kitô phục sinh mang tính cách tiên báo không những về cuộc phục sinh của chúng ta, mà còn về cuộc giải phóng chính các thụ tạo ra khỏi cảnh trạng nô lệ khiến phải hư nát. Các cuộc khủng hoảng Giáo hội phải đương đầu (các cuộc bách hại, đánh mất đức tin, các bê bối, v.v.) là những cơn chuyển mình đau đớn để sinh ra một thế giới mới, thế giới mà Đức Phaolô VI gọi là “nền văn minh tình yêu”. Phần tư cuối cùng của thế kỷ 20 đã nhìn thấy niềm hy vọng hiển lộ nơi những trào lưu tư tưởng mới, chẳng hạn như nền thần học giải phóng, nơi các phong trào mới, như phong trào canh tân đoàn sủng, hoặc nơi các thực tại mang tính cách toàn cầu: tất cả đều đang tạo ra tình huynh đệ giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa và giữa các tôn giáo với nhau… Niềm hy vọng này là một ân huệ của Thần Khí nhằm chuẩn bị cho một bộ mặt địa cầu mới mẻ.[46]

Đối với cặp mắt đức tin, vũ trụ đang tham dự vào một quá trình biến đổi bản chất, tương tự – dù phải thú nhận đây là kiểu so sánh khá khập khiễng – như phép Thánh Thể: Chúa Thánh Thần làm cho diễn ra trong Bí tích một cuộc giao hòa mang tính cách hoàn vũ đích thực giữa vật chất và tinh thần, giữa thụ tạo với Đấng Tạo hóa, giữa thời gian và vĩnh cửu; chính ở cuộc sống hiện tại này, đất trở nên trời, dù chỉ mang tính cách bí tích. Trong bí tích Thánh Thể, những tiềm năng khả thể của vật chất đạt đến cùng hạn của nó; nơi bánh và rượu, trong một hạn độ nhất định, thế giới được thánh hiến, như Teilhard de Chardin đã từng diễn tả.[47] Giáo hội là bí tích của thế giới mới này: đây chính là giáo huấn của Vaticanô II, ghi rõ nơi Hiến chế Tín lý về Giáo hội (LG); Giáo hội hiện diện như là một dấu chỉ và là bảo chứng của công cuộc tạo dựng mới: “Thiên Chúa đã dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa (aparchen tina) trong các thụ tạo [mới] của Người” (Gc 1:18). Giáo hội được coi như một hạt giống, một chất men, hoặc một chất xúc tác của trời mới và đất mới cuối cùng này.

Vào ngày Chúa đến trong vinh quang, cuộc biến đổi này sẽ đạt đến chỗ thành tựu. Đó sẽ không phải là một cuộc tạo dựng “từ hư vô” nhưng là “từ thế giới”. Thân xác phải chết của Đức Giêsu đã được Thần Khí biến đổi để trở nên thân xác phục sinh thể nào, thì tương tự như vậy, thụ tạo cũ này cũng sẽ được thay hình đổi dạng, theo cách thức mà chỉ có Thiên Chúa mới biết; Người sẽ xóa sạch không chỉ tội lỗi, mà còn các hậu quả đi kèm với nó nữa (x. Rm 8:21; Kh 21:4). Do đó, rốt cuộc, hết thảy những gì hiện hữu trong thế giới mới kia đều mang đầy ý nghĩa; Thần Khí Sự thật và là Đấng ban Sự sống, sẽ hiện diện ngập tràn trong khắp vạn vật. Về mặt nhân học, đó sẽ là cuộc phục sinh của kẻ chết; về mặt lịch sử-chính trị, đó sẽ là Nước Thiên Chúa; còn về mặt vũ trụ, đó là trời mới đất mới. Đức tin kitô thách thức tín hữu không những hình dung ra thế giới mới đó, nhưng còn mơ tưởng và góp phần cho nó thành tựu nữa…
 
KẾT LUẬN

Thiên khảo luận đã giới trình một số khía cạnh trong nội dung giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần. Thiết tưởng những vấn đề được trình bày xuyên suốt thiên khảo luận này còn cần phải được bổ túc và bàn giải sâu rộng hơn nữa. Thần học đang tiến hành một cuộc tái suy tư về ngôi vị và vai trò của Ngôi Ba Thiên Chúa, và ai rồi cũng mong thấy những bước tiến phát mới mẻ hơn do công cuộc tái suy tư này mang lại. Nơi công đồng Vaticanô II, cũng như qua cuộc khủng hoảng trầm trọng về đức tin và kỷ luật tiếp sau đó, Giáo hội đã sống qua một cuộc lễ Hiện xuống nhỏ; thêm vào đó, việc chào đời các phong trào mới mẻ trong Giáo hội, cách riêng là phong trào canh tân đặc sủng, và một nền văn hóa toàn cầu mới… hết thảy mọi biến động đó đã và đang làm cho thần học phải để tâm suy nghĩ về sinh hoạt đặc thù của Chúa Thánh Thần.

