BỘ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ CÁC TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ
CĂN TÍNH VÀ SỨ MẠNG CỦA TU HUYNH TRONG GIÁO HỘI
“Tất cả đều là anh em với nhau” (Mt 23,8)
Vaticanô, 04.10.2015
Lễ thánh Phanxicô Assisi
MỤC LỤC
DẪN NHẬP
1. Tu huynh
2. Văn kiện này nhằm đến ai
3. Khung cảnh của việc suy tư
4. Cấu trúc của văn kiện
1. TU HUYNH TRONG GIÁO HỘI HIỆP THÔNG
“Ta đã chọn ngươi làm giao ước với muôn dân” (Is 42,6)
5. Một khuôn mặt cho giao ước
6. Hiệp thông với Dân Thiên Chúa
7. Ký ức sống động cho nhận thức của Giáo hội
8. Tái khám phá kho tàng chung
9. Một dự án đổi mới
10. Phát triển kho tàng chung
11. Người anh em: một kinh nghiệm Kitô giáo thuở ban đầu
2. CĂN TÍNH TU HUYNH: Mầu nhiệm của hiệp thông cho sứ mạng
12. Ký ức về tình yêu của Đức Kitô: “cũng như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15)
I. MẦU NHIỆM: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ CHÚNG TA LÃNH NHẬN
13. Chứng tá và trung gian: “Chúng tôi đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa”
14. Được thánh hiến bởi Thánh Linh
15. Cam kết công khai: Làm cho khuôn mặt của Anh Giêsu tỏa sáng hôm nay
16. Thi hành chức tư tế của bí tích Thánh tẩy
17. Giống như anh em trong hết mọi sự
18. Tuyên hứa: một sự thánh hiến duy nhất nhưng được diễn tả bằng những lời khấn khác biệt
19. Một linh đạo nhập thể và hiệp nhất
20. Một linh đạo của Lời để sống mầu nhiệm “ở trong nhà” với Mẹ Maria
II. HIỆP THÔNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ ĐỂ CHIA SẺ
21. Từ món quà nhận được đến món quà được chia sẻ: “Xin cho tất cả nên một ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17,21)
22. Cộng đoàn thi hành chức tư tế của bí tích Thánh tẩy
23. Tình huynh đệ thừa tác: “nguồn mạch và hoa trái của sứ mạng”
24. Hiệp thông huynh đệ và đời sống chung
25. Tình huynh đệ và các lời khuyên Tin Mừng: một dấu chỉ ngược dòng.
26. Cộng đoàn luôn tìm kiếm
III. SỨ MẠNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ ĐỂ TRAO TẶNG
27. Đời sống như là tình huynh đệ với những người bé mọn: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta” (Mt 25:40)
28. Tham dự vào tác vụ của Đức Giêsu, “Người Mục tử Nhân Lành”
29. Sứ mạng dẫn tới nguồn mạch: “Hãy đến mà xem”
30. Sứ mạng của tình huynh đệ, tìm kiếm người anh em thất lạc
31. Dấu chỉ của một Vương quốc tìm kiếm ơn cứu độ toàn diện cho con người.
3. LÀM TU HUYNH HÔM NAY: MỘT CÂU CHUYỆN CỦA ÂN SỦNG:
“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9)
32. Một câu chuyện trở nên một lịch sử cứu độ
33. Ai là anh em tôi ?
34. Thiết lập nền móng : đào tạo sơ khởi
35. Nuôi dưỡng niềm hy vọng : đào tạo thường xuyên
36. Hồi phục những vị thầy của đời sống và hy vọng
37. Những ngôn sứ cho thời đại chúng ta
38. Trong gia đình : cách thức thể hiện mới của Giáo hội
39. Rượu mới trong bầu da mới
40. Sợi chỉ của câu chuyện : “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
———————————-
DẪN NHẬP
Tu huynh
1. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, đời sống thánh hiến gồm thành phần chủ yếu là các giáo dân, những người nam và nữ thể hiện sự khao khát sống cách triệt để những gì Tin mừng đòi hỏi nơi tất cả những ai đi theo Đức Giêsu. Kể cả ngày nay, đại đa số những người sống đời thánh hiến, – cả nam lẫn nữ -, là giáo dân.
“Tu huynh” là tên gọi truyền thống dành cho Nam tu sĩ[1] trong Giáo hội từ lúc khởi đầu đời sống thánh hiến. Dĩ nhiên, tên gọi này không chỉ dành riêng cho họ, nhưng nó truyền đạt cho cộng đoàn Hội thánh mà anh là phần tử một vai trò làm ký ức ngôn sứ cho Đức Giêsu – là Người Anh đã nói với các môn đệ: “Tất cả các con đều là anh em với nhau” (Mt 23,8)[2]
Theo Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu nói lời này trong bối cảnh Người chống lại thói đạo đức giả của những kẻ lợi dụng tôn giáo để mưu cầu tư lợi và vinh quang trước mắt loài người. Nhưng giá trị của lời này còn đi xa hơn bối cảnh cụ thể của nó. Thật vậy, danh xưng anh em / chị em đề cao phẩm giá chung và bình đẳng của tất cả các tín hữu. Họ là những người con trong Người Con của cùng một Cha trên trời (Mt 5, 45), được mời gọi để hình thành một tình huynh đệ đại đồng trong Đức Kitô, người anh cả của mọi người (x. Rm 8, 29).
Mặc dù Huấn thị này bàn trực tiếp về đời sống và sứ mạng của các Tu huynh, nhưng nhiều vấn đề được thảo luận ở đây, – chẳng hạn sự tham gia vào mầu nhiệm hiệp thông, tình huynh đệ hoặc vai trò ngôn sứ của đời sống chứng tá và phục vụ -, cũng được áp dụng cho cả đời sống và sứ mạng của các người nam và các người nữ sống đời thánh hiến.
Các nam nữ tu sĩ, bằng sự tham dự vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và Giáo Hội, là lời nhắc nhở thường xuyên cho tất cả các Kitô hữu về việc cần phải dâng trót cả cuộc đời như món quà hiến dâng cho Thiên Chúa. Các người tận hiến cũng nhắc nhở rằng sứ mạng của Giáo hội chỉ là một và được chia sẻ cho nhiều người, tuy vẫn tôn trọng sự khác biệt của các ơn gọi và tác vụ khác nhau. Tuy vậy, chúng ta nhận thấy rằng ơn gọi Tu sĩ (nam cũng như nữ) đã không luôn luôn được hiểu đúng và trân trọng trong Giáo Hội.
Suy tư dưới đây ước mong góp phần vào việc quý trọng vẻ phong phú của các ơn gọi khác nhau, – cách riêng nơi các người nam sống đời thánh hiến-, và làm sáng tỏ căn tính của các Tu huynh cũng như giá trị và sự cần thiết của ơn gọi này.
Văn kiện này nhắm đến ai
2. Các tu huynh hiện nay chiếm một phần năm trong tất cả các người nam sống đời thánh hiến trong Giáo hội. Một số thuộc các hội dòng giáo sĩ ; số khác ở những hội dòng hỗn hợp. Số khác nữa gia nhập hội dòng tu huynh, cũng được gọi là Hội Dòng Anh Em[3], gồm tất cả (hoặc hầu hết) các thành viên là Tu sĩ Giáo Dân. Văn kiện này nhắm trực tiếp đến tất cả những người này, với hy vọng rằng nó sẽ giúp họ củng cố ơn gọi của mình.
Xét vì có những điểm giống nhau giữa ơn gọi nữ tu và nam tu, nên những gì được đưa ra bàn ở đây cũng dễ dàng áp dụng cho các nữ tu nữa.
Văn kiện này cũng hướng đến các giáo dân, linh mục tu sĩ, linh mục giáo phận, giám mục và tất cả những ai muốn tìm hiểu, đánh giá và cổ vũ ơn gọi Tu huynh trong Giáo Hội.
Khung cảnh cho việc suy tư
3. Tông huấn Đời sống Thánh Hiến của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được sử dụng làm bộ khung cho suy tư đặc biệt về Tu huynh, và chúng tôi tham chiếu Tông huấn này cho tất cả các đặc điểm chung làm nên căn tính của đời sống thánh hiến. Chúng tôi chỉ nhắm trình bày ở đây những điều đặc trưng và riêng biệt của ơn gọi này, mặc dù không thể nào tránh khỏi việc quy chiếu về đời thánh hiến nói chung, cũng như các văn kiện kể từ Công Đồng Vaticanô II trình bày về đời thánh hiến trong khung cảnh của Giáo hội hiệp thông [4].
Nhiều đặc tính trước đây được vạch ra như là đặc thù hoặc thậm chí dành riêng cho đời thánh hiến thì ngày nay được nhìn nhận là thuộc về kho tàng chung của Giáo hội và được đề nghị cho tất cả các tín hữu. Ngày nay các tu sĩ được thách đố phải nhận ra căn tính của chính mình khi nhận ra trong cái chung với mọi người điều gì được sống theo hình thức riêng biệt của mình, để rồi từ đó trở nên dấu chỉ cho mọi người.
Sơ đồ của văn kiện này
4. Trước tiên chúng tôi giới thiệu Tu huynh trong Giáo hội-Hiệp thông, như là một phần của đoàn Dân duy nhất được Tuyển chọn, trong đó mỗi người được mời gọi tỏa chiếu sự phong phú ơn gọi đặc biệt của mình.
Tiếp đến là dựa theo ba chiều kích mà Giáo hội hiệp thông giới thiệu chính mình[5], chúng tôi sẽ phát triển căn tính các Tu huynh như mầu nhiệm hiệp thông cho sứ mạng. Cốt lõi của căn tính các Tu huynh nằm ở trung tâm của ba viễn ảnh đó : tình huynh đệ là món quà được lãnh nhận (mầu nhiệm), món quà được chia sẻ (hiệp thông) và món quà được trao ban (sứ mạng).
Cuối cùng, chúng tôi sẽ đề xuất một vài hướng dẫn ngõ hầu, ở khắp nơi trên thế giới, mỗi cộng đoàn và mỗi Tu huynh có thể trả lời câu hỏi này: làm thế nào trở nên người anh em trong thời đại hôm nay ?
1. CÁC TU HUYNH TRONG GIÁO HỘI HIỆP THÔNG
“Ta đã chọn ngươi làm giao ước với muôn dân” (Is 42, 6)
Một khuôn mặt cho giao ước
5. Nhờ Thần khí lễ Ngũ Tuần thúc đẩy, cuộc canh tân của Công đồng Vaticanô II đã giúp cho Giáo Hội làm nổi bật cốt lõi của bản chất của mình, được mặc khải như là mầu nhiệm hiệp thông[6]. Mầu nhiệm này là kế hoạch Thiên Chúa cứu độ nhân loại[7], được thực hiện trong lịch sử của giao ước.
Nguồn mạch của mầu nhiệm này không phải bởi chính Giáo hội nhưng là bởi Thiên Chúa Ba Ngôi, trong sự hiệp thông của Chúa Con với Chúa Cha trong sự trao ban Thánh Linh. Sự hiệp thông này là kiểu mẫu, nguồn mạch và cùng đích sự hiệp thông của các Kitô hữu với Đức Kitô; và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau[8].
Đời thánh hiến, “nằm ngay giữa lòng Giáo hội như một yếu tố quyết định đối với sứ mạng của Giáo hội”[9], phải nhìn vào đó để khám phá và hiểu biết chính mình. Các Tu huynh sẽ tìm thấy nơi đây ý nghĩa sâu xa ơn gọi của mình. Trong sự chiêm ngắm này, họ được truyền cảm hứng từ gương mặt của người Tôi Trung của Giavê được ngôn sứ Isaia mô tả. Thiên Chúa nói với ông : “Ta đặt ngươi làm giao ước với muôn dân” (Is 42,6). Gương mặt này hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu Nazareth, Người dùng máu của mình để ký kết giao ước mới và mời gọi những ai tin vào Người hãy tiếp tục nhiệm vụ trung gian được giao phó cho người Tôi tớ: trở thành giao ước với muôn dân.
Căn tính làm trung gian của người Tôi Trung vừa mang một ý nghĩa cá nhân cũng như cộng đoàn, bởi vì nó liên quan tới phần còn sót lại của Israel, dân thiên sai, mà Công đồng nói là: “được Đức Kitô thiết lập để trở thành sự hiệp thông của sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất.” (x. Mt 5, 13-16)[10]
Cảm nghiệm mình được thông dự vào dân này và vào sứ mạng của nó, các Tu huynh sống ơn kêu gọi làm ký ức của giao ước qua sự thánh hiến bản thân cho Thiên Chúa trong đời sống huynh đệ cộng đoàn hướng tới sứ mạng[11]. Nhờ thế, họ làm sáng tỏ hơn sự hiệp thông mà tất cả Dân Thiên Chúa được mời gọi để thực hiện
Hiệp thông với Dân Thiên Chúa
6. Được Thánh Linh hướng dẫn, ngày nay Giáo Hội ý thức sâu xa rằng mình là Dân Thiên Chúa, trong đó tất cả mọi người đều có cùng chung một phẩm giá nhờ bí tích Thánh tẩy[12], tất cả đều có ơn gọi chung là nên thánh[13], và tất cả đều chia sẻ trách nhiệm loan báo tin mừng[14]. Mỗi người theo ơn gọi, đặc sủng và chức vụ của mình, trở thành dấu chỉ cho tất cả những người khác[15]. Chính trong đoàn dân của những người được thánh hiến này mà nảy sinh và được tháp nhập đời sống thánh hiến (gồm cả các tu sĩ giáo dân), bằng một sự thánh hiến mới và đặc biệt, phát triển cùng đào sâu ơn thánh hiến của bí tích Thánh tẩy[16]. Đời sống thánh hiến tham gia “một cách đặc biệt vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô, mà Thánh Linh ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa”[17]; đời sống này thể hiện đặc sủng riêng biệt của mình trong mối tương quan và liên tục với các đặc sủng khác trong Giáo hội; đời sống này kết hợp với sứ mạng của Giáo hội và cùng chia sẻ với các tín hữu khác.
Các Tu huynh tìm thấy môi trường sinh sống tự nhiên của họ trong bối cảnh hiệp thông này, nhờ việc thuộc về Dân Thiên Chúa; họ cũng hiệp nhất với tất cả mọi người, nhờ ơn thánh hiến tu trì, phản ánh bản chất của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông. Trong Giáo Hội, họ bảo tồn “nghĩa vụ huynh đệ như một tuyên xưng về Thiên Chúa Ba Ngôi”[18].
