GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
SUY TƯ THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU
Chuyển dịch: Ngô Minh
***
***
4. Luận đề 8
Cộng đồng kitô là chủ thể chủ động trong công tác hội nhập văn hóa, là công tác ăn sâu vào trong hết mọi khía cạnh của cuộc sống và hoạt động làm chứng tá, cũng như của sứ mạng người kitô.
8.01 Công tác hội nhập văn hóa là một việc làm mà toàn thể cộng đồng kitô hữu có bổn phận phải dấn thân chu toàn. Như thế là vì, trước hết, Hội Thánh là một dân tộc. Vì vậy, mọi tầng lớp trong dân đều có bổn phận phải tham gia bằng một cách nào đó, vào trong tất cả mọi sinh hoạt chung. Sau nữa là vì công tác hội nhập văn hóa là một sinh hoạt toàn diện, có tác dụng trên mọi khía cạnh của đời sống và sứ mạng kitô của toàn Dân Chúa. Thế nên, công tác ấy không thể thực sự thành tựu được, nếu để lo cho nó, chỉ có một nhóm chuyên viên tinh hoa mà thôi.
8.02 Trong khi sống đúng theo “cảm thức về đức tin được Thần Khí chân lý khơi dậy và duy trì” (GH 12) ở giữa môi trường riêng biệt của mình, các tín hữu cần phải học cho biết cách biểu thị lòng tin của mình: nghĩa là không những bằng thái độ trung thành bước theo truyền thống tông đồ mà thôi, nhưng còn cả bằng thái độ ứng đáp thích nghi với những trạng huống cụ thể của văn hóa mình nữa. Việc ứng đáp này là trách vụ của toàn thể cộng đồng, vì cộng đồng có trọng trách nhận thức cho rõ Lời của Chúa và Thần Khí của Ngài ngay ở giữa lòng văn hóa và lịch sử của mình. Đó là trọng trách có một không hai; không ai có thể khoán trắng trọng trách riêng ấy cho một người khác được, và cũng không có gì thay thế nó được. Bởi vì đều có môi trường sống riêng, khác biệt nhau, cho nên trong khi vẫn duy trì bền chặt mối thông hiệp hoàn vũ, mỗi Giáo Hội Địa Phương đều được hưởng quyền tự trị chính đáng, để nhờ đó, có thể đem sáng kiến mình ra mà tổ chức nhịp sống và các cơ chế riêng, cùng chu toàn ngay tại trong bối cảnh văn hóa cá biệt của mình, sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó cho.
Trong thông điệp Octogesima adveniens , Đức Phaolô VI đã viết rằng: “Đứng trước những hoàn cảnh rất ư là khác nhau như thế, thật khó mà đề ra cho được một giải pháp thích đáng cho khắp nơi. Thực ra, đó cũng không phải là tham vọng của chúng tôi, và cũng chẳng phải là sứ mạng của chúng tôi nữa. Các cộng đồng kitô có nhiệm vụ phân tích một cách khách quan tình trạng riêng ở nước mình, và lấy ánh sáng nơi Lời bất di dịch của Tin Mừng mà soi chiếu cho tình trạng ấy” (OA 4). Được phát biểu để thừa nhận trách nhiệm của Giáo Hội Địa Phương trong nổ lực ứng đáp cho thỏa đáng các vấn đề xã hội trong môi trường sống của mình, những lời lẽ trên đây của Đức Phaolô VI cũng có thể được áp dụng cả cho trường hợp của công tác hội nhập văn hóa nữa.
8.03 Phụng vụ của cộng đồng kitô là một lãnh vực rất quan trọng trong công trình hội nhập văn hóa. Phụng vụ diễn đạt đức tin của Hội Thánh (lex orandi lex credendi ). Phụng vụ phải là thành quả của kinh nghiệm đức tin tại một môi trường văn hóa cá biệt. Và ngược lại, kinh nghiệm phụng vụ ấy phải nở hoa từ một đời sống kitô đã hoàn toàn hội nhập văn hoá. Vì thế, việc đưa phụng vụ của cộng đồng kitô hội nhập vào trong văn hóa không phải là một việc gán ghép từ bên ngoài bằng một tiến trình ngoại lai và giả tạo; nó phải bộc phát một cách tự nhiên từ nhịp sống đức tin hoàn toàn đâm rễ vào ngay tại trong bối cảnh văn hóa và trong thực thể cuộc sống của người dân.
Tuy nhiên, vì đã từ quá lâu, đời sống phụng vụ của các Giáo Hội Địa Phương đứng ở một vị thế xa lạ tách biệt khỏi những truyền thống văn hóa trong vùng, cho nên, trong gian đoạn quá độ này, là lúc đang nổ lực để sống một đời sống giáo hội hoàn toàn hội nhập văn hóa, việc thử nghiệm hoặc đề ra những kiểu mẫu trong lãnh vực phụng vụ là một việc làm rất chính đáng và rất cần thiết để giúp cho quá trình hội nhập văn hóa do toàn thể cộng đồng cùng chung sức xúc tiến, được dễ dàng hơn. Đúng thế, những thử nghiệm ấy không được phản ánh chỉ có mối quan tâm của một số chuyên viên không thôi, nhưng trái lại, cần phải biết đối thoại với toàn thể cộng đồng kitô.
8.04 Một lãnh vực khác trong công trình hội nhập văn hóa: việc huấn luyện lòng tin, tức là việc dạy giáo lý để dẫn dắt các tín hữu bước những bước đầu đi vào trong đời sống đức đạo, và để giúp họ đạt tới mức trưởng thành trong đức tin. Về phương diện nội dung cũng như phương pháp và thuật ngữ, việc dạy giáo lý phải được tổ chức làm sao cho hoà hợp với kinh nghiệm, với các truyền thống sư phạm, với bản chất tâm lý và với thiên tư ngôn ngữ của người dân. Là một trong những yếu tố cấu thành đời sống Giáo Hội Địa Phương, việc huấn luyện lòng tin có bổn phận phải phản ánh trọn mọi chiều kích của cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội. Đã đành là phải giữ vững chân lý các tín điều, nhưng không phải vì thế mà việc dạy giáo lý có quyền thu hẹp đóng khung mình lại ở trong một bộ công thức tín lý và sách bổn, coi đó như là có giá trị bất di dịch để diễn dịch và biểu đạt tín ngưỡng trong mọi thời và nơi mọi nền văn hóa. Trong Tông huấn Catechesi tradendae , Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cũng đã nhấn mạnh đến tiến trình cần yếu của công tác hội nhập văn hóa việc dạy giáo lý với những lời lẽ như sau:
“Có lẽ từ “thích nghi văn hóa” (acculturation) hoặc “hội nhập văn hóa” (inculturation) là một từ ngữ mới, nhưng dù sao thì nó cũng diễn tả rất đúng một nhân tố trong mầu mhiệm lớn lao của công trình Thiên Chúa Nhập Thể: Đối với tác vụ dạy giáo lý, cũng như đối với công tác rao truyền Tin Mừng nói chung, chúng ta có thể nói rằng ơn gọi của tác vụ ấy là mang sức mạnh của Tin Mừng đưa vào tận trong tâm can của các nền văn hóa và tận trong các yếu tố cấu thành chúng. Tác vụ dạy giáo lý cần phải học hỏi để biết cho sành những cách thức diễn đạt đặc trưng nhất của các nền văn hóa, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị đặc thù và phong phú của chúng” (Số 53).
