Giáo Hội Địa Phương: Suy Tư Thần Học Trong Bối Cảnh Á Châu (1)

0
1188


GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU [1]

Chuyển dịch: Ngô Minh

***

***

 

A. NHẬP ĐỀ

1.  Người ta bảo rằng những đổi thay đã xẩy  ra tại Á Châu trong khoảng 50 năm vừa qua, thì cả  về chiều rộng lẫn chiều sâu, quan trọng hơn hẳn những  bước phát triển của 500 năm lịch sử trước đây. Nhận  định như vậy, dù có lẽ là hơi quá đáng, nhưng không  phải là không trung thực nói lên điểm nòng cốt  của sự thật.

2. Những đổi thay to lớn ấy cũng chỉ là một phần  của những thăng trầm lịch sử hiện đang xảy  đến trong thời đại chúng ta. Riêng tại Á Châu, chúng  tôi đã phải trải qua nhiều năm trời hỗn  loạn trong thời Thế chiến thứ hai, rồi tiếp đến là  giai đoạn kết thúc thời thực dân: các “nước mới”  đã thành hình, và cái gọi là “ý thức về  Thế Giới Thứ Ba” đã lộ diện nổi bật; sau đó, đã  có hai “thập niên mở mang phát triển” —1960-1980 — với các làn sóng khổ đau và hy vọng đối nghịch  nhau, làm cho hai thực trạng này càng sôi động  thêm. Hiện nay, chứng cớ ngày càng hiển nhiên cho  thấy rằng “thế giới mới của Á Châu” đang hình  thành, như một khu vực mỗi ngày một quan trọng  hơn của địa cầu và của một gia đình nhân loại ngày  càng tùy thuộc vào lẫn nhau hơn. Có một nghi  vấn làm cho người ta phải tự hỏi đi hỏi  lại, đó là: Có phải Á Châu đã thực sự trở  thành sân khấu cho cuộc diễn xuất một chương mới của  lịch sử nhân loại rồi hay không?

3. Chắc hẳn là một khi “dưới chân đất đã động”,  thì sớm muộn gì Hội Thánh Đức Kitô tại Á châu, và  các Giáo Hội Địa Phương đang cùng nhau làm nên Dân  Chúa tại phần đất này của thế giới, cũng sẽ  không khỏi cảm thấy “nền móng chuyển rung”  ngay từ giữa lòng cuộc sống của chính mình.  Nếu tại Á Châu, một “thế giới mới” đang thực  sự ló dạng, thì các trào lưu, cả hỗn loạn náo  động lẫn mang đầy hứa hẹn, hiện đang tuôn chảy vào  giữa thời đại mới này, tất cũng sẽ dâng  lên tràn ngập ở giữa đời sống của các  cộng đồng kitô tại Á Châu. Và dĩ nhiên là các  luồng tư tưởng ấy sẽ chất vấn Tin Mừng và  Hội Thánh, được gặp thấy qua dạng thức mà chúng ta đã  học biết. Đối với chúng tôi, suy tư kitô giáo và việc  nghiên cứu thần học phải nẩy sinh lên từ chốn này,  vì chính tại đây chúng tôi gặp được lịch sử “đang lên”  của các dân tộc chúng tôi.

4.Các Giám mục Á châu đã có dịp hội họp với nhau  nhiều lân, kể từ khi chừng 200 vị đã gặp gỡ  với Đức Phaôlô VI, vào tháng 12 năm 1970, tại Manila,  trong dịp Đức Giáo Hoàng thăm Á Châu lần đầu tiên.  Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (Federation of  Asian Bishops Conferences: FABC) cũng đã được thành  lập trong thời đó. Cuộc họp đầu tiên tại Đài Bắc  (1974) và các cuộc họp khác, cùng hàng loạt các  khóa hội thảo và đơn vị nghiên cứu, đã từ  từ nắn đúc nên một bầu khí cộng đồng cho những suy  tư và những mối quan tâm chung. Các cuộc hội họp này  đã giữ vai trò giống như những buổi “bắt  mạch” có định kỳ nhằm phát hiện những quan hệ  liên đới giữa các biến chuyển đổi thay của lịch sử  và cuộc sống của Hội Thánh tại các Giáo Hội Địa  Phương rải rác trong khắp vùng này.

5. Suốt trong hành trình lịch sử với những đổi thay  to lớn, và ngay cả giữa những biến động đột  ngột, mối quan tâm của những người kitô và  các Giáo Hội Địa Phương cũng vẫn không ngừng quy  hướng về với sứ mệnh của Hội Thánh. Các mối quan tâm  khác (đối với cộng đoàn và tinh thần hợp tác, đối  với thừa tác vụ, đối với hoạt động xã hội và  chính trị, đối với công tác đối thoại, việc phát triển và  nổ lực giải phóng, đối với việc đào tạo và việc  trao quyền cho giáo dân, v.v.) đều phải rút ra từ chính  sứ mệnh ấy, lý tồn tại và bối cảnh sinh hoạt của  mình. Đúng thế, vì theo một ý nghĩa rất sâu sắc, Hội Thánh  chính là sứ mệnh: Hội Thánh tiếp tục gánh vác sứ mệnh  của Thiên Chúa trong Đức Kitô ở giữa lòng  lịch sử nhân loại, và làm nhiệm tích của Đức  Kitô cũng như của tác vụ cứu chuộc Ngài đã  mang lại trong thế giới. Thái độ quan tâm như thế đối với  sứ mệnh của mình, khiến Hội Thánh cảm thấy cần phải  suy tư về chính mình. Câu hỏi mà Đức Phaolô VI coi là  chủ yếu đối với Công đồng Vaticanô II, cũng đã  trở thành câu hỏi then chốt đối với Hội Thánh  tại Á Châu: “Này Hội Thánh, Hội Thánh sẽ  nghĩ gì về chính mình?” (Ecclesia, quid dicis de te ipsa ?)