Các mối dây hiệp thông của Tu huynh trải rộng ra ngoài phạm vi Giáo Hội, bởi vì chúng được thúc đẩy bởi cùng một “đặc tính phổ quát sáng chói nơi Dân Thiên Chúa”[19]. Ơn gọi Tu huynh là một phần lời đáp trả mà Thiên Chúa dành cho thế giới hôm nay đang bị sút giảm tình huynh đệ. Cội rễ của ơn gọi Tu huynh nằm ở cảm nghiệm sâu xa về tình liên đới, giống như trường hợp ông Môsê trước bụi gai bốc cháy: ông khám phá ra chính mình là mắt, là tai, là trái tim của Thiên Chúa, vị Thiên Chúa thấy dân Người bị áp bức, nghe tiếng kêu than của họ, cảm thương nỗi thống khổ của họ và xuống để giải thoát họ. Trong trải nghiệm sâu đậm đó, Tu huynh nghe thấy lời mời gọi : “Ngươi hãy đi, Ta sai ngươi đến với vua Pharaô để đưa dân Ta ra khỏi Ai Cập” (x. Xh 3, 7-10). Vì thế, ở nơi Tu huynh, chiều kích hiệp thông gắn kết chặt chẽ với sự nhạy cảm sâu sắc đối với tất cả những gì xúc phạm đến phẩm giá của những người dân thấp kém nhất; những người bị áp bức bởi các hình thức bất công khác nhau, những người bị gạt ra bên lề của lịch sử và sự phát triển, nói cho cùng, là những người ít có khả năng trải nghiệm tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa trong đời sống của họ.
Ký ức sống động cho nhận thức của Giáo Hội
7. Tác vụ đầu tiên mà các Tu huynh thể hiện trong Giáo hội trong vai trò tu sĩ là “nhắc nhớ cho những người đã được Rửa tội về các giá trị cơ bản của Tin Mừng” và “bổn phận phải đáp trả tình yêu Thiên Chúa đã được Thánh Linh đổ tràn xuống tâm hồn vào lòng (x. Rm 5,5)[20]. Tất cả mọi công việc và nhiệm vụ khác do các hình thức khác nhau của đời thánh hiến cung cấp chỉ có ý nghĩa khi được cắm rễ trên tác vụ đầu tiên này.
Chức năng làm dấu chỉ, được Công Đồng Vaticanô II[21] nhìn nhận và năng được nhấn mạnh trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến[22], là điều cốt yếu cho đời thánh hiến và xác định hướng đi của nó: nó không hiện hữu “vì mình”, nhưng là vì cộng đồng Giáo hội.
Quả vậy, đời thánh hiến, khi cho thấy cuộc đời như là chứng tá cho tính tuyệt đối của Thiên Chúa[23], cũng như là một tiến trình cởi mở với Thiên Chúa và mọi người dưới ánh sáng của Tin Mừng, là lời kêu gọi tất cả mọi tín hữu, kêu mời mỗi người hãy sẵn sàng sống cách triệt để, mở ra cho những ân ban và những tiếng gọi của Thánh Linh[24], trong những hoàn cảnh và bậc sống khác nhau.
Tình huynh đệ của các Tu huynh là một sự thôi thúc toàn thể Giáo Hội, khi đối mặt với cám dỗ muốn thống trị, muốn tìm kiếm địa vị cao nhất, hoặc thi hành quyền bính như là quyền lực, thì hãy nhớ đến giá trị Tin Mừng của các mối tương quan huynh đệ và bình đẳng: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô” (Mt 23,8-10).
Ngày nay, đối với Giáo hội, tình hiệp thông là một thách đố cấp bách trong thiên niên kỷ mới, làm thế nào để Giáo hội trở thành nhà và trường của sự hiệp thông[25]. Các Tu huynh là những cư dân hoạt động trong ngôi nhà này và đồng thời là các sinh viên cũng như thầy giáo trong trường học ấy. Vì thế, họ lãnh lấy cho mình việc thực hiện điều cấp bách mà Giáo hội đề ra: đó là nâng đỡ và thăng tiến một linh đạo hiệp thông[26].
Tái khám phá kho tàng chung
8. Các tương quan trong Giáo hội hiệp thông được thiết lập từ những gì liên kết nhau chứ không phải từ những gì phân cách. Ngày nay, chúng ta đang khám phá ý thức về gia sản chung, tựa như một kho báu to lớn làm cho chúng ta bình đẳng trong điều cơ bản, trong phẩm giá, quyền lợi và nghĩa vụ chung. Tất cả chúng ta được sinh ra trong đức tin, chúng ta gia nhập Giáo hội bằng bí tích Thánh Tẩy. Trong khuôn khổ chung này, chúng ta được mời gọi thực hiện các trách nhiệm phục vụ cộng đoàn Giáo hội, để sống cách ý nghĩa hay tính ngôn sứ một vài khía cạnh thuộc về gia sản chung, và phục vụ sứ mạng chung qua các đặc sủng và nhiệm vụ cụ thể của chúng ta.
Chiều kích căn bản này của đời sống đức tin không bao giờ rời bỏ chúng ta. Các Kitô hữu giáo dân sống chiều kích ấy theo hình thức đặc thù của đời sống giáo dân. Đối với những người được gọi vào tác vụ linh mục hoặc sống đời thánh hiến, thì chiều kích đời sống tín hữu là điểm quy chiếu thường xuyên nhắc nhở họ rằng họ thi hành tác vụ cho ai và là dấu chỉ thánh hiến cho ai.
Tu huynh, được cắm rễ trong đoàn dân Kitô hữu, nhận được những chứng tá và trợ giúp của các ơn gọi khác. Họ được mời gọi để sống cách trọn vẹn và tính ngôn sứ mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội trong đời thánh hiến, nhằm phục vụ toàn thể Dân Thiên Chúa[27].
Một dự án đổi mới
9. Đời thánh hiến, vào lúc đầu đa số là giáo dân, đề xuất như mục tiêu căn bản là chăm lo gia sản chung Kitô hữu, được lưu giữ và trao tặng cho tất cả các tín hữu trong các bí tích khai tâm. Chắc chắn đời sống đó phải được thực hiện theo cách thức đặc biệt, tìm kiếm họa ảnh Chúa Kitô trong lối sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục[28].
Trải qua thời gian, nơi các dòng tu nam giới, mục tiêu cốt yếu ấy của đời thánh hiến đã có nguy cơ tụt xuống hàng thứ yếu so với các tác vụ linh mục. Để khôi phục lại vai trò đích thực của nó, trong dòng lịch sử, Thánh Linh đã gợi lên những vị sáng lập muốn nêu bật đặc tính giáo dân trong cộng đoàn của họ. Điều này đã xảy ra trong đời sống đan tu của thánh Biển Đức, nơi mà các đan sĩ tu huynh trở thành những nhà truyền giảng Tin Mừng ở Âu Châu; đó cũng là lối sống căn bản của Thánh Phanxicô, nơi mà các Anh Em Hèn Mọn ra đời như là một dòng hỗn hợp, gồm bởi các linh mục và giáo dân. Trong cả hai trường hợp này, xu hướng tiến tới chức linh mục đã lấn lên trên dự án thành lập lúc ban đầu.
Vào thế kỷ XVI và XVII, các vị sáng lập mới đã phục hồi đời tu sĩ giáo dân. Các dòng này, ngoài việc đề cao những tương quan huynh đệ giữa các phần tử, còn xác định căn tính của mình với những nhu cầu xã hội mà họ gắng đáp ứng. Họ cũng thiết lập cộng đoàn ở trong hoặc gần những nơi mà con người đang sống trong tình trạng túng quẫn, nghèo hèn hoặc kém cỏi mà họ phải rao giảng tin mừng. Như vậy, họ du nhập và làm tỏ hiện tình yêu cứu độ của Thiên Chúa ngay từ bên trong cảnh sống con người. Những tình huynh đệ thánh hiến ấy đã làm chỗi dậy các dòng tu huynh và nữ tu. Trong số các dòng ấy, thánh Gioan Thiên Chúa và thánh Gioan Lasan, cũng như thánh Angela Merici và Mary Ward về phía nữ, đã trở thành những khí cụ của Thánh Linh, để đưa vào Giáo hội nhiều đặc sủng sáng lập mới, được phát triển trong suốt thế kỷ XIX.
Các Tu huynh, hoặc trong các đan viện, tu viện, cộng đoàn đời sống tông đồ hoặc huynh đoàn như vừa mô tả, đều nêu bật phẩm giá của việc phục vụ hay tác vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của nhân loại. Các việc phục vụ này, được kết hợp với sự thánh hiến của họ và được thi hành một cách chuyên nghiệp, đã trở thành nơi mà họ được cảm nghiệm về Thiên Chúa.
Phát triển kho tàng chung
10. Bối cảnh hiện tại của Giáo hội – hiệp thông vừa tạo điều kiện thuận tiện lại vừa đòi hỏi hơn bao giờ hết các Tu huynh phải tái xác nhận chức năng cấu thành nên đời thánh hiến, với một sự dấn thân được đổi mới, không chỉ trong cộng đoàn của mình mà cả trong toàn thể Giáo Hội nữa. Họ được kêu gọi trở thành men trong bột, như những người có khả năng hướng dẫn đời sống tâm linh[29], đồng hành huynh đệ với các tín hữu và giúp họ khám phá sự phong phú của truyền thống Kitô giáo, hoặc đơn giản là các Tu huynh chia sẻ những kinh nghiệm riêng tư của mình cho các người khác để giúp đỡ lẫn nhau.
Chúng tôi muốn nêu bật một số khía cạnh của kho tàng chung này mà các Tu huynh cam kết phát triển nó.
– Đời sống bí tích. Đời thánh hiến đặt nền tảng vững chắc trên bí tích Thánh tẩy và các bí tích khai tâm khác. Từ đó, Tu huynh thể hiện tình con thảo đối với Chúa Cha, cử hành đời sống mới đã nhận lãnh từ Chúa Phục Sinh, cảm thấy mình được gắn kết với Chúa Giêsu Kitô là Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế, và để cho Thánh Linh hướng dẫn.
– Thuộc về Dân Thiên Chúa. Tu huynh xác nhận việc thuộc về cộng đoàn tín hữu, bằng sự hội nhập vào Giáo hội địa phương, và vào các cơ cấu hiệp thông và tông đồ, phù hợp với đặc sủng của mình. Tu huynh cũng xác nhận việc thuộc về cộng đồng nhân loại, cảm thấy liên đới với tất cả mọi nhu cầu của họ, đặc biệt với những người thấp bé và dễ bị tổn thương: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ… không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”[30].
– Kết hợp nơi bản thân tính phàm tục và linh thánh. Tu huynh kết hợp cả hai khía cạnh này nơi bản thân mình. Như thế, họ duy trì sự hiệp nhất giữa thế tục và thánh thiêng, một sự hiệp nhất đã trở thành hiển nhiên nơi cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa.
– Dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi các thực tại trần thế. Tu huynh đảm nhận những tác vụ của Giáo hội cùng với các anh em cùng dòng và với các tín hữu cùng tham dự vào đặc sủng của đấng sáng lập. Qua việc dấn thân này, họ tìm kiếm và cho thấy Thiên Chúa hiện diện trong những thực tại trần thế tựa như văn hóa, khoa học, sức khỏe con người, thế giới lao động, chăm sóc các người yếu đuối và chịu thiệt thòi. Đồng thời, họ cũng tìm kiếm và khám phá con người, cả nam lẫn nữ, trong tính “duy nhất và toàn diện, với thể xác và linh hồn, tình cảm và lương tri, trí khôn và ý chí”, trong niềm xác tín rằng “cần phải cứu vớt con người, cần phải xây dựng xã hội lòai người”[31].
– Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Tu huynh vun trồng sự hiệp thông huynh đệ trong đời sống chung và dự phóng sự hiệp thông như là cách thế hiện hữu trong các tương quan bên ngoài cộng đoàn. Dựa vào những kinh nghiệm nòng cốt về ơn gọi của mình, những cảm nghiệm cá nhân với Chúa Giêsu là người Con yêu dấu của Chúa Cha, họ sống giới răn mới của Chúa như là trọng tâm của cuộc sống và như là cam kết đầu tiên của đời thánh hiến.
– Chia sẻ đoàn sủng. Tu huynh ý thức được sự phong phú chứa đựng trong đoàn sủng nền tảng của mình, và họ chia sẻ đoàn sủng cho các giáo dân khác, để cho những người này có thể sống đoàn sủng theo lối sống riêng của họ[32]. Tu huynh chấp nhận để trở nên khí cụ của Thánh Linh trong việc thông truyền đoàn sủng và đảm nhận trách nhiệm làm ký ức sống động của đấng sáng lập. Như thế, đoàn sủng vẫn giữ được sự phong phú của Tin Mừng để xây dựng Giáo hội, thiện ích của con người và nhu cầu của thế giới[33].
Trong khi phát triển kho tàng chung, Tu huynh nhận thức chính mình là anh em với các Kitô hữu và nghe trong tâm khảm tiếng gọi của Chúa dành tôi tớ cho Người, “Ta đã chọn ngươi làm giao ước với muôn dân” (Is 42, 6). Ơn gọi này mang ý nghĩa cho cả đời sống và hoạt động của họ, nó biến đổi họ thành ngôn sứ giữa các anh em của mình, và, nhờ vào đó, họ sống đời thánh hiến trong một cộng đoàn truyền giáo và loan báo tin mừng.
Người anh em: một kinh nghiệm Kitô giáo thuở ban đầu
11. “Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới hãy cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ. Hãy làm cho mọi người thán phục vì anh chị em chăm lo cho nhau, khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau: ‘Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy: các con’(Ga 13, 35)”[34]. Lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi đến toàn thể các Kitô hữu nêu bật vị trí quan trọng của tình huynh đệ trong toàn bộ gia sản Kitô giáo. Đó là viên ngọc mà Tu huynh phải chú ý mài giũa. Nhờ thế, đối với cộng đoàn Giáo hội, họ là ký ức ngôn sứ về nguồn gốc của Giáo hội và khích lệ mọi người hãy quay về với nguồn mạch.
Sách Công vụ Tông đồ trình bày Giáo hội sơ khai như một cộng đoàn các môn đệ với sứ mạng công bố ơn cứu độ và làm chứng về Đấng Phục Sinh ; họ tìm thấy sức mạnh trong Lời Chúa, trong việc bẻ bánh, trong cầu nguyện và trở thành anh chị em với nhau. Các môn đệ là anh chị em với nhau; đây là dấu chỉ họ là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng họ là anh em với nhau không do chọn lựa cá nhân nhưng bởi vì được quy tụ. Họ được kết hợp với nhau trước khi được sai đi.
Tình huynh đệ là nguồn sức mạnh cho sứ mạng, nhưng nó được dựa trên sức mạnh khác: Thánh Linh. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Linh hiện xuống trên các anh em đang họp nhau cầu nguyện và sai họ đi làm chứng nhân (Cv 2,1tt). Hơn nữa, Thánh Linh xuống trên anh em đoàn tụ cầu nguyện để nâng đỡ nhau sau khi ông Phêrô và Gioan bị bắt và được thả ra; Thánh Linh đổ tràn sức mạnh trên họ để họ can đảm rao giảng Lời Chúa (Cv 4,23tt). Trình thuật của sách Công vụ tông đồ cho chúng ta thấy rằng cộng đoàn các môn đệ dần dần nhận thức ra tình huynh đệ và sứ mạng gắn chặt với nhau, và cả hai đều được tăng trưởng nhờ sự sự thúc đẩy hoặc đòi hỏi của Thánh Linh. Đây là động lực được thiết lập: việc vun trồng tình huynh đệ tạo ra ý thức lớn hơn về sứ mạng và việc thi hành sứ mạng sẽ thăng tiến tình huynh đệ.