8.05 Đời sống trong Thần Khí, tức là đời sống thiêng liêng, phải biết gióng theo và phản ánh kinh nghiêm về Thần Khí mà một dân tộc phát hiện được ngay tại trong văn hóa và truyền thống của họ. Bởi vì chúng tôi biết rằng Thần Khí đang hiện diện và hoạt động ở giữa các dân tộc Á Châu, ở trong lịch sử và truyền thống, ở trong văn hóa và tôn giáo của họ. Và do đó, công trình hội nhập văn hóa sẽ là một cuộc gặp gỡ của Thần Khí với Thần Khí, có sức tăng cường cho các mối liên kết của niềm hiệp thông và của tình liên đới thiêng liêng đối với dân tộc tại nơi Giáo Hội Địa Phương đang sinh sống và phát trển. Di sản tinh thần và những giá trị đạo đức qua bao thiên niên thế kỷ đã từng nuôi dưỡng nhân dân lục địa này, thì bây giờ tất phải tuôn chảy vào trong đời sống của Giáo Hội Địa Phương để làm cho các Giáo Hội được nên phong phú hơn.
Các giá trị như: ý thức sâu xa về Thiên Chúa, suy gẫm, chiêm niệm, đời nội tâm, khổ hạnh, từ bỏ mình, lối sống bình dị, lòng tin sâu đậm, thinh lặng, tinh thần phó thác, cảm thức nhiệm mầu, hiệp thông sâu thẳm, là một số trong các giá trị thiêng liêng được các truyền thống của chúng tôi đề cao, quý trọng và cổ xúy. Kỳ Đại Hội khoáng đại lần thứ hai của FABC với đề tài thảo luận: “Cầu nguyện: Sức sống của Giáo Hội Á Châu”, đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải sáp nhập những lề lối cầu nguyện và phụng tự của các dân tộc chúng ta, vào trong đời sống của các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu. Các Giám mục đã khẳng định rằng:
“Càng ngày chúng tôi càng thâm tín hơn rằng ngày nay Thần Khí đang dẫn dắt chúng tôi, không phải là đến với một thứ chủ thuyết hỗn hợp mờ ảo nào đó (đó chính là điều mà toàn thể chúng tôi nhất tề gạt bỏ), nhưng là đến với một nổ lực điều hợp – sâu rộng và có tổ chức – nhằm đưa hết thảy những gì tốt đẹp nhất ở trong các lề lối cầu nguyện và phụng tự cổ truyền của chúng ta vào trong kho tàng của di sản kitô… Và như vậy, cuối cùng rồi vô số những di sản bản xứ phong phú ấy sẽ tìm thấy được vị trí tất nhiên của chúng ở trong kinh nguyện của các Giáo Hội tại Á Châu chúng ta, và sẽ làm cho đời sống cầu nguyện của Hội Thánh trong khắp thế giới được thêm bội phần phong phú” (số 31,33).
8.06 Thiết tưởng không cần phải nói thêm rằng đời sống kitô và nổ lực dấn thân truyền giáo của các Giáo Hội Địa Phương tại Á châu cũng phải được một đường hướng suy tư thần học đi kèm: một đường hướng biết lưu tâm để ứng đáp thiết thực những thắc mắc và những vấn đề nảy sinh từ kinh nghiệm và hoạt động giữa cuộc sống. Sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng Vaticanô II, về hoạt động truyền giáo, đã xác nhận tầm quan trọng và sự cần thiết của suy tư thần học đi liền với bối cảnh (contextualized /bối cảnh hóa) như thế, bằng những lời lẽ như sau:
“Tất yếu, việc nghiên cứu thần học cần phải được đẩy mạnh tại mỗi vùng văn hóa xã hội rộng lớn (major socio-cultural area), như người ta thường gọi (những người sống trong cùng một vùng như thế thì đều hấp thụ ảnh hưởng của cùng một hình thái văn hóa xã hội). Nhờ thế, mới có được một đà học hỏi sưu tầm mới mẽ biết lần bước theo ánh sáng Thánh Truyền của Hội Thánh Hoàn Vũ soi dẫn mà thấu hiểu cho sâu sắc hơn những điều Thiên Chúa mạc khải qua hành động và ngôn từ của Ngài, tức là những gì đã được ghi chép trong Kinh Thánh cũng như đã được các Giáo Phụ và Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh giải thích” (số 22).
8.07 Để thành công trong nổ lực đưa thần học tới chỗ hội nhập văn một cách sâu rộng, thì điều thiết yếu là phải sáng chế ra những phương pháp thần học và những cách thức giải thích mới, có sức phản ánh văn hóa và truyền thống, tâm tính và lối suy nghĩ của các dân tộc Á Châu. Về điểm này, chúng tôi thấy cần phải nêu rõ vị trí nổi bật của kinh nghiệm. Tất cả các truyền thống triết lý của Á Châu đều dành cho kinh nghiệm và/hoặc việc liên hệ trực tiếp với thực tại, một vị trí đặc biệt. Như thế, kinh nghiệm phải là khởi điểm của bất cứ một nền thần học nào muốn mang tính chất Á Châu thực sự. Tiến trình hình thành của các khái niệm cần phải đâm rễ một cách vững chắc vào trong kinh nghiệm. Một khi đã đâm rễ sâu vào trong kinh nghiệm và trong đời sống như vậy, thì suy tư thần học sẽ có đủ khả năng để giúp các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi thấu hiểu và giải thích đức tin của mình, cùng biểu đạt đức tin ấy qua những cách thức đầy sáng tạo thật sự.
8.08 Có một phạm vi khác đang đòi phải được “bén rễ vào trong lòng đất mẹ của các nền văn hóa và các truyền thống Á Châu chúng tôi” cho sâu rông hơn; đó là đời sống tu trì ở trong các Giáo Hội chúng tôi. Đời tu hành là nhằm mục đích làm cho thấy rõ hơn ý nghĩa của một lối sống hoàn toàn dành riêng cho các giá trị của đức tin kitô. Qua viêc phụng tự và làm chứng tá, qua đời sống chung và phục vụ, các tu sĩ, nam cũng như nữ, phải nêu rõ cho thấy phương cách các môn đồ của Đức Giêsu đưa đời sống và sứ mang của Ngài nhập thể theo một đường lối trung thực nhất, vào giữa lòng một dân tộc và giữa lòng một nền văn hóa.
