Việc Quản Trị Trong Hội Thánh và Nhận Định Thiêng Liêng (4)

0
579


Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ.

Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh tại Giêrusalem,

và phụ trách các tu sĩ Dòng Tên phục vụ tại Thánh Địa.

***

***

2. Một vài nhận định từ bản báo cáo
   
Trở lại từ đầu bản báo cáo này, chúng ta cố gắng nhận ra tiến trình và những điều kiện của Linh thao.  Bởi vì chính kinh nghiệm này có thật và là một kinh nghiệm đi tới quyết định rất quan trọng là chính việc khai sinh ra một dòng tu, thiết nghĩ nó có giá trị để soi sáng, làm mẫu cho chúng ta nghiên cứu để biết cách thực hiện những cuộc nhận định cộng đoàn hiện nay (cụ thể nhất là việc áp dụng hiến chương mới của dòng Mến Thánh Giá, bởi vì tuy có Hiến Chương chung, nhưng ai cũng biết rằng việc áp dụng vào từng Hội Dòng, từng cộng đoàn ở mỗi địa phương chắc chắn có nhiều điều khác nhau, nên cần phải nhận định và chọn lựa).
   
Trước hết trong phần mở đầu, chúng ta thấy biên bản nêu rõ hoàn cảnh, tức là đã tới lúc chia tay nhau và phân tán đi. Từ trước đến giờ, các bạn cũng chỉ mong điều đó, tức là được Đức Giáo Hoàng sai đi phục vụ Hội Thánh, và như thế là thể hiện được những điều họ đã khấn nguyện ở Montmartre. Nhưng đứng trước viễn tượng phải chia tay, họ lại muốn cùng nhau thảo luận về chính ơn gọi của họ. Họ đã thảo luận nhiều lần mà chưa đi đến kết quả. Họ chỉ thấy tình trạng trong nhóm gồm những người thuộc nhiều quốc tịch: hai người Pháp, năm người Tây-ban-nha, hai người xứ Savoie và một người Bồ-đào-nha. Đó là nói về quốc tịch, còn nói về cá tính thì trong mười người này, cá tính cũng rất khác biệt nhau. Chẳng hạn người Bồ-đào-nha duy nhất là Simon Rodriguez, rồi người Tây-ban-nha lúc đó là Bobadilla, đúng là hai cái gai ở trong nhóm.  Bởi vì hai con người này cá tính rất độc đáo, khó mà nhượng bộ ai.  Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười.  Ông nào cũng có cá tính mạnh, ông nào cũng là cựu sinh viên Sorbonne.
   
Các nhân vật trong nhóm mười người này có thể nói được toàn là những nhân vật sừng sỏ, cá tính độc đáo. Vậy mà họ lại muốn tìm ra những phương thế thực hiện cùng một mục đích. Họ muốn cùng nhau thảo luận để tìm ra nếp sống cho mình. Trong biên bản chúng ta thấy họ xác định rõ là:  “Khi chúng tôi có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm ý Chúa tốt đẹp và hoàn hảo theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng tôi”.  Như vậy chúng ta thấy họ đã nhất trí được với nhau về hai điểm.  Một là về ơn gọi Chúa đã ban cho họ mà họ đã nhận ra từ ở Paris và đã khẳng định khi tuyên khấn ở Montmartre, rồi khi họ tuyên khấn trong tay vị đại diện Đức Giáo Hoàng ở Venezia.  Và sau khi đã được Đức Giáo Hoàng chấp nhận và sai đi, về phương diện ơn gọi họ không có gì phải thắc mắc, đặt lại vấn đề.  Họ cũng thống nhất với nhau cùng một ý nghĩ và ý muốn là chỉ tìm ý Chúa để thực hiện ơn gọi phục vụ Hội Thánh dưới quyền Đấng đại diện Chúa Ki-tô.  Như vậy, chúng ta thấy rằng họ đã có một mục đích và tất cả đều đạt được thái độ “bình tâm” trong phương pháp Linh thao của thánh I-Nhã.  Đó là thái độ tiên quyết đối với mọi nhận định và lựa chọn, bởi vì phải thoát khỏi mọi quyến luyến lệch lạc mới có thể có được sự bình tâm mà thánh I-Nhã nói giống như một cái kim trên bàn cân để sẵn sàng đón nhận sự thôi thúc của Chúa.  Động lực duy nhất của sự thôi thúc đó là vinh quang Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.  Hai là họ còn muốn tìm kiếm ý Chúa tốt đẹp và hoàn hảo để thực hiện ơn gọi, tức là phương thế để sống ơn gọi đó.  Tuy họ có được thái độ căn bản là sự bình tâm, vì họ chỉ muốn tìm kiếm ý Chúa, nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân mình cũng như đối với người khác thì anh em có nhiều ý kiến khác nhau.  Họ không ngạc nhiên vì sự khác biệt đó, mà phải tìm một sự nhất trí. 
 
