Giáo Hội Địa Phương: Suy Tư Thần Học Trong Bối Cảnh Á Châu (2)

0
424


GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU

Chuyển dịch: Ngô Minh

***

***

II. NỀN TẢNG TRONG KINH THÁNH

1. Luận Đề 1

Cho dù có phải nhận dạng các Giáo Hội Địa Phương  trong Tân Ước bằng địa danh, thì điều chủ yếu được nêu  bật chính là sự việc Dân Thiên Chúa đang ở tại một  nơi nhất định. Hội Thánh là công trình hiện tại hóa ngay  ở giữa lòng lịch sử, của mầu nhiệm Thiên  Chúa trong Đức Kitô; là mầu nhiệm được thực hiện ở  nơi mỗi Giáo Hội Địa Phương. Các Giáo Hội Địa Phương trong  Tân Ước thì đa dạng. Hình ảnh “Thân Thể Đức Kitô”  được dùng để chỉ Hội Thánh, cho thấy rõ sự kiện này  là: Hội Thánh Hoàn Vũ là mối hiệp thông giữa  các Giáo Hội Địa Phương.

1.01  Cho dù trong các thư của Phaolô và Sách Công  vụ Tông đồ (1Cr 1,2; Gl 1,2; 1Tx 1,1), các Giáo Hội có phải  được nhận dạng qua một địa danh cụ thể, thì điều chủ yếu  được nêu bật hẳn chính là sự việc Dân Thiên Chúa  đang ở tại một nơi nhất định . Công thức: “gửi  về các Giáo Hội miền Galata”, dùng trong Thư gửi  tín hữu Galata, cho thấy rõ là có thể có nhiều  Giáo Hội cùng ở trong một miền đất nhất định, và  các Giáo Hội trong vùng thường có những mối tương  giao với nhau. Thế nên, không phải là một Hội Thánh  duy nhất được chia ra thành nhiều Giáo Hội, và ngược  lại, cũng không phải là tổng số các Giáo Hội  đã làm nên Hội Thánh.

1.02   Tân Ước tỏ ra không mấy tán đồng cách phân biệt  thông thường giữa “Hội Thánh Hoàn Vũ”  được coi như là “Hội Thánh của Thiên Chúa”,  và các Giáo Hội Địa Phương được hiểu là như những  cộng đoàn địa phương (tức như là những phần tử  hoặc bộ phận) làm thành phần của Hội Thánh Thiên  Chúa. Thành ngữ “Hội Thánh của Thiên Chúa”  có thể được dùng để chỉ một (1Cr 1,2; 10,35;15,9) hoặc  nhiều cộng đoàn giáo hội (1Cr 11,16; 1Tx 2,14). Thế nên,  văn bản Tân Ước cho phép xác định rằng công trình hiện  tại hóa ngay ở giữa lòng lịch sử, của mầu  nhiệm Thiên Chúa trong Đức Kitô, đã được thực hiện ở  nơi mỗi Giáo Hội Địa Phương.

1.03   Trong thời Tân Ước, ý niệm về Giáo Hội Địa Phương  mang tính cách loại suy hơn là đơn nghĩa, và có thể  chỉ một cuộc tập họp dân chúng địa phương, một cơ sở thị  thành, hoặc là các Giáo Hội trong vùng, hay là  các Giáo Hội họp tại nhà riêng, v.v… Cũng vì thế  mà các Giáo Hội Địa Phương trong thời Tân Ước mang  những hình thái đa dạng đến độ cần phải nghiên cứu  từng sách một trong Tân Ước thì mới có thể biết được  Giáo Hội có mặt ở trong đó là thuộc mẫu Giáo  Hội nào.

1.04   Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô (Cl 1,24; Ep 1,22).  Đức Kitô và Hội Thánh cũng được đặt kề cạnh nhau  trong những lần được nhắc tới (Ep 3,21; 5,22). Như vậy,  trong một ý nghĩa nào đó, Đức Kitô và Hội Thánh được  coi như là một. Là chi thể của Thân Thể Đức Kitô,  các kitô hữu sống trong một mối liên hệ đối với nhau  (1Cr 12,12-27), và mối liên hệ ấy nằm ở nơi Đức Kitô.  Cho nên, đó không phải chỉ là một thứ tình đoàn  kết thuần túy nhân loại mà thôi, song là một mối  hiệp thông nẩy sinh từ sự việc được sáp nhập vào  trong Đức Kitô nhờ đức tin và phép rửa (Gl 3,26-28).