Lẽ tất, muốn biết Chúa Thánh Thần nhiều hơn, người kitô cần phải tìm hiểu rõ hơn các nguồn mạc khải; dù vậy, Ngôi Ba Thiên Chúa vốn vô hình, vô danh và khó mà có thể nhận biết hơn – nếu có thể nói được như vậy – hai Ngôi Vị Cha và Con. Trí óc con người không phải là thứ công cụ hữu hiệu nhất giúp đào sâu khả năng hiểu biết về Chúa Thánh Thần; chỉ có qua “sự hiểu biết do đồng cảm” hoặc qua “con đường tình yêu” – via amoris – thì người kitô mới có được thứ ánh sáng giúp cho “thấy được cái vô hình” và, nhờ đó, tiến vào mối thân tình với Chúa Thánh Thần; tuy nhiên, muốn được như vậy, người kitô phải nên thánh và nên thần; nhưng, vì không phải là “thần” – và các loại thần trong thế giới này là những thực thể hết sức mơ hồ – nên người kitô chỉ có con đường duy nhất, và tốt nhất để đi đến Chúa Thánh Thần: đó là con đường nên thánh; nhờ Người, cánh cửa nên thánh vẫn hằng rộng mở.

Thần học đã từng bị lên án bởi để tâm lực quá nhiểu vào Kitô học, nhưng lại tỏ ra xao lãng thờ ơ đối với Thần Khí học; bản chất ẩn mình của Thần Khí tất sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện “đua tranh” như thế! Một dạng Kitô học và Cứu Độ học thích đáng hoặc là – tốt hơn – một đời sống kitô giáo lành mạnh tất sẽ giúp cho có đuợc một ý thức sắc bén hơn về hoạt động của Chúa Thánh Linh. Thực ra, vai trò của Người là làm cho Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, như các giám mục Châu Mỹ Latinh nhận định: “Là món quà của Cha, Chúa Thánh Linh làm cho chúng ta trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu là Con Đường, bằng cách mở rộng con người chúng ta ra với mầu nhiệm cứu độ, để nhờ đó chúng ta trở thành con cái của Người và anh chị em của nhau; Người làm cho chúng ta trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu là Sư Thật, bằng cách dạy cho chúng ta biết từ bỏ những gì là dối trá, là tham vọng riêng tư trong chúng ta; và Người làm cho chúng ta trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu là Sự Sống, bằng cách ban cho chúng ta khả năng ôm chầm lấy kế hoạch yêu thương của Ngài và từ bỏ chính mình ngõ hầu người khác ‘nhận được sự sống trong Ngài’.” Sống như thế trong Đức Kitô và trong Thánh Linh, chắc hẳn nhà thần học sẽ tiến hành nỗ lực nghiên cứu thần học của mình tốt hơn về cả hai Ngôi Vị.

Thần Khí là Thiên-Chúa-tại-ta và Thiên-Chúa-cho-ta; Đấng thắp rực Giáo hội bằng ánh sáng và lửa hồng – tức tri thức và tình yêu – hệt như bụi gai bốc cháy, nơi mà Môsê được diện kiến Thiên Chúa vậy; Người cũng thắp lên nơi các tâm hồn tín hữu ngọn lửa khát khao kiếm tìm Đấng Tuyệt đối. Bởi đó, trong Giáo hội, tâm hồn người kitô có thể cảm nghiệm được sức sống, sự an bình, niềm hân hoan, cùng những ân huệ và hoa trái khác do Thần Khí mang lại và, nhờ đó, óc khôn ngoan có thể cảm nhận được sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa. Để rồi, một nền thần khí học thực sự có thể đơm hoa.

“Ôi Ánh Sáng Vĩnh Cửu, chỉ mình Ngài ở trong Ngài, và chỉ mình Ngài biết Ngài: là Tự-tri, Tự-Thức, Ngài yêu thương và mỉm nụ cười tươi với chính Ngài!” [48]

HẾT

***

THƯ MỤC VỀ THẦN KHÍ HỌC

 

Aa. Vv., Credo in Spiritum Sanctum. Atti del Congresso Teologico Internazionale di Pneumatologia in occasione del 1600• anniversario del I Concilio di Costantinopoli e del 1550• anniversario del Concilio di Efeso, Roma, 22-26 marzo, due volumi, 1983.

Aa.Vv., Mouvements de Pentecôte, Labor & Fides, 1989.

Aa.vv., Charismatic Renewal: a Grace, a Challenge and a Mission”, ICCRS, 2000.