Bản tuyên ngôn về việc rao giảng Tin Mừng của  FABC I (cuộc họp đầu tiên của các Giám mục Á châu,  1974) đã phối hợp mọi cố gắng để minh định lại sứ mệnh  của Hội Thánh ở trong một bối cảnh cụ thể, tức  là ở vào tư thế phải ứng đáp “những  khát vọng tìm kiếm tiềm ẩn sâu kín nơi tâm lòng của  những anh chị em chúng ta” đang sống tại Á Châu  ngày nay. Có lẽ điểm chủ yếu của văn kiện  vừa kể, đã được nói lên trong đoạn sau đây:

“Muốn rao giảng Tin Mừng tại Á Châu  hôm nay, thì cần phải làm cho sứ điệp và cuộc  sống của Đức Kitô thực sự “nhập thể” vào  trong tâm trí và đời sống của các dân tộc chúng  ta. Thế nên, ở vào thời điểm này của lịch  sử chúng ta, công tác cần phải lưu tâm đầu tiên trong  sứ mệnh rao giảng Tin Mừng là việc xây dựng một  Giáo Hội Địa Phương thực sự”. (FABC I,9).

6. Các Giáo Hội Địa Phương Á Châu nhận ra ngày càng  rõ hơn rằng, muốn củng cố công cuộc truyền giáo cách  cụ thể, muốn dấn thân vào những tác vụ hiện đại,  thì cần phải có những Giáo Hội Địa Phương thực sự  đóng vai thủ xướng và chủ động trong công tác  loan báo Tin Mừng, chứ không còn đơn thuần thụ động  tiếp nhận một nền kitô giáo Tây phương đang thời bành  trướng truyền giáo, tức là không còn tiếp tục một  mực “sao y bản chánh” Giáo Hội Âu Châu với  những hình thái, những tác vụ và những kiểu  mẫu thần học phát nguyên từ môi trường thực tế  của chúng và chịu ảnh hưởng sâu đậm của  những điều kiện lịch sử Âu Châu. Các “Giáo  Hội mới” phải bừng dậy và mạnh mẽ dấn  bước đi vào môi trường sống quanh mình; và trong  tiến trình ấy, các Giáo Hội mới phải thật sự trở  thành Hội Thánh đích thực, ngay tại ở chỗ thời  gian và không gian đang gặp nhau để tạo nên thời điểm  này của lịch sử. Là để cho muôn dân, thì từ  tận trong thực thể xương thịt của mình, Hội Thánh cũng  phải trở thành cho chúng ta, thực sự là Hội  Thánh của mỗi một dân tộc chúng ta. Bằng không, Hội  Thánh chẳng có thể thông dự vào trong những gì đang  nảy sinh ra tại các đất nước chúng ta, nơi các quê hương  chúng ta, trong thế giới mới này của Á Châu.

Nếu đếm số năm, thì sẽ thấy các Giáo Hội Địa Phương tại  Á Châu (ít ra một số lớn) không còn phải là  “trẻ”. Nếu có cái gì mới mẻ trẻ trung nơi  họ, thì đó chính là một ý thức mới, một ước vọng và  một ý muốn mới: muốn trở thành Hội Thánh thực sự.  Nhưng phải là một Hội Thánh sống động ở trong  và cho giây phút lịch sử hiện tại đây, ngay ở  giữa lòng các dân tộc này và trong bối cảnh  của những bước phát triển mau lẹ đang xảy đến  cho cuộc sống cũng như cho các nền văn hoá của họ.  Các cộng đồng địa phương phản ánh cho thấy “những  hoài vọng mới, những ước mơ mới, những sáng tác  mới” đang bừng nở ra chung quanh họ. Họ biết các  điều mới ấy đang hoặc sẽ tiến hành, dù là  với thành công hay thất bại, chậm hay nhanh, cùng với  hay không biết đến Phúc Âm, và dù có Hội Thánh  tham dự hay không. Đối với họ, đây là giờ phút của  triệu tập và của thách đố; và đó cũng là  cái kairos đối với hết thảy chúng ta.

7. Toàn bộ các cộng đồng kitô tại Á Châu này  chưa chiếm tới 2% của dân số trong vùng. Trừ Phi  Luật Tân ra, là nước có 83% tín hữu công giáo và  89% tín hữu kitô trong số 60 triệu dân, tại các nước khác,  người kitô chỉ là những thiểu số rất nhỏ.  Ở Á Châu, Hội Thánh thật sự là một đoàn  chiên nhỏ, pusillus grex, một thiểu số hết sức nhỏ  bé ở giữa một biển người mênh mông bát ngát  theo những tín ngưỡng khác hoặc thuộc nhiều truyền  thống tôn giáo khác. Bởi đó, các Giám mục và các  người lãnh đạo mục vụ, các nhà thần học hoặc  các quan sát viên ở Á Châu, đã nhiều lần nhận định cho rằng trong thời hậu thuộc địa, Hội Thánh tại đây  đã lâm vào một tình trạng hầu như không thể hiểu  nổi đối với các giáo hữu Tây phương, và như thế là  bởi một số lý do lịch sử.