Sự thúc đẩy của Thánh Linh điều chỉnh và đổi mới sứ điệp đó trong Giáo hội, đặc biệt trong khung cảnh của đời thánh hiến. Vì thế Thánh Linh khơi dậy sự hiện diện của các Tu huynh trong các dòng tu giáo sĩ. Sự hiện diện của họ là quan trọng, không chỉ là một sự đóng góp về mặt vật chất và những nhu cầu khác, nhưng nhất là bởi vì trong những dòng này, các Tu huynh là ký ức thường xuyên của “chiều kích căn bản của tình huynh đệ trong Đức Kitô”[35] mà mọi thành viên cần phải kiến tạo. Cùng vì một lý do ấy, Thánh Linh cũng gợi lên các Hội Dòng Tu Huynh, cùng với các Hội dòng Chị em nữ tu. Tất cả các Hội Dòng này gợi lên thường xuyên trong Giáo Hội những giá trị cao cả của tình huynh đệ và sự trao hiến bản thân như là biểu hiện tuyệt vời của sự hiệp thông.
Tên gọi “các Tu huynh” nói lên rằng sứ mạng căn bản mà các Tu sĩ này đảm nhận trong đời sống của họ : “Các tu sĩ này được kêu gọi trở thành những người anh em của Đức Kitô, kết hợp sâu xa với Người, “trưởng tử giữa một đoàn anh em đông đúc” (Rm 8, 29); trở thành anh em với nhau trong tình yêu mến nhau và trong việc cộng tác với nhau trong cùng một công việc phục vụ để mưu ích cho Giáo hội ; trở thành anh em của mỗi người bằng việc làm chứng tá về tình thương của Đức Kitô đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người nhỏ bé và những người nghèo túng nhất; trở thành anh em để đạt tới một tình huynh đệ rộng lớn hơn trong Giáo hội”[36].
2. CĂN TÍNH TU HUYNH:
Mầu nhiệm của hiệp thông cho sứ mạng
Ký ức về tình yêu của Chúa Kitô: “cũng như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:14-15)
12. Để đào sâu căn tính của Tu huynh, chúng ta hãy để cho mình được soi sáng bằng việc chiêm ngắm một trong những bức icôn ấn tượng nhất của tất cả bốn Tin Mừng: Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ.
Trình thuật tin mừng Thánh Gioan về bữa Tiệc ly mở đầu với tuyên bố trang trọng như sau: “Đức Giêsu… vốn yêu thương những người thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Bữa tiệc ly của Đức Giêsu với các môn đệ diễn ra trong một khung cảnh di chúc: Chúa Giêsu muốn mời gọi các môn đệ, và qua họ, toàn thể Giáo Hội, tiếp tục sứ vụ cứu độ mà tuyệt đỉnh là cái chết của Người trên thập giá nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời, đã được diễn tả trong câu trả lời cho các môn đệ ông Gioan: “Hãy về và kể cho ông Gioan điều các anh đã thấy và đã nghe: kẻ mù được sáng mắt, người què đi được, người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe tin mừng cứu độ” (Lc 7,22).
Bởi vậy Giáo hội cảm nhận mình được thiết lập như là đoàn dân phục vụ theo mệnh lệnh của Đức Giêsu. Các sách Tin mừng trình bày sự thiết lập tác vụ Giáo hội qua hai biểu tượng. Tin Mừng Nhất lãm chọn icôn Chúa Giêsu bẻ bánh và trao Mình – Máu của Người cho các môn đệ, đang khi trao cho họ trọng trách này: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19). Còn Tin Mừng Gioan trình bày cho chúng ta icôn Đức Giêsu lấy khăn thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ, và sau đó Người căn dặn họ: “anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã để lại cho anh em một gương mẫu, ngõ hầu anh em cũng làm như Thầy” (Ga 13, 14 – 15).
Trong cảm thức của Giáo hội, nhờ bức icôn rửa chân cho các môn đệ mà bức icôn Chúa Giêsu phân phát Mình và Máu của Người tìm thấy ý nghĩa đầy đủ. Mệnh lệnh thực thi tình huynh đệ cho chúng ta chìa khóa để hiểu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể trong Giáo hội. Phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh diễn tả điều ấy.
Di chúc mà Giáo hội lãnh nhận từ Chúa Giêsu có liên quan đến hai khía cạnh hoặc hai chiều kích của tác vụ cứu độ, được thể hiện trong Giáo hội qua các tác vụ riêng biệt khác nhau. Một mặt, qua chức tư tế thừa tác, được thiết lập bằng một bí tích đặc thù, Giáo hội đảm bảo sự trung thành với ký ức của sự hiến tế của Đức Giêsu, của cái chết và phục sinh của Người, ký ức này được hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Mặt khác, chính Thánh Linh khơi dậy nơi các tín hữu ký ức về Đức Giêsu trong tư cách của người phục vụ, và mệnh lệnh cấp bách của Người: “qua đó mọi người nhận thấy anh em là môn đệ Thầy” (Ga 13, 35).
Vì lý do đó, nhiều đặc sủng đã được gợi lên giữa các tín hữu, ngõ hầu phát triển sự hiệp thông nhờ sự phục vụ huynh đệ. Nhờ vậy ơn cứu độ được mang đến cho người chịu thiệt thòi nhất: để người mù được thấy, người què được đi, người bị giam được giải thoát, người trẻ được giáo dục, bệnh nhân và người già được chăm sóc… Nhờ vậy tình huynh đệ được thực thi cách cụ thể qua muôn vàn công tác phục vụ, trong đó một số công tác trở thành thiết định và được nhìn nhận như tác vụ của Giáo hội[37].
Đời sống thánh hiến phát sinh trong Giáo hội như là sự đáp trả tiếng Thánh Linh mời gọi hãy trung thành duy trì ký ức về tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương những kẻ thuộc về Người cho đến cùng[38]. Lời đáp trả này được diễn tả bằng nhiều hình thức nhưng tựu trung đặt nền tảng trên việc lựa chọn “hiến thân vì lòng yêu mến Chúa Giêsu, và trong Người, yêu mến hết mọi thành viên của gia đình nhân loại”[39].
Ơn gọi và căn tính của các Tu huynh mặc lấy ý nghĩa trong động lực này, động lực vừa bao hàm vừa bổ sung những tác vụ khác nhau, nhưng đồng thời cũng vừa đòi hỏi và thúc đẩy những dấu hiệu mang tính ngôn sứ.
I. MẦU NHIỆM:
TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ CHÚNG TA LÃNH NHẬN
Chứng tá và trung gian: “Chúng tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa”
13. Nền tảng và nguồn gốc ơn gọi Tu huynh đến từ đâu, nếu không phải là cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa? “Chúng tôi đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng tôi, và chúng tôi đã tin vào tình yêu đó” (1Ga 4, 16). Đó cũng là nguồn mạch của mọi ơn gọi Kitô hữu. “Khởi nguyên của người Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một lý tưởng cao cả, nhưng là gặp gỡ với một sự kiện, một Nhân vật mang lại một chân trời mới cho cuộc đời, và từ đó, mang lại một quyết định mới”[40].
Sự lựa chọn quyết liệt mà Cựu ước đã đề xuất cho dân Israel và cho mỗi phần tử được lồng trong bối cảnh của cuộc gặp gỡ giữa người tín hữu với Thiên Chúa, Thiên Chúa đến gặp Dân của Người và thiết lập giao ước. Từ đó nảy sinh một sự thánh hiến toàn thể cuộc sống: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả trái tim, tất cả linh hồn và tất cả sức lực” (Đnl 6,4-5). Đức Giêsu tái khẳng định đòi hỏi ấy, nhưng kết hợp với một đòi hỏi khác: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi” (Lv 19,18). Kể từ đó, cả hai lệnh truyền được kết hợp thành một, không thể tách rời nhau (x. Mc 12, 29 – 31). “Và bởi vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4, 10), cho nên giờ đây tình yêu không chỉ còn là ‘lệnh truyền’, nhưng là đáp trả món quà tình yêu mà Chúa đến gặp gỡ chúng ta”[41].
Ơn gọi làm người anh em không chỉ nhằm đón nhận tình yêu Thiên Chúa, nhưng còn trở thành chứng tá và trung gian của món quà đó và của dự án hiệp thông mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, dựa trên sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dự án này, tức là Mầu nhiệm được mạc khải cho chúng ta trong Đức Kitô, nhằm thiết lập tương quan chiều ngang giữa Thiên Chúa và nhân loại, và giữa lòng nhân loại, chính nơi mà Thiên Chúa muốn ngự trị.
Do đó các mối tương quan nghĩa tử đồng thời cũng biến thành tương quan huynh đệ. Vì lý do đó, gọi là “người anh em” cũng tương tự như gọi là “trung gian của tình yêu Thiên Chúa”, Đấng đã “yêu thế gian, đến nỗi đã tặng ban Người Con Duy Nhất ngõ hầu những ai tin vào Người sẽ được hạnh phúc muôn đời” (Ga 3, 16).
Là “người anh em” cũng là trung gian của tình yêu của Chúa Con, Đấng Trung Gian đích thực, Người “yêu họ đến cùng” (Ga 13,1) và dạy chúng ta yêu nhau như Người đã yêu (Ga 13, 34). Người anh em không được trốn tránh khỏi thế gian này mà Thiên Chúa đã quá yêu thương; trái lại, người anh em được thúc đẩy đi gặp gỡ và yêu mến nó. Khi chiêm ngưỡng công trình cứu độ của Thiên Chúa, người anh em khám phá chính mình là công cụ Thiên Chúa muốn dùng để làm hiển hiện giao ước, tình yêu và lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn nhất.
Người anh em nhận thức rằng vạn vật đều tràn ngập sự hiện diện âu yếm của Thiên Chúa, cách riêng nhận thức rằng tất cả những gì liên quan đến con người đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Từ nhận thức đó nảy sinh nơi Tu huynh và cộng đoàn các Tu huynh sự cam kết phục vụ tận tụy và chuyên nghiệp trong tất cả mọi lãnh vực, kể cả những lãnh vực thoạt tiên xem ra là phàm tục.
Được thánh hiến bởi Thánh Linh
14. Không có chi lớn hơn sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy. Bí tích Thánh tẩy “tái sinh chúng ta vào đời sống làm con cái Chúa; kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô và Thân thể của Người là Giáo hội; xức dầu chúng ta trong Thánh Linh để biến đổi chúng ta trở nên đền thờ thiêng liêng”[42]. Toàn thể cuộc đời người Kitô hữu phải là một tiến trình hội nhập vào kế hoạch hiệp thông được biểu thị trong bí tích Thánh tẩy, bằng cách thực thi những cam kết của bí tích tùy theo ơn gọi lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Lời tuyên bố vừa rồi có nguy cơ sẽ bị không được hiểu đúng đắn nếu không được đặt ở trong khung cảnh rộng lớn của lịch sử cứu độ, trong đó mỗi người Kitô hữu nhận được sự sống, trong đó, qua bí tích Thánh tẩy, họ tìm thấy vị trí độc đáo của riêng mình. Câu chuyện này cho biết Thiên Chúa Tam vị đã muốn kéo dài mối hiệp thông của ngài trong sứ vụ cứu rỗi nhân loại như thế nào, đã tìm nhiều cách thức như thế nào để thiết lập giao ước, và đã dấn thân cho đến cùng trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa Con. Lịch sử cứu độ này tiếp tục nhờ Thánh Linh, Đấng đã quy tụ Giáo hội, và xây dựng Giáo hội bằng các ân ban ngõ hầu, nhờ Giáo Hội, Ngài tiếp tục công trình cứu độ nhân loại.
Tất cả chúng ta đều tham dự vào kế hoạch cứu độ vĩ đại này, bởi vì “Thiên Chúa trong Đức Kitô đã kêu gọi đích danh từng người chúng ta”[43]. Mỗi người tham dự tích cực vào kế hoạch ấy, và ảnh hưởng của họ trên người khác thật là quyết liệt. Mỗi người, xét như là thành viên Giáo hội, “được ủy thác một công tác độc đáo, không ai có thể thay thế, để thi hành nhằm mưu ích cho mọi người”[44]. Mỗi người, nhờ sự xức dầu trong bí tích Thánh tẩy và Thêm Sức, có thể nhắc lại lời của Đức Giêsu: “Thần khí Chúa ngự trên tôi; Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và sai tôi mang Tin mừng cho người nghèo khó, công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy; giải phóng người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Đức Chúa” (Lc 4, 18 – 19). Do đó, “người lãnh bí tích Thánh tẩy tham gia vào chính sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên sai và Cứu Thế”[45].
Cam kết công khai: làm cho khuôn mặt của Anh Giêsu tỏa sáng hôm nay
15. Cuộc thánh hiến tu sĩ được lồng trong lịch sử ấy của mỗi cá nhân, bắt đầu bằng bí tích Thánh tẩy, và tìm thấy ý nghĩa đầy đủ hơn. Sự thánh hiến tu sĩ “đào sâu sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy một cách đặc biệt và phong phú hơn” , bởi vì nó diễn tả một ơn gọi hàm ngụ “một ân huệ đặc biệt của Thánh Linh”[46]. Ân huệ này được cảm nhận như một sự thôi thúc muốn công bố bằng chính cuộc đời của mình trước mặt cộng đồng Giáo hội và trước mặt thế giới, điều mà Đức Giêsu loan báo ở hội đường Nazareth: “Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh Thánh này mà quý vị đã nghe” (Lc 4, 21). Sự thôi thúc này, đặc trưng của đời sống ngôn sứ, được kèm theo một lời mời gọi chân thành – được cảm nhận từ nội tâm – hãy bày tỏ thế giới mới mà Đức Giêsu đã mặc khải cũng như sự phong phú của giao ước Người thiết lập với Giáo hội vượt lên trên tình máu mủ, bằng đời sống độc thân tự nguyện được chấp nhận bằng tình yêu và sống trong cộng đoàn huynh đệ.
Mỗi cuộc thánh hiến tu sĩ đều bộc lộ cho các tín hữu thấy rằng mầu nhiệm của Chúa Kitô Cứu Thế được ứng nghiệm hôm nay, trong thế giới này và qua Giáo hội hôm nay. Ở mọi thời và mọi nơi, các người thánh hiến chiếu tỏa dung mạo Đức Giêsu cho thời đại của họ; chính cuộc sống của họ nói lên mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại. Tính hữu hình này được tỏ lộ qua cách thức hiện diện của đặc sủng của mỗi gia đình tu trì, ở đây và bây giờ. Vì thế, những người thánh hiến cần phải thường xuyên tự hỏi: làm thế nào đề làm chứng cho Chúa Giêsu hôm nay? Chúng ta phải dùng cách thức hiện diện nào để con người hôm nay có thể thấy, cảm nhận được Chúa Giêsu?
Đời sống thánh hiến được mời gọi trở nên “ký ức sống động về cách thức sinh sống và hành động của Đức Giêsu như là Lời Nhập thể trong tương quan với Cha và trong tương quan với anh em”[47]. Đặc biệt các tu huynh, cũng như các nữ tu, làm hiển hiện trong Giáo hội khuôn mặt của anh Giêsu, “trưởng tử của một đàn em” (Rm 8, 29), người kiến tạo một tình huynh đệ mới bằng giáo huấn và đời sống của mình.