Anderson, James B., A Vatican II Pneumatology of the Paschal Mystery: The Historical-doctrinal genesis of Ad Gentes I, 2-5 (Analecta Gregoriana), 1988

Badcock, Gary D., Light of Truth and Fire of Love: A Theology of the Holy Spirit, W.B Eerdmans, 1997.

Barrett, C. K. The Holy Spirit and the Gospel Tradition. London: SPCK, 1958.

Barrett, C. K. The Holy Spirit and the Gospel Tradition. London: SPCK, 1958.

Berkhoff, Hendrikus. The Doctrine of the Holy Spirit. Richmond: John Knox, 1964

Biggadike, Maylin T Bulgakov”s theology of the Holy Spirit: A language for the spiritual journey,   1994

Bilanuik, Petro B.T., Theology and Economy of the Ho­ly Spirit. Bangalore: Dharmaran Publications, 1980

Bonaventure, Saint, Les Sept dons du Saint-Esprit, Cerf 1997

Boulgakov, Serge, Le Paraclet, trad. Constantin Andronikof, L’Âge d’Homme, 1996.

Bouyer, Louis, Le Consolateur. Esprit-Saint et vie de grâce, Cerf 1980

Bruner, Frederick D., A Theology of the Holy Spirit,  1997.

Burge, Gary M. The Anointed Community: The Holy Spirit in the Johannine Tradition. Grand Rapids: Eerd­mans, 1987.

British Concil of Churches, The Forgotten Trintiy, Volume I, The Report of the BCC Study Commission on Trinitarian Doctrine Today, BCC, 1989.

Burgess, Stanley M. and McGee, Gary B., eds. Dictionary of Pentecostal and Charismatic Movements. Grand Rapids: Zondervan, 1988.

Burgess, Stanley M. The Holy Spirit. Peabody, MA: Hendrickson, 1989

Burgess, Stanley, The Holy Spirit: Ancient Christian Traditions, Hendrickson Publishers Inc.,U.S. 1994

Burgess, Stanley, The Holy Spirit: Medieval Roman Catholic and Reformation Traditions (6th-16th Centuries), Hen­drickson Publishers, 1997

Cabasilas, Nil, Sur le Saint-Esprit, (vers 1285-1363), Pa­ris: Cerf, 2001

Cantalamessa, Raniero, Sober Intoxication of the Spirit: Filled With the Fullness of God, St. Anthony Messenger Press, 2005.

Cantalamessa, Raniero, The Holy Spirit in the Life of Jesus: The Mystery of Christ’s Baptism, Collegeville, Minnesota, The Liturgical Press, 1994.

Carson, D. A. Showing the Spirit: A Theological Exposition of 1 Corinthians 12-14. Grand Rapids: Baker Book House, 1987.

Chevallier, M-A, Souffle de Dieu, Le Saint-Esprit dans le Nouveau Testament, Volume I: Ancien Testament – Hellénisme et Judaïsme – La Tradition synoptique – L”œuvre de Luc, Le Point Théologique, 26, Éditions Beauchesne, Paris, 1978.

Chevallier, M-A, Souffle de Dieu, Le Saint-Esprit dans le Nouveau Testament, Volume II: L”apôtre Paul – Les écrits johanniques – L”héritage paulinien – Réflexions finales, Le Point Théologique, 54, Éditions Beauchesne, Paris, 1990.

Chevallier, M-A, Souffle de Dieu, Le Saint-Esprit dans le Nouveau Testament, Volume III : Études, Le Point Théologique, 55, Éditions Beauchesne, Paris, 1990.

Codina, Víctor: Creo en el Espíritu Santo, Pneumatología narrativa, Col. Presencia Teológica, Ed. Sal Terrae, Bil­bao: 1994.

Coffey, David, Did You Receive The Holy Spirit When You Believed?: Some Basic Questions For Pneumatology (Pere Marquette Theology Lecture)  Marquette Univ. 2005.

Comblin, José, The Holy Spirit and Liberation, Tun­bridge Wells: Burns and Oates, 1989.

Come, Arnold. Human Spirit and Holy Spirit. Phila­del­phia: Westminster, 1959.

Congar, Yves, Je crois en l’Esprit-Saint, Paris: Cerf 1995

Coste, René , L’Évangile de l’Esprit Pour une théologie et une spiritualité intégrantes de l”Esprit Saint, Paris: Cerf 2006

Cox, Harvey. Fire from Heaven: The Rise of Pentecostal Spirituality and the Reshaping of Religion in the Twentyfirst Century. New York: Addison-Wesley, 1995. Dunn, James D. G. Baptism in the Holy Spirit. London: SCM, 1970.