8. Ngoài thực trạng đa dạng tôn giáo này, và dính  liền với thực trạng này, khắp nơi còn có rất nhiều  nền văn hóa khác nhau. Các cộng đồng kitô thường bị coi  là ngoại lai, vì người ta cầm họ như là những  tổ chức du nhập từ các nước ngoài vào, cũng  như bởi vì họ có tín ngưỡng tôn giáo, và nhiều  khi cả văn hóa nữa, khác với các cộng đồng sống  chung quanh. Nhiều chánh phủ coi họ như là những  lãnh vực ngoại lai, với những ý thức hệ Tây phương,  với những thủ lãnh vâng theo chỉ thị của các  thế lực nước ngoài, và với lối sống mô phỏng  theo kiểu mẫu Tây phương. Đồng bào của họ thường  nghĩ rằng các kitô hữu không quan tâm gì nhiều đến các  phong trào dân tộc và những lo âu của nước  nhà mình. Có thực tâm hay không thì đó là một chuyện  khác; nhưng sự việc là nhiều khi họ cũng tố cáo đồng  bào kitô là không chịu chia sẻ những nguyện  vọng của các chính nghĩa quốc gia và các nhóm ái quốc,  cũng như không biết ưu tư cho đủ đối với các nhu cầu  và các khổ đau, đối với tình trạng bị áp bức và bóc  lột của quần chúng không kitô, bởi vì họ vẫn  còn liên hệ với những ai còn đang cố tiếp tục  kéo dài cuộc bóc lột bằng hình thức đô hộ kinh tế.

10. Khác với các cộng đồng kitô Tây phương, Hội Thánh ở  Á Châu và các Giáo Hội Địa Phương tại đây không có  những “thời đại kitô” để mà nhìn lại. Đối  với đa số các Giáo Hội Á Châu, “Truyền thống”  thường chỉ là lịch sử xa lạ của Hội Thánh tại  các lục địa và của các dân tộc khác, ít hoặc không  dính dự gì với kinh nghiệm và lịch sử của mình cũng  như của dân tộc mình cả.

11. Chính vì đang đứng ở giữa tình cảnh vừa phác  họa trên đây, nên chúng tôi cảm thấy cần phải dốc  toàn tâm toàn lực vào việc suy tư thần học về  Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu hiện nay. Ngoài một  vài nét phác họa khái quát về các “Giáo Hội trẻ”  (ecclesiae novellae ) đọc thấy ở trong sắc lệnh Ad  Gentes (chương 3), Công đồng Vaticanô II đã không khai  triển rộng về đề tài này, bởi lẽ thời  ấy – ít nhất là trong thập kỷ 1960, – hình như  đó không phải là mối băn khoăn cấp thiết đối với  các Giáo Hội Địa Phương Tây phương.

12.  Tuy nhiên, đối với chúng tôi, những “Giáo Hội  trẻ” tại Á Châu, việc cần phải suy tư về lĩnh  vực thần học này cho sâu xa hơn, là một công tác  cấp thiết. Từ nhiều năm nay, cả các Giám mục lẫn  các nhà thần học đều đã ý thức được rằng vấn đề  này là một trong những mối quan tâm bách thiết  nhất cần phải làm cho các cộng đồng kitô chúng tôi  thấu hiểu. Chỉ những ai không sống đụng chạm với những  khát vọng, trông chờ của các dân tộc và của  cộng đồng chúng tôi, thì mới không nắm được hoặc là  không cảm nhận ra nổi mối quan tâm kia mà thôi: đúng  họ là những “ngoại kiều” sống ở giữa  chúng tôi.

13. Chính FABC (Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu)  đã yêu cầu chúng tôi, là một nhóm các thần học  gia, dành ưu tiên suy tư cho đề tài nghiên cứu này.  Như vậy, đây là đề tài đầu tiên được Uỷ Ban Cố  Vấn Thần Học (Theological Advisory Commission: TAC ) của  FABC bàn đến, cũng ngay trong buổi họp đầu tiên, nhóm  hồi mùa xuân 1986, tại Hồng Kông.

14.  Sau gần năm năm (1986-1990), khi việc nghiên cứu đang tiến  hành và ngày càng nắm chắc được điểm chủ  chốt hơn, chúng tôi bắt đầu nhận ra rằng chủ đề “Giáo  Hội Địa Phương” cần phải được coi như là một cố  gắng để thấu hiểu về cách thức một cộng đồng đức tin “tự  hiện thực hóa chính mình” trong tư thế là Hội Thánh. Hiểu biết Giáo Hội Địa Phương là hiểu biết quá trình phát sinh Giáo Hội (ecclesiogenesis ) tại một nơi, vào một  lúc, ở trong một nền văn hóa cụ thể.

Chúng tôi cũng ý thức rằng dự án và tiến trình này  là một phương thức khác để tìm hiểu về công tác hội  nhập văn hóa. Thực ra, đối với chúng tôi là những  người đang sống trong các Giáo Hội Địa Phương tại Á  Châu, công tác hội nhập văn hóa đồng nghĩa với nổ lực “tự  hiện thực hóa” của Hội Thánh tại một nơi. Thành  thử, chúng tôi đã đưa điểm nhận định sáng suốt này  vào trong tài liệu nghiên cứu của chúng tôi đây.  Đó là điểm nhận định mà càng tiến tới trong nổ  lực tìm hiểu, thì chúng tôi càng nhận ra rõ hơn, qua  cách nghiên cứu các thực tại lịch sử theo bối cảnh  riêng và theo như kinh nghiệm chúng tôi nắm được. Thực  vậy, suốt năm năm bàn luận, chúng tôi đã cố gắng  đi từ những thực tại cụ thể và kinh nghiệm thực  tế để nghiên cứu, chứ không phải chỉ biết giở trò  múa rối với những ý niệm lý thuyết trên mây.