Bằng những phương thức đáng ca ngợi, nhiều cộng đoàn và cá nhân các tu sĩ đã đứng ở những hàng đầu trong các nổ lực nhằm xúc tiến quy mô công cuộc hội nhập văn hóa và việc xây dựng tình liên đới đối với người nghèo. Tuy nhiên, buồn thay, tại một vài nơi và trong một số hoàn cảnh, các cộng đoàn tu sĩ vẫn còn giữ nguyên nhiều yếu tố ngoại lai và xa lạ đối với môi trường chung quanh mình. Có thể thấy rõ điều đó trong cách dùng ngôn ngữ và trong lối sống, trong các chương trình đào tạo (thường khi bị chi phối nặng bởi các thành viên nước ngoài) cũng như trong việc tiếp tục du nhập các nhân tố tha hóa thuộc các nền văn hóa khác. Chẳng hạn, có khi những thành viên người Á Châu lại bị bắt buộc phải xử dụng cho mình, một cách thiếu phê bình, những phương pháp tâm lý thường được dùng trong các nền văn hóa khác; cũng có những trường hợp, việc thích nghi với các nhân tố xa lạ ấy được coi như là tiêu chuẩn để được nhận vào dòng tu.
Không thiếu chi trường hợp các thành viên người địa phương bị buộc phải “sống như Tây”, nếu họ muốn “ở yên” trong nhóm. Thường thì các cơ quan đầu nảo quyết định nằm cả ở nước ngoài; và ở đó, những người có quyền quyết định lại không có khả năng để phân định đâu thực sự là yếu lĩnh của đời tu trì và đâu chỉ là những phong cách và quy lệ thuần túy văn hóa của một địa phương. Như vậy, nhân danh một thứ phổ quát tính giả mạo nào đó, công tác hội nhập văn hóa sẽ bị cản trở, hoặc là có thể bị chặn đứng hẳn đi nữa, bởi những bậc bề trên và những người không thể hoặc không biết rung cảm trước những ước vọng và nhu cầu của các thành viên Á Châu, hay là bởi những người cho đến giờ này vẫn còn (có thể là họ không hoàn toàn ý thức) mang khư khư trong mình thái độ tự cao tự đại, nghĩ là mình có văn hóa cao hơn.
8.09 Những chương trình đào tạo, trước tiên, cần phải được thấm nhuần ngôn ngữ và lối sống của những tầng lớp nghèo ở các miền xứ chúng ta. Việc thể hiện ra trong cuộc sống hằng ngày, lòng ưu ái đặc biệt đối với các người nghèo thường là cách thế hữu hiệu nhất để tiến hành công tác hội nhập văn hóa thực sự cho đời tu trì. Chung chung mà nói, thái độ xa tránh hình thức giữ đạo của người nghèo hèn thấp kém, là kết quả của những phong cách đào tạo sai lệch, tưởng rằng nếp sống thường thấy tại các xã hội Tây phương (thường bị tục hóa đến mức trầm trọng) phải là nếp sống bắt buộc đối với hết thảy mọi người. Đó là điều cần phải cẩn trọng đề phòng.
8.10 Việc duyệt xét lại đường lối tu trì tại các Giáo Hội Địa Phương Á Châu như thế— một cuộc duyệt xét còn rất cần thiết đối với nhiều nước— cho thấy là có một số đặc nét trong các truyền thống tâm linh của các nền văn hóa địa phương, như là lý tưởng sannyasa (lối sống từ bỏ) trong Ấn độ giáo, hoặc hình thức sống tăng hội trong Phật giáo, có thể đóng góp nhiều về mặt gây cảm hứng, nêu gương mẫu và làm cho thêm phong phú dồi dào hơn. Nếu biết trở thành hăng say và năng động hơn, nếu biết chăm chỉ nhận định cho sáng suốt hơn, thì công cuộc hội nhập văn hóa của đời tu trì tại Á Châu có thể dẫn lối đưa đường đến một cuộc sống làm chứng tá và phục vụ, khuôn rập đúng với lý tưởng đích thực của Tin Mừng hơn, ngay ở giữa lòng các dân tộc tại vùng đất này.
5. Luận đề 9
Các giáo đoàn cơ bản là những môi trường đặc biệt quan trọng để tiến hành công cuộc hội nhập văn hóa và xây dựng Giáo Hội Địa Phương.
9.01 Ngày nay, nhiều nơi tại Á Châu, có những giáo đoàn cơ bản (GĐCB hoặc các cộng đoàn nhỏ sống đức tin) hiện đang sinh sôi nẩy nở ra nhiều theo đà ứng đáp cho những nhu cầu của đời sống và sứ mạng kitô. Trong các cộng đoàn này, nhờ biết cầu nguyện dựa theo Lời Chúa và Lễ Tạ ơn, nhờ biết gặp gỡ hội họp, nhờ biết sống tinh thần phục vụ lẫn nhau và chia sẻ cho nhau, nên các tín hữu kitô đã đi đến chỗ cảm nghiệm được bản chất đích thực của Hội Thánh: nghĩa là phải như thế nào mới gọi là Hội Thánh. Các cộng đoàn này cũng là nơi các kitô hữu thực sự quen biết nhau bằng danh tánh, và giúp củng cố lòng tin cho nhau; hiệp thông và hợp tác trở thành những thực tại sống động. Và vì biết dựa theo ánh sáng Lời Chúa mà vật lộn với những vấn đề ở trong cuộc sống, nên họ có đủ sức mà hấp thụ Lời Chúa làm ý nghĩa cho chính đời mình, cũng như nhận ra những thách đố và những đòi hỏi cụ thể đi kèm theo Lời Chúa. Trong khi có những GĐCB chú tâm vào việc đào sâu cầu nghuyện tập thể và giúp đỡ lẫn nhau, thì cũng có những cộng đoàn khác lại cố tìm cách phát hiện và cải cách những căn nguyên gây ra tình trạng kém mở mang và bất công, cũng như đẩy mạnh công cuộc cải tiến xã hội.
Như vậy, các GĐCB trở thành những môi trường và những tác nhân đặc biệt hữu hiệu trong công trình đưa Tin Mừng hội nhập vào trong văn hóa. Trong các cộng đoàn đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô trở thành Tin Mừng cho người dân.
9.02 Vì thế, để khỏi bị cô lập hóa và bị các ý thức hệ lèo lái, cũng như để bảo toàn tính cách giáo hội của mình, thì các GĐCB cần phải duy trì mối giây hiệp thông với các chủ chăn trong Hội Thánh. Một trong các phương tiện hết sức hiệu lực để củng cố niềm hiệp thông ấy là việc huấn luyện liên tục cho những người lãnh đạo trong các cộng đoàn (xem Evangelii nuntiandi , 58).