Cox, Harvey. Fire from Heaven: The Rise of Pentecostal Spirituality and the Reshaping of Religion in the Twentyfirst Century. New York: Addison Wesley, 1995.

David T Williams, Vinculum Amoris: A Theology of the Holy Spirit, iUniverse, 2004.

DIAKONIA 36 (2005) (77-81: Gubler, Marie L.: Pfingsten: Geburtstag der Kirche; 82-88: Steck, Wolfgang: Das Pfingstfest: Geschichte – Liturgie – Brauchtum; 89-91: Schlagnitweit, Markus: Globalisierte Welt: Babel oder Je­ru­salem? : eine Pfingstpredigt; 92-98: Eckholt, Margit: Die faszinierende Neuheit des Heiligen  Geistes; 99-102: Mitscha Eibl, Claudia: Ein Bild, das alle Bilder sprengt : sechs Meditationen über ruach, die göttliche Geistkraft; 103-109: Dirscherl, Erwin: In-spiration angesichts des Anderen; 110-116: Fuss, Michael: Hören, was der Geist den Gemeinden sagt : pfingstliches Christentum als glokales [!] Phänomen; 117-119. Der Heilige Geist in der Orthodoxen Kirche); Donnelly, D.-A. Denaux – J.Famerée (eds.), The Holy Spirit, The Church and Christian Unity, Leuven Univ. Press, 2005.

Dunn, James D. G. Baptism in the Holy Spirit. London: S.M, 1970.

Dunn, James D. G. Jesus and the Spirit: A Study of the Religious and Charismatic Experience of Jesus and the First Christians as Reflected in the New Testament. Philadelphia: Westminster, 1975.

Dunn, James D.G., Christ and the Spirit, Volume 1: Christology; Volume 2: Pneumatology. 1998.

Durand, Emmanuel, La Périchorèse des personnes divines: Immanence mutuelle, Réciprocité et communion, Pa­ris: Cerf 2005.

Durrwell, François Xavier, L”Esprit Saint de Dieu, Cerf 1983. (In English: Holy Spirit of God An Essay in Biblical Theology, Translated by Sister Benedict Davies, O.S.U.; Foreword by Scott Hahn).

Edwards, Denis, Breath of Life: A Theology of the Creator Spirit, 2004.

El Siglo del Espíritu Santo. 100 years of pentecostal and charismatic renewal, 1901-2001. Vida, 2006.

Emery, Gilles, Théologie trinitaire de saint Thomas d’Aquin, Paris: Cerf, 2004.

Ewert, David. The Holy Spirit in the New Testament. Scottdale: Herald, 1983

Fee, Gordon D. God”s Empowering Presence: The Holy Spirit in the Letters of Paul. Peabody, MA: Hendrickson, 1994

Ferguson, Sinclair B., The Holy Spirit (Contours of Chris­tian Theology), Downers Grove: Inter- Varsity Press, 1996.

Ferraro, G., Il Paraclito, Cristo, il Padre nel quarto Vangelo, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 1997

Fortman, Edmund J. Activities of the Holy Spirit. Chicago: Franciscan Herald, 1984.

Fuller, Daniel P. The Unity of the Bible: Unfolding God’s Plan for Humanity. Grand Rapids: Zondervan, 1992

Gallagher Mansfield, Patti, As by a New Pentecost, Fran­cis­can University Press, Steubenville, Ohio, 1992

Garijo Guembe, M, M., “Bibliografia ortodoxa sobre la Trinidad y la pneumatología,” Estudios Trinitarios 25 (1991) 221-245.

Gelpi, Donald, The Divine Mother, Washington: UPA, 1984.

Gelpi, Donald, The Gracing of Human Experience: Rethinking the Relationship between Nature and Grace, Collegeville: Liturgical, 2001.

Ghiberti, G., Spirito e vita cristiana in Giovanni, Brescia: Paideia, 1989.

Green, Michael. I Believe in the Holy Spirit. Grand Ra­pids: Eerdmans, 1975.

Groppe, Elizabeth, Yves Congar”s Theology of the Spirit, American Academy of Religion, New York: Oxford University Press, 2004.

Gunton ,Colin E., Father, Son, and Holy Spirit: Toward a Fully Trinitarian Theology. London: T & T Clark, 2003.

Hamilton, James M. and E. Ray Clendenen, God”s Indwelling Presence: The Holy Spirit in the Old And New Testaments, Nac Studies in Bible & Theology, 2006.

Hauschild, Wolf-Dieter and Drecoll, Volker Henning (eds), Pneumatologie in der Alten Kirche, New York: Peter Lang, 2004.

Heron, Alasdair I. C. The Holy Spirit. Philadelphia: West­minster, 1983

Hilberath, B. J., Pneumatología, Barcelona, 1996.