1.05  Trong hình ảnh”Thân Thể Đức Kitô”, có thể nhận  ra được cách thức minh họa về mối liên hệ giữa Hội Thánh  Hoàn Vũ và các Giáo Hội Địa Phương. Đức Kitô được  coi như đồng nhất hóa với mỗi Giáo Hội Địa Phương; vì thế,  mỗi Giáo Hội Địa Phương là Thân Thể Đức Kitô. Khủng  bố Giáo Hội tại Giuđêa, tại Galilêa và Samaria là  Saolô cũng đã khủng bố chính Đức Kitô (Cv 9,1-6).  Mầu nhiệm Đức Kitô đã được thực hiện ở nơi mỗi  Giáo Hội Địa Phương thế nào, thì mầu nhiệm Hội Thánh cũng  được thực hiện như vậy. Mỗi Giáo Hội Địa Phương là  Hội Thánh một cách toàn diện (wholly the Church ),  nhưng không phải là Hội Thánh toàn thể (not  the whole Church ). Hễ càng hiệp thông với Thần Khí  của Đức Giêsu, càng biết đâm rễ sâu vào trong  Tin Mừng cũng như trong đời sống chung nơi Thân Thể  duy nhất của Đức Kitô, và hễ càng biết mở  lòng giao hảo với các Giáo Hội Địa Phương khác trong  cùng một Lời và một Thần Khí, thì một Giáo Hội  Địa Phương càng tiến xa trong công trình thực hiện mầu nhiệm  Hội Thánh. Như vậy, nhờ chính các thực tại đã làm  cho mình nên Hội Thánh và hiệp thông, mà Giáo Hội  Địa Phương mang được tính chất hoàn vũ. Còn đằng  khác, có ở trong và nhờ các Giáo Hội Địa Phương,  thì Hội Thánh Hoàn Vũ mới mang được tính chất hoàn  vũ. Hội Thánh Hoàn Vũ không có được một cuộc  hiện hữu cụ thể nào cả ngoài các Giáo Hội  Địa Phương. Do đó, Hội Thánh Hoàn Vũ chính là niềm  hiệp thông của các Giáo Hội Địa Phương.
 
2. Luận đề 2

Vì loan truyền Tin Mừng là bản sắc sâu thẳm  nhất của Hội Thánh, thế nên, nhân tố quyết định trọng  yếu nhất làm phát sinh nên Giáo Hội Địa Phương, là  việc loan báo Lời (biến cố Đức Kitô). Là động lực  trong công tác loan báo Lời, Thần Khí giữ vai nguyên  lý của hiệp nhất cũng như của dị biệt, và  do đó, làm cho Hội Thánh có khả năng đón nhận mọi  hình thái văn hóa vào trong mối hiệp nhất của mình  mà không mảy may xóa bỏ các dị biệt của chúng,  và đồng thời có khả năng giữ cho tính chất  hoàn vũ của mình được luôn luôn cụ thể.

 2.01  Ngay từ lời mở đầu của sách Công vụ Tông  đồ (Cv 1,6-8), như một thần học gia chuyên về Hội Thánh, thánh  Luca đã phác ra những nét đại cương cho đường hướng  thần học của ngài. Trong đó, chúng ta thấy thời  đại của Hội Thánh được miêu tả như là thời  gian nằm giữa thời Đức Kitô và thời Chung cục.  Tiêu đích của thời đại ấy là làm chứng về  Đức Kitô cho đến tận chân mây cuối trời của thế  giới; đó là sứ mệnh của cộng đoàn các môn đồ  do các tông đồ dẫn dắt và được sức mạnh của  Thánh Thần yểm trợ cho trong khi làm chứng. Vì vậy, Hội  Thánh là một cộng đoàn môn đồ làm chứng cho Chúa  Phục Sinh và cho Tin Mừng của Ngài. Bởi  thế, tiến trình loan truyền Tin Mừng là lý do hiện  hữu của Hội Thánh. “Loan truyền Tin Mừng”  thật sự là ân sủng, là ơn gọi riêng và là  bản sắc sâu thẳm nhất của Hội Thánh. Hội Thánh có  hiện hữu, thì chính là để loan truyền Tin Mừng”  (vangelii Nuntiandi14 ).