9.03 Tại nhiều vùng trong các dân nước chúng tôi, ở những nơi mà họ chỉ là một thiểu số rất ít ỏi và sống rải rác, người kitô lắm khi phải đương đấu đối phó với cùng một loại vấn đề giống hệt như những người theo các tín ngưỡng khác. Vì họ cùng sống và cùng đấu tranh với những vấn đề giống nhau như thế, các người kitô và những đạo hữu các tôn giáo khác đều có thể coi như là thành viên của các cộng đoàn cơ bản giữa loài người. Trong các cộng đoàn này, đời sống đức tin của các thành phần kitô có thể lớn lên nhờ cuộc “đối thoại bằng đời sống” với tín đồ các tôn giáo khác, cũng nhờ sự việc cùng với họ, đương đầu đối phó với các vấn đề trong cuộc sống, chẳng hạn như là đấu tranh để chống lại nghèo đói, đấu tranh cho công bằng và các quyền con người, và những nổ lực nhằm xây dựng một thế giới hòa bình giữa những khác biệt đa dạng. Các cộng đoàn cơ bản loài người có thể trở thành những môi trường đặc hiệu để cảm nghiệm và chứng thật về sự việc Thần Khí thực sự hiện diện ở giữa những người thiện tâm, cũng như để có những dịp thuận lợi mà làm chứng một cách cụ thể và thiết thực về Đức Kitô cho những người thuộc các tín ngưỡng khác. Hơn nữa, trong khi trao đổi các sinh hoạt hỗ tương với các đạo hữu cùng với mình làm nên các cộng đoàn cơ bản loài người này, các kitô hữu còn có thể tác động như là men để biến đổi con người và xã hội.
6. Luận đề 10
Giáo hội địa phương tự hiện thực hóa chính mình qua tiến trình hội nhập văn hóa, và bằng cách dõi bước theo đà năng động của các mầu nhiệm Nhập thể, Phục sinh và Hiện xuống.
10.01 Qua hành động mạc khải chính mình ra cho nhân loại và thực hiện kế hoạch cứu độ trong lịch sử loài người, Thiên Chúa đã thích nghi chính mình với bản tính loài người cũng như với những lối sống của chúng ta, đã mang lấy thời gian cùng những trạng huống của chúng ta, và đã chia sẻ số phận làm người như chúng ta. Lời Chúa đã được đón nhận và truyền thông qua trung gian của các ngôn ngữ và các nền văn hóa trong loài người, cũng như đã được truyền thụ qua các biến cố trong lịch sử nhân loại. Qua lịch sử của Ítraen và qua cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập cuộc và dự phần vào trong lịch sử loài người. Lịch sử của Ítraen, như chúng ta đã biết, là một quá trình liên tục dệt nên bởi những cuộc gặp gỡ với hết mọi thực tại cuộc sống của các dân tộc và các nền văn hóa lân cận.
10.02 Thế nên, sự việc Thiên Chúa tự thông truyền chính mình cho chúng ta — một cách tuyệt đối và tối hậu qua mầu nhiệm Nhập Thể của Con Một Ngài — như vậy, phải được coi là mẫu mực cho mọi hình thức hiện diện và hoạt động cứu độ của Thiên Chúa ở giữa lịch sử loài người. “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Từ eskenosen (=ở) theo nghĩa đen muốn nói là “cắm lều”. Điều này làm cho liên tưởng tới sự việc Chúa Yahvê cư ngụ ở giữa dân Ítraen suốt cả cuộc hành trình băng qua sa mạc và hoang địa hướng về Đất Hứa (Xh 40,34-38). Thư gửi giáo đoàn Do thái nói rằng Đức Giêsu “đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, chỉ khác là đã không phạm tội” (Dt 4,15). Như vậy, Ngôi Con nhập thể đúng là Emmanuel , Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1, 23) và, như các Giáo Phụ dạy: “để có thể ban những gì là của Người cho ta, thì Người đã nhận lấy mọi sự của ta làm của Người”.
10.03 Như thế, Nhập Thể là mẫu thức và là tiến trình, là lý do và là động lực của hành động Thiên Chúa hằng tiếp tục tự trao ban chính mình để cứu độ, ở trong “thời trung đại”, tức là thời gian lịch sử loài người kéo dài từ thời đại Đức Kitô cho đến ngày Người quang lâm (parousia ), cũng là thời kỳ của lịch sử Hội Thánh. Do đó, trong lịch sử của mọi dân tộc, chúng ta có bổn phận phải cố mà nhận cho ra diễn biến của cùng một “định luật Nhập Thể” này. Tiến trình và mẫu thức này được tiến hành ở nơi công trình đưa đức tin và đời sống kitô hội nhập vào trong văn hóa, tại mỗi Giáo Hội Địa Phương; và đó chính là cuộc hiện thực hóa sự việc Thiên Chúa hiện diện và hoạt động ban ơn cứu độ ở giữa lòng lịch sử của mỗi dân tộc, và đó cũng chính là cách thức dân tộc ấy và nền văn hóa của họ đáp lại ơn Chúa gọi qua tiến trình lịch sử của mình, ở trong Thân Thể Ngài là Hội Thánh. Theo ý nghĩa này, mọi dân tộc đều được mời gọi để làm công tác hội nhập văn hóa như là công cuộc thực hiện ơn gọi của chính mình ở trong chương trình lịch sử cứu độ, ngõ hầu tình trạng “viên mãn trong hiệp nhất” của Hội Thánh (Catholica unitas ) được thành sự.
10.04 Bởi vậy, mỗi Giáo Hội Địa Phương tự hiện thực hóa chính mình qua tiến trình hội nhập văn hóa như thế: tức là một tiến trình diễn biến theo “định luật” hoặc là theo đà năng động của các mầu nhiệm Nhập thể, Phục Sinh và Hiện xuống, cũng như của cuộc đại quy tập muôn loài vào trong Đức Kitô (Ep 1,10).
10.05 Ngôi Lời Nhập Thể là chính Con Một của Thiên Chúa mặc lấy tính chất cá biệt của loài người. Ngôi Con thực sự đi vào trong một gia đình của loài người, và như thế, Người khởi đầu một cuộc đời con người, gắn chặt vào một miền xứ và một nền văn hóa cá biệt, cũng như vào một khúc quanh nhất định của lịch sử. Chào đời nhờ bởi Lời và Thần Khí cũng như nhờ bởi hành động của thừa tác vụ, Hội Thánh tiến bước trên nẻo đường của chính mầu nhiệm Nhập Thể, và mặc lấy trọn tính chất cá biệt của loài người mà mầu nhiệm ấy đã mặc lấy. Như đã xẩy ra qua mầu nhiệm Nhập Thể và từ đầu nơi Đức Giêsu, thì qua các thời đại lịch sử, tại một nơi chốn và một thời gian nhất định, theo đúng cùng một phương cách như vậy, Hội Thánh cũng đã và đang tự hiện thực hóa chính mình cùng hoàn thành sứ mạng cứu độ của mình ở giữa trần thế.
10.06 Trong đời sống Đức Giêsu, mầu nhiệm Nhập Thể tiến dần về với cuộc chịu khổ, chịu chết và sống lại. Vì đã hoàn toàn tự hiến và tự hủy vì tùng phục và yêu thương, nên Đức Giêsu đã trở nên nguồn suối ban Thần Khí, sự sống và hiệp thông cho tất cả những ai tin vào Người (2Cr 3,17; Ga 7,37-38). Như thế, mầu nhiệm Phục sinh là quy luật và là ý nghĩa của sự sống và của sứ mạng Hội Thánh. Vì vậy, tiến trình nhập thể-nhập thế/hội nhập văn hóa cũng đòi hỏi phải có tiến trình chết đi và sống lại, ngõ hầu Hội Thánh và Giáo Hội Địa Phương tại trong thời đại và trong môi trường của mình, có thể thực sự trở thành dấu chỉ và khí cụ (ở trong nền “văn hóa mới”) của sự sống và của hiệp thông trong Thần Khí, là Đấng xuất phát từ Chúa đã chịu chết và đã sống lại.