Hildebrandt, Wilf. An Old Testament Theology of the Spirit of God. Peabody, MA: Hendrickson, 1995.

Hinze , Bradford E. and D. Lyle Dabney; Advents of the Spirit: An Introduction to the Current Study of Pneumatology, Marquette University Press, 2001.

Holl, Adolf, The Left Hand of God: A Biography of the Holy Spirit, Random House, 1999.

Hunt, Anne, Trinity: Nexus of the Mysteries of Christian Faith, N.Y.: Orbis, 2005.

Jacobsen, Douglas, El Espíritu Santo. Exploring Latino Pentecostalism. Books & Culture, 2004.

John Paul II, Encyclical Letter “Dominum et Vivificantem”, 1986.

Kinghorn, Kenneth, The New Testament Gifts of the Holy Spirit, Emeth Press, 2005.

Kislas, Théophile, Nil Sur le Saint Esprit. Les Éditions du Cerf. Paris. 2001.

Kizhakkeparampil, Isaac: The invocation of the Holy Spirit as constitutive of the sacraments according to Cardinal Yves Congar, Roma: Ed. Pont. Univ. Gregoriana, 1995.

Küng, Hans and Moltmann, Jürgen, eds. Conflicts about the Holy Spirit. New York: Seabury, 1979.

Lampe, G. W. H. The Seal of the Spirit: A Study in the Doctrine of Baptism and Confirmation in the New Testament and the Fathers. London: SPCK, 1967.

Lécuru, Ludovic, Les 7 dons du Saint Esprit, Emmanuel 2002.

Lison, Jacques, L’Esprit répandu. La pneumatologie de Grégoire Palamas, Cerf 1994.

Lodahl, Michael E. Shekinah/Spirit: Divine Presence in Jewish and Christian Religion. Mahwah, NJ: Paulist, 1992.

Loder, James and Neidhardt, W. Jim. The Knights Move: The Relational Logic of the Spirit in Theology and Science. Colorado Springs: Helmers & Howard, 1992.

Lys, D, “Rûach, Le Souffle dans l”Ancien Testament,” Revue d’Histoire et de Philosophie Religieuses, N° 56, Presses Universitaires de France, Paris, 1962.

Masamba Ma Mpolo, Le Saint Esprit Interroge Les Esprits: Essai De Relecture Et Pistes Psychopastorales De La Spiritualite En Afrique, Cas De La Republique Democratique Du Congo, 2002.

McDonnell, Kilian and Montague, George T. Christian Initiation and Baptism in the Holy Spirit: Evidence from the first Eight Centuries. Collegeville: Liturgical, 1991.

McDonnell, Kilian, The Other Hand of God: The Holy Spirit As the Universal Touch and Goal, Michael Glazier Books, 2003.

McIntyre, John, The shape of Pneumatology: studies in the doctrine of the holy spirit. Edinburgh: T. & T. Clark, 1997.

McQueen, L. R. Joel and the Spirit. Sheffield: Sheffield Academic Press, 1995.

Mills, Watson E. A Theological/Exegetical Approach to Glossolalia. Lanham: University Press of America, 1985

Molinié, Marie Dominique, Le Saint Esprit et la Gloire, Paris: Téqui, 1998.

Moltmann, Jürgen and Kuschel, Karl-Josef. Pentecostal Movements as an Ecumenical Challenge. Concilium 3 Maryknoll, NY: 1996.

Moltmann, Jürgen, The Source of Life: The Holy Spirit and the Theology of Life, Fortress Press, 1997.

Moltmann, Jürgen, The Spirit of Life. A Universal Affirmation, SCM Press, 1992

Montague, George T. The Holy Spirit: Growth of a Biblical Tradition. New York: Paulist, 1970.

Moule, C. F. D. The Holy Spirit. Grand Rapids: Eerd­mans, 1978.

Mühlen, H, Vous recevrez le don du Saint Esprit, Le renouveau spirituel, Volume I: Introduction et orientation; Volume II: Prière et attente, Éditions du Centurion, Paris, 1982.

Nave, Lloyd. The Spirit of God in the Old Testament. Tokyo: Seibunsha, 1972.

Nisus, Alain, L’Esprit Saint et l’Église. Une lecture de l’ecclésiologie du Cardinal Y. Congar à partir de la tradition des Églises libres, Directeur de thèse: Legrand, H., Ecclésiologie.

O’Collins, Gerald, The Tripersonal God: Understanding and Interpreting the Trinity, Geoffrey Chapman,1999.

Oden, Thomas C. Life in the Spirit. Vol. 3: Systematic Theology. San Francisco: Harper, 1992.

Opsahl, Paul D. The Holy Spirit in the Life of the Church. Minneapolis: Augsburg, 1978.

Otto, Rudolf. The Idea of the Holy. New York: Oxford, 1958.