2.02   Trong tất cả các Phúc Âm, mệnh lệnh đi truyền  giáo được gắn liền với các trình thuật kể lại những  lần nhóm Mười Hai gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh (16,14-16;  Mt 28,18-20; Lc 24,47-49; Ga 20,19-23). Như thế, nhân tố quyết  định trọng yếu nhất trong tiến trình thành hình của  một Giáo hội Địa phương, là sự việc được dự phần vào  trong kinh nghiệm của các tông đồ về Đức Kitô, qua trung  gian tác vụ tuyên bố Lời (1Ga 1,1tt). Ngay sau khi được  ban cho đầy Thần Khí, các tông đồ đã tức tốc bắt đầu  tuyên bố Tin Mừng Đức Kitô (Cv 2,4). Những người  đón nhận Lời các ngài công bố cũng chính là  những người đã được rửa tội và làm  nên Giáo Hội Địa Phương tại Giêrusalem (Cv 2,41). Vai trò  số một của các tông đồ là tiếp tục phục vụ cho  Lời (Cv 6,2-4). Hễ có cơ hội thuận tiện là thành  viên nào của Giáo Hội cũng cố nắm lấy để công  bố Lời (Cv 4,34; 8,4). Từ đó, Hội Thánh sống nhờ  Lời và nhận ra bản sắc của mình ở nơi công  tác phục vụ Lời.

2.03   Thần Khí là động lực thôi thúc Hội Thánh phục vụ  Lời. Theo Ga 20,21-22, thì lúc phái gửi các tông đồ  đi, Đức Kitô cũng đã ban Thần Khí cho họ. Còn Lc  24,49 thì nhắc lại sự việc Đức Giêsu khuyên dặn các môn  đồ hãy ở lại trong thành (Giêrusalem) cho đến khi  nhận được quyền năng từ trời ban xuống. Cũng vậy,  chính hiện tượng tuôn đổ tràn đầy Thần Khí trong ngày  lễ Ngũ tuần đã đánh dấu biến cố khánh thành  Hội Thánh (Cv 2,1-47). Là phần tử của Hội Thánh,  tất cả những ai đã được sinh ra bởi nước và  Thần Khí (Ga 3,5). Vậy, Thần Khí chính là trụ cột của  Hội Thánh, và là Đấng truyền sức sinh động cho Hội  Thánh.

2.04   Kinh nghiệm Hiện xuống đã tiên báo về bản chất  đích thực của Hội Thánh đang lớn lên, trong đó Thần Khí  giữ vai nguyên lý của hiệp nhất và của dị  biệt. Trong Hội Thánh, có thể gặp thấy “người đến  từ mọi dân nước trong thiên hạ” dâng lời tạ ơn  Thiên Chúa vì Tin Mừng mà “mỗi người nghe  được trong tiếng mẹ đẻ của mình” (Cv 2,5-12). Đó  là lời Thần Khí mời gọi mọi người đón nhận  mọi tiếng nói và mọi hình thái văn hóa vào trong  niềm hiệp nhất của Ngài, mà không mảy may  hủy diệt mất đi những đặc nét cá biệt và những  màu sắc khác nhau của chúng. Đó cũng chính là  lời mời gọi hằng vọng lên, cũng như hằng được  đáp ứng suốt theo dòng lịch sử Hội Thánh, và đã  làm nẩy sinh nên không biết bao nhiêu là Giáo Hội  Địa Phương. Như thế nghĩa là Thần Khí hằng ban cho Hội Thánh  một mối hiệp nhất có khả năng hấp thu những khác  biệt mà không tiêu hủy chúng đi, và một tính phổ  quát luôn luôn cụ thể. Do đó, đà phát triển đích thực  của Hội Thánh là một đà sinh trưởng được phối  hợp hài hòa với những lối diễn đạt đức tin  bằng nhiều cách thức cá biệt mà mỗi Giáo Hội Địa  Phương thừa kế được từ các thế hệ tiền bối: đó là  những lối diễn đạt đã từng tỏ ra thích  hợp đối với hoàn cảnh cụ thể cũng như đối với  nhu cầu và nguyện vọng tôn giáo của dân tộc sống  trong địa phương ấy.
 