10.07 Thứ nhất: là dấu chỉ của công cuộc hội nhập văn hóa đích thực, quá trình chết đi và sống lại ấy đòi hỏi phải được áp dụng cho mọi dân tộc và nền văn hóa của họ. Chỉ như vậy thì họ mới có thể bước vào con đường làm môn đồ Đức Kitô và đón nhận chân lý cùng sự sống của Tin Mừng để đưa vào trong chính con người cũng như cuộc sống của mình. Vì những giới hạn và tội lỗi của loài người, nên tất yếu, văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng đều mang theo trong những tín ngưỡng và giá trị, trong những tục lệ và truyền thống của mình, những nhân tố đi ngược lại với chính những gì hay đẹp nó chứa đựng và có thể giúp cho con người được nên người thực sự, cũng như đi ngược lại với những gì Tin Mừng và Thần Khí mời gọi con người trở thành. Thế nên, mọi nền văn hóa đều cần phải được tinh luyện, và những gì trong chúng còn gây cản trở hoặc làm giảm thiểu đi niềm hiệp thông (đối với Thiên Chúa và đối với các dân tộc cùng các nền văn hóa khác), thì đều phải được thanh lọc, tẩy xóa và lột bỏ cho hết đi. Còn tất cả những gì tốt đẹp và thực sự là thuộc về bản chất con người thì đều phải được củng cố và làn cho nên hoàn hảo. Như thế mới có lý để bàn tới hiện tượng chết đi và sống lại đối với mọi nền văn hóa trong loài người và đối với tất cả những thành tựu của chúng — cũng như đối với cả những gì là nhân loại trong Hội Thánh nữa.
10.08 Đúng như Gaudium et Spes đã nói rõ: “Tin Mừng của Đức Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống và văn hóa của con người đã sa ngã, đánh dẹp và khử trừ các sai lạc và tai họa phát sinh từ sức quyền rũ thường xuyên của tội lỗi hằng mãi đe dọa. Tin Mừng không ngừng tinh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Còn những tài năng và thiên tư tình thần của mọi và mọi dân nước thì được Tin Mừng tiếp nhận và dùng những ân huệ siêu nhiên mà làm cho nên phong phú từ bên trong, cũng như được củng cố, bổ túc và tái tạo trong Đức Kitô” (MV 58). Như thế, Tin Mừng trở thành tiêu chí nhận định cho tiến trình tinh luyện các nền văn hóa (xem TG 8).
10.09 Thứ hai: Còn có một tiến trình chết đi và sống lại khác nữa, đó là tiến trình của chính Hội Thánh, và để nói cho rõ hơn, là: của Hội Thánh “bằng xương bằng thịt”, mang diện mạo và màu sắc cụ thể của các nền văn hóa mình sống qua (tỷ dụ như là văn hóa của một “Giáo Hội phái gửi người đi truyền giáo” đối với hoàn cảnh trong các vùng truyền giáo). Công cuộc hội nhập văn hoá đích thực không có thể khởi đầu cũng như không có thể tiếp tục được, trừ phi Hội Thánh chịu chấp nhận những giới hạn vì thiếu hiểu biết, vì lầm lẫn hoặc là vì những lỗi lầm do các phần tử của mình gây ra, và chịu sẳn sàng chết đi trong bất cứ những gì ngấm ngầm đục khoét dần đi tác vụ làm chứng cho Tin Mừng cùng cản trở không để cho các nền văn hóa khác đón nhận Tin Mừng. Hội Thánh không vượt lên trên, nhưng là hằng không ngừng phục tùng Lời Chúa (xem MK 10). Cứ nhìn vào thực trạng bất lực hoặc bất tài để sống trọn vẹn Lời Chúa, thì sẽ thấy rõ khả năng giới hạn của Hội Thánh. Là điều thường thấy tỏ rõ mồn một trong đời sống và trong sinh hoạt của Hội Thánh, tính cách giới hạn này cũng hiện rõ đặc biệt qua những lần Hội Thánh bắt buộc chấp nhận như là Lời Chúa, ngay cả đến các nhân tố thuần túy văn hóa mà mình đã mặc lấy, hoặc là trong những khi, vì hẹp hòi, Hội Thánh đã tuyên bố cho rằng một điều nào đó là không phù hợp với đức tin kitô, chỉ vì điều ấy có vẻ đi ngược lại với phong cách và đường lối mình đang theo. Do vậy, có nhiều lần Hội Thánh đã bỏ lỡ mất đi dịp tốt để nhìn thấy những “hạt giống đích thực của Lời Chúa” (semina Verbi ) tiềm ẩn trong các nền văn hóa và các dân tộc khác.
Lịch sử truyền giáo tại Á Châu trong thời kỳ thực dân, đã minh họa đầy đủ về sự kiện này: các sắc diện cá thể của “Giáo Hội phái gửi đi” đã được đơn thuần đồng nhất hoá với bản chất của đức tin và đời sống kitô; những nét nhân bản tốt đẹp và cao quý tiền ẩn trong văn hóa của những dân tộc vừa đón nhận Tin Mừng, lắm khi lại bị phán xét như là ngoại đạo và trái nghịch với kitô giáo. Vì thế, chính Hội Thánh cũng cần phải chết đi trong những gì mà cuộc sống và cơ chế của mình còn cản ngăn không cho thấu hiểu cùng đón nhận những ý nghĩa và những giá trị tiềm ần nơi các nền văn hóa coi như còn “mới” đối với mình, nhưng đồng thời cũng được coi như là đã rộng mở cho mình nếu mình biết giữ thái độ cởi mở và chịu sống qua một thứ kinh nghiệm mới. Chỉ như vậy thì Tin Mừng và đời sống trong Thần Khí mới được đón nhận theo một cách thức mới mẻ vào trong tiến trình hội nhập văn hóa; và nhờ thế, những hình thái mới của niềm tin và đời sống kitô mới bừng phát lên một cách đầy sáng tạo được.
10.10 Phép lạ Hiện xuống (Cv 2) cung ứng cho công trình hội nhập văn hóa, một nền tảng kinh thánh. Hiện xuống biểu thị tính chất hiệp nhất của Hội Thánh ở giữa những khác biệt đa dạng làm nên niềm viên mãn của tính chất công giáo (Catholica unitas ). Hiện xuống xây dựng công giáo tính đích thực của Hội Thánh ở trên nền móng sức năng sáng tạo của Thần Khí. Chỉ có một mình Thần Khí mới đủ quyền năng để ban cho Hội Thánh có khả năng trở nên một ở giữa những dân nước và những chủng tộc khác biệt nhau, cũng như ở giữa vô số những trạng huống muôn hình sắc. Bởi lẽ, nói cho cùng thì mầu nhiệm công giáo tính của Hội Thánh, như thấy thể hiện ra ở trong lịch sử loài người, cũng phát nguyên từ sự hiện diện và hoạt động của Thần Khí ở giữa lòng Hội Thánh.
