Khái Quát Về Các Giáo Phụ Và Tiến sĩ Hội Thánh

0
1221


Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn

 

A – CÁC GIÁO PHỤ (Church Fathers)

Danh  xưng  này được dùng để chỉ các Giám mục hay giáo dân   đã có những tác phẩm hay bài viết,  bài giảng  có nội dung  giáo lý, (doctrines)  tín lý  (dogmas) và  thần học (Theology ) sâu sắc, tinh tuyền,  phản ảnh trung thực các chân lý của Đức Tin  mà chính Chúa  Kitô đã giảng dạy, đã mặc khải và truyền lại cho các Tông  Đồ tiên khởi. Như thế, các  Giáo Phụ là những người  không những có đời sống thánh thiên gương  mẫu  mà còn  giảng dạy,  quảng bá  và bênh  vực   các  chân  lý của Phúc Âm  để chống lại các bè  rối  (heretics) và những  kẻ  dạy sai  lạc giáo lý  tinh  tuyền  do các Tông Đồ   truyền  lại,  như  Thánh Phaolô đã  nhắc nhở  môn đệ của  ngài là Ti-mô-Thê  như  sau:

“Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp  với Đức Kitô-Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực  những lời lành  mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh  hãy  bảo toàn,  nhờ đó Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2 Tm 1: 13-14)

Lại nữa, Thánh Phaolô  cũng lưu  ý môn đệ của  ngài về nguy cơ có những người dạy giáo lý  sai lạc như sau:

“Thần khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin và theo những thần khí lừa dối, những giáo huấn của ma quỉ, đó là trò giả hình  của những tên  nói  dối  mà lương tâm như  bị thích  dấu  sắt  nung.” (1 Tm 4: 1-2)

Trước nguy cơ đó, các Thánh Giáo Phụ của Giáo Hội là những  người  từ thời  sơ  khai   đã  đóng  góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và giảng  dạy giáo lý  tinh tuyền đã được  truyền lại  từ các Thánh  Tông Đồ cho  các người  kế  vị các ngài  để tiếp tục  loan báo  Tin Mừng .và giảng dạy những chân lý của đức tin.

Trong  hàng ngũ  các Thánh  Giáo Phụ  tiên  khởi, người ta phân biệt:  các Giáo Phụ Hy Lạp (Greek Fathers) tức các Giáo Phụ giảng dạy ở Đông Phương  (trước năm 1054 là năm hai Giáo Hội Công Giáo  Đông và Tây chấm dứt hiệp thông với nhau vì một số bất đồng về tín lý, phụng vụ và quyền bính)  trong  khi các Giáo  Phụ Latinh (Latin Fathers)  giảng dạy ở Phương Tây,  nơi  tiếng  Latinh  là ngôn ngữ chính  được dùng   trong Phụng  vụ, học hành và giảng  dạy.

Các  Giáo Phụ được phân chia  theo thởi  gian  sống  và giảng  dạy  như  sau:

I – Các Giáo Phụ Tông Đồ (Apostolic Fathers)

Các Giáo phụ Tông Đồ (hay còn gọi là các Tông Phụ) là  các Giáo Phụ sống  cùng thời hoặc rất  gần  các Thánh Tông Đồ  tiên  khởi  trong  khoảng  giữa  thế kỷ  thứ  nhất và  đầu  thế kỷ  thứ  hai.

Có 6 vị được biết đến như sau:

     1- Thánh Barnabas (cuối thể kỷ 1 và đầu thế kỷ 2).

     2- Thánh Clement of Rome (sống vào  thế kỷ 1).

     3- Thánh Ignatius of Antioch (thế kỷ 1).

     4- Thánh Polycarp of  Smyrna (mất  năm 156).

      5- Thánh Hermas (đầu thế kỷ 2).

      6- Thánh Papias (đầu thế kỷ 2).

II – Thời  Trường phái Alexandria tức là vào khoảng cuối  thế  kỷ thứ hai cho đến năm  315.

III – Thời Hoàng  Kim (Golden Age) là thời  các Giáo Phụ  sống và giảng  dạy trong  khoảng  từ Công Đồng  Nicea  (325) cho đến  năm 444  A.D   với các Giáo Phụ  tiêu  biểu là  thánh Basil (mất khoảng năm 379), Thánh  Gregory Nazianzen  (390), Thánh  John Chrysothom  (407),  Thánh  Anathasius (373). Các Giáo Phụ  này  thuộc Giáo Hội Hy Lạp (Greek Church). tức  thuộc Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.  Các vị  thuộc  Giáo Hội Latinh,  tức  Giáo Hội Công Giáo Phương Tây,  gồm có: Thánh  Ambrose  (mất  năm  397), Thánh Jerome (420) Thánh Augustine (430).