Paprocki, Henryk, La Promesse du Père.  L’expérience du Saint Esprit dans l’Église orthodoxe, Paris: Cerf, 1990

Park, Jong-Chun, Crawl With God, Dance in the Spirit!: A Creative Formulation of Korean Theology of the Spirit, Nashville: Abingdon Press, 1998.

Pedrini, Arnaldo. Bibliografia Tomistica sulla Pneumatologia, Città del Vaticano: Libr. Editrice Vaticana, 1994.

Pesare, Oreste (ed), A sign of hope for all people. The Catholic Charismatic Renewal in the heart of Pope John Paul II, ICCRS, 2005.

Philip, Finny, The Origins of Pauline Pneumatology: The Eschatological Bestowal of Ther Spirit upon Gentiles in Judaism and in the Early Development of Paul”s Theology (Untersuchungen Zum Neun Testament), Mohr Siebeck, 2005.

Pinnock, Clark H. Flame of Love: A Theology of the Holy Spirit. Downers Grove, IL: InterVarsity, 1996.

Rahner, Karl, Theological Investigations. Vol. 16: Experience of the Spirit, trans. David Morland, 1979.

Revel, Jean-Philippe, Traité des sacrements, II La confirmation – Plénitude du don baptismal de l’Esprit,  2006.

Rogers, Eugene F., After The Spirit: A Constructive Pneumatology From Resources Outside The Modern West (Radical Traditions), Grand Rapids, Michigan: William B. Eerd­mans, 2005.

Rossier, Bernard, Pneumatology-The Doctrine of the Spirit, Artex Publishing, 2001. 

Schoonenberg, Piet, Das Wort und der Sohn. Eine Geist Christologie, Regensburg 1992.

Schweizer, Eduard. The Holy Spirit. Translated by H. Reginald and Ilse Fuller. Philadelphia: Fortress, 1980.

Small, Joseph D. (ed), Fire and Wind: The Holy Spirit in the Church Today, Louisville, Ky: Geneva Press, 2002.

Stanton, Graham N., Bruce W. Longenecker, Stephen C. Barton, The Holy Spirit And Christian Origins: Essays In Honor Of James D. G. Dunn,  Grand Rapids: Eerdmans, 2004.

Taylor, John V. The Go Between God. Philadelphia: Fortress, 1972.

Vannier, Marie-Anne, L’Expérience du Saint Esprit, Cerf, 1998.

von Balthasar, Hans Urs, Explorations in Theology [Skizzen zür Theologie], trans. A. Littledale (San Francisco: Ignatius Press, 1989-1995), 4 vol.: Vol. 3: Creator Spirit (1990).Vol. 4: Spirit and Institution (1995).

Williams, John. The Holy Spirit Lord and Life-Giver. Neptune: Loizeaux Brothers, 1980.
 
 

 

[1] Xem Colin Gunton, Deus Trinitas: The Doctrine of the Triune God -The Triune Creator: A Historical and Systematic Study, Grand Rapids: Eerdmans, 1998.

[2] Như khổ thơ sau đây trong bài Tụng ca thứ ba của Marius Victorinus (ca. 290 – ca. 370): “Tu [Pater] creari imperas, Tu [Filius] creas, Tu [Spi-ri­tus] creata recreas, O beata trinitas.” Tạm dịch như sau: “Ngài [Cha] ban lệnh truyền sáng tạo, Ngài [Con] sáng tạo, Ngài [Thần Khí] tái tạo những gì đã được tạo dựng. Ôi, Ba Ngôi đáng chúc tụng.” Hoặc, dùng một cách nói có tính cách thần học hơn, thánh Baxiliô viết: “nguyên nhân nguyên thủy của tạo vật là Cha… nguyên nhân tạo dựng là Con,… nguyên nhân hoàn thành là Thần Khí” (On the Holy Spi­rit, XV.36 và 38).

[3] Kinh Tin kính của công đồng Nixêa-Côngxtăngtinốp gọi Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng Ban Sự sống.” Truyền thống thường coi St 1:2 như là câu văn biểu trình hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo. Thông điệp Dominum et vivificantem (18.05.1986) có đoạn viết: “Thần Khí Thiên Chúa”, theo như trình thuật kinh thánh về cuộc tạo dựng, là Đấng “bay lượn trên mặt nước…” số 34.

[4] “Thiên Chúa đã dùng chính đôi bàn tay Người [tức là Con và Thánh Thần] mà nặn hình con người và đã in hình dạng Người lên trên nhục thể Người đã nắn nên; bằng cách này, cả những gì hữu hình cũng đều có thể mang lấy dung dạng thần linh.” Irenaeus, Demonstratio apostolica, 11. Sources Chrétiennes  62, 48-49.