Nếu chúng ta đọc lại sách Công Vụ Tông Đồ chương 15, cũng thấy có vấn đề tương tự, tức là sau khi nghe nói có những người ngoại đạo, những người không phải gốc Do-thái, cũng đã được ơn để tin vào danh Chúa Giê-su, thì tất cả đều vui mừng.  Nhưng điều làm cho các tông đồ và giới lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem không đồng ý kiến với nhau, đó là chuyện có nên bắt họ theo tất cả những quy định của Do-thái giáo hay không.  Trong cuộc họp này, ở Giê-ru-sa-lem người ta bắt đầu bằng cách tranh luận, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu. Cuối cùng thánh Phê-rô chủ động thay đổi phương pháp làm việc : lần lượt mỗi người trình bày và tất cả mọi người lắng nghe.  Bắt đầu là thánh Phê-rô trình bày, sau đó đến thánh Barnabe và thánh Phao-lô trình bày những gì các ngài đã chứng kiến về những việc Chúa làm cho Dân ngoại.  Cuối cùng thánh Gia-cô-bê phát biểu, rút kết luận từ những gì 3 vị trước đã chia sẻ.  Sau đó tất cả đi đến sự nhất trí để soạn bức thư chung và chọn hai người đáng tín nhiệm là Phao-lô và Barnabê để đi công bố bức thư đó.  Cùng đi với Phao-lô và Barnabê thì có ông Giu-đa.  Chúng ta lưu ý:  bức thư của các tông đồ và các lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem nói rằng:  “Thánh Thần và chúng tôi quyết định không áp đặt cho anh em những gánh nặng nào khác ngoài những gì không thể giảm bớt được”.  Vậy chúng ta thấy trong nhận định của Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem rõ ràng là một sự nhận định thiêng liêng, – nghĩa là nhận định dưới ánh sáng của Thánh Thần để biết Thánh Thần thúc đẩy về hướng nào –  và trong bức thư, các đại biểu đã khẳng định:  “Thánh Thần và chúng tôi quyết định”. 
 
Ở đây chúng ta thấy rằng mở đầu biên bản nói thánh I-Nhã và các bạn lúc đó đã nhiều lần thảo luận với nhau mà vẫn còn những ý kiến khác biệt. Bây giờ vì khao khát muốn tìm những phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân mình và đối với người khác để sống ơn gọi mà họ xác tín đã nhận được từ Paris, họ quyết định làm một cuộc nhận định thiêng liêng, đó là cuộc nhận định dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.  Từ trước đến giờ họ bàn luận với nhau nhưng chưa phải là cuộc nhận định thiêng liêng, nhận định trong Thánh Thần, trong cầu nguyện.  Như vậy tất cả đều cùng chú tâm lo lắng tìm kiếm con đường phải đi, nhưng sự phán đoán của mỗi người vẫn khác nhau.  Bây giờ họ bắt đầu chuẩn bị cho việc nhận định thiêng liêng như sau:  “Chúng tôi nhất trí quyết định sẽ cầu nguyện, cử hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình thường và khi đã hết sức chăm lo việc ấy thì phó thác mọi âu lo cho Chúa với lòng hy vọng rằng Người là Đấng chí nhân và quảng đại không từ chối ban Thần khí tốt lành của Người và trợ giúp chúng tôi, với một lòng nhân hậu, rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi cầu xin hay mong ước”.  Đây là điểm thứ ba mà thánh I-Nhã đã nói trong phương pháp lựa chọn thứ nhất:  “Xin Thiên Chúa, Chúa chúng ta đoái thương đánh động ý muốn và đặt vào linh hồn điều tôi phải làm đối với sự việc đã được đề nghị để ngợi khen và làm vinh danh Chúa hơn
 
Nhưng để có thể nhận định thì tất nhiên phải đặt vấn đề rõ ràng.  Biên bản ghi lại:  “Vậy chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài câu hỏi đòi phải xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc”.  Điều này dễ hiểu, bởi vì không có thể nào chia sẻ, thảo luận, trao đổi với nhau, không có thể nào cùng nhau nhận định nếu vấn đề không được đặt ra một cách rõ ràng.  Vậy để làm một cuộc nhận định cộng đoàn, trước hết phải cầu nguyện để có sự bình tâm, rồi đặt câu hỏi rõ ràng, liên quan đến cộng đoàn.  Trường hợp của nhóm bạn thánh I-Nhã có liên quan tới tất cả hiện tại và tương lai của nhóm mười người và những người sẽ theo đường lối của họ sau này.
 