Thi hành chức tư tế của bí tích Thánh tẩy
16. Công Đồng Vaticanô II đã nêu bật sự phong phú của bí tích Thánh tẩy và sự cao quý của chức tư tế phổ quát của những người đã lãnh bí tích Thánh tẩy. Công đồng đã làm sáng tỏ mối liên hệ hỗ tương giữa chức tư tế phổ quát và chức tư tế thừa tác, và nhắc lại rằng chức tư tế thừa tác hướng đến chức tư tế phổ quát của tất cả các tín hữu[48].
Các Tu huynh, khi sống điều kiện giáo dân nhờ một sự thánh hiến đặc biệt, làm chứng cho giá trị của chức tư tế phổ quát đã nhận được trong Bí tích Thánh tẩy và Thêm sức: “[Người] đã làm cho chúng ta trở thành một vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa và Cha của Người” (Kh 1, 5-6). Sự thánh hiến tu trì tự nó đã làm nên việc thi hành cách viên mãn chức tư tế phổ quát của tất cả mọi tín hữu. Hành vi cốt yếu của chức vụ này là dâng hy lễ tinh thần mà các Kitô hữu dâng thân mình cho Thiên Chúa “như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa” (Rm 12,1), để đáp lại tình yêu của Ngài và để tôn vinh Ngài.
Tu huynh sống hiệp thông với Chúa Cha, nguồn mạch sự sống, nhờ việc dâng hiến toàn thể cuộc sống của mình cho Ngài, trong thái độ ngợi ca và thờ phượng. Khi được đâm rễ sâu nơi Thiên Chúa, Tu huynh thánh hiến toàn thể vạn vật, qua việc nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và tác động của Thánh Linh trong các loài thụ tạo, trong các nền văn hóa và trong các biến cố. Chính vì nhận ra sự hiện diện năng động này, họ có thể loan báo nó cho người đương thời. Khả năng này là hoa trái của tiến trình mở lòng liên lỉ hướng lên Thiên Chúa qua sự thánh hiến của mình, nhờ đó Tu huynh sống chức tư tế phổ quát từng ngày.
Giống như anh em trong hết mọi sự
17. Sự thánh hiến tu trì giúp Tu huynh tham dự cách ý thức hơn chiều kích huynh đệ nằm trong chức tư tế của Đức Kitô. Người “đã trở nên giống anh em mình mọi sự, để trở thành thượng tế nhân từ và trung tín” (Hr 2, 17-18). Để mặc cho chúng ta địa vị làm con Thiên Chúa, trước hết Đức Giêsu Kitô đã trở nên người anh, chia sẻ với chúng ta thịt và máu và trở thành liên đới với những đau khổ của anh chị em mình. ‘Anh em’ là danh xưng mà Chúa Giêsu dùng để gọi các môn đệ sau khi Phục Sinh, và bà Maria Madalena được ủy thác truyền thông: “Hãy đến với các anh em của Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em…” (Ga 20, 17).
Trong cộng đoàn huynh đệ tiếp đón mình, Tu huynh trải nghiệm mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh như một điều loan báo và sai đi. Cộng đoàn này là nơi Thiên Chúa ngự[49], nơi Đức Giêsu hiện diện giữa anh em (x. Mt 18, 20) để quy tụ họ nên một, trao ban Thánh Thần cho họ (x. Ga 20, 22) và sai họ đi, như Mađalena, loan báo rằng trong Đức Kitô tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, con cái cùng một Cha. Dựa trên kinh nghiệm này, các Tu huynh thi hành chức tư tế phổ quát qua tình huynh đệ, nhờ đó họ trở thành cầu nối liên kết Thiên Chúa với anh em mình, họ được Thánh Linh xức dầu và sai đi mang Tin Mừng tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến tất cả mọi người, đặc biệt những người anh em nhỏ bé nhất, những người yếu kém nhất trong cộng đoàn nhân loại.
Tu huynh và người giáo dân sống ngoài đời thực hiện chức tư tế phổ quát theo thể thức khác nhau. Cả hai đều diễn tả sự phong phú đa dạng của chức vụ tư tế này, bao hàm sự gần gũi Thiên Chúa và gần gũi thế giới, thuộc về Giáo hội như là tôi tớ của Chúa và thuộc về Giáo hội được xây dựng trong thế giới, nhưng cuối cùng nhắm đến Thiên Chúa. Người giáo dân sống ngoài đời nhắc nhớ Tu huynh rằng họ không được phép thờ ơ với việc cứu độ nhân loại, cũng như sự tiến bộ của thế giới là điều mà Thiên Chúa mong muốn và quy hướng về Đức Kitô. Về phần mình, Tu huynh nhắc nhở người giáo dân sống ngoài đời rằng sự tiến bộ của thế giới không phải là mục đích chung quyết, và việc xây dựng thành trì trần gian luôn phải đặt nền tảng trong Chúa và hướng đến Ngài, “nếu không thì việc xây dựng này sẽ trở thành uổng công.”[50]
Tuyên hứa: một sự thánh hiến duy nhất nhưng được diễn tả qua những lời khấn khác biệt
18. Việc dâng hiến bản thân mang tính cách công khai và được Giáo hội chấp nhận qua lời tuyên khấn. Việc thánh hiến đi trước các lời khấn, bao gồm chúng và đi xa hơn chúng. Ý nghĩa của lời khẳng định này sẽ được rõ ràng nhờ những điều sắp được giải thích dưới đây.
Đề đáp lại hành động yêu thương của Thiên Chúa đã thánh hiến mình, người tu sĩ hiến dâng đời sống cho Chúa qua việc tuyên giữ các lời khấn: trước hết, hiến dâng cuộc đời của mình, để biến nó thành một dấu chỉ của sự ưu việt của Thiên Chúa, của một đời sống dành hoàn toàn cho Chúa, của giao ước, của tình yêu Thiên Chúa dành cho Dân Người. Đó là một cam kết tình yêu như một định hướng nền tảng cho đời sống. Đó là mối ràng buộc huynh đệ để đáp lại món quà làm nghĩa tử nhận được từ Chúa Cha trong Con của ngài là Đức Giêsu.
Việc dâng hiến này bao trùm toàn bộ cuộc sống, đòi buộc người tu sĩ sống cuộc hy tế bản thân mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi nơi, trong mọi chiều kích của cuộc đời. Các lời khấn mang ý nghĩa trong toàn bộ động lực vừa kể; các lời khấn diễn tả sự toàn diện của cuộc đời dưới những sắc thái khác nhau.
Trong lịch sử đời sống thánh hiến, việc tuyên giữ công khai các lời khấn được phát biểu qua nhiều cách thức khác nhau, nhưng kể từ thế kỷ XIII xu hướng chung là diễn tả qua các lời khuyên tin mừng, làm nổi bật ý định họa trót cuộc đời theo như Đức Kitô[51] trong ba chiều kích căn bản: khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục.
Các Tu huynh diễn tả sự dâng hiến mình qua việc tuyên giữ các lời khuyên tin mừng, đồng thời họ biểu lộ sự kết hợp và đồng hóa với Đức Kitô, khởi đi từ cốt lõi của Tin Mừng là lệnh truyền mến Chúa yêu người. Họ sống khiết tịnh như là một trải nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, từ đó họ được thúc đẩy yêu thương mọi người và cổ võ sự hiệp thông qua chứng tá của tình huynh đệ.[52] Họ sống khó nghèo như là kẻ đã nhận được từ Đức Giêsu, viên ngọc quý của Vương Quốc Thiên Chúa; vì thế, họ sẵn sàng xây dựng tình huynh đệ và phục vụ, trong đức ái, tất cả mọi người, đặc biệt những người nghèo nhất. Sự khó nghèo này giúp cho các Tu huynh mở rộng lòng cho nhau và nhận thấy họ cần đến nhau. Đặc biệt, họ sống tuân phục như chung nhau tìm kiếm ý muốn của Chúa Cha, trong tình huynh đệ được linh hoạt bởi Thần Khí, cam kết đồng lòng đồng ý với nhau cùng tiến bước[53], vui lòng chấp nhận những trung gian được chỉ định bởi Luật của Hội dòng[54].
Vì thế các lời khấn diễn tả sự cam kết của Tu sĩ sống mầu nhiệm Thiên Chúa, mà họ cùng với anh em mình được đặt làm dấu chỉ và ngôn sứ cho cộng đoàn Giáo hội và cho thế giới[55]: mầu nhiệm tình yêu, giao ước và tình huynh đệ.
Một linh đạo nhập thể và hiệp nhất
19. Chiều kích ngôn sứ là phần thiết yếu của căn tính người thánh hiến, và nó được tăng trưởng, trước hết, nhờ việc lắng nghe. Người Tôi tớ Giavê đã trải nghiệm điều đó: “Mỗi buổi sáng, Người đánh thức tai tôi để tôi lắng nghe như người môn đệ” (Is 50,4). Chỉ duy sự trải nghiệm được đâm rễ trong Thiên Chúa và thấm nhuần Lời Người mới có thể đảm bảo sống được chiều kích này trong hoạt động tông đồ, bởi vì “tính ngôn sứ chân chính phát sinh từ Thiên Chúa, từ tình thân với Người, từ việc chú ý lắng nghe Lời của Người trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau”[56]. Từ sự chuyên cần chiêm niệm, giúp cho chúng ta biết nhìn mọi vật và mọi người theo cái nhìn của Chúa, mà ta có khả năng nhận ra dấu chỉ thời đại cách sâu xa, ngõ hầu nắm bắt tiếng gọi của Chúa trong đó và hoạt động hợp với kế hoạch của Ngài[57].
Linh đạo của Tu huynh phải dẫn họ tới việc sống lại cảm nghiệm Kitô giáo của thuở ban đầu, được Tin Mừng Mát-thêu diễn tả cách biểu tượng như sau: “Và kìa, bức màn trong đền thờ bị xé ra làm đôi” (Mt 27,51). Hình ảnh này gợi cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu, qua cái chết của Người, “đã khai mở cho chúng ta một con đường mới và sống động” “qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Hr 10,20) cho chúng ta có thể gặp được Chúa Cha. Thiên Chúa không chỉ còn nhất thiết hiện diện ở một “nơi thánh thiêng” nào, bởi vì từ nay trở đi, cần phải “thờ phượng Chúa trong tinh thần và sự thật” (Ga 4,24).
Các Tu huynh được mời gọi sống linh đạo nhập thể và hiệp nhất này để gặp gỡ Thiên Chúa, không chỉ trong việc lắng nghe Lời, trong các bí tích, trong phụng vụ hay cầu nguyện, nhưng còn trong cuộc sống mỗi ngày: trong những công tác hàng ngày, trong lịch sử thế giới, trong những dự án mong manh của nhân loại, trong thực tại vật chất, trong lao động và kỹ thuật. Linh đạo này dựa trên cái nhìn sâu sắc về sự thống nhất trong kế hoạch của Thiên Chúa: đó chính là Thiên Chúa, Thân phụ của Đức Giêsu Kitô, Đấng tạo dựng và cứu độ thế giới. Do đó cần đưa tất cả đời sống chúng ta vào việc cầu nguyện, để cho sự cầu nguyện vẫn kéo dài trong đời sống.
Các Tu huynh liên kết việc cầu nguyện chính thức của Giáo hội với chiều kích phục vụ là đặc tính của đời sống thánh hiến. Họ vun trồng thái độ chiêm niệm, có khả năng để cho sự hiện diện của Chúa Giêsu được chiếu tỏa trong đời của họ, trong cuộc sống mỗi ngày, trong những công tác và bổn phận của mình, để có thể thốt lên với Người rằng: “Lạy Cha là Chủ tể trởi đất, con tạ ơn Cha, vì Cha đã giấu ẩn những điều này khỏi những bậc thông thái bác học, và đã mạc khải cho những kẻ bé mọn…” (Lc 10, 21)
Một linh đạo của Lời để sống mầu nhiệm “ở trong nhà” với Mẹ Maria
20. Ba quyển Tin Mừng nhất lãm tường thuật lại một quang cảnh trong đó Đức Giêsu phân biệt cách rõ ràng giữa “mẹ và các anh em” theo thể xác và “mẹ và các anh em là những người lắng nghe và thực hành Lời Chúa” (Lc 8, 21). Trong câu chuyện, Đức Giêsu rõ ràng ủng hộ nhóm thứ hai. Nhóm thứ nhất ở ngoài nhà, họ gọi Người từ bên ngoài; nhóm thứ hai quây quần bên Ngài, ở trong nhà, lắng nghe Người. Trong hàng ngũ mới của mối tương quan gia đình do Đức Giêsu thiết lập, Đức Maria tìm được vẻ cao siêu và ý nghĩa sâu sắc đối với cộng đoàn Kitô hữu. Thánh sử Luca nói về Mẹ rằng “Người ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng và liên tục suy đi nghĩ lại” (Lc 2, 19.51). Đức Maria đón nhận và sống tròn đầy tình yêu của Thiên Chúa đến độ để cho tình yêu ấy trở thành thể xác của Mẹ. Mẹ là mối dây hiệp nhất trong cộng đoàn non trẻ của những người anh em, Mẹ đồng hành với họ và hiện diện như là người mẹ và người chị; và Mẹ lãnh nhận Thánh Linh trong huynh đoàn cầu nguyện này (x. Cv 1,14; 2, 1-4).
Giống như Đức Maria, Tu huynh được mời gọi sống sâu xa linh đạo của Lời, để trải nghiệm ở trong nhà quanh Chúa Giêsu, lắng nghe sứ điệp của Người, và sống kề bên Người mầu nhiệm của Chúa Cha đã nhận chúng ta làm con trong Người Con và làm anh em với nhau và với Chúa Giêsu.
Giống như Đức Maria, Tu huynh được mời gọi để cho Thánh Linh đổ đầy, lắng nghe trong mình tiếng Thánh Linh kêu lên tận đáy lòng: Cha ơi! (Gl 4,6; Rm 8,15). Đây là cảm nghiệm duy nhất có sức nâng đỡ ơn gọi của mình.
Nhờ Mẹ Maria trợ giúp và gợi ý, Tu huynh sống trong cộng đoàn của mình kinh nghiệm về Chúa Cha Đấng đã quy tụ họ đến bàn tiệc Lời, bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc sự sống. Cùng với Mẹ Maria, Tu huynh ca khen Thiên Chúa cao cả và loan báo ơn cứu độ của Ngài. Vì thế họ cảm thấy được thúc đẩy để tìm kiếm và đưa vào ngồi trong Vương Quốc những người không có gì để ăn, những người bị xã hội loại trừ và những người bị sự tiến bộ đẩy lùi. Đây là đời sống Thánh Thể mà các Tu huynh được mời gọi cử hành qua chức tư tế phổ quát, được xác nhận bởi lời tuyên khấn.
II. HIỆP THÔNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ ĐỂ CHIA SẺ
Từ món quà nhận được đến món quà được chia sẻ: “Xin cho tất cả nên một ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17:21)
21. Mầu nhiệm hiệp thông nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa được thông đạt cho chúng ta đã biến thành món quà mà chúng ta chia sẻ với anh em trong cộng đoàn. Cũng chính món quà được lãnh nhận và chia sẻ đó cũng sẽ được trao ban trong sứ mạng.