15.  Chúng tôi xin giới thiệu tài liệu này như là cố gắng đầu tiên của chúng tôi để tiến hành một  cuộc nghiên cứu thần học về “Giáo Hội Địa Phương trong  bối cảnh Á Châu”. Trước hết, xin nói rõ rằng  ở đây chúng tôi không chủ ý nhắm một điều gì ngoài  việc mở ra một cuộc đối thoại với những ai cùng  chia sẻ những quan tâm và khát vọng như chúng tôi.  Thần học về Giáo Hội Địa Phương còn đang ở trong thời  phôi thai, và như thế không những ở Á Châu  thôi, mà còn ở trong Hội Thánh trên khắp thế  giới nữa. Những nhà thần học để tâm suy tư và  viết về đề tài này thì không phải là nhiều,  và nếu chỉ ghi lại những tác phẩm thực sự đáng kể,  thì thư mục về chủ đề này cũng không có là  mấy. Nhiều Giám mục Á Châu đã yêu cầu chúng tôi  khởi công cho tiến trình học hỏi và bàn luận  này. Các luận đề sau đây là những hoa trái đầu  mùa của công việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ hy vọng  là chúng sẽ gióng lên được một lời mời gọi  và thối thúc những người khác đang sống trong các  Giáo Hội Địa Phương Á châu, để họ cũng biết dành  ưu tư cho vấn đề mà tiếp tục công tác chúng tôi đã  bắt đầu, trong cùng một tinh thần như chúng tôi đã  có khi thăm dò về đề tài – nghĩa là chỉ nóng  lòng mong ước làm sao để tìm cho ra sự thật, – nhằm  nói lên niềm hy vọng hỷ hoan vào một tương lai đầy  hứa hẹn cho Hội Thánh tại các đất nước và giữa các  dân tộc của chúng tôi.

B. LUẬN ĐỀ VỀ GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

I. GIẢI NGHĨA CÁC TỪ NGỮ

Giáo Hội Địa Phương phát tích từ cuộc gặp gỡ giữa  một dân tộc với Tin Mừng. Và đã là một dân  tộc thì thế tất phải sinh sống ở trong một bối cảnh  văn hóa cụ thể. Nếu thế thì trước hết, cần phải giải  nghĩa các từ ngữ căn bản gặp thấy trong cách đặt  vấn đề như vừa nói; đó là các từ ngữ: “Tin  Mừng”, “văn hóa” và “Giáo Hội Địa Phương”.

1. Tin Mừng

Từ ngữ “Tin Mừng” hay “Phúc Âm”  có nghĩa là “tin tốt” (evangelion ). Đây là  từ mà ngôn ngữ của Tân Ước đã mượn từ  Cựu Ước, nhưng với một ý nghĩa đặc biệt mà chính từ  ấy cũng đã hàm ngụ, đó là: loan báo ơn cứu  độ (Is 40, 1f), loan báo ơn giải phóng (Is 61,1f) và  sự việc Nước Thiên Chúa đang đến (Is 52,7).

a. Tin Mừng về Vương Quốc Sự Sống

Đức Giêsu đã đến rao giảng Tin Mừng của Thiên  Chúa; Ngài nói: “Thời kỳ đã mãn và  Nước Trời đã đến gần” (Mc 1,14-15). Ngài “được  xức dầu tấn phong để đi loan báo Tin Mừng cho những  kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18tt). Lời loan báo Đức  Giêsu ra đời được nhắc đến như là một tin lành  cứu độ (x. Lc 2,10-11). Vì thế, trong Tân Ước, Phúc Âm  là tin lành về tình trạng giải phóng, về ơn cứu  độ và về Nước Trời. Gioan không dùng danh từ  “Tin Mừng”. Ngài thay thế các từ ngữ  “vương quốc Thiên Chúa” và “cứu độ” bằng  từ “sự sống” (xem Ga 3,16-17). Đức Giêsu nói: “Tôi  đến để cho mọi người được sống và được sống dồi  dào” (Ga 10,10).

b. Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô

Tin Mừng cũng được đồng nhất hóa với chính Đức Giêsu.  Chính bản thân của sứ giả đã trở nên trung  tâm điểm của Tin Mừng. Phúc Âm là chính Đức  Giêsu (Mc 1,1). Nơi Ngài, Nước của Thiên Chúa đã  tỏ hiện (Mt 12,28). Người nào bỏ mọi sự vì  Đức Giêsu và vì Tin Mừng, thì sẽ được thưởng  gấp trăm lần ngay ở đời này (Mc 10,30).

Trong Công Vụ Tông Đồ và các thư Thánh Phaolô, việc đồng  nhất hóa này còn được khai triển rộng hơn. Tin Mừng  trở thành “tin mừng về Đức Giêsu” (Cv 8,35;  17,18), “về Chúa Giêsu” (Cv 11,20; Rm 1,3tt), “về  danh Đức Giêsu Kitô” (Cv 8,12), “về Đức Kitô” (Rm  15,19tt; 2Cr 2,12), và “về vinh quang của Đức Kitô”  (2Cr 4,4). Cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu  trở thành trung tâm điểm của Tin Mừng (1Cr 15,1-5).

c. Tin Mừng là Lời nói (Ngôn từ) mà  cũng là Chứng từ

Trong các văn bản của Gioan, việc đồng nhất hóa Tin  Mừng với Đức Giêsu được diễn tả bằng các từ  “Lời” và “Chứng tá”. Kinh nghiệm về  Tin Mừng được miêu tả như là kinh nghiệm về “Lời  sự sống” (1Ga 1,1). Chính Đức Giêsu đã đến để “làm  chứng” cho Sự Thật (Lời) (Ga 18,37); và nếu tín  hữu có được kinh nghiệm về Lời qua hành động công  bố, thì cũng chính là nhờ ở sự việc “làm  chứng” (1Ga 1,2).