Sau khi đã xác định được vấn đề rõ ràng và mọi người đã hiểu đúng vấn đề, họ bắt đầu bước thứ nhất của tiến trình nhận định.  Thánh I-Nhã nói:  “Suốt ngày chúng tôi suy nghĩ về những điều ấy.  Việc cầu nguyện cũng là một phương thế cho chúng tôi tìm kiếm”.  Đấy mới là vấn đề nhận định thiêng liêng, liên quan đến toàn thể con người, là một vấn đề thuộc về tác động của Chúa Thánh Thần, nên mỗi người phải đích thân đến trước mặt Chúa và điều mình suy nghĩ phải ăn sâu vào tất cả con người mình.  Thánh I-Nhã gọi đó là Chúa“đánh động ý muốn” và “đặt vào linh hồn tôi”, nghĩa là làm sao để mình hoàn toàn cảm nhận được điều ấy đúng như ý Chúa, không phải do tình cảm.  Ở đây chúng ta không thể hiểu được quan điểm này nếu chúng ta không đặt mình trong nhãn giới đức tin và tác động của Chúa nơi con người chúng ta.
 
Về phương diện nhân bản, thánh I-Nhã cũng có một cái nhìn rất sâu sắc về tâm lý con người.  Con người không chỉ có lý trí và ý muốn mà thôi.  Lý trí và ý muốn không thể hành động biệt lập vì con người là duy nhất.  Nhưng cũng không chỉ có ý chí và lý trí mà cả nhân vị, cái mà chúng ta gọi là toàn thể con người dấn thân khi cảm nghiệm được rằng đây là lời mời gọi của Chúa.  Việc nhận định thiêng liêng đưa đến quyết định sâu xa, đó là đón nhận tác động của Chúa.  Tại sao?  Vì khi đó chúng ta sống điều mà thánh Gio-an gọi là “sự tự do của con cái Thiên Chúa”, tức là để cho Chúa  chiếm ngự cõi sâu thẳm nhất trong tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta gắn bó với Người đến mức chỉ muốn đi tìm thánh ý Người.
 
Cũng như Chúa Giê-su đã nói rằng:  “Tinh thần thì mau mắn, nhưng xác thịt thì nặng nề”, tức là trong cái cảm nhận của chúng ta, không phải cái gì cũng rõ ràng, nhưng có cái gì đó xuất phát từ trung tâm ánh sáng, là sự tự do của con cái Thiên Chúa.  Nó còn có cả một lãnh vực mờ ảo, trong đó cái tôi còn mạnh lắm.  Đó là những đam mê, những sở thích, những khuynh hướng riêng đã lấn át con người.  Đi vào nhận định thiêng liêng tức là làm sao thoát ra khỏi cái tôi đó để sống kết hiệp thực sự với ý muốn của Thiên Chúa.  Vì thế phải suy nghĩ đắn đo, đồng thời phải cầu nguyện.
 
Bước thứ hai là đến tối, mỗi người trong nhóm trình bày với anh em cách giải quyết mà mình cho là tốt hơn, có lợi hơn.  Mỗi người phải nhận lấy phần trách nhiệm của mình đối với tất cả cộng đoàn và cộng đoàn cũng phải tiếp nhận mỗi người với tất cả cá tính của người đó.  Vấn đề khó khăn là làm sao mỗi người dám bộc lộ mình trước mặt cộng đoàn, và cộng đoàn phải có thái độ lắng nghe như thế nào để mỗi người cảm thấy mình được tôn trọng và mình có thể nói lên được tất cả.  Nếu phản ứng của cộng đoàn làm cho một số người không dám phát biểu, không dám nói, thì lúc đó sẽ không có nhận định cộng đoàn, lúc đó sẽ là áp lực của một nhóm làm người khác không dám chia sẻ.  Nhờ việc mỗi người đều phát biểu những gì mình cảm nghiệm, cộng đoàn có thể cùng nhau đón nhận ý kiến chính đáng nhất.  Ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo luận chung và dựa trên những lý do vững chắc nhất, bởi vì chúng ta thấy rằng mỗi người trình bày trước anh em, đó là bước thứ nhất.  Nhưng còn có bước thứ hai là thảo luận chung về những lý do, những động lực mà mỗi người đã đưa ra.  Đây không phải là vấn đề tranh cãi, vì đi đến tranh cãi thì lại có kẻ thắng người thua.  Mục đích thảo luận là để cùng nhau suy nghĩ, đánh giá những lý do mỗi người đưa ra, để cuối cùng ý kiến nào dựa trên những lý do vững chắc nhất sẽ được coi đó là ý kiến tốt hơn, có lợi hơn và cùng nhau đón nhận.  Cũng như trong sự nhận định riêng, mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận điều nào là thích hợp nhất để mà ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.  Chúng ta để ý chữ “hơn”, tốt hơn và có lợi hơn chứ không đặt vấn đề một cách tuyệt đối được. 
 