Nền tảng của cộng đoàn tu trì tiên vàn là món quà của tình huynh đệ được lãnh nhận, trước khi là nỗ lực hoặc sự quảng đại của mỗi thành viên hoặc là nhiệm vụ họ thực hiện. “Khi nào chúng ta đánh mất chiều kích huyền nhiệm và thần học kết nối các cộng đoàn tu trì với mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa hiện diện và được truyền thông cho cộng đoàn, thì tất nhiên chúng ta sẽ quên những lý do sâu xa của việc làm cộng đoàn, của việc kiên nhẫn xây dựng đời sống huynh đệ”[58].
Cộng đoàn các Tu huynh biểu lộ tính cách phổ quát của tình huynh đệ được khởi đầu do Đức Kitô, bởi vì nó không dựa trên những dây ràng buộc tự nhiên nhưng dựa trên sức mạnh của Thánh Linh, nguyên ủy sống động của tình yêu giữa nhân loại. Đời sống cộng đoàn đích thực tạo nên một dấu chỉ sống động của thực tại thiết yếu mà các Tu huynh phải loan báo. Tình yêu mà Thiên Chúa đã bày tỏ cho nhân loại trong Đức Giêsu trở thành nguyên lý kết hợp con người với nhau: “Xin cho tất cả được nên một ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17,21). Được xây dựng trên đức tin, cộng đoàn thi hành tác vụ là mạc khải tình yêu Chúa Ba Ngôi, nhờ sự hiệp thông đang ngự trị trong đó.
Thánh hiến và sứ mạng được kết hợp trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn được quy tụ nhân danh Đức Giêsu, Tu huynh trải nghiệm mầu nhiệm Thiên Chúa: tình yêu của Chúa Cha, sự sống của Đức Kitô Phục sinh, sự hiệp thông của Thánh Linh. Chúa thánh hiến Tu huynh trong cộng đoàn và từ cộng đoàn Người sai họ đi loan báo mầu nhiệm ấy: tình yêu, sự sống và sự hiệp thông.
Cộng đoàn thi hành chức tư tế phổ quát
22. Cộng đoàn Tu huynh tự nó là một sự biểu lộ đặc biệt của chức tư tế phổ quát. Toàn thể cộng đoàn hướng đến chỗ giúp cho các thành viên sống kinh nghiệm của những kẻ được Chúa tuyển chọn, được xây dựng “tựa như những viên đá sống động, … làm nên ngôi nhà thiêng liêng, một hàng tư tế thánh thiện để dâng lên Thiên Chúa lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (1Pr 2,5). Hình ảnh của thư thứ nhất thánh Phêrô cho chúng ta thấy ý tưởng năng động của một tòa nhà đang xây dựng. Nó rất thích hợp để diễn tả cộng đoàn các Tu huynh được mời gọi phát triển chiều kích của chức tư tế phổ quát.
Cộng đoàn tổ chức cuộc sống để nắm bắt tác động của Thiên Chúa trong những công tác thường nhật và khám phá ra ở đó lịch sử cứu độ đang được thực hiện ngày này qua ngày khác. Trong chiêm niệm, cộng đoàn khám phá ra chính mình như trung gian hành động cứu độ của Chúa. Cộng đoàn dâng lời tạ ơn, cử hành và dâng hiến chính mình để tiếp tục như công cụ hữu dụng trong lịch sử cứu độ.
Chất liệu của hiến lễ của cộng đoàn là chính thực tại các Tu huynh, với những giới hạn, nghèo nàn và yếu đuối của mỗi người. Các Tu huynh xây dựng cộng đoàn bằng sự vui tươi trao tặng bản thân mình. Đó là một cảm nghiệm của bí tích Thánh Thể, nhờ đó họ kết hiệp với Đức Kitô trong việc hiến mình cho Chúa Cha, để tiếp tục công cuộc cứu độ của Người qua cộng đoàn. Trong cuộc cử hành này, không thể nào thiếu sự tha thứ cho nhau, không chỉ như một đòi hỏi của tình yêu và là điều kiện để xây dựng cộng đoàn, nhưng còn như sự diễn tả chức tư tế phổ quát. Như vậy, họ trở nên trung gian cho nhau về ân sủng và sự tha thứ đến từ Chúa Phục Sinh (x. Ga 20, 22-23)
Tình huynh đệ thừa tác: “nguồn mạch và hoa trái của sứ mạng”
23. Sự hiệp thông “diễn tả nguồn mạch cũng như hoa trái của sứ mạng”[59]. Lời khẳng định của việc suy tư hậu công đồng về Giáo hội tìm thấy một hình ảnh hữu hình trong cộng đoàn do các Tu huynh xây dựng. Cộng đoàn luôn luôn là một huynh đoàn nhắm đến sứ mạng. Điều này không đơn thuần chỉ có nghĩa là cộng đoàn phải có một công tác tông đồ ở bên ngoài. Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa trào ra như một nguồn mạch trong cộng đoàn, được sống giữa các anh em, và tìm cách diễn tả trong sứ mạng của Giáo hội. Rồi nó lại quay trở lại cộng đoàn và nuôi dưỡng đời sống cộng đoàn qua trải nghiệm trong sứ mạng.
Được thúc đẩy bởi đặc sủng của các vị sáng lập, các Hội Dòng Tu Huynh thành lập các cộng đoàn tọa lạc ở tại sứ mạng, tại một sứ mạng nào đó nằm trong sứ mạng rộng lớn của Giáo hội, hoặc là hội dòng hoạt động hoặc chiêm niệm hoặc vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Cộng đoàn hoạt động như thể là môi giới biểu lộ tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, như là công cụ cứu độ của Ngài giữa những người đau khổ, những người bị gạt ra bên lề, những người thấp kém và yếu đuối. Cộng đoàn làm cho Thiên Chúa cứu độ được hiện diện ở giữa nhân loại cần đến ơn cứu độ. Vì thế cộng đoàn dễ được đồng hóa với dấu chỉ dẫn đến thực tại mà nó tượng trưng. Cộng đoàn xuất hiện như là một nhóm những người anh em cố gắng sống hiệp với nhau chung quanh Đấng đã quy tụ họ, và họ truyền thông cảm nghiệm này như là sứ điệp của Đấng sai họ đi.
Sự kiện Giáo hội phê chuẩn các Dòng Tu Huynh trước hết bao hàm việc trao phó sứ mạng mà họ thực thi dựa theo đặc sủng riêng; thứ đến, Giáo hội nhìn nhận rằng những cuộc dấn thân của họ vào những hoàn cảnh nhân sinh khác nhau thì không phải là ngẫu nhiên hoặc ngoài rìa đời sống thánh hiến, nhưng là phần thiết yếu của căn tính và sự thánh hiến của họ. Ngoài những công tác đặc biệt mà họ thực hiện, những cộng đoàn thánh hiến này thay mặt cho Giáo hội, bí tích phổ quát của ơn cứu độ[60], ở trong xã hội và đặc biệt bên cạnh những người nghèo và những người đau khổ.
Vì thế, xem ra thích hợp để coi cộng đoàn Tu Huynh này như là tình huynh đệ thừa tác, theo nghĩa là tác vụ của Giáo hội[61] mà cộng đoàn Tu Huynh đảm nhận mang lại cho họ một căn tính đặc thù trong Giáo hội. Ngoài ra, cộng đoàn còn nhấn mạnh đến tương quan huynh đệ giữa các thành viên với những người mà sứ mạng của họ nhắm tới. Cộng đoàn, chứ không phải là cá nhân, thực hiện tác vụ. Những thành viên trong cộng đoàn tác vụ có thể thi hành nhiều công tác khác nhau; thậm chí một vài người bị ngăn trở không thể làm được một công việc bên ngoài, do bệnh tật hoặc tuổi tác. Tác vụ không được đồng hóa với một công việc nào nhất định. Tác vụ do toàn thể cộng đoàn thực hiện, qua những công việc khác nhau của các thành viên, bao gồm cả cầu nguyện, dâng hiến, đau khổ của người bệnh, liên đới. Toàn thể cộng đoàn đảm nhận trách nhiệm đối với sứ mạng mà Giáo hội đã ủy thác.
Tình huynh đệ trong phục vụ là một đóng góp căn bản của các Dòng Tu Huynh cho đời sống thánh hiến và cho Giáo hội. Qua tình huynh đệ ấy, các Dòng này nêu bật mối liên kết bất khả ly giữa hiệp thông và sứ mạng, vai trò cốt yếu của tình huynh đệ như cốt lõi của việc truyền giảng Tin Mừng, tầm mức rộng lớn và đa diện của việc truyền giảng Tin mừng, thực tại về tác động của Thánh Linh và những mầm mống của Lời[62] hiện diện cách nào đó trong mọi dân tộc và văn hóa.
Hiệp thông huynh đệ và đời sống chung
24. Đời sống chung, một đặc trưng cốt yếu đời sống tu trì của các Tu huynh, có mục đích là hỗ trợ mối hiệp thông huynh đệ; tuy nhiên sống tình huynh đệ không đương nhiên thành hình nhờ việc tuân thủ những luật lệ điều hành đời sống chung[63].
Đành rằng các cơ chế là cần thiết, nhưng cộng đoàn các anh em được bộc lộ qua cung cách sống của họ. Các anh em được tụ họp để cùng nhau tham gia tròn đầy vào đời sống và sứ mạng của Chúa Giêsu, để làm chứng cho tình huynh đệ và tình nghĩa tử là điều mà mọi tín hữu đều được mời gọi.
Vì thế, đối với các Tu huynh, cộng đoàn là một cảm nghiệm hơn là một nơi; hoặc chính xác hơn, các Thầy sống chung với nhau, tập trung ở một nơi, là để sống sâu xa cảm nghiệm ấy. Nhờ vậy, họ đáp lại lời mời gọi trở nên những chuyên gia về hiệp thông[64], những dấu chỉ hữu hiệu của việc có thể thiết lập những mối tương quan sâu đậm được đâm rễ trên tình yêu Chúa Kitô.
Yêu thương nhau là dấu hiệu căn cước của các Kitô hữu (x. Ga 13, 35), và đây là dấu chỉ mà các Tu huynh muốn cống hiến. Đây phải là tiêu chí phân định của mọi cộng đoàn Tu Huynh, đứng trên hiệu năng các công việc của họ. Thật dễ nhận thấy ở giai đoạn hình thành của mỗi Hội dòng Tu Huynh, tình huynh đệ là dấu hiệu cốt lõi của dự án, được hấp thụ từ lý tưởng của các Kitô hữu thuở ban đầu, trở nên “một lòng một ý” (Cv 4, 32). Từ tâm điểm ấy, họ tổ chức hoạt động tông đồ, với ý thức rằng hoạt động này truyền thông những điều mà họ đã sống trong cộng đoàn. Tình huynh đệ của họ sẽ tạo ra các dây huynh đệ, và sứ mạng của các Tu huynh được phác thảo ngay từ lúc ban đầu như là sống hiệp thông và tạo ra hiệp thông.
Tình huynh đệ và các lời khuyên Tin mừng: một dấu chỉ ngược dòng
25. Về phía các Tu huynh, cảm nghiệm ngôn sứ của tình huynh đệ[65] được kèm theo cam kết chấp nhận lối sống của Chúa Giêsu. Sự độc thân thánh hiến cho phép họ sống đời sống cộng đoàn cách tròn đầy và trở nên anh em của mọi người, thay vì sống một tình yêu độc chiếm. Sự khó nghèo, được hiểu như chọn lựa lối sống đạm bạc và đơn giản, dẫn đến việc chia sẻ tài sản để sống hiệp thông huynh đệ với những người khác[66]. Và sự vâng phục, qua đó mọi người gắn bó với mọt dự án chung, kết hợp họ “trong cùng một chứng tá và trong cùng một sứ mạng, tuy vẫn tôn trọng những ân huệ khác biệt và cá tính của mỗi người”[67]. Lối sống mang tính ngôn sứ như thế đòi hỏi sự cắt đứt với nguyên quán, gia đình, bạn bè và dân tộc …, để chỉ nhận lại chúng sau khi đã đâm rễ trong gia đình mới, được lồng trong tình huynh đệ đại đồng.
Cộng đoàn Tu Huynh sống sứ mạng ngôn sứ của mình cách ngược dòng, bởi vì lối sống theo Tin Mừng tương phản với những gì thế gian cổ vũ. Nó là dấu chỉ của “tình huynh đệ được sinh ra bởi Thần Khí, bởi sự tự do nội tâm của những kẻ tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa bất chấp những giới hạn của con người”[68]. Vì thế, nó là chỗ của sự dấn thân đa dạng, của sự tương trợ lẫn nhau, của sự hòa hợp và liên đới cởi mở và hướng ngoại, trong một lối sống khắt khe, trong sự phân định nếp sống dựa theo ánh sáng Tin Mừng. Dù sao đi nữa, đừng quên rằng đó là một dấu hiệu mong manh: nó cần phải liên tục đổi mới; nó phải sống trong con đường đưa đến sự thánh thiện và trong năng lực của Tin mừng luôn làm sinh động các cơ cấu.
Cộng đoàn tìm kiếm
26. Lúc khởi đầu cảm nghiệm ơn gọi, Tông đồ Phaolô đã thưa “Lạy Chúa, con phải làm gì?” Câu hỏi này đánh dấu một cuộc thay đổi thái độ triệt để, qua việc khước từ con đường của mình để đi vào con đường của Chúa Giêsu. Ông sẽ không tìm thấy câu trả lời trong việc tuân hành nghiêm túc Lề luật và các truyền thống của Hội đường, nhưng là trong sự lắng nghe các con người, trong việc đọc ra các biến cố hàng ngày và trong việc suy niệm Lời Chúa.
Khi đối diện với hiện tại, các Tu huynh cần phải thử đặt câu hỏi như thánh Phaolô: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Tuy nhiên câu hỏi này chỉ thực sự chân thành nếu được chuẩn bị với thái độ sẵn sàng “chỗi dậy”, bởi vì đây là đòi hỏi tiên quyết của câu trả lời (x. Cv 22, 10,16). Nói cách khác, trung thành với thời hiện tại đòi hỏi thái độ sẵn sàng thay đổi chứ không trụ lại. Nếu thiếu thái độ sẵn sàng như vậy thì việc thay đổi các cơ cấu không ích lợi gì.
Tu huynh không đặt ra câu hỏi với chính mình, nhưng là với Chúa Giêsu bởi vì anh muốn biết và thi hành ý muốn của Người. Tu huynh phải là một nhà chiêm niệm, để có thể nhận ra Người trong mọi người và trong các biến cố hàng ngày dưới ánh sáng Lời Chúa. Sự soi chiếu này cho phép Tu huynh đọc ra cuộc sống hàng ngày theo trái tim của Chúa và sống mọi khoảnh khắc như là thời gian của ân sủng và cứu độ.
Đời sống thánh hiến, như tất cả mọi hình thức của đời sống Kitô hữu, là một cuộc tìm kiếm đức mến trọn hảo[69]. Ơn gọi Tu huynh và cam kết của họ trở nên ký ức cho mọi người về nỗ lực đó cũng là động lực để cho mình luôn gắng sức hơn[70]. Trong cuộc kiếm tìm này, họ phải đặc biệt cảnh báo tình trạng xói mòn của đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Có nhiều yếu tố dẫn đến việc phá hủy tình huynh đệ nếu các Tu huynh không xây dựng nó mỗi ngày và không sửa chữa những thiệt hại đã xảy ra. Một phần của tiến trình hoán cải là liên lỉ trở về với điều cốt yếu, với sứ vụ ngôn sứ của họ trong Giáo hội: sống tình huynh đệ như món quà lãnh nhận từ Thiên Chúa và xây dựng nó, với sự giúp đỡ của Chúa và sự dấn thân chung của các Tu huynh, từ bên trong và bên ngoài cộng đoàn.