d. Tin Mừng như là Ân sủng, Thần Khí  và Quyền năng

Cộng đồng kitô tiên khởi có kinh nghiệm về Tin Mừng  như là ơn tha thứ và ân lộc ban Thần Khí (Cv 2,38; 3,26;  10,43; 13,38; 17,30). Đó chính là kinh nghiệm về ơn cứu độ,  được mô tả như là tin lành “bình an” do Đức  Giêsu Kitô mang đến (Cv 10,36). Đối với Phaolô, Tin Mừng  là quyền năng cứu độ, tức là quyền năng của  Thiên Chúa để cứu rỗi tất cả những ai có lòng  tin (Rm 1,16), là sức mạnh cứu độ Thiên Chúa đã tung  ra trong thế giới loài người để cứu rỗi mhững  ai có lòng tin. Vì vậy, Tin Mừng được công bố không  những bằng lời nói mà cả với quyền năng và  Thần Khí nữa (1Tx 1,5). Tin Mừng là phổ quát qua  lời mời gọi gửi đến cho hết thảy mọi người  và qua sự việc được áp dụng “cho bất cứ ai có lòng  tin” – cả Do thái lẫn Hy lạp (Rm 1,16).

e. Tin Mừng như là Mầu nhiệm

Tin Mừng là mầu nhiệm (mysterion ), tức là  kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: giữ kín từ muôn  thuở (1Cr 2,7), và đã được mạc khải và  thể hiện trong và qua Đức Giêsu Kitô (1Cr 2,1-2). Tầm trọng  yếu toàn diện của mầu nhiệm này nằm ở chỗ  nó là một kế hoạch liên quan tới toàn thể vũ  trụ trong thời viên mãn, và nhắm tới tiêu đích  quy tập vạn vật trên trời cũng như dưới đất vào  trong Ngài (Ep 1,9-10). Do đó, Tin Mừng cần phải  được loan báo qua hình thức đối thoại, nghĩa là như một  cuộc gặp gỡ giữa thực trạng biểu hiện của mầu  nhiệm này ở giữa dòng lịch sử qua mạc khải  Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Kitô, và sự hiện  diện của mầu nhiệm ấy ở trong những gì khác mà  vũ trụ vén mở cho thấy.

f. Hội Thánh: Hiện thân của Tin Mừng

Tin Mừng ấy, — hoặc là quyền năng của Thiên  Chúa để cứu rỗi, là Nước Thiên Chúa, hay là sự  sống viên mãn, — đã hoạt động nơi Đức Giêsu nhờ  Thần Khí: khởi đầu từ thời Ngài công khai rao  giảng , với các phép lạ là những dấu chỉ của  Tin Mừng này (Mt 12,28); rồi tiếp đó, đã hoạt  động một cách quyết liệt qua cuộc tử nạn và phục  sinh của Ngài. Sinh thời, Đức Kitô là hiện  thân của Tin Mừng tỏ lộ một cách cụ thể trong  lời rao giảng, lối sống và thái dộ dấn thân của  Ngài. Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài,  Đức Giêsu Kitô đã trở thành Thần Khí đầy sức  sống và ban sự sống (1Cr 15,45). Như vậy, Tin Mừng mà  Đức Kitô là hiện thân, đã trở thành một sức  mạnh hiện diện ở giữa tất cả những ai tin  vào các giá trị như chân lý, tự do và công bằng;  các giá trị này làm chứng về sự hiện diện của  Nước Trời ở giữa loài người. Chính Tin Mừng  ấy, chính quyền lực cứu rỗi ấy của Thiên, đang được  thể hiện ở trong Hội Thánh, tức là ở trong cộng  đồng các tín hữu, nhờ Thần Khí của Đức Kitô (Thiên  Chúa). Như thế, Hội Thánh ngày nay đang giữ vai trò  làm hiện thân cho Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô  giữa lịch sử loài người. Do đó, Hội Thánh là  “môi trường” để làm công tác loan báo Tin Mừng  (Phúc âm hóa).

2. Văn Hóa

Có hàng trăm cách để định nghĩa văn hóa. Dù vậy,  không một định nghĩa nào đã thành công trong việc  đưa ra một ý niệm đầy đủ bao gồm toàn bộ thực tại  phức tạp của cái thường được gọi là văn hóa.  Cho nên, Công đồng chung Vaticanô II đã chọn phương thức  mô tả hơn là cố định nghĩa văn hóa cho chính xác (xem Gaudium et Spes , 53). Trong văn kiện về Giáo Hội Địa Phương  này, chúng tôi không theo một định nghĩa nhất định nào  về văn hóa cả, song sẽ hiểu văn hóa theo cách mô  tả của Vaticanô II, và theo hiện tình khảo cứu  của khoa nhân chủng học. Và chúng tôi sẽ nhìn  văn hóa từ bốn góc cạnh như sẽ trình bày dưới  đây. Nếu được phối hợp lại, thì những cách nhìn này  sẽ giúp chúng ta có được một ý niệm khái quát về cái  thường được gọi là văn hóa.