Nhóm thực hiện phương pháp làm việc đó cụ thể như thế nào?  “Trong cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra ý kiến sau đây:  Khi con người và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở dưới đất để ngài sử dụng chúng tôi, và sai chúng tôi đi đến những nơi mà ngài xét thấy việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ hoặc là đất Ấn-độ, hay với những người lạc giáo hoặc bất cứ dân tộc nào khác có đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn, tức là bây giờ tiếp tục liên kết với nhau chặt chẽ, làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách bên ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là chọn mỗi người đi mỗi ngả và chấm dứt quan hệ của nhóm.”
 
Qua biên bản cuộc thảo luận của “Đoàn Giê-su”, chúng ta thấy họ đã xác định điểm chung đó là ơn gọi, không có gì để bàn cãi nữa.  Bây giờ chỉ bàn cãi để chọn lựa nên duy trì và củng cố một sự liên kết chặt chẽ, làm thành một thân thể duy nhất, không gì phá vỡ được, hay là chấm dứt quan hệ nội tại của nhóm.  Họ đưa ra một vấn đề cụ thể là Đức Thánh Cha sắp phái hai người trong đoàn đến Sienna thì liệu có phải giữ một sự nhất trí với nhau hay là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài đoàn.  Nếu hai người được Đức Giáo Hoàng sai đi Sienna thì nhóm sẽ giữ sự quan hệ với họ thế nào hay là cắt đứt quan hệ với họ.  Đấy là vấn đề được đặt ra rất rõ ràng, chỉ chọn một trong hai.  Một là củng cố sự duy trì và hợp nhất của nhóm, hai là kể như tan. 
 
Họ giải quyết vấn đề thứ nhất như thế nào?  Đọc trong biên bản, chúng tôi có cảm tưởng rằng vấn đề thứ nhất được giải quyết khá nhanh và hình như đã được giải quyết theo điều mà thánh I-Nhã gọi là thời kỳ thứ hai để làm việc chọn lựa tốt.  Thánh I-Nhã phân biệt ba thời kỳ có thể làm việc chọn lựa tốt.  Thời kỳ thứ nhất là khi được Chúa đánh động và lôi kéo, thí dụ như thánh Phao-lô trên đường Damas hay thánh Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu thuế, nghe Chúa gọi là bỏ dậy đi ngay.  Thời kỳ thứ hai là khi nhận được đủ ánh sáng và hiểu biết bởi kinh nghiệm những an ủi và sầu khổ, bởi kinh nghiệm phân biệt thần tốt và thần xấu.  Vậy trong biên bản nói sao?  Điểm thứ nhất là có nên duy trì và củng cố sự hợp nhất của nhóm hay là chấm dứt ở đây?  “Chúng tôi kết thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với nhau”.  Những động lực nào thúc đẩy họ đi đến quyết định đó?  “Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa đã đoái thương lấy lòng nhân từ và thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là những con người hèn yếu, xuất phát từ nhiều phía với những tập tục khác nhau.  Do đó, chúng tôi không được phá sự hợp nhất của nhóm do Chúa đã tác thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy”.  Họ trở lại kinh nghiệm đã cùng sống với nhau từ 1534 đến 1539:  họ đã sống trong tinh thần gắn bó và nâng đỡ nhau phụng sự Thiên Chúa, họ đã cảm nhận được đó là ân huệ lớn lao như thế nào.  Một lý do khác là sự quan tâm đến nhau và sự nhất trí hoàn toàn với nhau sẽ đảm bảo mang lại hoa trái dồi dào hơn cho các linh hồn.  Đây cũng là điều họ đã cảm nghiệm trong cả quá trình sống với nhau, không phải chỉ là sự suy luận theo kiểu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.  Chính kinh nghiệm họ đã cảm nghiệm được khi cùng nhau phụng sự Chúa.  Những sức lực kết hợp lại có sức đề kháng và năng lực để thực hiện những công việc lớn lao và khó khăn hơn là khi chia rẽ phân tán.  Vậy tất cả đều dựa trên kinh nghiệm về việc họ đã liên kết với nhau để phụng sự Chúa, họ thấy đó là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa và là một điều đem lại hoa trái dồi dào cho việc tông đồ, vì thế họ quyết định phải duy trì sự gắn bó với nhau. 
 