3. Luận đề 3

Trong Hội Thánh, tác vụ loan truyền Lời được thi hành  qua giáo huấn của các tông đồ, qua việc cử hành  Lễ tạ ơn, qua cuộc sống cũng như đời hoạt động  đượm nhuần Thần Khí, và qua việc công bố ơn cứu độ. Và  đó chính là các nhân tố làm nẩy sinh nên và cấu  tạo thành Giáo Hội Địa Phương. Nhưng chỉ khi nào được  những nhóm người cụ thể chấp nhận làm của  mình nhằm đáp lại Lời của Thiên Chúa, thì các nhân  tố ấy mới thực sự có sức làm cho Giáo Hội Địa Phương  nẩy sinh nên được. Thừa tác vụ của các tông đồ là  một cấu tố làm nên Giáo Hội Địa Phương; Giáo Hội này  phải được cấu tạo thế nào để có thể bảo dưỡng  bản chất của chính mình, tức là bản chất của  một cộng đoàn trong đó, hành động cứu độ của  Thiên Chúa mà Đức Kitô là trung tâm, hằng liên tục  hiện diện

3.01    Trong Hội Thánh, tác vụ Lời Chúa được thi hành  chủ yếu theo bốn cách thức như sau: qua giáo huấn của  các tông đồ về Lời, đưa tới kết quả làm phát  sinh ra một cộng đồng tín hữu (Cv 2,41-42); qua Lời vang  vọng trong niềm vui mừng và tán tụng Thiên Chúa, làm  nẩy sinh nên một cộng đoàn cầu nguyện và thờ  phượng (Cv 2,41-42); qua Lời dẫn lối đưa tới cuộc sống  mới trong hoạt động đượm nhuần Thần Khí của Hội Thánh,  để từ đó làm nẩy sinh nên một cộng đoàn biết  sống tinh thần chia sẻ và phục vụ (Cv 2,43-45); và  cuối cùng, qua Lời, tức là Tin Mừng của  Đức Kitô, mà Hội Thánh không ngừng loan báo giữa  lúc thực thi sứ mệnh cứu độ của mình ở trong thế  giới và cho thế giới (Cv 2,47).

3.02    Chỉ khi nào nhờ thừa tác vụ tông đồ, nhờ  Lễ tạ ơn và mối hiệp thông yêu thương, nhờ sứ  mệnh cứu độ ở giữa thế giới và cho thế giới,  cũng như nhờ ân sủng và quyền năng của  Thần Khí, có những người đạt tới chỗ cảm nghiệm  được Lời hoặc biến cố Đức Kitô, thì lúc đó một Giáo  Hội Địa Phương mới được khai sinh ra. Chính thế, Giáo Hội Địa  Phương tại Giêrusalem đã sinh ra khi Lời các tông đồ  rao giảng tiếp tục lưu ngụ ở giữa cộng đồng các  tín hữu, nhờ thừa tác vụ các tông đồ, với ân  sủng và quyền năng của Thần Khí (Cv 2,37tt)

3.03    Chỉ khi nào được những nhóm người đang sống  ở một nơi và vào một thời rõ rệt, tiếp  đón và chấp nhận làm của mình với tất cả  lòng tin cậy mến cũng như với tinh thần hiệp thông  và ý thức về sứ mệnh của mình, thì các cấu tố ấy  mới thật sự tạo lập nên một Giáo Hội Địa Phương đích thực.  “Vậy những ai đã đón nhận Lời Phêrô rao giảng,  thì đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng  ba ngàn người theo đạo. Họ chuyên cần nghe các tông  đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng  tham dự Lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”  (Cv 2,41-42). Như vậy, trong quá trình hình thành Hội Thánh,  “nơi chốn” là một nhân tố quyết định của tính  chất hội thánh (ecclesiality ). Bởi vì, có được đón  nhận làm của mình và được giải thích nhằm ứng  đáp những thách đố do nơi chốn và thời đại, do  các nền văn hóa và những hoàn cảnh cụ thể  đưa ra, thì Lời Thiên Chúa mới có đủ điều kiện thiết  thực để làm phát sinh nên Hội Thánh.