III. SỨ MẠNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ ĐỂ TRAO TẶNG
Đời sống như là tình huynh đệ với người bé mọn: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta” (Mt 25, 40)
27. Trong Tin Mừng cho hai hình ảnh cho chúng ta thấy ý nghĩa của sứ mạng Tu huynh. Một hình ảnh là Đức Giêsu động lòng trắc ẩn với đám đông “bởi vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6,34). Đức Giêsu đã nuôi họ thỏa thuê bằng bánh của Lời và, động lòng trắc ẩn, Người bảo các môn đệ hãy cho dân chúng ăn bánh của đời sống tự nhiên: “Anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6, 37).
Một hình ảnh khác giới thiệu Đức Giêsu, là Con Người, nhưng lần này, lòng trắc ẩn tỏ ra như là tình huynh đệ đích thực đối với những người thấp bé nhất, đến nỗi đồng hóa mình với họ. Lệnh của Người trở thành một lời cảnh báo long trọng: “Điều gì các người làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người làm cho chính Ta… Điều gì các người không làm cho một trong những anh em bé nhỏ này, là các người không làm cho chính Ta” (Mt 25, 40 – 45)
Tất cả Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu quan tâm đến việc làm xoa dịu những đau khổ và đáp ứng những nhu cầu của tha nhân, đến nỗi tự đồng hóa mình với những người khổ sở và cảnh báo rằng chỉ những ai chăm sóc họ mới được thừa hưởng Vương quốc đã hứa. Một cách tương tự như vậy, mệnh lệnh mà các môn đệ đã nhận khi được sai đi loan báo Tin mừng không chỉ liên quan đến sứ điệp tinh thần mà thôi, nhưng còn liên quan đến việc giải phóng những gì đàn áp con người và chèn ép sự phát triển nhân vị[71], bởi vì “có những liên kết chặt chẽ giữa loan báo Tin mừng và thăng tiến con người – phát triển và giải phóng”[72].
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo hội rất lưu ý đến lệnh truyền quan trọng của Đức Giêsu: “Anh em hãy cho họ ăn”. Hoạt động loan báo Tin mừng luôn nối kết với việc phân phối cơm bánh nhân sinh, dưới những hình thức khác nhau: lương thực, sức khỏe, giải phóng, văn hóa, ý nghĩa cuộc đời… Đặc biệt, lịch sử đời sống thánh hiến thuật lại nỗ lực này để Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở nên thực tại.
Sứ mạng của các Tu huynh tiếp nối trào lưu được trưng bày nơi hai biểu tượng nói trên. Một mặt, nó là hoa trái của một trái tim động lòng trắc ẩn trước những nhu cầu và những đau khổ của nhân loại. Các Tu huynh cảm nhận được tiếng gọi của Chúa Kitô sai họ đi xoa dịu những cơn đói khát dưới nhiều hình thức khác nhau; đặc sủng của họ làm họ nhạy cảm đối với một vài hình thức cụ thể nào đó. Thế nhưng chưa đủ đâu! Ơn gọi tối hậu của một Tu huynh là đồng hóa với Con Người. Vì thế Tu huynh được thúc đẩy muốn làm giống như Người, trở nên anh em của những người bé mọn nhất. Nhờ vậy, bằng sứ mạng, anh hiến tặng món quà của tình huynh đệ mà anh đã nhân lãnh và sống trong cộng đoàn. Đó là món quà mà người lãnh nhận là những anh em bé nhỏ mà Đức Giêsu đã tự đồng hóa. Sứ mạng không phải là “điều mà anh làm”, nhưng là chính đời sống của anh, được trở thành đời sống hiệp thông với người bé mọn nhất. “Để cho món quà không làm hạ thấp người khác, tôi phải trao tặng họ không những là cái gì thuộc về tôi nhưng là chính bản thân tôi; con người tôi phải hiện diện ở trong món quà ấy”[73].
Tham dự vào tác vụ của Đức Giêsu, “Mục tử Nhân lành”
28. “…Các Tu huynh phục vụ theo nhiều cách khác nhau, trong và ngoài cộng đoàn, tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng và làm chứng tá bằng đức mến trong đời sống hằng ngày. Thực vậy, một vài công việc phục vụ ấy có thể được nhìn nhận như là tác vụ của Giáo hội, được ủy thác bởi quyền bính hợp pháp”[74]. Tất cả những công tác phục vụ này, “tuy dưới những hình thức khác nhau, đều tham dự vào chính tác vụ của Đức Giêsu Kitô là Mục tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 11), là tôi tớ khiêm hạ và hoàn toàn xả thân vì ơn cứu cứu độ của muôn người (Mc 10, 45)”[75].
Hình ảnh Mục tử nhân lành, cũng giống như hình ảnh Người Thầy thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ, nói cho chúng ta không phải về quyền hành nhưng là về phục vụ, yêu thương và hy sinh kể cả mạng sống. Mỗi Tu huynh phải hiểu sứ mạng của mình theo nghĩa đó, dù được trao bất cứ công tác nào, được bổ sung với sự hợp tác với các anh em khác.
Trong những việc phục vụ và tác vụ do các Tu huynh thực hiện, có một số liên hệ đến đời sống nội bộ của Giáo hội, một số khác rõ ràng mang tính cách truyền giáo. Một số tác vụ liên quan đến các chức vụ thiêng liêng (tựa như phục vụ Lời Chúa và phụng vụ); một số khác cho thấy mối quan tâm của Giáo hội đến thiện ích vật chất của con người, như quyền năng của Thánh Linh nhằm chữa lành và biến đổi thế giới.
Dù nói thế nào đi nữa, sứ mạng các Tu huynh không giới hạn vào các hoạt động mà họ thực hiện, kể cả hoạt động tông đồ. Sứ mạng là loan báo Tin mừng theo một nghĩa rộng nhất. “Quả vậy, loan báo Tin mừng là ân huệ và ơn gọi của Giáo hội, căn tính sâu xa của mình. Giáo hội hiện hữu là để loan báo Tin Mừng”[76]. Ta cũng có thể nói như thế về về đời sống thánh hiến và cách riêng là các Tu huynh: Ơn gọi của họ “gói ghém luôn cả bổn phận tận hiến cho sứ mạng […] Trước khi nói đến các hoạt động bên ngoài, sứ mạng được thực thi bằng cách để cho Chúa Kitô hiện diện trong thế giới nhờ chứng tá cá nhân. Đây là sự thách đố, đây là nhiệm vụ thiết yếu của người sống đời thánh hiến! Người tu sĩ ở trong tình trạng “truyền giáo” do hiệu năng của chính sự thánh hiến của họ, được thể hiện dựa theo linh đạo của Hội Dòng”[77]. Chính trong tương quan mật thiết giữa sứ mạng và thánh hiến mà người tu sĩ tìm thấy sự thống nhất đời sống: họ dấn thân cho sứ mạng do việc thánh hiến của mình, và sống đời thánh hiến của mình qua sứ mạng.
Các hoạt động, kể cả hoạt động tông đồ, có thể thay đổi hoặc thậm chí biến mất vì sức khỏe hoặc tuổi tác, nhưng sứ mạng vẫn luôn tồn tại. Việc loan báo Tin mừng, được đặc sủng của dòng làm sinh động, là lý do hiện hữu và đem lại ý nghĩa cho đời sống thánh hiến của họ. Như Đức Giêsu, họ có thể nói: “vì họ, Con xin thánh hiến mình Con” (Ga 17, 19).
Vì vậy đây không phải là một vấn đề công tác đảm nhận nhưng là căn tính: “Tôi là một sứ mạng ở trên đời; đó là lý do tại sao tôi hiện diện trong thế giới. Cần phải nhận ra bản thân như là được đốt nóng bởi sứ mạng soi sáng, chúc lành, linh hoạt, nâng đỡ, chữa lành và giải thoát”[78]. Tác vụ làm nên toàn diện con người Tu huynh: được thánh hiến, thành viên của cộng đoàn, được đồng hóa với sứ mạng. Tu huynh đảm nhận toàn bộ và trách nhiệm làm cho vị Mục tử nhân lành đã hiến mạng sống vì đoàn chiên được hiện diện, trong Giáo hội và cho Giáo hội.
Sứ mạng dẫn tới nguồn mạch: “Hãy đến và xem”
29. Ai cũng biết là xã hội thời nay đang có một niềm khao khát tâm linh, nhưng nó đang gặp nguy cơ bị dập tắt bởi những thứ nhu cầu giả tạo khác. Cũng như Philiphê và Nathanael, Tu huynh hãy vội vàng thông báo mình đã khám phá một Đấng đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của con tim; và đối mặt với sự hoài nghi của người nghe, anh có thể nói: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1, 45-46). Đó cũng là lời mời gọi của phụ nữ Samari dành cho đồng bào của mình, sau khi đã gặp được nguồn mạch nước hằng sống mà Đức Giêsu đã cung cấp: “Hãy đến và xem một người đã nói với tôi về mọi điều tôi đã làm. Ông ta chẳng phải là Đức Kitô sao?” (Ga 4, 29).
Các Tu huynh tự nguyện làm những hướng dẫn viên trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa[79], tuy ý thức những giới hạn của mình, nhưng có khả năng đồng hành với người đương thời trong hành trình đức tin. Trên bình diện cộng đoàn, các Tu huynh tìm cách làm cho các cộng đoàn của mình trở thành những trường linh đạo đích thực của Tin mừng[80], và xuất hiện như là chỗ ưu đãi để cảm nghiệm con đường dẫn tới Thiên Chúa[81]. Vì thế, với tư cách cộng đoàn, họ được mời gọi hô hào cầu nguyện, chia sẻ việc tìm kiếm và trải nghiệm về Thiên Chúa, thực tập việc đọc Kinh Thánh và đào sâu cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa.
Những cộng đoàn chiêm niệm giữ chỗ ưu tiên trong sứ mạng vạch ra các nguồn mạch. Những cộng đoàn này là dấu chỉ hùng hồn chất vấn xã hội chúng ta đang xa lánh Thiên Chúa. Họ trở nên nơi gặp gỡ cho những bạn trẻ và người trưởng thành đang tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của cuộc đời. Không phải là tình cờ mà hiện tượng thức tỉnh tâm linh, đặc biệt nơi các bạn trẻ, đã bắt nguồn từ các cộng đoàn cầu nguyện đại kết (tựa như Taizé), hoặc các cộng đoàn đan sĩ và tu sĩ nam nữ.
Tất cả các Tu huynh, bất kỳ sứ mạng của họ thế nào đi nữa, cần phải quan tâm trở thành chứng nhân của niềm hy vọng, theo như thánh Phêrô mời gọi (1Pr 3, 15). Cụ thể, họ được mời gọi hãy để cho niềm hy vọng có được một khuôn mặt, qua sự hiện diện trong những hoàn cảnh đau khổ và lầm than, chứng tỏ rằng lòng trắc ẩn của Thiên Chúa không có giới hạn, rằng sự phục sinh của Đức Giêsu là bảo đảm của chiến thắng, rằng Thiên Chúa của sự sống sẽ có tiếng nói cuối cùng về sự đau khổ và cái chết, rằng vào ngày sau hết Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt (Kh 7,17) và tất cả chúng ta sẽ sống như là những anh chị em với nhau.
Sứ mạng của tình huynh đệ, tìm kiếm người anh em thất lạc
30. Một đặc trưng của các Hội dòng Tu huynh là đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Nào ta hãy sang bờ bên kia” (Mc 4, 35). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Máccô (Mc 4, 34 – 5, 20) cho thấy Đức Giêsu và các môn đệ đi qua vùng đất dân ngoại để loan báo sứ điệp Vương quốc. Quang cảnh này tỏ lộ một tình huống điển hình trong đời sống Giáo hội: đứng trước cám dỗ co cụm trong nơi đang ở, Giáo hội được Thầy mình thúc đẩy vượt qua biên cương. Vì không có gì thuộc về con người là xa lạ đối với Giáo hội, và không tình trạng nào của nhân loại mà Giáo hội không quan tâm, tất cả trở thành nơi thuận tiện để Giáo hội loan báo Tin Mừng của Vương quốc.
Việc tìm kiếm người xa xôi, người khác biệt, người lầm lạc, người thuộc nền văn hóa khác biệt … là mối bận tâm lớn của Giáo hội thuở ban đầu, và được lặp lại như tiếng vang vào lúc khởi đầu của các Dòng tu. Trong Công vụ Tông đồ, thuật ngữ “tận cùng trái đất” ám chỉ nơi mà các môn đệ Đức Giêsu phải hướng đến để công bố Tin Mừng: “Anh em sẽ làm chứng nhân của Thầy… đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các Tu huynh, được động viên bởi đặc sủng của Dòng, đã quyết tâm đón nhận lời mời gọi này.
Đâu là chỗ tận cùng vào thời nay? Thuật ngữ này không nhất thiết ám chỉ những chỗ xa xăm, nhưng là những tình trạng gạt ra bên lề, vùng ngoại vi của thế giới chúng ta. Chỗ tận cùng ngày nay là các nước nghèo, các nước đang phát triển và cả những vùng trì trệ các quốc gia tiến bộ. Chỗ tận cùng ngày nay là thực trạng bi đát nhiều người nam nữ sống trong tình trạng bần cùng, di dân, đói kém, bất công, sự thờ ơ và vô cảm trước nỗi đau của người khác, hời hợt hoặc đánh mất các giá trị tín ngưỡng và nhân bản. Việc dấn thân hòa mình vào các thực trạng ấy mang lại một ý nghĩa cao quý cho ơn gọi của các Tu huynh.
Khát vọng đi đến chỗ tận cùng được biểu lộ qua sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, hướng đến những người sống trong tình trạng cùng cực[82]. Không người môn đệ nào của Đức Kitô được phép né tránh việc lựa chọn lựa ấy bởi vì nó thuộc về yếu tính của Tin Mừng[83]. Thực vậy, việc lựa chọn ưu tiên cho người nghèo là dấu chỉ mà Đức Giêsu trưng ra khi được hỏi có phải là Đấng được mong đợi hay không (x. Mt 11, 2-6). Khi cam kết bằng lời khấn công sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, người tu sĩ được yêu cầu sống nhất quán với việc dấn thân sống cho người nghèo, – và trong khuôn khổ của đặc sủng Dòng – với người nghèo và như người nghèo.
Tin Mừng Luca cung cấp cho các Tu huynh một bức icôn để soi chiếu và thách thức để tìm kiếm anh em xa lạ. Đó là câu chuyện Người Samari nhân hậu (Lc 10, 30-37). Người Samari trắc ẩn trở thành kẻ thân cận và anh em của kẻ bị gục ngã, là dấu chỉ yêu thương lân tuất của Chúa Cha.