a. Văn hóa như là việc bồi dưỡng tinh thần  nhân loại

Trong các ngôn ngữ gốc Latinh, từ văn hóa (cultura/culture )  phát nguyên bởi từ cultura , có nghĩa là trồng  trọt, như thấy trong trường hợp các chữ “ agriculture”  (nông nghiệp), “ horticulture ” (kỹ thuật làm  vườn),v.v… Quan niệm cổ điển coi văn hóa như là tiến  trình nội tâm của việc con người trau giồi hoặc uốn  nắn trí tuệ cùng các năng lực tâm linh khác; và vì  thế, văn hóa được coi như là một cái gì trực tiếp liên  hệ với đời sống tri thức, với nghệ thuật, văn học, và  các khoa nhân văn, vv… Dĩ nhiên, theo quan niệm này, văn  hóa chỉ được áp dụng cho những cá nhân, những từng  lớp hoặc dân tộc ưu tú và có học thức, khác hẳn với  dân chúng vô học, bán khai, lạc hậu. Hơn nữa, một cách  nào đó, văn hóa còn bao hàm cả tính chất phổ  quát và trường tồn. Những cá nhân và những  nhóm cần phải khép mình vào trong các kiểu mẫu  và mô hình được coi là có văn hóa. Quan niệm cổ điển  này đã xuất hiện tại Âu Châu trong thời Phục  hưng và thế kỷ “Ánh sáng” (tk 18), và  đã giữ được ưu thế rất lâu, nghĩa là cho đến thời  gian gần đây. Đó cũng là quan niệm về văn hóa đã  từng đi sát cánh với công cuộc truyền giáo trong thời  thuộc địa. Rao giảng Tin Mừng cũng bao hàm công  cuộc mang văn hóa tới cho các dân tộc và các quốc gia,  và chính sứ mệnh kitô cũng đã được coi như là  “sứ mệnh văn minh hóa”.

b. Quan niệm văn hóa theo kinh nghiệm

Văn hóa không phải là đặc quyền của một ít cá  nhân hoặc dân tộc. Không có dân tộc nào mà không  có văn hóa. Nói tới văn hóa tức là nói tới các truyền  thống, tập quán, phong tục và tổ chức của một dân  tộc. Các khoa nhân chủng học và xã hội học đã  nêu bật sự kiện này: văn hóa là một thực tại phát  sinh từ kinh nghiệm, và không chỉ liên hệ tới tâm  trí và các tiến trình bên trong của trí tuệ mà  thôi, nhưng còn liên quan tới cả các tiến trình bên  ngoài ở giữa cuộc sống xã của một dân  tộc nữa. Theo ý nghĩa này, văn hóa là “toàn  bộ tổng hợp ấy, bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,  đạo đức, pháp luật, tục lệ cùng bất cứ khả năng  và thói quen nào mà con người thu thập được  trong tư cách là thành phần của một xã hội”.  Lối nhìn văn hóa như thế là một lối nhìn rộng mở  để đón mọi hình thức khác biệt và đa dạng. Toàn thể  nhân loại có thể được coi như là một đại gia đình của  các dân tộc, trong đó mỗi dân nước giữ nguyên phong  tục, truyền thống, tín ngưỡng, công trình mỹ thuật,.v.v… riêng của mình.

c. Chiều kích tượng trưng của văn hóa

Văn hóa bao hàm không những các truyền thống, những  cách cư xử, v.v., mà còn cả những biểu  tượng, ý niệm, giá trị, ngôn ngữ, ý nghĩa nữa. Những  phong tục, truyền thống và tổ chức của một dân tộc  hàm ngụ hoặc tiêu biểu cho các giá trị, tư tưởng và  quan niệm của dân tộc ấy. Nhờ thế, việc giao tiếp  hoặc thấu hiểu nhau mới có thể trở thành sâu đậm  thiết cốt hơn giữa nội bộ những nhóm hoặc những  dân tộc có cùng một văn hóa chung. Về phương diện này,  văn hóa “biểu thị một thứ mô dạng được truyền lưu theo  dòng lịch sử và được coi là mực thước cho ý  nghĩa tiềm ẩn ở nơi các biểu tượng, và đồng thời  cũng biểu thị một hệ thống quan niệm diễn đạt theo  hình thức tượng trưng, thừa kế từ các thế hệ trước,  nhờ đó con người có thể trao đổi, lưu truyền và  mở rộng kiến thức cùng thái độ của mình đối với  cuộc sống”.

Theo ý nghĩa này, văn hóa gắn bó rất mật thiết với tôn  giáo. Đặc biệt tại Á châu là nơi các hình thức và  các biểu hiện của văn hóa đều mang viễn ảnh,  quan niệm, cả đến những giá trị cùng biểu tượng  nữa, của tôn giáo, và lấy đó làm căn bản  cũng như làm nguyên lý hợp thức cho sự có mặt của  mình.

d. Quan niệm xã hội như là một thực tại văn hóa

Có thể coi chính xã hội như là một hệ thống văn hóa. Vì cách tổ chức và quản trị của một xã hội, cách phát triển kinh tế, cách thức các phần tử xã hội trao đổi với nhau,.v.v…, thường là những gì  xuất phát từ đặc tính văn hóa và thiên tư của  một dân tộc. Vì vậy, tách biệt đà phát triển kinh tế  và công tác cai quản chính trị ra khỏi nền văn  hóa của dân tộc, thì sẽ gây ra những hậu quả  tác hại trầm trọng, như lịch sử và kinh nghiệm đã  chứng tỏ cho thấy, nhất là trong Thế giới thứ ba hiện  nay. Có một sự thật đã được minh chứng, đó là: bao  lâu văn hóa chưa đổi thay, thì không thể có một thay đổi  hữu hiệu và lâu bền trong một xã hội được. Chính  vì vậy, những thời gian gần đây, văn hóa đã trở  thành vấn đề chính yếu trong mọi lãnh vực cuộc sống  xã hội.

Dĩ nhiên là bốn cách nhìn và bốn phương thức tìm hiểu  về văn hóa trình bày trên đây, bổ túc cho lẫn nhau.  Có thể kết luận rằng, rốt cuộc, văn hóa chỉ là cách  sống cụ thể của con người ở giữa một dân  tộc, một nhóm hoặc một quốc gia nhất định. Trong khi đó, bản  sắc loài người (humanum ) lại tiềm ẩn dưới  mọi hình thức văn hóa, làm mối dây nối kết để mọi nền  văn hóa có thể gặp gỡ lẫn nhau. Và bất cứ nền  văn hóa cá biệt nào cũng đều biểu lộ sắc thái phong  phú của bản sắc loài người trong một cách  kiểu có một không hai.