3.04    Có một số đoạn trong các Phúc Âm cho thấy là  trong thời đó, đã có một thứ trật tự cộng đồng ở  giữa những người tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu  tuyển chọn nhóm Mười Hai. Ngài tách riêng họ ra để  khai mở cho họ hiểu về mầu nhiệm chịu khổ, chịu chết và  sống lại của Người (Mt 20,17). Ngài dạy cho họ  biết về cách lấy thái độ phục vụ với tinh thần khiêm hạ  và yêu thương mà thi hành trách vụ lãnh đạo  (Mt 20,20-28). Họ được tham dự vào bữa Tiệc Tạ ơn và  được ban cho quyền tái diễn mầu nhiệm này. Ga 21,15-17  ghi lại sự kiện Phêrô được ủy thác cho việc chăm nom  đàn chiên của Đức Giêsu.

3.05    Dù thừa tác vụ tông đồ là một trong những  nhân tố cấu tạo Hội Thánh, thì Tân Ước cũng giới thiệu  cho thấy cả một loạt những cơ cấu khác nhau trong Hội  Thánh. Giáo Hội Giêrusalem có cơ cấu tập đoàn quy tụ  chung quanh các tông đồ (Cv 2,42-43). Trong Cv 11,30, thì thấy  là chính các niên trưởng làm đại diện cho quyền  lãnh đạo trong Giáo hội Giêrusalem; trong khi đó, Cv  15,2,4-6 thì cho thấy rằng cả niên trưởng lẫn tông  đồ đều có quyền lãnh đạo. Tại Antiôkhia, các ngôn sứ  và các giáo sư giữ quyền lãnh đạo. Tại Ephêsô,  các niên trưởng lãnh đạo Giáo hội (Cv 20,17); họ cũng  được gọi là giám mục (Cv 20,28). Các Thư Mục vụ cho thấy  có ba loại chức vụ: giám mục, niên trưởng và phó  tế.

Vì thế, thừa tác vụ tông đồ trong Hội Thánh có thể mang  nhiều hình thức cấu trúc thể chế khác nhau. Dù sao thì  các cơ cấu ấy cũng cần phải có đủ khả năng  để bảo toàn thực chất và bản thể của  Giáo Hội Địa Phương là Hội Thánh của Thiên Chúa, trong  đó, hoạt động cứu độ trường kỳ mà Thiên Chúa  đã hoàn tất trong Đức Kitô, vẫn mãi hiện diện  và tác động hữu hiệu nhờ Thần Khí.
 
4. Luận đề 4

Hội Thánh là đoàn ngũ các tín hữu Thiên  Chúa đã dùng Tin Mừng mà triệu tập: họ là  những người đã được rửa tội trong Đức Kitô  Giêsu, và sống theo Thần Khí. Đức Kitô là đầu dân  riêng này của Thiên Chúa theo Giao Ước mới. Một khi  đã được tập hợp dưới quyền lãnh đạo của những  người kế nhiệm các tông đồ, thì chính nhờ bởi  việc thực hiện ngay nơi bản thân mình, mầu nhiệm của  ý định Thiên Chúa muốn liên kết toàn thể nhân loại và  toàn bộ vũ trụ ở trong Đức Kitô, mà Hội Thánh  trở thành bí tích phổ quát của Nước Thiên Chúa

4.01    Ekklesia là một từ Hy lạp dịch ra từ  chữ Qahal của ngôn ngữ Hy pri, và đó  là danh xưng được dùng để chỉ cộng đồng Ítraen,  là dân tộc đã từng được Yahvê giải phóng  khỏi ách nô lệ và dẫn đưa vào trong sa mạc  để phụng thờ Ngài. Trong Tân Ước, danh xưng này  chỉ về Hội Thánh trong tư thế là cộng đồng các tín hữu  đã được Thiên Chúa dùng Tin Mừng của Đức Giêsu  Kitô mà triệu tập để mạc khải và thực hiện kế  hoạch cứu độ của Ngài ở trong thế giới (xem Ep  1,19; Rm 16,25tt; Ep 5,32).