Nhưng ở đây biên bản cũng có một sự dè dặt để khỏi bị hiểu lầm:  trong tất cả những điều vừa trình bày hay sẽ trình bày, phải hiểu cho đúng.  “Chúng tôi hoàn toàn không đưa ra điều gì do sáng  kiến riêng hoặc do ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa”.  Câu cuối cùng này quan trọng, “dù kết quả ra sao đi nữa” có nghĩa là họ sẵn sàng chấp nhận điều gì Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn.  Điều họ nói Chúa soi sáng cho họ thì có thể chủ quan, nhưng có một tiêu chuẩn khách quan là Tòa Thánh phê chuẩn.  Đó là sự bình tâm hoàn toàn ở cấp độ cộng đoàn và họ ý thức rõ ràng họ không đưa ra điều gì do sáng kiến riêng, hoặc ý riêng của họ, mà chỉ đưa ra những gì Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn.  Như vậy vấn đề thứ nhất, chúng ta thấy họ giải quyết được khá nhanh và hoàn toàn đồng tâm nhất trí với nhau ở trong vấn đề này, vì tất cả họ đã cảm nghiệm ân huệ đó, cảm nghiệm niềm an ủi thiêng liêng trong cuộc sống, cùng nhau phụng sự Chúa, gắn bó với nhau trong tình bạn, trong tình huynh đệ rất mật thiết.  Phải đọc lại tất cả những trang sử của giai đoạn đó thì mới hiểu được họ thân thiết với nhau, yêu thương nhau như thế nào. 
 
Vậy sau khi giải quyết dứt khoát vấn đề thứ nhất, chúng tôi đề cập đến một vấn đề khác khó hơn, cũng không kém phần đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét.
 
Câu hỏi được đặt ra:  Có cần tuyên khấn lời khấn thứ ba là vâng phục một người trong chúng tôi không?  Lời khấn thứ ba là vâng phục, tức là thành một dòng tu.  Từ trước đến giờ họ chỉ có hai lời khấn:  sống khiết tịnh trọn đời và sống khó nghèo.  Bây giờ thêm lời khấn thứ ba là vâng phục một người được bầu làm Bề trên.  Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần khiết hơn, để ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn.  Biên bản ghi nhận:  “Sau khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề mà không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào Chúa và bắt đầu bàn luận với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi nghi ngờ của chúng tôi”.  Vậy có thể ví đây là hiện tượng mà thánh I-Nhã ở trong Linh thao gọi là gặp sầu khổ và thấy tối tăm mù mịt, không còn thấy đàng nào mà đi nữa. 
 
Chúng ta thử xem lại nguyên tắc thánh I-Nhã nói phải xử sự thế nào trong lúc gặp sầu khổ, thì sẽ hiểu được cách mà các bạn của ngài làm ở đây.  Thánh I-Nhã định nghĩa sự sầu khổ thiêng liêng là tất cả những gì trái ngược với sự an ủi thiêng liêng, như sự tối tăm trong linh hồn, xao xuyến bề trong, thúc đẩy về những gì thấp hèn và phàm tục.
 
Ở nguyên tắc tiếp theo, thánh I-Nhã nói về cách phải xử sự trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi nhưng hãy cương quyết bền vững trong những điều quyết định và dốc lòng đã có trước khi bị sầu khổ hoặc trong điều dốc lòng đã có khi được an ủi trước đây.  Và nguyên tắc tiếp theo, trong cơn sầu khổ nếu như không nên thay đổi các điều đã quyết định thì cũng rất nên cương quyết thay đổi chính mình để chống lại cơn sầu khổ ấy, chẳng hạn bằng cách chăm chú cầu nguyện, suy gẫm, xét mình nhiều hơn và gia tăng những sự hãm mình  theo cách nào thích hợp hơn.  “Trước hết liệu có nên cùng nhau lui vào một nơi tĩnh mạc và ở đó 30 hay 40 ngày mà lo việc suy gẫm, ăn chay và hãm mình để được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc chắn vào tâm trí chúng tôi một cách giải quyết vấn đề này.  Hoặc 3 hay 4 người có nên thay mặt cho mọi người trong nhóm đến đó vì cùng một mục đích, hoặc không ai phải đi đến nơi tĩnh mạc ấy nên chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng dành nửa ngày để chỉ lo việc của chúng tôi mà thôi.  Như vậy việc suy gẫm và cầu nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa ngày còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và giải tội”. 
 