Những cố gắng của con người nhằm kiến tạo một mối hiệp thông hoàn vũ ngoài Thiên Chúa, rồi cuối cùng cũng chỉ đưa đến hoặc là tình trạng đơn điệu độc khối của tháp Babel ngày trước (St 11,1-9), hoặc là một cảnh thái hỗn độn theo kiểu cá nhân chủ nghĩa ngàn đầu vạn ý, như đã từng thấy qua dòng lịch sử loài người. Chỉ có quyền năng của Lời và Thần khí mới xây dựng được ngay ở dưới đất này, một thế giới trong đó, con người sống hiệp thông thực sự với nhau, ngõ hầu có đủ điều kiện để đưa hết mọi giá trị phong phú trong các nền văn hóa của loài người và các thành tựu của chúng, đạt đến độ khai hoa kết quả và mức kiện toàn viên mãn.
10.11 Hội Thánh là bí tích hiệp thông của mọi người và của mọi dân tộc giữa họ với nhau và với Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu (GH 1). Mối hiệp nhất ấy sẽ được hình thành qua nhiều bước gặp gỡ và trao đổi, thông cảm và đối thoại với nhau trong tinh thần cởi mở đầy sáng tạo. Một cộng đoàn gồm nhiều dân nước như vậy sẽ là một quang cảnh đảo ngược của hỗn cảnh tháp Babel, bởi vì, đó sẽ là một cuộc sum họp của mọi dân tộc với tất cả những nét đặc thù và cá biệt, với tất cả những tài năng phong phú muôn hình thái của họ. Như vậy, tài năng thiên tư của mọi dân nước sẽ đoàn tụ lại với nhau và cùng nhau chia sẻ tình hiệp thông hoàn vũ thực sự, rồi cuối cùng, sẽ được mang đến đặt ở dưới bệ chân của Thiên Chúa Cha.
10.12 Thánh Thể là Bí tích của cuộc đại đoàn tụ của toàn thể nhân loại với toàn bộ tạo vật về với Đức Kitô (Ep 1,10). Thánh Thể xây đắp Thân Thể Đức Kitô ở dưới đất này như là dấu tiên báo về niềm hiệp thông viên mãn ở trong đời sống vĩnh cửu. Qua các cố gắng đưa ra nhằm xúc tiến công cuộc hội nhập văn hóa, Giáo Hội Địa Phương tiến dần tới cảnh hiệp thông hoàn vũ ấy; vì nó phải được bắt đầu ngay ở dưới đất này, nhưng sẽ được hoàn tất ở trong Vương quốc sự sống và tình thương: ở trong thành thánh trên trời mà Dân Chúa đang trên đường lữ hành nhắm tới – ở trong niềm hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, là tiêu đích và là mức thành tựu viên mãn của toàn bộ lịch sử loài người. Và chung cục, đó chính là ân huệ nhưng không Thiên Chúa đã tự ý ban cho chúng ta.
7. Luận đề 11
Qua cuộc gặp gỡ đầy năng động giữa Tin Mừng và một dân tộc có một nền văn hóa cá biệt, mầu nhiệm đơn nhất của Hội Thánh được hiện thực hóa ở trong nhiều Giáo Hội Địa phương. Mỗi Giáo Hội Địa Phương là Hội Thánh với thực thể toàn bộ và trọn vẹn (full and integral) của mình, và Hội Thánh Toàn Vũ là mối hiệp thông của các Giáo Hội Địa Phương, một “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo Hội”, một giây hiệp thông (thống nhất) các mối hiệp thông.
11.01 Đại hội khoáng đại lần thứ ba của FABC (FABC III, Bangkok 1983) đã bàn thảo về một vài “thành tố hằng tồn (hằng tố =constants ) trong bản chất và đời sống của Hội Thánh” như sau: hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi, tòng thuộc đối với Tin Mừng và Thần Khí của Đức Giêsu, chủ đích là làm môn đồ, tiến bước theo Thần Khí hướng dẫn, kiến tạo và sinh sống nhờ các bí tích, hợp tác và đồng liên đới trách nhiệm giữa mọi phần tử, hiệp nhất với và dưới quyền các chủ chăn kế nhiệm các tông đồ, liên kết với các cộng đồng đức tin khác, sứ mạng giảng hoà trong và cho thế giới (FABC III, 7). Các nhân tố ấy miêu tả toàn bộ thực thể mà danh từ “Hội Thánh” hàm ngụ; nơi nào hội đủ các nhân tố ấy, thì nơi đó có Hội Thánh duy nhất và phổ quát hiện diện với tất cả thể chất viên mãn đặc thù của mình. Như vậy, các nhân tố ấy cấu thành hình thái duy nhất và phổ quát làm mẫu mực cho việc kiến tạo của hết mọi Giáo Hội Địa Phương (xem GH 23). Cộng đồng nào thiếu một trong các thành tố trên đây, thì tất thiếu hẳn điều kiện thiết yếu để trở thành Hội Thánh của Đức Kitô. Hội đủ hết các thành tố ấy, thì bất cứ đoàn thể tín hữu địa phương nào cũng đều lập tức được coi là Hội Thánh của Đức Kitô. “Hội Thánh hiện diện ở nhiều nơi, nhưng không phải là có nhiều Hội Thánh; toàn bộ Hội Thánh có mặt ở trong mỗi thành phần (=cộng đồng): một trong nhiều, và toàn vẹn ở trong mỗi một thành phần, theo một cách thức nhiệm mầu” (Henri de Lubac, Splendour of the Church , New York, Sheed & Ward 1956, tr. 105).
11.02 Công đồng đã mạnh mẽ nói lên chân lý này khi dạy rằng Hội Thánh duy nhất và phổ quát hiện diện tại trong và rộng ra ngoài các Giáo Hội Địa Phương (GH 23): đó là lời một khẳng định cần phải được cân nhắc một cách hết sức cẩn trọng mới tránh được khỏi rơi vào tình trạng lẫn lộn ý niệm công-giáo-tính với bất cứ những mẫu thức hiệp nhất và phổ quát nào khác. Ủy Ban Thần học Quốc tế giải thích rằng:
“Cần phải phân biệt tính chất phổ quát công giáo với những hình thức phổ quát giả hiệu theo kiểu những chủ thuyết cực quyền, những hệ thống duy vật, hay là những ý thức hệ lừa bịp về khoa học và kỹ thuật, hoặc là những sách lược của bất cứ một đế quốc chủ nghĩa nào đó. Cũng không được lẫn lộn công-giáo-tính với tình trạng độc dạng đơn điệu có khuynh hướng hủy bỏ hết những nét cá biệt chính đáng, hoặc là đồng hóa tính chất ấy với chủ trương nhất định đòi cho được quyền giữ lại hết thảy những gì là dị biệt, tức là với một lập trường trực tiếp đe dọa đến cốt tủy của mối hiệp nhất (trong Hội Thánh) (L”unique église du Christ, tr. 35).