Dấu chỉ của một Vương quốc tìm kiếm ơn cứu độ toàn diện cho con người
31. Nhiều Tu huynh thi hành sứ mạng bằng một công việc thuộc lãnh vực dân sự, tựa như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giúp đỡ di dân, đồng hành cùng trẻ em và thanh thiếu niên gặp hoàn cảnh bất trắc … Như vậy, họ làm chứng rằng việc dấn thân cho Vương quốc cũng bao hàm nỗ lực để xây dựng, ở đây và bây giờ, một thế giới nhân bản và đáng sống hơn; rằng tình yêu Đức Kitô nối kết tình yêu nhân loại, đặc biệt với những người yếu kém nhất và nghèo túng nhất. Ngày nay hơn bao giờ hết, thế giới đang cần những người thánh hiến làm chứng họ nhận biết và yêu mến Thiên Chúa của sự sống, ngay từ giữa thực tại thế trần và cuộc sống nhân sinh.
Trước hết, chúng ta muốn nói đến việc lao động chân tay của nhiều Tu huynh và nữ tu. Các tu huynh đan sĩ, đặc biệt là ở các đan viện Dòng Biển Đức, đã giữ một vai trò quan trọng ở Tây phương trong việc phục hồi phẩm giá và giá trị của lao động chân tay, một điều mà ngay cả thời nay tại một vài nền văn hóa vẫn coi như dành cho những hạng người thấp kém. Qua lao động chân tay, các Tu huynh làm chứng giá trị cao cả của lao động, nhờ đó con người hợp tác với Thiên Chúa để kiện toàn công trình tạo dựng của Người; họ trở thành người thân cận của những anh em nhỏ bé nhất và họ đồng hóa với Chúa Giêsu, người anh và người lao công.
Các Dòng Tu Huynh có sứ mạng gắn liền với việc thăng tiến xã hội và việc thực thi nhân quyền trong những lãnh vực khác nhau giữa những người bị gạt bên lề, những người mỏng dòn, hoặc với việc giáo dục thì thể hiện dấu chỉ ngôn sứ của một Vương quốc tìm cách cứu độ toàn diện của mỗi con người. Thường các tu huynh thi hành các công tác này như là một hành động của cộng đoàn. Nhờ thế họ làm chứng tá hoàn hảo cho một cộng đoàn huynh đệ, cho thấy rằng sự gắn kết của họ dựa trên Đấng đã yêu thương họ và sai họ ra đi. Ngay cả khi, do tuổi tác hoặc các hoàn cảnh khác, các Tu huynh không thể trực tiếp tham gia công tác chuyên môn, thì sự hiện diện của cộng đoàn thánh hiến trong bối cảnh này vẫn là một tấm bản chỉ đường hướng về một chân trời chan chứa ý nghĩa.
Vương quốc của Thiên Chúa luôn ở giữa chúng ta, và được kiến tạo ở đây. Đồng thời Vương quốc Thiên Chúa luôn ở bên kia, bởi vì xét như công trình của Thánh Linh, vượt lên trên mọi thành tựu của con người. Sự căng thẳng cánh chung được tượng trưng nơi sự thánh hiến và nơi cá nhân của Tu huynh, và trở nên hiển hiện một cách đặc biệt nơi cộng đoàn của các anh em Tu huynh.
3. LÀM TU HUYNH HÔM NAY: MỘT CÂU CHUYỆN CỦA ÂN SỦNG
“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9)
Một câu chuyện trở nên một lịch sử cứu độ
32. Làm cách nào các Tu huynh có thể trở thành khuôn mặt của giao ước, tiếp tục tác vụ của Người Tôi Tớ Giavê (x Is 42, 6), và trung thành với ơn gọi ngôn sứ nhận được từ Thiên Chúa? Làm cách nào họ có thể tiếp tục trở nên ký ức sống động và chất vấn Giáo Hội về Chúa Giêsu – kẻ phục vụ, rửa chân và yêu thương đến hiến mạng sống của chính mình? Giáo hội có thể cảm nghiệm và đánh giá sứ điệp của họ, sứ điệp mà Giáo hội đang mong đợi và yêu cầu họ, sứ điệp của tình huynh đệ không? Nói vắn tắt, ngày nay, làm Tu huynh có nghĩa là gì?
Trả lời những câu hỏi này không dễ dàng và đơn giản, do sự khác biệt giữa nhiều Hội Dòng và tình trạng đời sống tu trì phong phú ở các châu lục khác nhau.
Đời sống thánh hiến luôn là câu chuyện của ân sủng trong Giáo hội và cho thế giới, “món quà của Chúa Cha cho Giáo hội qua Thánh Linh”, nhắc nhở các tín hữu hãy đưa mắt đức tin “hướng tới mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động trong lịch sử, nhưng đang chờ đợi hoàn trọn ở trên trời.”[84]
Đời sống Tu huynh là một câu chuyện, một câu chuyện cứu độ cho những người đương thời, trong số đó cách riêng cho những người nghèo nhất. “Có thể là chúng ta không luôn luôn phản ánh đầy đủ vẻ đẹp của Tin Mừng, nhưng có một điều chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua: chọn lựa những người đứng cuối, những người mà xã hội gạt ra và vứt bỏ”[85]. Đặc tính của các Tu huynh là tiêu hao sức lực của mình để trở nên quà tặng của Chúa Cha cho những người mà họ được phái đến. Họ trở thành máng chuyển tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến anh em của Người: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Việc ở lại mà Chúa đòi hỏi nơi các Tu huynh mang một năng lực kích hoạt, đó là tình yêu.
Ai là anh em tôi?
33. Câu hỏi « là Tu huynh hôm nay có nghĩa là gì ? » giả thiết một câu hỏi khác: Ai là anh em tôi? Dụ ngôn người Samari nhân hậu lại gợi lên một câu hỏi nữa: Chúng ta là anh em cho ai, hoặc của ai? Câu trả lời cho các Tu huynh đã rõ ràng: nhất là của những người cần đến tình liên đới của họ và những người mà đặc sủng của Dòng đã vạch ra.
Để cho « câu chuyện của ân sủng » được sống động và thực tế, các Tu huynh hãy để cho mình lấy hứng khởi một chuỗi những bức icôn – của Kinh thánh, của ý định Đấng sáng lập, của thời đại -, có thể mở toang đời sống hàng ngày cho huyền nhiệm của tình yêu và giao ước đã được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh mạc khải.
Hai chương đầu của văn kiện này chứa đựng nhiều bức icôn trong Kinh Thánh : từ Môsê đứng trước bụi gai đang cháy đến Người Tôi Tớ Giavê, “giao ước với dân”, cho tới thánh Phaolô té ngã trên đường Đamascô. Icôn ở chính giữa là Đức Giêsu, đấng mời gọi chúng ta trở thành ký ức tình yêu của Người. Toàn thể các icôn này trình bày cho chúng ta câu chuyện của lịch sử cứu độ, trong đó các Tu huynh được mời gọi hãy hành động để cộng tác với công trình cứu độ của Thiên Chúa. Những bức icôn ấy một đàng cần được gắn với những icôn vào giai đoạn thành lập Dòng để nhắc nhở các anh em ngọn lửa khởi đầu cần khôi phục lại ; và đàng khác, cần gắn với những icôn chuyển tải tiếng nói của Thánh Linh hôm nay: những khuôn mặt của những anh em gần đây là hiến dâng cuộc đời, thậm chí đến độ tử đạo, ở những nơi xảy ra xung đột xã hội hoặc tôn giáo; và cũng như khuôn mặt của các thiếu nhi, thanh niên, tráng niên và người già được sống xứng hợp với phẩm giá nhờ sự hỗ trợ hoặc gần gũi của các Tu huynh.
Còn nhiều khuôn mặt vẫn đang chờ người Samari nhân hậu đến làm anh em với họ và giúp cho họ cuộc sống. Qua ánh mắt, họ nài nỉ Tu huynh hãy chuyển lại những món quà đã nhận được như trung gian và được dành cho họ. Họ mời gọi các Tu huynh hôm nay, dù ở tuổi nào, hãy viết nên một câu chuyện của ân sủng, bằng cách sống lại niềm say mê Chúa Kitô và nhân loại. Nỗi ưu tư cho việc sống còn, ngõ hầu câu chuyện của ơn cứu độ được tiếp tục, là điều chính đáng. Nhưng cần phải quan tâm hơn nữa đến ước mong trao tặng cuộc sống, chôn vùi xuống đất giống như hạt lúa, vì biết rằng Chúa sẽ làm nó nảy sinh gấp trăm lần theo cách thức mà Ngài nghĩ là thích hợp.
Thiết lập nền móng: đào tạo sơ khởi
34. Câu chuyện của Tu huynh hôm nay bắt đầu được đâm rễ từ việc đào tạo sơ khởi: trong giai đoạn này, một ứng sinh nhận thức cảm nghiệm của Người Tôi Tớ: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, trước khi tôi sinh ra Ngài đã gọi tên tôi… Tôi được Chúa nhìn đến và Chúa là sức mạnh tôi” (Is 49, 1-5). Được bén rễ như thế trong sáng khởi tự do của Thiên Chúa và trong cảm nghiệm bản thân về tình thương ban tặng không công của Ngài[86], huấn sinh lớn lên trong cảm thức thuộc về Dân Thiên Chúa, trong đó và vì đó mà họ được chọn.
Một sự học hỏi Giáo-Hội-học hiệp thông sẽ giúp họ tạo ra những mối dây liên kết với những người đi theo « các lối sống khác nhau trong Giáo hội » [87], vả cảm thấy mình là người anh em với tất cả anh chị em trong Dân Thiên Chúa. Điều này cũng có thể giúp họ khám phá và đánh giá những tài năng của mình, không phải như cái gì làm mình tách rời hoặc đứng trên người khác, nhưng như là những khả năng mình nhận được để mang phần đóng góp của mình vào sự tăng trưởng của Thân Thể Chúa Kitô và sứ mạng trong thế giới.
“Hết mọi người trong Giáo hội đều được thánh hiến trong bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức”[88]. Nền tảng chung này, được đọc và sống trong viễn ảnh của đặc sủng Đấng sáng lập, sẽ giúp khám phá ý nghĩa sâu xa của sự thánh hiến của Tu huynh. Trong suốt giai đoạn đào tạo sơ khởi, cần phải duy trì trực giác thần học và đặc sủng đó, vì nó làm nền tảng của ơn gọi tu sĩ. Trực giác này nêu bật một hình thái riêng để sống tin mừng bằng một sự thánh hiến đặc biệt dựa trên sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy và nhằm phục vụ một sứ mạng đặc thù.
Nuôi dưỡng niềm hy vọng: đào tạo thường xuyên
35. Các Tu huynh sống ơn gọi trong thế giới hôm nay với nhiều cách khác nhau: một số với một chút chán nản và thất vọng, một số khác với lòng trung thành, bình an, niềm vui và hy vọng. Việc đào tạo liên tục rất cần thiết để kích thích một số người này, giữ vững một số người khác và giúp cho tất cả mọi người cơ hội sống hiện tại như là thời của ân sủng và ơn cứu độ (x. 2Cr 6,2). Ngày nay, hơn bao giờ hết, việc đào tạo thường xuyên là « một đòi hỏi nội tại của đời sống thánh hiến »[89] và trong mỗi Dòng cần được thảo chương trình, qua một kế hoạch chính xác và hệ thống. Việc đào tạo thường xuyên của các Tu huynh nhằm giúp cho họ sống hành trình của vị sáng lập vào thời buổi hôm nay; khám phá và áp dụng vào hiện tại động lực đã từng thúc đẩy vị sáng lập khởi xướng cuộc truyền bá Tin mừng; đọc lại đặc sủng lập dòng dưới ánh sáng của những thách đố và khả năng hiện tại, và cảm hứng từ đó để đưa ra những giải đáp cho những vấn đề thời nay.
Mục tiêu của việc đào tạo thường xuyên là cung cấp chìa khóa để sống đời thánh hiến trong thế giới và trong Giáo hội hôm nay, cũng như cung cấp những tiêu chí định hướng sự hiện hữu của các Tu huynh trong lãnh vực sứ mạng. Chương trình đào tạo này phải đưa họ biết đánh giá các hoạt động của mình. Nó cần được xem như một tiến trình phân định cộng đoàn nhằm mang lại những thay đổi cho toàn thể cộng đoàn chứ không chỉ riêng từng cá nhân.
Nếu có thể được, việc đào tạo phải được chia sẻ không chỉ cho các thành viên trong Dòng mà còn cho những người cùng chia sẻ cùng đặc sủng nhưng sống trong hàng ngũ khác. Cũng sẽ rất hữu ích nếu biết phối hợp các kế hoạch của các dòng khác có đặc sủng tương tự, tuy vẫn không làm mất đi những khía cạnh đặc thù của mỗi ơn gọi.
Hồi phục những vị thầy của đời sống và hy vọng
36. Việc đào tạo thường xuyên dành cho các Tu huynh cao niên cũng đáng quan tâm ; họ là những người thành viên tích cực trong việc xây dựng câu chuyện chung của ơn cứu độ. Rất nhiều Tu huynh đã thi hành sứ mạng trong những nghề chuyên môn dân sự tựa như giáo dục và y tế. Cần có một sự chuẩn bị trước cho họ để tránh xảy ra tình trạng việc nghỉ hưu nghề nghiệp cũng mang theo việc nghỉ hưu tu trì. Không có chuyện nghỉ hưu trong sứ mạng truyền giáo; duy có điều mà mỗi người tham gia bằng những cách thức khác nhau. Một cách thức rất quan trọng là hỗ trợ sứ mạng chung bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Một cách thức khác là qua những việc phục vụ lặt vặt tùy theo sức khỏe của mình, cũng như làm chứng tá và gương mẫu của công việc không thù lao.
Sự cộng tác mà người ta mong đợi nơi những anh em lớn tuổi không phải là thi hành những công tác cụ thể, nhưng chính yếu là biết hiện diện trong cộng đoàn như những vị thầy của đời sống và niềm hy vọng, sẵn sàng gần kề những anh em đang đi đường và vất vả thi hành sứ mạng bên ngoài. Bằng cách đó, các anh em cao niên cộng tác để cho cộng đoàn phục vụ trở nên dấu chỉ ngôn sứ[90] của đức tin, tình yêu và hy vọng, là điều mà xã hội đang cần đến.
Những ngôn sứ cho thời đại chúng ta
37. Mọi thời đại đều cần đến ngôn sứ. Trong những chương trên đây, chúng tôi đã nhắc đến những việc phục vụ ngôn sứ khác nhau mà các Tu huynh cống hiến cho Giáo hội và xã hội hôm nay, để góp phần giúp cho xã hội nhân bản hơn và để đáp lại những việc tìm kiếm những giá trị tâm linh. Bây giờ chúng tôi đưa ra một vài công việc khác mà hoàn cảnh biến chuyển của xã hội thời nay đang đòi hỏi và thách thức các Tu huynh:
– Ngôn sứ của việc tiếp đón, hiểu như là sự cởi mở và đón tiếp những người khác: khác quốc gia, khác tôn giáo, khác chủng tộc và văn hóa. Đây là một yếu tố thiết yếu để việc chung sống nhân loại, ngược lại với thái độ bất khoan dung, loại trừ hoặc thiếu đối thoại.