IV – Thời cuối cùng,  từ năm 450 cho đến A.D 750.

Sau đây là các  đại Giáo Phụ đã được xưng tụng trong  toàn Giáo Hội:

  1- Thánh Ambrose thành Milan (mất năm 397).

  2- Thánh Augustine, Giám Mục Hippo cũng là Thánh  Tiến  Sĩ  Hội Thánh (mất năm 430).

  3- Thánh Jerome (mất năm 420).

  4- Thánh Gregory of Nazianzen  (mất năm 390).

  5- Thánh Basil the Great  (mất năm 379).

  6- Thánh John Chrysostom ( mất năm 407)

  7- Thánh Athanasius (mất năm 373).

Muốn được phong danh hiệu Giáo Phụ, các Giám mục hay các nhà văn giáo dân  phải có những  điều kiện sau  đây:

1- Thứ nhất, phải sống trong khoảng 6 thể kỷ đầu của Kiô Giáo, nghĩa là sống gần với  thời các  thánh Tông  Đồ, hay gần các người kế vị  theo sau các Tông Đồ;   và do đó,  được hiểu  biết  rõ hơn về những chân  lý  của Đạo thánh  mà các Tông Đồ  đã trực  tiếp lãnh nhận  từ Chúa  Kitô.

2- Có đời sống thánh  thiện, đáng làm gương  mẫu cho người khác.

3- Có  viết sách  hay bài giảng  nhiều ít  để lại cho mục đích bảo vệ, gìn giữ và  dạy dỗ   giáo lý  đức tin  đich thực  đã  được mặc khải và  truyền lại từ các Tông Đồ  tiên  khởi.

4- Được Giáo Hội công  nhận và phong thánh  với danh  hiệu Thánh  Giáo Phụ (Church Fathers).

B – CÁC TIẾN SĨ HỘI THÁNH (Doctor of  the Church)

Danh  hiệu  Tiến  Sĩ ở đây (Doctor) không  đồng  nghĩa với  học vị  tiến sĩ được  trao cho các sinh  viên đã đạt trình  độ kiến  thức  cao nhất  về một  ngành chuyên  môn nào  ở các  Đại  học  trên thế giới. Trong Giáo  Hội Công Giáo,  ngược lại, danh  xưng Tiến Sĩ (Hội Thánh), bắt nguồn  từ nguyên  ngữ Latin “docere” có nghĩa là dạy dỗ.  Danh  hiệu  này được trao tặng cho các vị  mà  nay đã  được phong  thánh, vì có đời sống thánh  thiện  và  có tác phẩm hay bài viết, bài giảng góp phần quan  trọng cho việc học hỏi  các  chân  lý  đức tin  vững  chắc và con đường nên  thánh.

Nghĩa là, các Thánh Tiến Sĩ  là những  người, khi còn sống,  không  những đã có đời  sống   thánh  thiện,  có  linh đạo (spirituality) sâu  sắc  và có ít nhiều chứng từ  để  lại với nội dung dạy dỗ  và   bảo vệ đức tin chân  chính, cũng như  chỉ dẫn con đường   nên thánh, đáng làm  khuôn vàng  thước  ngọc cho mọi  người  trong Giáo  Hội  noi  theo để  được  nên  thánh  và  sống  hạnh   phúc đời  đời với  Thiên Chúa trên Nước Trời.

Như thế, các Thánh Tiến sĩ cũng  là các  thầy dạy  đức tin vững chắc, tức là dạy con đường  nên thánh   với gương sống thánh  thiện  của các ngài cho  mọi người  trong Giáo Hội   noi theo để  được  nên  thánh như  các ngài.

Cụ thể, thánh Thérèse  Giêsu  Hài Đồng (Thérèse of Lísieux, 1873-1897) mới có 15 tuổi, chưa học hết   bậc  trung học, và  đã được  đặc  cách  thâu  nhận vào   Dòng  kín Lisieux ( Pháp ) năm 1888. Nhưng  sau chín  năm  sống ở đây  và mất  năm 1897  khi   mới 24 tuổi,  đã để  lại cho Giáo Hội một di sản thiêng liêng  hiêm quý. Vì thế,  bà  đã  được phong Tiến Sĩ  Hội Thánh  năm 2000,  vì Giáo Hội  nhìn  nhận con đường tu đức  đơn sơ nhưng  sâu sắc và gương  sống  thánh thiên,  khiêm  nhu  của bà,  đáng  làm  khuôn  mẫu  cho mọi  người  trong Giáo Hội  noi theo  để  được  nên  thánh  bằng “con đường thiêng liêng nhỏ bé (Little Way)” mà bà đã sống   và thực hành  suốt  9 năm  trong  Dòng  kín Lisieux.