[5] Ted Peters and Martinez Hewlett, Evolution From Creation To New Creation: Conflict, Conversation and Convergence, Abingdon Press, 2003.

[6] J.Ratzinger, in Wer ist das eigentlich – Gott? Kösel Verlag, 1969, traslated into Italian as “Fede nella creazione e teoria dell’evoluzione,” in Il Foglio quotidiano, 23 dicembre 2005 , anno X, n. 303, pag 1. 

[7] Sách Giáo lý của Công đồng Trentô, Tín khoản VIII.

[8] Đức Gioan Phaolô II, bài Huấn giáo trong buổi tiếp kiến chung, ngày 12 tháng 8 năm 1998.

[9] Dr. Clark H. Pinnock, “The Role of the Spirit in Creation,” trong The Theta Phi Lectures tại Asbury Theological Seminary ở Kentucky, các ngày 3-4 tháng 10, năm 1996.

[10] Xem Masatoshi Doi, “Religion and Nature,” in What Asian Christians Are Thinking: A Theological Source Book, ed. Douglas J. El­wood, Quezon City, Philippines: New Day Publishers, 1978, tt. 119-130.

[11] Jürgen Moltmann, The Spirit of Life, SCM Press 1992, p. 227; xem Sigurd Bergmann, Jurgen (FWD) Moltmann, Douglas W. Stott (Translator), Creation Set Free : The Spirit As Liberator Of Nature, Eerd­mans Pub Co, 2005.

[12] Divine Comedy (Hài kịch tuyệt diệu), Tầng XXXIII, câu 145. Đức Bênêđictô XVI thường trưng dẫn câu này, chẳng hạn trong bài Diễn văn đọc trước các tham dự viên tại hội nghị do Hội đồng Giáo hoàng Đồng tâm (Cor Unum) tổ chức, vào thứ hai, ngày 23 tháng giêng năm 2006 .

[13] Samuel Rayan, Breath of Fire – The Holy Spirit: Heart of the Christian Gospel, London: Geoffrey Chapman, 1979, tr. 9.

[14] Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 11.

[15] Xem Sallie McFague, The Body of God: An Ecological Theology, Aug­sburg Fortress Publ. 1993; Dieter T. Hessel and Rosemary Rad­ford Ruether(eds), Christianity and Ecology: Seeking the Well-being of Earth and Humans, Cambridge: Harvard Center for the Study of World Religions, 2000; McDonagh, S., Life: Creation or commodity? ACSJC, Sydney, 2001; Denis Edwards, Breath of Life: A Theology of the Creator Spirit, Orbis Books, 2004; Thomas Berry & Mary E. Tucker, Evening Thoughts. Reflecting on Earth as Sacred Community, Sierra Club Books, 2006.

[16] Gerard Manley Hopkins, God’s grandeur; tác giả kết thúc bài thơ: “Oh, morning, at the brown brink eastward, springs – /Because the Holy Ghost over the bent/World broods with warm breast and with ah! bright wings” [đại để: “Ôi! Bên bờ đông xám xịt, buổi sáng bừng ló dạng – Bởi Thánh Linh nghiêng mình trên bãi cỏ, ấp ủ toàn vũ bên lòng ấm, dưới đôi cánh [ôi!] rạng ngời.”

[17] Xem Rogers, J., “Ecological Theology: The Search for an Appro­pri­a­­te Theological Model.” Reprinted from Septuagesino Anno: Theologiche Opstellen Aangebsden Aan Prof. Dr. G. C. Berkower. The Netherlands: J. H. Kok, 1973; Hallman, David G., ed. Ecotheology: Insights from South and North. New York: World Council of Churches, 1994; Edwards D., “Ecology and the Holy Spi­rit: The already and the not yet of the Spirit in creation”, Ecotheology: Anzats Conference, Christ church, tháng 7 năm 2000, tập 13, số 2, tt. 142-159..

[18] Teilhard de Chardin, “Hymne à la matière”, vol. 13, tt. 89-91; “Sainte matière” in Le Milieu Divin, Éditions du Seuil, vol. 4, Œuvres complètes 1957,  tr.120.

[19] Fyodor Dostoyevsky, The Brothers Karamazov, ed. Signet Classic, 1999, tr. 309.

[20] Xin xem John S. Grabowski, The Theology of the Body Human Love in the Divine Plan, Pauline Books & Media, 1997, cuốn sách trình bày những gì Đức Gioan Phaolô II nói về quan niệm kitô đối với thân xác, qua các buổi tiếp kiến chung trong khoảng thời gian từ tháng 9, 1979 cho tới tháng 11, 1984.   .

[21] Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 4.

[22] Buổi tiếp kiến chung, thứ Tư ngày 19 tháng 8 năm 1998.