– Ngôn sứ của ý nghĩa cuộc sống. Đối thoại và lắng nghe là công tác mà nhiều tu sĩ nam nữ dành nhiều thời giờ, nhằm giúp khám phá điều cốt yếu, đứng trước sự trống rỗng ở trong xã hội trù phú hiện nay.
– Ngôn sứ của việc khẳng định các giá trị của nữ giới trong lịch sử nhân loại. Trong lãnh vực này, các nữ tu giữ một vai trò chính trong việc mang lại một viễn tượng của phái nữ về cuộc sống, nhờ đó mở ra một chân trời mới cho rao giảng tin mừng nói chung. Về phần mình, các Tu huynh góp phần đào sâu khía cạnh ngôn sứ này bằng những trợ giúp huynh đệ và quý trọng sự hiện diện của phụ nữ, nữ tu cũng như giáo dân, trong việc loan báo Tin mừng.
– Ngôn sứ của việc chăm sóc và bảo vệ sự sống, bảo toàn công trình tạo dựng. Có những tu sĩ nam nữ đã liều mạng sống để phản đối những hành vi và những chính sách đe dọa đời sống con người và môi trường sống. Những người khác dành nhiều thời gian và sức lực cho việc lao động tay chân nhằm bảo vệ thiên nhiên. Nhờ sự thánh hiến của mình, các tu sĩ này cho thấy, qua những cách khác nhau, ý nghĩa và giá trị tâm linh của sứ mạng bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.
– Ngôn sứ của việc sử dụng cách khôn ngoan những công nghệ mới, để sử dụng chúng vào lãnh vực truyền thông, để dân chủ hóa việc thông tin, đem chúng đến phục vụ những người bất hạnh nhất, và biến các công nghệ này thành công cụ cho nhiệm vụ loan báo Tin mừng.
Trong gia đình : cách thức thể hiện mới của Giáo hội
38. Ngày nay, các Tu huynh thường sống ơn gọi của mình bằng việc gia nhập một gia đình đặc sủng. Nhiều Dòng đã có nguồn gốc lâu đời nhưng đã được đổi mới sâu xa, trong khi nhiều Dòng mới đã xuất hiện như là kết quả của Giáo-hội-học hiệp thông theo đường hướng Công đồng Vaticanô II. Các dòng tu cho thấy một cách thức mới mẻ để sống và xây dựng Giáo hội, một cách thức mới mẻ để chia sẻ sứ mạng và kết hợp những ân huệ khác nhau mà Thánh Linh đã phân phát nơi các tín hữu. Họ tượng trưng cho “một chương mới, tràn trề hy vọng… trong lịch sử những mối tương quan giữa người sống đời thánh hiến và các giáo dân.”[91]
Ngày nay các đặc sủng sáng lập phát sinh từ các Dòng tu và Hội dòng được ví như những dòng sông tưới dội Giáo hội, và còn trào ra xa hơn nữa. Các giáo dân thuộc về những nếp sống khác nhau đã đến dòng sông của họ để ‘giải khát’ và để tham gia vào sứ mạng của Giáo hội với nguồn cảm hứng và sức mạnh liên tục được đổi mới của các đặc sủng này[92].
Các giáo dân và tu sĩ, nam cũng như nữ, và các linh mục hiệp nhất với nhau trong một gia đình thiêng liêng để cùng nhau sống đặc sủng đã nảy sinh ra nó, để cùng nhau hội nhập khuôn mặt của Tin Mừng mà đặc sủng biểu lộ và cùng chung nhau phục vụ một sứ mạng của Giáo hội, một sứ mạng không còn chỉ là sứ vụ của riêng một Hội Dòng.
Các Tu huynh tìm thấy trong đặc sủng mang tính gia đình một môi trường thuận lợi để phát triển căn tính của mình. Thực vậy trong bối cảnh này, các Tu huynh chia sẻ kinh nghiệm về sự hiệp thông và cổ võ một linh đạo hiệp thông, ví như dòng máu mang lại sức sống cho các thành viên trong gia đình và từ đó đến toàn Giáo hội[93]. Trong gia đình đặc sủng, các Tu huynh đặt mình ở cạnh các Kitô hữu khác và vì họ. Cùng với họ, Tu huynh là những người anh em xây dựng tình huynh đệ cho sứ mạng, được linh hoạt do đặc sủng của vị sáng lập; vì họ, Tu huynh là dấu chỉ của tình huynh đệ mà chính Tu huynh được mời gọi sống trong đời thánh hiến.
Rượu mới trong bầu da mới
39. Rượu mới cần bầu da mới. Toàn thể Giáo hội có trách nhiệm đảm bảo rằng rượu mới này chẳng những không bị mất mà còn có thể tăng thêm phẩm chất.
– Các Dòng Tu huynh được thôi thúc hãy cấp tốc chuẩn bị những cấu trúc mới và chương trình đào tạo sơ khởi cũng như đào tạo thường xuyên để có thể giúp những ứng sinh và những thành viên biết khám phá và quý trọng căn tính của mình trong bối cảnh giáo hội và xã hội mới.
– Các Dòng mang tên là “hỗn hợp”[94], được nói đến Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, bao gồm cả linh mục và tu huynh, được mời gọi tiếp tục chủ trương thiết lập giữa các thành viên một tương quan căn bản bình đẳng về phẩm giá, không có sự phân biệt nào ngoài những gì phát sinh bởi sự khác biệt tác vụ. Để tạo thuận lợi cho tiến trình này, chúng tôi mong ước rằng những vấn nạn liên quan đến quyền quản trị của các Tu huynh trong những Dòng này sẽ được giải quyết dứt khoát trong một thời gian thích hợp.
– Thần học về đời sống thánh hiến được mời gọi phát triển một suy tư thâm sâu, đặc biệt do chính những Dòng Tu Huynh, về đời sống tu trì của các Tu huynh. Sự suy tư ấy sẽ được gợi hứng bởi Giáo-hội-học và linh đạo hiệp thông, nền tảng của một nếp sống tu trì đã phát triển trong Giáo hội vào những thế kỷ gần đây dưới hình thức các huynh đoàn phục vụ.
– Các bề trên và ban quản trị trong Dòng hãy chú ý đến những dấu chỉ của kiểu sống mới trong đời sống thánh hiến giáo dân, để cỗ vũ và đồng hành với họ, và phát hiện ra những biểu hiện của đặc sủng vị sáng lập trong tương quan mới của Giáo hội hiệp thông.
– Các mục tử và hàng giáo phẩm được mời gọi quảng bá sự hiểu biết và quý trọng các Tu huynh trong Giáo hội địa phương, bằng việc cổ võ ơn gọi này, đặc biệt qua mục vụ giới trẻ, và tìm cách để cho các Tu huynh và các nữ tu tham gia tích cực vào các cơ quan tham vấn, quyết định và chấp hành trong Giáo hội địa phương.
Sợi chỉ đỏ của câu chuyện: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
40. Chúng tôi kết thúc suy tư về căn tính và sứ mạng của các Tu huynh bằng việc nhắc lại lời của Thầy Giêsu nhắn nhủ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Các Tu huynh cần phải ghi nhớ lời này trong tâm khảm khi cố gắng hết tình để làm người Tu huynh hôm nay: “Chúng ta đừng đánh mất sợi chỉ của câu chuyện”. Sợi chỉ này đang đan dệt đời sống của họ và cảm nghiệm được sai đi làm dấu hiệu của lòng từ mẫu của Thiên Chúa và của tình huynh đệ của Đức Kitô; đó là sợi chỉ liên kết tất cả mọi hoạt động và sự kiện của đời sống để làm nên lịch sử cứu độ. Khi sợi chỉ này bị mất, cuộc sống bị phân thành các mảnh vụn vì không còn quy chiếu đến Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài, nhưng quay sang quy chiếu về chính mình.
Trong thao thức muốn đáp ứng các nhu cầu của sứ mạng, các Tu huynh có thể bị cám dỗ bởi chủ trương lăn xăn náo động, bởi vì cần phải kiếm nhiều bánh để dọn bữa cho người đói. Thế nhưng chủ trương náo động sẽ nhanh chóng khoét trống những động lực Tin mừng và ngăn cản họ chiêm ngắm những công trình của Thiên Chúa được thực hiện trong hoạt động tông đồ của họ. Họ tự để cho mình bị cuốn theo các công việc, họ thay thế việc tìm kiếm Thiên Chúa và ý muốn của Ngài bằng việc tìm kiếm chính mình.
Để ngăn chặn sự cám dỗ ấy, thật hữu ích khi chiêm ngắm bức icôn của hai cô Mátta và Maria được Đức Giêsu đến viếng thăm (Lc 10, 38 – 42). Hai chị em sống trong mối căng thẳng hỗ tương. Họ cần đến nhau, nhưng không dễ gì sống chung với nhau. Không nên tách rời hai người, tuy rằng mỗi người có thể chiếm ưu thế vào một thời nào đó. Tuy nhiên, một cô đã chú ý đến ý nghĩa và sự sâu xa của cuộc đời do lời Đức Giêsu mang lại: cô Maria đã chọn “phần tốt nhất”, đang khi cô Mátta “lo lắng và băn khoăn nhiều thứ quá”.
Tin Mừng Luca kể lại cho chúng ta quang cảnh hai chị em, liền ngay sau dụ ngôn người Samari Nhân hậu (Lc 10, 30-37), một người trở thành kẻ thân cận của người anh em đang cần giúp đỡ. Sứ điệp của hai bức icôn đã bổ sung cho nhau và nhắc nhở các Tu huynh chìa khóa cốt yếu của căn tính ngôn sứ, đó là phải đảm bảo việc ở lại trong tình yêu Đức Kitô: Tu huynh được kêu gọi để trở thành người chuyển trao liên tục tình yêu và giao ước đến từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu mà mình đã cảm nghiệm. Đang khi thi hành chức năng này, để đừng quên rằng mình chỉ là công cụ của Thánh Linh trong công việc của Thiên Chúa, Tu huynh hãy luôn nhớ lời Đức Giêsu: “Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
ĐHY João Braz, Bộ trưởng
ĐTGM José Rodríguez Carballo, OFM, Tổng thư ký
[1] Trong văn kiện này, chúng tôi ưu tiên sử dụng thuật ngữ được đề nghị trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (ĐSTH) số 60: “Các Tu huynh” hoặc đơn giản là “Tu huynh”. Khi có thể được, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ ở số nhiều, bởi vì một Tu huynh chỉ có thể hiện diện cùng với các Tu huynh khác, trong tình huynh đệ, chứ không thể đơn độc. Là Tu huynh luôn luôn hàm ý một mối tương quan, và đây là điều chúng tôi muốn nhấn mạnh.
[2] Thánh Gioan Phaolo II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng ĐSTH (25.3.1996), số 60.
[3] Từ này (Dòng các tu sĩ “anh em”: Instituts religieux de frères, thay vì tu sĩ “giáo dân”) là danh xưng được Thượng Hội Đồng về Đời sống thánh hiến đề nghị (Tháng 10 năm 1994) và được du nhập vào Tông Huấn ĐSTH số 60.
[4] Thánh Gioan Phaolo II, Tông huấn hậu-thượng-hội-đồng “Người Kitô hữu giáo dân” Christifideles Laici (ChL) (30.10.1998) số 19: “Đây là ý tưởng trọng tâm mà Giáo Hội đã tự giới thiệu trong Công Đồng Vaticanô II, (…) Giáo-hội-học hiệp thông là một ý tưởng trọng tâm và nền tảng trong các tài liệu Công Đồng”.
[5] X. Christifideles Laici 8; 19; 32.
[6] ChL 8; ĐSTH 41.
[7] ChL 19.
[8] X. ChL 18; 19.
[9] ĐSTH 3.
[10] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội (GH) Lumen Gentium, số 9.
[11] ĐSTH 72.
[12] X. ChL 55; ĐSTH 31
[13] X. ChL 16.
[14] X. Đức Phaolô VI, Tông huấn về Loan báo Tin mừng Evangelii nuntiandi (08.9.1975)
[15] X. ChL 55.
[16] X. ĐSTH 30.
[17] ĐSTH 84.
[18] ĐSTH 41; 46.
[19] GH 13.
[20] ĐSTH 33; x. 39
[21] x. GH 44.
[22] ĐSTH 84. x. Ibidem 15; 25; 26; 27; 42; 51; 80; 92; 105.
[23] ĐSTH 39.
[24] x. ĐSTH 84-94.
[25] Thánh Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (06.01.2001), số 43
[26] X. ĐSTH 46, 51; Novo Millennio Ineunte 43.
[27] x. ĐSTH 33.
[28] x. ĐSTH 16; 31.
[29] ĐSTH 55.
[30] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Hội thánh trong thế giới ngày nay (MV) 1.
[31] MV 3.
[32] X. CIVCSVA, Huấn thị Phát xuất lại từ Đức Kitô (19.05.2002), 31.
[33] X. ChL 24.
[34] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (NVTM) (24.11.2013), 99
[35] ĐSTH 60.
[36] ĐSTH 60. Trích bài phát biểu buổi tiếp kiến chung Thánh Gioan Phaolô II, 22.02.1995
[37] X. VC 60, NMI 46.
[38] X. VC 75.
[39] VC 3.
[40] Đức Biển Đức 16, Thông điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 1.
[41] Đức Biển Đức 16, ibid 1.
[42] ChL 10.
[43] ChL 28.
[44] Ibid.
[45] ChL 13.
[46] VC 30.
[47] VC 22.
[48] X. ChL 22; cf LG 10.
[49] X. VC 42.
[50] LG 46.
[51] X. VC 16.
[52] X. VC 46; 51.
[53] X. VC 92.
[54] X. CIVCSVA, Huấn thị Quyền bính và vâng phục, 9.
[55] X. VC 15.
[56] VC 84.
[57] X. VC 73.
[58] CIVCSVA, Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong Cộng đoàn, 12.
[59] ChL 32.
[60] LG 48.
[61] X. VC 60.
[62] Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Truyền giáo Ad Gentes, 11.2 và 15.1.
[63] X. CIVCSVA, Đời sống Huynh đệ trong cộng đoàn, 3.
[64] VC 46.
[65] X. VC 85.
[66] X. ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới lần thứ 47, (01.01.2014), số 5.
[67] VC 92.
[68] VC 92.
[69] X. VC 30; 35.
[70] X. VC39; 93
[71] X. Mt 10, 1; Mc 3, 14-15; 6, 12-13
[72] ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin mừng Evangelii nuntiandi 31.
[73] X. ĐGH Biển Đức XVI, Thông điệp, Deus Caritas est, 34.
[74] VC 60.
[75] ChL 21.
[76] EN 14.
[77] VC 72.
[78] Evangelii Gaudium 273.
[79] VC 103.
[80] VC 93.
[81] Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong Cộng đoàn, số 20.
[82] X. VC 82; X. Evangelii Gaudium 197-201.
[83] Evangelii Gaudium 48-49.
[84] VC 1.
[85] Evangelii Gaudium 195.
[86] X. VC 17.
[87] X. VC 31.
[88] X. VC 31.
[89] VC 69
[90] X. VC 85.
[91] VC 54.
[92] X. CIVCSVA, Huấn thị Tái khởi hành từ Đức Kitô 31.
[93] X. VC 51.
[94] X. VC 61.