Như vậy, các Thánh Tiến Sĩ  không  phải là những  người,  khi còn  sống,   đã  dạy  những  kiến thức  của người  đời  mà  là dạy con đường  nên thánh với  gương  sống và ảnh  hưởng tinh  thần  có sức  lôi  kéo  người khác  học  theo để nên  thánh,  nên  trọn lành  như Chúa Giêsu  đã  kêu gọi “Anh  em hay nên hoàn thiện  như Cha anh  em trên Trời là Đấng hoàn  thiện.” (Mt 5: 48) 

Danh xưng Tiến Sĩ Hội Thánh phải được Đức Thánh Cha hay một Công  Đồng Đại  kết  (ecumenical Council)  nhìn  nhận và công  bố cho toàn Giáo Hội  học hỏi  và noi  theo để  sống và thực hành   đức tin  tinh tuyền cùng  với  đời sống thánh thiện    mà Chúa Kitô đã giảng dạy và được lưu truyền  từ các Thánh Tông Đồ cho đến các  thế hệ  tiếp theo trong  Giáo Hội.

Về phía Tây phương, có bốn Thánh Tiến Sì  được tuyên phong năm 1298 là các Thánh Ambrose  thành Milan (Ý), Thánh Jerome, Thánh  Augustine of Hippo và Gregory the Great   thuộc Giáo Hội Phương Tây. Bên  Đông  phương, cũng có bốn vị được tuyên  phong năm 1568  là các thánh Athanasius, John Chrysotom (Miệng Vàng), Basil the Great và Gregory of  Nazianus.

Sau đây là danh sách các Thánh Tiến Sĩ Hội Thánh  xếp theo thứ  tự thời gian sống:

1. Thánh Athanasiô, giám mục thành Alessandria (296-373) người đã bênh vực thần tính của Chúa Giêsu chống lại Ông ARIO, và là một trong những vị thánh tiến sĩ nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương. Lễ kính ngày 02.5.

2. Thánh Ephrem của Syria (306-373), phó tế, rất giỏi về Kinh Thánh và việc mục vụ, tác giả của nhiều ca vịnh và của tập sách có tựa đề là “Chú Giải Kinh Thánh”. Lễ kính ngày 09.6.

3. Thánh Hilariô thành Poitiers (315-367), giám mục và đã dấn thân chống lại lạc giáo của Ario, trong tập sách nổi tiếng của ngài có tựa đề là “Bàn Về Thiên Chúa Ba Ngôi” (De Trinitate). Lễ kính ngày 13.01.

4. Thánh Cyrillô thành Giêrusalem (315-386), nhà hùng biện lỗi lạc. Lễ kính ngày 18.3.

5. Thánh Grêgôriô Nazianzênô (329-389), sinh tại Nazianzo vùng Cappadocia, nhà thần học nổi danh, có công giải thích những mầu nhiệm Kitô một cách sâu xa. Lễ kính ngày 02.01.

6. Thánh Basiliô thành Cesarea (330-379), giám mục, người có công tổ chức lại tinh thần đan viện đông phương. Lễ kính ngày 02.01.

7. Thánh Giêrônimô thành Stridône (335-420), linh mục, người đã có công dịch Kinh Thánh ra tiếng latinh, được gọi là bản Phổ Thông (Vulgata) tiếng Latinh. Lễ kính ngày 30.9.

8. Thánh Ambrôsiô thành Milanô (339-397) Tổng giám mục Milanô. Lễ kính ngày 07.12.

9. Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407), nhà hùng biện có tài, dám chống lại Hoàng đế của Constantinopoli lúc đó theo lạc giáo của Ario, nên thánh nhân bị đày và chết trong cảnh bị đày. Lễ kính ngày 13.9.

10. Thánh Augustinô (354-430), giám mục của Ippona, Bắc Phi, thần học gia và triết gia, tác giả của nhiều sách nổi tiếng, trong đó có hai tập sách “Confessions” (Tuyên Xưng) và “Thành Trì của Thiên Chúa” (City of God), được nhiều người biết đến. Lễ kính ngày 28.8.

11. Thánh Cyrillô giám mục Alexandria (376-444), một trong những người có công tổ chức Công Đồng Êphêsô vào năm 431, và chống lại bè rối của Nestorio. Lễ kính ngày 27.6.

12. Thánh Lêô Cả (400-461), giáo hoàng. Lễ kính ngày 10.10.

13. Thánh Phêrô Kim Ngôn (380-450), giám mục, nổi tiếng về những bài giảng và những bài viết về Thiên Chúa Ba Ngôi. Lễ kính ngày 30.7.