4.02 Phản ứng chống lại khuynh hướng đề cao quá độ chiều  kích thể chế của Hội Thánh, Công đồng chung Vaticanô II  đã phục hồi lại chỗ đứng trọng yếu ở trong giáo  hội học cho các nhân tố siêu việt, là những nhân  tố giúp cho thấy rõ được rằng Hội Thánh mang một bản  chất đặc thù hoàn toàn khác hẳn với bất cứ một  kiểu mẫu xã hội nhân loại nào khác. Sở dĩ  có đoàn ngũ những người như thế, là vì  Thiên Chúa đã kêu gọi họ qua Lời Đức Kitô và  ân sủng của Thần Khí. Chính nhờ chịu phép rửa  trong cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô (Rm  6,3-4) để trở thành Thân Thể trong đó họ đã được  dìm vào qua phép rửa, “bất chấp họ là người  Do thái hay là người Hy lạp, người nô lệ hay người  tự do” (1Cr 12,13), mà những người, nam cũng  như nữ, đã được gia nhập cộng đồng ấy. Và đó  chính là cộng đồng đang sống nhờ việc tưởng niệm  Đức Giêsu Nadarét theo truyền thống các tông đồ, và đang  tuyên xưng cùng tán dương Ngài là Chúa tể và  là Đấng Cứu Độ trong mối hiệp thông có các người  kế vị các tông đồ đứng đầu, cũng như đang hy vọng trông chờ Ngài trở lại trong vinh quang. Việc tụ họp  để cử hành Lễ Tạ ơn nói lên mẫu mực đời  sống bên trong của cộng đồng: một đời sống thông  dự vào trong mầu nhiệm Đức Kitô, cũng như cho thấy  công đồng ấy thật là Dân Thiên Chúa và là niềm  hiệp thông trong Thần Khí: đó chính là Hội Thánh phát  sinh bởi Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate ).

4.03    Đức Kitô và Hội Thánh thì đồng tâm nhất trí với  nhau. Công trình hòa giải và ban bình an của  Đức Kitô đang tiến hành và thành tựu qua hoạt  động của Hội Thánh (Cl 1,15-23). Hội Thánh là một  thực tại đang tiếp tục lớn lên, lớn lên để trở thành  Đức Kitô: Ngài là Đầu của Thân Thể là Hội  Thánh (Ep 4,15-16). Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh  Thân Thể mà Đầu là chính Đức Kitô (1Cr 12; Rm 12,4-5).  Các tín hữu là “những người đã được  hiến thánh nhờ kết hợp với Đức Giêsu Kitô, nghĩa là  được kêu gọi nên thánh cùng với tất cả những  ai, ở bất cứ nơi nào, kêu cầu danh Đức Giêsu Kitô,  Chúa chúng ta” (1Cr 1,2). Họ cũng được mô tả như  là “những người được Thiên Chúa tuyển chọn,  hiến thánh và yêu thương” (Cl 3,12). Hội Thánh còn  được giới thiệu như là “đền thờ của Thiên  Chúa”, nơi Thần Trí cư ngụ (1Cr 3,16-17). Hội Thánh cũng  là “gia thuộc (người nhà) của Thiên Chúa  được xây dựng trên nền móng là các tông đồ và các  ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức  Kitô Giêsu (Ep 2,20).

4.04    Được tập hợp dưới quyền lãnh đạo của mhững  người kế nhiệm các tông đồ, Hội Thánh trở thành  bí tích phổ quát, làm biểu tượng và dụng cụ của  Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một mầu nhiệm mang  tính chất vừa cánh chung, nhưng cũng vừa hiện diện  trong mọi thời. Cánh chung vì báo trước sự việc vương quyền  Thiên Chúa sẽ tỏ rạng một cách hoàn toàn  dứt khoát trong ngày tận thế. Những dụ ngôn nói về  Nước Trời đã ám chỉ đến sự việc này (Mt 13,1-32).  Nhưng đàng khác, Nước Thiên Chúa đã thực sự xuất  hiện kể từ khi Đức Giêsu đến trong thế gian (Lc 17,20-21;  Mt 11,4tt); Nước Thiên Chúa được đồng nhất hóa với chính Đức  Giêsu Kitô (Ga 3,3-5; Mt 19,29; Lc 18,29).