Không phải là: trước tiên có một Hội Thánh Hoàn Vũ, rồi sau đó, do những thể thức phân lập hành chánh nào đó, mới có các Giáo Hội Địa Phương. Mối liên hệ giữa một Giáo Hội Địa Phương với Hội Thánh Hoàn Vũ là hoàn toàn khác hẳn với cách thức một tiểu bang hoặc một tỉnh liên hệ với một quốc gia. Cũng không phải là trước tiên có các Giáo Hội Địa Phương, rồi sau đó, nhờ phương cách liên minh, Hội Thánh Hoàn Vũ mới thành hình. Hội Thánh Hoàn Vũ không phải đơn thuần là một tổng số của hết các Giáo Hội Địa Phương. Mỗi một Giáo Hội Địa Phương chính là thực thể toàn bộ và trọn vẹn của mầu nhiệm hiệp thông trong Đức Kitô, còn Hội Thánh Hoàn Vũ thì chính là giây hiệp thông (thống nhất) các mối hiệp thông, tức là: một “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo hội”.
11.03 Kinh Thánh cho thấy một mẫu thức của mầu nhiệm này: đó là biến cố Hiện xuống. Hội Thánh đã chào đời tại một nơi được xác định rõ ràng là thành phố Giêrusalem, trong giờ phút Thần Khí hiện xuống trên các môn đệ, và trong lúc họ bắt đầu tường thuật về các kỳ công của Thiên Chúa. Nhưng, đang khi họ cùng chung nhau loan báo một sứ điệp duy nhất, thì sứ điệp ấy lại được nghe biết trong mọi tiếng nói trên trần thế, và được đại diện của mọi dân nước tin nhận. Như vậy, ngay từ giây phút mới chào đời, Hội Thánh đã mang tính chất cả địa phương lẫn hoàn vũ. Và Sách Công vụ Tông đồ tiếp tục tường thuật cho thấy là những gì đã xảy ra trong mầu nhiệm vào lúc khai nguyên Hội Thánh, thì cũng đã xảy ra trong tất cả những nơi khác có Tin Mừng đặt chân tới, đặc biệt là tại những chân trời của thế giới các anh chị em lương dân, vượt ra ngoài biên cương của Do thái giáo. Hội Thánh duy nhất vẫn mãi duy nhất, cho dù các Giáo Hội có tăng số ngày càng nhiều.
8. Luận đề 12
Nói rằng Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình hội nhập văn hóa có nghĩa là Hội Thánh duy nhất và công giáo được sinh ra bởi Lời của Đức Kitô, bởi ơn của Thần Khí và do Thừa tác vụ tông đồ, vào một thời điểm nhất định, tại một nơi cụ thể và trong một nền văn hóa cá biệt.
12.01 Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình hội nhập văn hóa, và dĩ nhiên là sự kiện này gồm hàm cả cuộc gặp gỡ đa diện giữa Tin Mừng với những thực tại và trào lưu trong nền văn hóa cũng như trong dòng lịch sử đương thời: dó là những đề tài đã được khai triển qua các suy tư trên đây của chúng tôi. Bây giờ, chúng tôi xin quay trở lại với một quan niệm thần học cơ bản về cách Giáo Hội Địa Phương hình thành vừa như là một ân huệ mà cũng vừa như là một tác vụ: ân huệ Thiên Chúa ban và tác vụ chúng ta đảm nhận.
12.02 Trước đây, chúng tôi đã lược kê ra (luận đề 3) các nguyên lý tác tạo nên Hội Thánh, đó là: tiếng gọi của Thiên Chúa, Lời của Đức Kitô, ơn của Thần Khí, và thừa tác vụ tông đồ. Các nhân tố ấy cấu thành Hội Thánh theo bản sắc một cộng đồng cá thể ở trong thế giới, và làm cho nhiều Giáo Hội thành có một Hội Thánh mà thôi. Các Giáo Hội biểu thị cho thấy các nguyên lý qua đó, Hội Thánh thật là công trình của Thiên Chúa, creatura Verbi, Ecclesia de Trinitate , một ân huệ mà chúng ta đón nhận với tất cả lòng biết ơn sâu xa.
12.03 Nhưng công trình này của Thiên Chúa chỉ được hiện thực hóa tại trong các cộng đoàn tín hữu cụ thể; trong đó, ơn của Chúa làm cho họ có khả năng để hoạt động như “một cộng đoàn sống niềm tin-cậy-mến” (GH 8). Hội Thánh phát nguyên từ ý định của Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate ), chỉ hiện hữu thực sự ở nơi Hội Thánh “họp thành” từ những con người (ecclesia ex hominibus ), làm nên công trình của loài người trong việc nhờ vào Lời Chúa và ơn của Ngài mà kiến tạo nên một cộng đồng vừa mới mẻ lại vừa siêu việt. Những gì Thiên Chúa ban cho trong các nguyện lý cấu thành làm phát sinh nên Hội Thánh, thì đó cũng chính là những gì mà con người cần phải làm cho nên trọn qua thái độ tự do đón nhận và sống niềm tin-cậy-mến của mình.
12.04 Vì thế, bao lâu một cách thức quan niệm về giáo hội học chưa lưu tâm đủ đến các biến cố cụ thể qua đó tự do của Thiên Chúa gặp gỡ với tự do của con người để làm phát sinh nên các Giáo Hội Địa Phương, thì bấy nhiêu lâu cách thức ấy vẫn còn bị giam hãm ở trong vòng trừu tượng mơ hồ. Không phải ơn huệ của Chúa đơn thuần làm phát sinh ra Hội Thánh; các ơn huê ấy phải được những cộng đoàn sống niềm tin-cậy-mến cụ thể đón nhận làm của riêng mình; và đó là một điều không bao giờ có thể xẩy ra trên bình diện trừu tượng hoặc theo một mức độ tổng quát nào đó được. Điều đó xẩy ra khi Lời Đức Kitô được rao giảng tại trong những cảnh huống cụ thể để soi sáng và cải hóa, để củng cố và làm giàu một cách thiết thực cho những cãnh huống ấy. Điều đó xẩy ra khi có những người, một khi đã được Thần Khí đánh động và soi dẫn, thì biết nhận ra ở trong Lời giảng, một ánh sáng để dẫn lối cho mình, và một lời hứa để mà hy vọng. Điều đó xẩy ra khi kinh nghiệm về hiệp thông kitô, đặc biệt là qua cuộc họp mặt Thánh Thể, đạt tới mức độ chữa lành những thái độ tha hóa, và làm cho những kinh nghiệm đích thực đã sẵn có về cuộc sống cộng đoàn được thêm phong phú hơn. Điều đó xẩy ra khi một cộng đoàn đức tin dù phải sống trong những bối cảnh văn hóa riêng biệt và phải đối phó với những thách đố đặc biệt, mà vẫn biết nhớ lại kỷ niệm của Đức Kitô và bước theo niền hy vọng Ngài mang lại, để đảm nhận những công tác cụ thể đối với lịch sử và xã hội. Đấy là cách thức Hội Thánh được gầy dựng nên, hoài mãi không ngừng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, và cả mỗi ngày nữa. Hội Thánh Công giáo được gầy dựng nên trong và qua cuộc hình thành mỗi ngày như thế của các Giáo Hội Địa Phương.