Bây giờ họ tạm ngưng thảo luận về chính vấn đề, mà thảo luận về phương pháp tiến hành.  Về phương pháp tiến hành, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời vừa đọc, đó chính là áp dụng nguyên tắc phải xử sự thế nào khi gặp sầu khổ.  Vậy các bạn nghĩ bây giờ làm sao gia tăng việc cầu nguyện và hãm mình.  Có thể tất cả cùng nhau đi vào một nơi thanh vắng theo như họ đã làm trước đó một lần tại Bắc Ý ngay sau khi chịu chức linh mục.  Vào năm 1537, họ đã chia thành nhóm hai, ba người đi đến một nơi thanh vắng, rồi hằng ngày đến thị trấn nào đó xin ăn và rút vào nơi thanh vắng mà suy gẫm, ăn chay, hãm mình.  Có thể tất cả cùng đi.  Hoặc ba, bốn người đại diện đi theo cách đó.  Hoặc không ai đi, tất cả cứ ở Roma, nhưng sắp đặt lại cách tiến hành là dành nửa ngày lo riêng việc của nhóm và nửa ngày tiếp tục làm công việc tông đồ quen làm là giảng dạy và giải tội.  Cuộc bàn cãi cũng ngã ngũ mau, bởi lẽ họ thấy được các lý do không nên nghĩ đến chuyện rời bỏ Roma. Lúc này nhóm đã bắt đầu làm việc và đã được nhiều sự chú ý.  Nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ họ bằng cách nói xấu thế này thế khác, hoặc cho họ là nhóm cải cách hay là nhóm rối đạo.  Do đó, họ thấy rằng cả nhóm cần phải ở lại.  “Vì hai lý do:  một là để tránh những lời đàm tiếu và gương xấu đối với dân chúng là những người có thể xét đoán.  Bởi vì con người vẫn có khuynh hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc âm mưu điều gì mới hoặc thiếu cương quyết hay bền vững trong công việc ban đầu của chúng tôi”.  Như vậy vì vấn đề thanh danh của nhóm này là nhằm mưu ích cho các linh hồn, phục vụ Hội Thánh, cho nên không đem ra bán rẻ hoặc đánh đổi được.  “Hai là vì nhu cầu tông đồ hiện thời rất nhiều, giải tội, giảng dạy, các việc thiêng liêng khác nhiều đến nỗi dù nhóm chúng tôi có đông gấp bốn lần cũng không giải quyết hết”.  Vậy nhóm sử dụng con đường thứ hai, tức là dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện suy nghĩ và nửa ngày vẫn tiếp tục công việc tông đồ quen thuộc.  Nhưng phải xác định mục tiêu cho việc dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện, suy nghĩ đó.  “Chúng tôi bắt đầu thảo luận để tìm con đường đi tới giải đáp và đề nghị cho tất cả từng người thực hiện được trong tâm hồn mình ba thái độ sau đây:
 
–  Thái độ thứ nhất là mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo việc cầu nguyện, dâng thánh lễ và suy gẫm như thế nào để mọi nỗ lực của mình hướng tới việc tìm thấy niềm vui và bình an trong Thánh Thần.  Làm hết sức để nghiêng chiều ý muốn của mình về vâng phục hơn là được quyền ra lệnh, nếu do đó mà phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau.  Cần giải thích thêm là trong Linh thao, thánh I-Nhã nói đến ba bậc khiêm nhường.  Bậc thứ nhất vì yêu mến Chúa thì thà chết không phạm một tội trọng.  Bậc thứ hai vì yêu mến Chúa thì dù phạm một tội mọn để đổi cả thế gian cũng không đổi.  Và bậc thứ ba là yêu mến Chúa Giê-su khó nghèo, vác thập giá, chịu sỉ nhục đến nỗi nếu như giữa hai đàng, hoặc là được vinh quang, hoặc là phải chịu sỉ nhục mà cũng làm vinh danh Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn chịu sỉ nhục, bởi vì nó làm cho mình giống Chúa Giê-su là Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.  Ở đây, thánh I-Nhã và các bạn cũng áp dụng bậc khiêm nhường thứ ba đó vào mục này.  Ngài nói rằng:  vâng phục hay là không vâng phục, nếu sống vâng phục trong dòng tu hay sống tự do theo ý mình mà cả hai đều đem lại vinh quang Thiên Chúa và ngợi khen Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn sự vâng phục.
 
–  Thái độ thứ hai là mỗi người phải tìm kiếm ý Chúa và mỗi người chịu trách nhiệm hoàn toàn, không ai ảnh hưởng trên ai, mỗi người đặt mình dưới tầm ảnh hưởng của Thiên Chúa mà thôi, tức là mỗi người chỉ dựa vào cầu nguyện, suy gẫm riêng để xem điều nào ích lợi hơn và như vậy để loại bỏ tất cả những ảnh hưởng của người khác, không phải do Thánh Thần tác động trong tâm hồn.
 