3. Giáo Hội Địa Phương

Công đồng Vaticanô II đã không dùng cùng một thứ  từ ngữ nhất định khi đề cập đến những hình thái  địa phương của Hội Thánh. Thành ngữ “Giáo Hội  cá biệt” (Particular Church ) được dùng đến 24  lần — 12 lần ám chỉ đến các giáo phận, còn các lần  khác thì để chỉ những nhóm các Giáo Hội thuộc cùng  một tổ chức, chẳng hạn như là thuộc cùng một loại  lễ chế (xem HN14; ĐP 2-4,10,16, 17,19). Từ  ngữ “Giáo Hội Địa Phương” (Local Church ) được  dùng 8 lần để chỉ hoặc là giáo phận, hay là các  nhóm Giáo Hội, và cả đến giáo xứ nữa. Số 14  trong Sắc Lệnh về Hiệp Nhất dùng các từ “cá  biệt” và “địa phương” như là những từ  đồng nghĩa, để chỉ những nhóm các Giáo Hội Đông phương,  đặc biệt là các Giáo Hội Thượng phụ.

Trong Bộ Giáo luật mới, “ ecclesia particularis ” luôn luôn có nghĩa là giáo phận. Cả từ ngữ  ecclesia localis (“Giáo hội Địa Phương”) lẫn ecclesia universalis (“Giáo Hội Hoàn Vũ” đã  không có mặt trong bộ Giáo luật; văn kiện này thường  dùng hoặc là cách nói “toàn thể Hội Thánh”  (thỉnh thoảng chỉ nói là “Hội Thánh”) hoặc là  danh xưng “Giáo Hội cá biệt”.[2] Bộ Giáo luật cũng phân biệt “Giáo Hội Latinh” với các Giáo Hội khác, được gọi là “các Giáo Hội  lễ chế có luật riêng” (ecclesiae sui juris ); có  người đề nghị nên dịch thành ngữ này ra “Giáo  Hội tự trị”. Còn “lễ chế” thì bộ Giáo luật  định nghĩa là “di sản phụng vụ, thần học, tu đức  và pháp chế, với những nét khác biệt về văn hóa  và hoàn cảnh lịch sử của một dân tộc;  di sản ấy được diễn đạt theo cách thức sống đạo riêng  của mỗi Giáo hội với quy luật riêng của mình”  (Schema Codicis Juris Canonici Orientalis , 1988, Cn. 27,2).

Dùng từ ngữ một cách thiếu thống nhất như vậy  có thể gây ra một số khó khăn. Có những thần học gia  đề nghị là nên đơn thuần đi theo cách nói của Giáo  luật; họ gọi giáo phận “Giáo Hội cá biệt”, và  dùng từ ngữ ” Giáo Hội địa phương” để chỉ  các hình thức cụ thể khác của Giáo Hội. Có người  khác lại chủ trương rằng các nhà thần học không cần  gì mà phải chịu ràng buộc bởi cách dùng  từ mới của Giáo luật, như là “Giáo Hội cá  biệt” chẳng hạn, và họ đồng ý dùng thành  ngữ “Giáo Hội địa phương”, rồi khi cần thì nói rõ  là danh từ ấy dùng để chỉ một giáo phận, một  giáo xứ, một cộng đồng kitô nhỏ, hoặc là một nhóm  các địa phận.

Phía đằng sau việc lựa chọn các từ ngữ này, còn  có cả một vấn đề thần học quan trọng: những điều  kiện xã hội và văn hóa sẽ ảnh hưởng cho  tới mức nào vào trong việc thần học định nghĩa một  hình thức địa phương của Hội Thánh? Dựa theo đường lối  của cha Henri de Lubac và Bộ giáo luật mới, Ủy  Ban Thần học Quốc tế chủ trương rằng tiêu chí (criterion ) để xác định bản sắc của một Giáo Hội cá biệt (tức  là một giáo phận), là một tiêu chí “thần học  tự bản chất nó” (essentially theological ); còn  tiêu chí để định nghĩa một Giáo Hội địa phương (tức là  một tổ chức các Giáo hội cá biệt), chỉ mang tính chất “chủ  yếu là văn hóa xã hội” mà thôi (xem H.de Lubac, L”unique Eglise du Christ , Paris, Centurion 1985, 33).

Liên quan đến ý kiến trên đây, có hai điểm đòi phải  giữ thái độ dè dặt. Thứ nhất: cách đặt hai từ  ngữ “thần học” và “xã hội/văn hóa”  ngang nhau trên cán cân so sánh, có thể làm cho hiểu rằng  bản sắc xã hội/văn hóa chẳng có một ý nghĩa nào  trong bình diện thần học cả; điều này sẽ gây ảnh  hưởng trầm trọng đến khoa giáo hội học, và có thể  cần phải được đặt lại vấn đề. Thứ hai: nếu thường  xuyên dùng từ ngữ “Giáo Hội cá biệt” để  chỉ một giáo phận nhằm phân biệt với “Giáo Hội Hoàn  Vũ”, thì có thể gây ra cảm tưởng cho rằng công  giáo tính của Giáo Hội cá biệt nằm đâu xa ở phía  ngoài. Cũng vậy, từ ngữ “Giáo Hội Hoàn  Vũ” dùng để phân biệt với “Giáo Hội cá biệt”,  có thể gây ra hiểu lầm về phổ quát tính của Giáo Hội  Hoàn Vũ, vì sẽ bị coi như là một tổ chức siêu  quốc gia hay quốc tế.