[23] Dumitru Staniloaë, “Le Saint-Esprit dans la révélation et dans l’égli­se” in Contacts, vol. XXVI, no 87, 1974; reprinted in Dumitru Stani­loae, Prière de Jésus et expérience du Saint-Esprit, DDB (Théopha­nie), 1991.

[24] J.L. Ruiz de la Peña, Crisis y apología de la fe. Evangelio y nuevo milenio, Ed. Sal Terrae, Santander, 1995, tr.266.

[25] Đây là ý nghĩa Đức Gioan Phaolô II đã nhắc đến trong thông điệp Ánh quang Chân lý.

[26] Xem Patrick Sherry, The Beauty of God the Holy Spirit, Theology Today (64) 2007, số 1.

[27] Thánh Âugutinô, Những lời trần tình, XI, 4.

[28] Văn đoạn Is 53:2 lại mô tả người Tôi tớ Giavê như sau: “Người chẳng còn nét đẹp, hay vẻ oai phong đáng để chúng ta ngắm nhìn nữa; dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.” Để tìm hiểu điều nghịch lý kia, trong cuốn sách đã thất lạc của mình – tựa đề De pulchro et apto (Cái đẹp và cái hợp) – chàng trai trẻ Âugutinô đã nói về việc tiếng kèn phát ra từ hai cây ‘trompet’ – được thổi lên do cùng một Thần Khí duy nhất – phải được nghe cùng lúc như một hợp âm; xem Jean-Michel Fontanier, La beauté selon saint Augustin, Rennes: Presses Universitaires de Rennes,1998. Xem Cardinal Joseph Ratzinger , “The Beauty and the Truth of Christ,” L”Osservatore Romano, Weekly Edition in English, 6 November 2002, page 6.

[29] Hài kịch Tuyệt diệu, Paradiso XXXI, 134-135.

[30] Thánh Xyrilô thành Alếcxănđria, Thesaurus de sancta et consubstantiali Trinitate 34: PG 75, 609.

[31] Xin xem đặc biệt các tác phẩm: The Glory of the Lord I: Seeing the Form, Edinburgh: T & T Clark, 1982, và The Glory of the Lord II: Studies in Theological Style: Clerical Styles, 1984. Xin cũng xem Edward Farley, Faith and Beauty: A Theological Aesthetic, Ashgate Publi­shing, 2001.

[32] Documento de Aparecida, n. 14.

[33] Thư gửi các Nghệ sĩ, ngày 4 tháng Tư năm 1999.

[34] Trong Chimes (tờ báo sinh viên của Calvin College, Grand Rapids, Michigan, USA) 1-18-2002.

[35] Thánh Gioan Thánh Giá, Bài ca Thiêng liêng.

[36] John-Keats, Ode on a Grecian Urn, Stanza 2.

[37] Jackson, Timothy F., “The Role of the Holy Spirit in Gerard Manley Hopkins”s Poetry,” Logos: A Journal of Catholic Thought and Culture – Tập 9, Số 1, mùa Thu năm 2006, tt. 108-127.

[38] Albert Einstein, “The World As I See It,” trong Ideas and Opinions, based on Mein Weltbild, edited by Carl Seelig, New York: Bonzana Books, 1954, tt. 8-11.

[39] Trong Bức thư gửi các Nghệ sĩ, số 15.

[40] Về vấn đề này, xin xem Liturgy and Beauty. Nobilis Pulchritudo, do Văn phòng Cử hành Phụng vụ của Đức Thánh Cha, (Office of Papal Li­­turgical Celebrations), Libreria Editrice Vaticana, 2005.

[41] Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, The Via Pulchritudinis [Con đường cái Đẹp], Privileged Pathway for Evangelisation and Dialogue, Văn kiện kết thúc Tổng Hội nghị, 2006.

[42]  Đức Thánh Cha Bênêđíctô, tại Brazil, ngày 13 tháng 5 năm 2007.

[43] Sứ điệp của Đức Gioan Phaolô II gửi đến Đức Giám mục Mariano de Nicoló, giáo phận Rimini, nhân hội nghị quốc gia về các nhóm và cộng đoàn thuộc phong trào Canh tân trong Thần Khí, ngày 29 tháng 04 năm 2004, số 3.  

[44] Xem nội dung chúng tôi đã trình bày trong chương 6, ở tiểu đề “Thụ tạo mới.”

[45] Jürgen Moltmann, God In Creation, London: SCM Press, 1985, tr. 209.

[46] Mark. I. Wallace, Fragments of the Spirit: Nature, Violence, and the Renewal of Creation. New York: Continuum, 1996.

[47] “La Messe sur le monde” trong Œuvres, t. XIII, Paris: Seuil 1961.

[48] Dante, Paradise XXXIII, vv. 124-126.