4.05    Phép Thánh Tẩy chính là con đường khai tâm dẫn  lối đến với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, và đến  với Nước Thiên Chúa. Vì vậy, một cách nào đó, Hội Thánh  có thể được đồng nhất hóa với Nước Trời. Tuy nhiên,  mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thì quảng mạc hơn tầm triển  khai của Hội Thánh. Hội Thánh là bí tích của Nước  Trời, tức là biểu hiệu có sứ mạng làm cho Nước  Thiên Chúa hiện diện một cách nhiệm mầu như là dấu chỉ  và như là công cụ cứu độ thích ứng cho thời gian  kể từ lúc Đức Kitô Chúa phục sinh cho tới ngày Ngài  trở lại.

4.06    Nước Thiên Chúa mà Hội Thánh là hiện thân thì  tự bản chất, thuộc lãnh vực thiêng liêng, và  không nuôi một yêu sách trần tục hay là chính trị nào  hết (Ga 18,36-37). Đức Giêsu là một nhà lãnh đạo  tinh thần và là “hiến chương” của nước Trời.  Bài giảng trên núi trước tiên là một lời  mời gọi hãy trở nên hoàn hảo trong tình  thương đặc thù của con cái Thiên Chúa, theo mẫu  gương của Cha ở trên Trời (Mt 5,43-48). Để vào  được Nước Thiên Chúa thì có một điều kiện thiêng liêng là:  “cần phải hoán cải và trở nên giống trẻ  thơ” (Mt 18,3), “cần phải được sinh ra bởi (nước  và) Thần khí” (Ga 3,5). Vì thế, Nước Thiên Chúa là  của những kẻ có tâm hồn nghèo khó (Mt 5,3).

4.07    Nhưng không phải vì bản chất của Nước Thiên  Chúa là thiêng liêng mà Hội Thánh nhất thiết phải  là vô hình, hoặc chẳng cần đếm xỉa gì đến các thực tại  con người trên trần thế này. Trái lại, quyền năng  Nước Thiên Chúa đang hoạt động ở trong Hội Thánh là  một mãnh lức cách mạng có sức tác động đến mọi lãnh  vực sinh hoạt của con người sống trên mặt đất. Những  ẩn dụ nói về “thành trì xây trên núi” và  về “ánh sáng thế gian” (Mt 5,14-16), chỉ rõ về một  Hội Thánh hữu hình, và có hiện hữu thì chính là  để mưu ích cho thế gian.

4.08    Là đầu của Hội Thánh, Đức Kitô cũng là  hình ảnh của Thiên Chúa vô hình và là trưởng  tử của mọi loài thọ tạo; chính nhờ Ngài  và cho Ngài mà muôn vật được tạo dựng (Cl 1,15-18).  Mầu nhiệm Đức Kitô là mầu nhiệm của ý định và  của kế hoạch Thiên Chúa, đã biểu hiện cho chúng ta  trong một cách thức hết sức khôn ngoan và sáng suốt (Ep  1,9). Đó là kế hoạch đã được vạch ra cho thời  viên mãn, nhằm quy tập muôn vật trên trời dưới đất  lại ở trong Ngài (Ep 1,10).

4.09    Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đang thành tựu  ở giữa lịch sử của mọi dân tộc trên mặt đất,  và đang tiến dần đến thời viên mãn, tức là eskhaton . Đó là điều Phaolô miêu tả một cách  tài tình khi nói là: “muôn loài thọ tạo những  ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh  quang của con cái Người” (Rm 8,19) và “ngày  được giải thoát, để không còn phải lệ thuộc vào  cảnh hư nát, mà là được cùng với con cái Thiên  Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Vì  thế, chỉ khi nào biết lưu ý đến các chiều kích nhân loại  học và vũ trụ học của nó, thì mới có thể thấu  hiểu thực thể lịch sử của Hội Thánh, tức là công  trình hiện thực hóa mầu nhiệm Đức Kitô, một cách đúng đắn  được.