–  Thái độ thứ ba là để tạo sự khách quan, đây là áp dụng cách thánh I-Nhã nói trong Linh thao:  cách thứ hai để làm việc chọn lựa tốt trong thời kỳ thứ ba là thời kỳ mỗi người phải bình tĩnh suy xét, thì ngài nói rằng:  tưởng tượng ra một người mà tôi chưa bao giờ gặp và cũng chẳng quen biết với lòng ước ao cho họ được hoàn thiện toàn vẹn, suy xét điều tôi sẽ mách họ làm và lựa chọn để sáng danh Thiên Chúa, Chúa chúng ta, hơn cả và làm cho linh hồn họ nên trọn lành hơn, rồi tôi cũng làm như vậy, tuân theo quy tắc tôi đặt cho người khác.  Thánh I-Nhã và các bạn áp dụng điều đó cho tập thể của mình.  Mỗi người phải tự coi mình như một kẻ xa lạ đối với nhóm và như thể không bao giờ được nhận vào nhóm này.  Nhìn vấn đề như thế thì không một tình cảm nào làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một bên nào, nhưng có thể nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự do bộc lộ ý kiến của mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục.  Cuối cùng, lấy sự phán đoán của mình để xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục vụ Thiên Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì đoàn lâu dài.  Ở đây đặt vấn đề là nên khấn lời khấn vâng phục hay không, và tiêu chuẩn duy nhất nhằm để chọn khấn hay không khấn. 
 
Sau một thời gian gia tăng việc cầu nguyện, hãm mình vì mục đích đã định để đạt được ba thái độ trên, các bạn bắt đầu đi vào việc nhận định.  Họ hẹn ngày gặp nhau để mỗi người phát biểu những vấn nạn có thể đưa ra nghịch với sự vâng phục.
 
Trong phương pháp thứ nhất để làm việc lựa chọn trong Linh thao, thánh I-Nhã nói điểm thứ bốn là “suy xét xem sự được chức vụ hay bổng lộc nói trên đây sẽ sinh thuận tiện và ích lợi cho tôi bao nhiêu.  Ngược lại, cũng theo cách thức ấy, suy xét những bất tiện và nguy hiểm bởi sự được chức vụ hay bổng lộc.  Trong phần thứ hai cũng làm như vậy, nghĩa là xét những thuận tiện và ích lợi hoặc những bất tiện và nguy hiểm bởi sự không được điều ấy”.  Vận dụng vào trường hợp này, giai đoạn thứ nhất các bạn bắt đầu bằng việc đưa ra những vấn nạn chống lại việc khấn vâng phục và trở thành một dòng tu.  Tất cả mọi lý do mỗi người đã khám phá ra trong suy nghĩ và cầu nguyện được lần lượt trình bày theo cách tiến hành cũng như lần trước.  Biên bản kể lại một số lý do đã được đưa ra, chẳng hạn người thì nói tốt nhất đừng khấn vâng lời, đừng trở thành một dòng tu, vì khi nói tới danh từ dòng tu, vâng phục, đối với dân Ki-tô hữu không còn giá trị, bởi thực trạng sa sút của đời tu lúc đó ở nhiều nơi làm cho người giáo dân khi nhìn thấy một người mặc áo dòng hay một linh mục thì không còn kính trọng quý mến như trước và như vậy không có lợi gì cho việc phụng sự Thiên Chúa.  Người khác đưa ra một lý do khác, nếu chúng ta muốn sống vâng phục, có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống theo một luật dòng nào đã có sẵn và chúng ta chẳng còn phương thế để làm việc cứu rỗi các linh hồn. Như vậy mọi ước vọng của chúng ta hỏng hết, mà chúng ta có đủ lý do tin rằng những ước vọng đó đã được Thiên Chúa, Chúa chúng ta chấp thuận. Để thấy rằng điều họ lo sợ ở đây không phải là sợ hão, chúng ta nói trước một chút hồi kết:  khi đã quyết định khấn vâng phục và xin trở thành một dòng tu, thì nhóm giao cho thánh I-Nhã và một vài bạn soạn bản đề cương hay gọi là thể thức sống (sau gọi là định thức) của dòng mới thành lập và đưa lên Đức Giáo Hoàng duyệt.  Đức Giáo Hoàng đọc xong là muốn duyệt liền.  Nhưng khi chuyển sang Thánh bộ dòng tu để làm văn kiện chính thức phê chuẩn, lúc đó lại bị chống đối, bởi vì người ta viện lý do đã có sắc lệnh của một Công Đồng từ thế kỷ 13 nói không nên cho lập thêm dòng tu mới, mà chỉ có bốn luật dòng đã được nhìn nhận lúc bấy giờ, ai muốn tu thì theo những luật dòng đó thôi.
 