12.05 Đó cũng là phần nào lý do tại sao cuộc họp mặt Thánh Thể luôn luôn được coi như là hình mẫu của Hội Thánh. Luôn luôn Thánh Thể được cử hành trong một thời gian và tại một nơi chốn nhất định, và do những cộng đoàn tín hữu cụ thể. Một giảng viên có thể giải thích một đoạn Kinh Thánh, mà ngày ấy cũng được đọc lên tại tất cả mọi cuộc họp mặt khác trên khắp thế giới; nhưng người giảng viên ấy chỉ cắt nghĩa Lời kia của Thiên Chúa như là tấm Bánh sự sống được ban cho cuộc họp mặt ở đây mà thôi; và một lần nữa, cộng đoàn đức tin hình thành khi cử tọa cuộc họp mặt đón nhận Lời được công bố cùng giải thích và cùng nhau đồng thanh đọc lên kinh Tin Kính (Lời kinh Tuyên Tín) để tự do tuyên xưng đức tin của mình. Lúc Bánh hằng sống lại được bẻ ra để phân chia cho họ trong kinh nguyện Thánh Thể trọng đại, thì một lần nữa, họ lại được kết hợp với nhau qua lời thưa Amen cũng như qua việc rước lấy cùng một Bánh; và như thế, vượt lên trên những gì là cá thể của mình và khắc phục hết mọi nguyên nhân tha hóa gặp phải, họ trở nên chính Thân Thể của Đức Kitô. Chẳng thế mà châm ngôn người kitô thời xưa nói rằng: “Hội Thánh làm (cử hành) Thánh Thể; còn Thánh Thể thì làm nên Hội Thánh” (Ecclesia facit eucharistiam, eucharistia facit ecclesiam ).
12.06 Như Hội Thánh duy nhất chỉ hình thành trong và qua việc hình thành của các Giáo Hội, thì cũng vậy, Hội Thánh duy nhất chỉ có thể chu tất sứ mệnh cứu độ của mình trong và qua các sứ mệnh của nhiều Giáo Hội Địa Phương mà thôi. Hội Thánh chỉ thực sự là “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” (GH 48), khi mà sống trong những trạng huống cụ thể khác nhau, các Giáo Hội Địa Phương vẫn biết đảm trách việc “tìm hiểu những dấu chỉ của thời đại (mình đang sống) và giải thích chúng theo ánh sáng của Phúc Âm” (MV 4). Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã kết thúc bản thảo luận rất xác đáng bàn về mối liên quan giữa Hội Thánh được hiểu như là một mầu nhiệm và Hội Thánh theo tư thế là một chủ thể lịch sử, với đoạn viết sâu sắc và sáng suốt như sau:
“Đặc tính Dân mới của Thiên Chúa không nằm ở chỗ có một lối sống hoặc là một sứ mạng khả dĩ thay thế cho lối sống hay cho những dự án đã sẳn có của loài người. Trái lại, lòng hoài niệm và niềm trông chờ Đức Kitô phải là những động lực có sức biến cải và đổi thay, từ bên trong, lối sống và các dự án loài người đang được một nhóm dân chúng theo đuổi. Nếu thế, thì có thể nói rằng lòng hoài niệm và niềm trông chờ Đức Giêsu Kitô, tức là những gì làm cho Dân mới của Thiên Chúa sinh tồn, cũng là những gì làm nên cái mà Phái Kinh viện gọi là yếu tố “mô thức”, tức là yếu tố cấu tạo nên cuộc hiện hữu cụ thể của con người. Còn lối sống và các dự án nói trên đây thì phần nào cũng giống như cái mà họ gọi là “chất thể”, lẽ dĩ nhiên là có tự do và trách nhiệm, và chúng sẽ nhận được những định tố khác nhau để làm nên một lối sống “theo Thần Khí”. Các lối sống này không hiện hữu một cách tiên thiên, và cũng không thể đặt định trước được. Chúng rất khác nhau và vì thế, không bao giờ có thể đoán trước được, cho dù luôn luôn chúng có liên hệ với hoạt động liên tục của cùng một Thần Khí. Trái lại, có một điểm chung và thường trực trong các lối sống ấy, là chúng biểu thị những đòi hỏi và những niềm vui mà Tin Mừng Đức Kitô ra “giữa những cảnh sống thường nhật trong gia đình và ngoài xã hội, tức là ra giữa những gì làm như dệt thành cuộc sống của họ” (GH31) (L”unique Eglise du Christ, tr. 25).
Mầu nhiệm duy nhất và công giáo của Hội Thánh trở thành thiết thực hữu hiệu về mặt hoạt động cứu độ qua sự việc các Giáo Hội Địa Phương thi hành trách vụ của mình ở giữa dòng lịch sử.
12.07 Việc Công đồng phục hồi ý nghĩa của công-giáo-tính cụ thể như thế, đặc biệt là sau nhiều thế kỷ đi theo chiều hướng tập quyền và độc dạng, đã khiến cho khắp nơi trong Hội Thánh, biết quan tâm trở lại đối với hai nhân tố chủ yếu của sự việc Hội Thánh duy nhất phát sinh ở trong và từ nhiều Giáo Hội khác nhau. Nhân tố thứ nhất là công tác hội nhập văn hóa , tức là đề tài của các luận đề từ 5 đến 9 trên đây.
12.08 Và nhân tố thứ hai là việc khám phá và ý thức lại, về quyền tự trị chính đáng của các Giáo Hội Địa Phương. Điểm này đã được nêu rõ trong bản tuyên ngôn của Thượng Hội Đồng Giám mục Thế giới, nhóm họp năm 1985: Bởi vì Hội Thánh là một cộng đồng hiệp thông, nên mọi tầng lớp đều có bổn phận hợp tác và cùng chia sẻ trách nhiệm chung. Không một phần tử nào được quyền giữ thế thụ động đối với việc phát sinh và xây dựng Hội Thánh (xem TĐ 2). Điều đó đúng đối với hết thảy mọi tầng lớp trong Hội Thánh: từ các giáo đoàn cơ bản (xem luận đề 9 trên đây) cho đến giáo xứ, từ giáo xứ cho đến giáo phận, từ giáo phận cho tới các nhóm của mỗi miền, từ miền cho đến cộng đồng hiệp thông toàn vũ chung quanh Giám mục Roma. Nơi nào có tình trạng chối bỏ hoặc cản trở việc hợp tác và chia sẻ trách nhiệm chung như vậy, hay là từ chối không để cho các cơ cấu thể chế được triển dương đúng mức, thì nơi ấy việc thể hiện công giáo tính cụ thể cũng như mức độ sáng tỏ của niềm hiệp nhất công giáo — tức là tính chất catholica unitas mà các Giáo phụ đã từng hết lời ca tụng — sẽ bị thiếu mất đi một điều gì đó.