14. Thánh Grêgôriô Cả (540-604), giáo hoàng, có công canh tân phụng vụ, cỗ võ đời sống đan viện và những hoạt động truyền giáo. Lễ kính ngày 03.9.

15. Thánh Isiđôrô giám mục Siviglia (560-636), người có công tổ chức lại Giáo Hội Công Giáo Tây Ban Nha thời đó. Lễ kính ngày 04.4.

16. Thánh Bêđa khả kính (673-735), thầy dòng Biển Ðức, người Anh. Lễ kính ngày 25.5.

17. Thánh Gioan Ðamascênô (676-749), linh mục, có công áp dụng triết học của Aristote để giải thích giáo lý công giáo. Lễ kính ngày 04.12.

18. Thánh Phêrô Đamianô (1007-1072), tu sĩ, sau được bổ nhiệm làm giám mục, được thăng tước Hồng Y, đại diện Ðức Giáo Hoàng trong nhiều Công Nghị. Lễ kính ngày 21.02.

19. Thánh Anselmô thành Aosta (1033-1109), Ðan viện phụ, giám mục, sang truyền giáo tại Canterbury, Anh Quốc. Lễ kính ngày 21.4.

20. Thánh Bernarđô (1190-1153), người Pháp, viện phụ Citeaux, người có công canh tân dòng Xitô. Lễ kính ngày 20.8.

21. Thánh Hildegard thành Bingen (1098-17.9.1191), nữ tu, người Đức. Lễ kính ngày 17.9.

22. Thánh Antôn Pađova (1195-1231), tu sĩ Phanxicô. Lễ kính ngày 13.6.

23. Thánh Albertô Cả (1205-1280), người Ðức, tu sĩ dòng Ðaminh, sau được bổ nhiệm làm giám mục, thầy dạy Thánh Tômasô Aquinô. Lễ kính ngày 15.11.

24. Thánh Bonaventura (1217-1274), tu sĩ Phanxicô, sau được bổ nhiệm làm giám mục, rồi hồng y. Lễ kính ngày 15.7.

25. Thánh Tôma Aquinô linh mục (1225-1274), tác giả của tập Summa Teologica (Tổng Luận Thần Học). Lễ kính ngày 28.01.

26. Thánh nữ Catarina Siêna (1347-1380), người Italia, tu sĩ dòng nữ Ða Minh, có công hiệp nhất giáo hội bị chia rẻ lúc đó. Lễ kính ngày 29.4.

27. Thánh Gioan Avila (1500-10.5.1569), linh mục, Tây Ban Nha. Lễ kính ngày 10.5.

28. Thánh nữ Têrêsa Giêsu thành Avila (1515-1582), nguời Tây Ban Nha, người có công canh tân dòng Carmêlô. Lễ kính ngày 15.10.

29. Thánh Gioan thánh giá (1542-1591), người Tây Ban Nha, cộng tác với thánh Têrêsa thành Avila, để canh tân dòng nam Carmêlô. Lễ kính ngày 14.12.

30. Thánh Phêrô Canisiô (1521-1597), người Hòa Lan, linh mục dòng tên. Lễ kính ngày 21.12.

31. Thánh Roberto Bellarmino (1542-1621), người Ý, tu sĩ dòng tên, sau được bổ nhiệm làm giám mục và hồng y. Lễ kính ngày 17.9.

32. Thánh Laurensô Brindisi (1559-1619), linh mục capucin, đi rao giảng khắp Âu Châu, và qua đời tại Lisbon. Lễ kính ngày 21.6.

33. Thánh Phanxicô Salêsiô (1567-1622), giám mục Genève, Thụy Sĩ. Lễ kính ngày 24.01.

34. Thánh Anphongsô Maria Liguori (1696-1787), người Ý, sinh tại thành Napoli, giám mục, sáng lập dòng Chúa Cứu Thế, chuyên môn về thần học luân lý. Lễ kính ngày 01.8.

35. Thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu và Nhan Thánh (Têrêsa thành Lisieux, 1873-1897), người Pháp, nữ tu dòng kín Camêlô tại Lisieux. Lễ kính ngày 01.10.

Chúng  ta cầu  xin  cùng các Thánh Giáo Phụ và Tiến Sĩ  cách riêng  phù  trợ chúng ta trong đời  sống  thiêng liêng  và noi  gương các  ngài  để trở  nên  thánh, vì Cha chúng ta ở trên trời  là Đấng Thánh”.
 
—————————————-

Ngày 7-10-2012, Đức Bênêđictô XVI tôn phong Thánh Gioan Avila và Thánh nữ Hildegard von Bingen là Hai vị Tiến Sĩ thứ 34 và 35 của Hội Thánh