Khó khăn thứ ba rất thực tế là nếu thành một dòng tu thì sẽ có ít người gia nhập vì phải lệ thuộc vào một Bề trên và khuôn khổ của luật dòng, trong khi đó họ muốn trở thành những người nhiệt thành, muốn có nhiều người cùng chí hướng với họ để phụng sự Chúa, để làm việc trong vườn nho Chúa.
 
Giai đoạn thứ hai là mỗi người lần lượt trình bày kết quả suy nghĩ của mình, tức là nêu lên những lợi ích của sự vâng phục.  Nếu khấn vâng phục, nếu thành một dòng tu thì sẽ được những ích lợi nào.  Mỗi người mỗi cách.  Trong biên bản đưa ra mấy thí dụ thôi.  Có người đặt vấn đề: “giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc tông đồ mà không có sự trợ giúp của tinh thần vâng phục thì chẳng ai sẽ thực sự chịu trách nhiệm, mỗi người sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về việc ấy.  Thêm nữa, nếu không có quyền bính trong nhóm thì nhóm không thể tồn tại lâu dài như ý hướng ban đầu đã đặt ra”.  Sau khi từng người trình bày xong những thuận lợi và bất lợi, tiếp đến giai đoạn thảo luận cân nhắc vấn đề.  Đây là điểm thứ năm trong cách lựa chọn thứ nhất mà thánh I-Nhã trình bày trong Linh thao là sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc về mọi khía cạnh và xem lý trí nghiêng về phía nào thì lựa chọn theo phía đó, chứ không theo sự thúc đẩy của tình cảm.
 
Qua quá trình cân nhắc và xem xét các lý do đã được nêu lên, lợi cũng như bất lợi, thì dần dần các bạn đã đi đến được kết luận “Cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chúng tôi đã đạt được kết luận không phải là theo đa số phiếu nhưng là sự nhất trí tuyệt đối.  Chúng tôi vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất đáng chọn và rất cần thiết cho chúng tôi”.  Vì ước muốn ban đầu của các bạn là hoàn thành ý Chúa trong mọi sự để phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh vì họ thấy rằng nhờ lời khấn vâng phục và trở thành một dòng tu, họ sẽ có thể thực hiện tốt hơn và chính xác hơn.  “Đồng thời cũng bảo đảm hơn việc duy trì đoàn và sau hết chúng tôi có thể lo liệu khôn khéo hơn cho từng chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng liêng cũng như thế tục”.
 
Đoạn cuối của biên bản cho chúng ta thấy:  họ hoàn toàn nhất trí với nhau đi đến quyết định về hai điểm chính, là chọn khấn vâng phục và trở thành dòng tu.  Nhưng sau đó họ còn phải tiếp tục bàn luận những vấn đề khác cụ thể và chi tiết hơn, tức là hình thành dòng mới này như thế nào?  Vậy họ vẫn cứ theo phương pháp đưa ra ý kiến thuận hoặc chống, rồi cân nhắc chọn lựa trong suốt thời gian gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả, họ cùng nhau nhận định cộng đoàn, đặt ra từng điểm.  Nhưng ở những điểm sau đó thì họ không tìm sự nhất trí tuyệt đối nữa, mà họ bằng lòng với quyết định của đa số phiếu trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em.  Đây là sự cần thiết nhất trong cộng đoàn tu sĩ của chúng ta.  Nếu một cộng đoàn không có sự hòa hợp tâm hồn thì khó mà tránh được những rạn nứt.  Nhưng trước khi kết thúc, biên bản cũng nói rằng:  “Đi trước sự bàn định dứt khoát này, không thiếu những buổi canh thức cầu nguyện và những hy sinh, hãm mình”.  Tóm lại, họ đặt những phương thế siêu nhiên lên trên.  Khi nhận định ở cấp cộng đoàn, sự từ bỏ ý kiến riêng của mình cũng phải được đặt ra một cách dứt khoát.  Mỗi người và toàn thể cộng đoàn phải hoàn toàn sẵn sàng đón nhận điều Chúa sẽ thôi thúc là điều thích hợp nhất.  Mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận quyết định cuối cùng, vì không phải là lúc nào cũng có thể đạt được tới sự nhất trí tuyệt đối.  Có lúc phải quyết định bằng đa số.  Nhưng thông qua việc cùng nhau nhận định thì lúc đó mọi người sẽ dễ dàng tuân phục hơn.  Và dĩ nhiên trong trường hợp này cũng đừng quên ý kiến của thiểu số cũng quan trọng, bởi vì nó sẽ làm cho quyết định chung được cân nhắc kỹ lưỡng hơn.  Phải làm sao để dù quyết định theo đa số nhưng mọi người đều đạt được niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn.  Sau khi đã quyết định, những người đưa ra ý kiến thiểu số tất nhiên phải từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý kiến chung.