Vì những lý do như thế nên chúng tôi đã quyết định  dùng một cách thường xuyên thành ngữ “ Giáo  Hội Địa Phương ” (Local Church ) trong văn kiện này;  nếu cần, thì chúng tôi sẽ chỉ rõ đối với các trường  hợp ứng dụng cụ thể khác.

Để chỉ những gì thường được gọi là “lễ  chế” (Rites ), chúng tôi sẽ theo cách nói của  các Hội đồng Giám mục Ấn độ, cũng như của các  thần học gia các ngài, mà dùng từ ngữ  “ các Giáo Hội Cá Thể ” (Individual Churches ).

4. Lời chú dẫn các luận đề

Để việc nghiên cứu văn kiện này được dễ dàng,  xin nói thêm một vài lời về phương thức tiến hành,  về cách tổ chức và thứ tự của các luận đề sau đây.

Đầu tiên là những viễn ảnh căn bản của  Kinh Thánh về Giáo Hội Địa Phương (luận đề 1-4): có thể coi  đó là nền móng của văn kiện.

Tiếp đó là những luận đề có tính cách kinh nghiệm  và hiện sinh. Như vậy, tài liệu này không bắt  đầu với việc định nghĩa Giáo Hội Địa Phương, rồi sau đó đem  áp dụng định nghĩa ấy cho các Giáo Hội ở trong những  môi trường với nhiều đặc nét văn hóa khác nhau của  Á châu; trái lại, chúng tôi cố gắng nghiên cứu thực  trạng của Giáo Hội Địa Phương như là một thực tại  phát sinh từ cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và  văn hóa của một dân tộc (luận đề 5-9).

Các suy tư về công trình hội nhập văn hóa — một công  trình tiến hành theo mẫu mực của mầu nhiệm Nhập  Thể — sẽ tìm hiểu về cuộc gặp gỡ của Giáo  Hội Địa Phương với toàn bộ bối cảnh của chính nơi  Giáo Hội sinh sống: bối cảnh này tất nhiên phải  bao gồm cả những thực tại xã hội, kinh tế và  chính trị nữa. Dựa theo phương pháp học, các luận đề sẽ  khởi đầu đi từ kinh nghiệm, từ những suy tư  về kinh nghiệm, và sau đó, sẽ cố gắng tìm hiểu cho  biết Giáo Hội Địa Phương là gì.

Trong bước kế tiếp, các luận đề sẽ lấy lại giáo huấn  của Vaticanô II, và thử đưa ra một ý niệm thần  học về bản chất, về các cấu tố và các đặc điểm  cũng như về cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội  Địa Phương (luận đề 10-14).

Trong phần kết thúc tài liệu, sẽ có một luận đề  cuối cùng (số 15) bàn đến một vấn đề quan trọng và  hiện đang làm đề tài cho nhiều cuộc bàn thảo:  đó là vấn đề các Hội Đồng Giám Mục.

Những suy tư thần học và những luận đề nêu lên  trong văn kiện này không nhằm một đích nào ngoài  chủ đích thuần túy mục vụ: nghĩa là để giúp các thành  phần trong Hội Thánh — các Giám mục, linh mục, tu sĩ và  giáo dân — thấu hiểu cho rõ hơn, cảm nghiệm cho  sâu đậm hơn, làm chứng và truyền thụ cho đắc lực  hơn, mầu nhiệm về Giáo Hội Địa Phương, với toàn bộ thực  tại thiêng liêng cũng như với bản sắc “trần tục”  hết sức cụ thể đâm rễ sâu vào trong môi trường  sống của chính Giáo Hội. Và cũng là để mở  đường cho công tác hiện tại hóa Giáo Hội Địa Phương ngay  tại trong bối cảnh của toàn bộ thực tại cuộc  sống, trong đó Giáo Hội có bổn phận phải rao giảng  Tin Mừng và hoàn tất sứ mệnh của mình ở  giữa lòng lịch sử con người. Vì thế, phần cuối  của văn kiện sẽ đề ra một số hệ luận và những  lời nhắn nhủ có tính cách mục vụ, kỳ vọng rằng  nhờ đó mà các suy tư kia sẽ được thể hiện qua  hành động và lề lối hoạt động.

 

* Lưu ý : Ở đây, chúng tôi không trình dịch Phần D của  văn kiện, tức là Phần mang tựa đề Những hệ quả  mục vụ và những lời nhắn nhủ.

—————

[1] Các “Luận đề về Giáo Hội Địa Phương” này đã  do Ủy Ban Cố Vấn Thần Học của Liên Hiệp các Hội  Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) soạn thảo ra. Tất cả  các Hội Đồng Giám Mục thuộc FABC đều có đại diện làm  thành viên trong Ủy Ban vừa nói. Tài liệu giới  thiệu các Luận đề này là thành quả của  cuộc nghiên cứu và bàn thảo mà các thành  viên của Ủy Ban và các nhà thần học khác  đã tiến hành suốt trong năm năm, và cuối cùng  đã chấp thuận trong lần Ủy Ban họp tại Hồng Kông  hồi tháng tư năm 1990. Các Luận đề chỉ nhằm mục đích đề ra  một số điểm căn bản làm nền tảng chung cho các  cuộc liên tục trao đổi và bàn thảo rộng lớn hơn  với các chủ chăn và các thần học gia. Các thành  viên của Ủy Ban Cố Vấn Thần Học ước mong nhận được  những ý kiến nhận định của các quý vị đọc Luận đề,  nhằm đẩy mạnh đà suy tư thần học cũng như mục vụ  trong Hội Thánh. Xin gửi các ý kiến nhận định về FABC,  16 Caine Road, Hong Kong.

[2] Bộ Giáo Luật  bằng tiếng Việt, do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ xuất bản  (1987), dịch ecclesia particularis bằng Giáo hội địa phương