I. TỪ NGỮ
– Tiếng Pháp dùng từ Étre. Étre vừa là động từ vừa là danh từ.
Là danh từ, Étre chỉ một bản chất hiện có sự hiện hữu, tức là một cái gì đó, một hữu thể. Dieu est l’Étre suprême : Thiên Chúa là hữu thể tối cao.
II. Ý NIỆM HỮU THỂ
Khi một vật trở thành đối tượng nhận thức ta, ta biết nó là cái gì, nhưng căn bản hơn ta biết nó có, nó hiện hữu. Chính vì nó có mà nó có thể làm đối tượng cho trí khôn nhận thức. Cái hư vô, cái không có, thì không thể đến trong trí khôn được. Ta có thể lầm lẫn về bản chất của sự vật nhưng hoàn toàn chắc chắn về sự hiện hữu của nó một khi nó trở thành đối tượng nhận thức cho ta. Một vật có thể được biết dưới nhiều mặt; nói cách khác, trí khôn có thể ngắm nhìn nó bằng nhiều cách, đưa tới những ý niệm; chẳng hạn ta nói về quả cam ấy là vàng, chua, lớn… nhưng tất cả các ý niệm ấy chung quy đều đưa ta về cái căn bản là sự hiện hữu của nó.
Thông thường, người ta có một ý niệm tổng quát bằng cách loại trừ những cái đặc thù, riêng biệt, và chỉ giữ lại cái chung. Ví dụ : ý niệm người được hiểu bằng cách xoá bỏ những gì cá biệt của Giáp, Ất…
Aùp dụng cho ý niệm hữu thể, ta sẽ nói rằng hữu thể là một ý niệm thượng đẳng (notion suprême), là cái khuôn mà ta có thể chụp lên bất cứ một cá thể nào, sự kiện nào, một nền tảng chung khả dĩ thâu nhận những định tính khác, chẳng hạn sự sống và ý thức khi nói về con người.
Quan niệm về hữu thể như vậy còn rất mơ hồ. Cần khai triển cách cụ thể, giải thích nội dung, tìm hiểu các định luật và điều kiện của hữu thể.
Trước hết phải nói ngay rằng ta không thể định nghĩa hữu thể được. Định nghĩa một vật là tách nó ra khỏi những cái khác, bao vây nó lại, phân biệt rõ các đặc thù của nó, vạch những ranh giới của nó so với những vật khác. Nói chung khi định nghĩa một vật, phải đặt nó vào giống (genre) và loại (espèce) của nó, nêu lên cái nó có chung với các vật khác trong giống đó và những cái riêng, cái cốt yếu của loại nó. Ví dụ : Con người là con vật có lý trí. Người thuộc giống vật, nhưng đồng thời lại khác hẳn các con vật vì thuộc loại có trí khôn. Lý tính là sự dị biệt thuộc loại (différence spécifique) của con người mà những con vật khác không có.
Triết kinh viện gọi tính phổ quát của hữu thể là tính siêu nghiệm (transcendental). Ý niệm hữu thể là siêu nghiệm nghĩa là có một phạm vi áp dụng vô giới hạn, bao trùm lấy tất cả những gì có : con người là hữu thể, con gà là hữu thể, bản thể là hữu thể, lý trí là hữu thể… Thực tại mà ý niệm hữu thể bao trùm là tuyệt đối, vô điều kiện, bởi vì toàn bộ thực tại không thể lệ thuộc vào cái gì hết; nếu còn một cái gì làm nguyên nhân cho toàn bộ thực tại ấy thì cái đó vẫn còn là hữu thể.
c. Hữu thể là gì ?
3. Hữu thể là một ý niệm loại suy
b. Hữu thể là một ý niệm loại suy
Ý niệm hữu thể không thể đơn nghĩa : Cọp là hữu thể và người là hữu thể. Nếu hiểu đơn nghĩa thì cọp và người như nhau.
Ý niệm hữu thể cũng không thể là đa nghĩa vì hữu thể là một ý niệm đơn nhất có thể quy tụ mọi hữu thể. Vậy ý niệm hữu thể phải là loại suy, và loại suy tỉ lệ đích thực, vì hai lý do :
Ngoài hai trường hợp nói trên, nghĩa là trong tất cả các phán đoán tổng quát, như : con gà đẻ trứng, lửa đốt cháy, người là một con vật có lý trí, bao giờ chúng ta cũng nói tới hữu thể khả hữu.
Như vừa nói trên, hữu thể có thể hiện có và cũng có thể chỉ khả hữu mà thôi. Các yếu tính mà trí khôn ta trừu xuất từ những cá thể cụ thể, gọi là yếu tính khách thể siêu hình học, hay là bản thể đệ nhị, các yếu tính đó có trong những trí khôn quan niệm chúng, như một cái gì có thể được hiện thể hoá, nghĩa là có thể được đưa vào hiện thực. Chúng là những khả hữu thể.
5. Hữu thể trí thuộc (être de raison)
Có những hữu thể trí thuộc hoàn toàn là tưởng tượng không có cơ sở trong thực tại, ví dụ : hình tròn bốn cạnh, người ngựa. Chúng không thể hợp thành một ý niệm được.
Khái niệm hư vô là một hữu thể trí thuộc, nhưng đây là một khái niệm phủ định, có thể nói là khái niệm âm mà ta có được nhờ phủ định hữu thể đã được biết trước.
Tương quan trí thuộc và tương quan hiện thực. Tương quan trí thuộc (relation de raison, esse ad) là mối liên quan ngoại tại của một đối tượng với một đối tượng khác mà nó không lệ thuộc, ví dụ mối liên hệ của Thiên Chúa sáng tạo với vạn vật. Nói chung đó là quan hệ của vật ban phát hiện hữu với sự nhận lãnh hiện hữu. Ngược lại quan hệ của vật nhận hiện hữu với vật ban hiện hữu là quan hệ hiện thực.
Các phổ niệm (universaux) có thể được xếp vào loại tương quan trí thuộc vì chúng quy chiếu về một hữu thể có thực và chỉ tồn tại thực sự nhờ sự quy chiếu đó.
6. Phân tích danh từ hữu thể
Ta có thể đào sâu khái niệm hữu thể bằng cách phân tích danh từ hữu thể.
Khi ta nói về một vật gì đó rằng nó là một hữu thể, ta nói tới hai điều :
Điều nói trên cũng bao hàm trong chính danh từ hữu thể, dịch từ tiếng latinh ENS tương đương với tiếng Hy lạp Tò ov. Ens do bởi động từ esse (hiện hữu). Một số triết gia hiện đại dùng tiếng L’Étant như một danh từ, do bởi động từ Étre. (Das Seinde bởi động từ sein).
Ens là cái đang có, cái hiện có. Nghiên cứu từ này, ta thấy có hai yếu tố : một chủ thể tiếp nhận sự hiện hữu, tức là cái này, cái kia và một động tác làm cho chủ thể đó hiện hữu (đang có). Thánh Tôma gọi yếu tố thứ nhất là essentia = yếu tính. Essentia est id quo aliquid est id quo est : bản chất hay yếu tính là cái mà nhờ đó một vật gì đó là nó chứ không phải là vật khác. Và yếu tố thứ hai là esse = hiện hữu. id quo aliquid est : cái mà nhờ đó một vật được hiện hữu.
Một vật thiết yếu phải có cả hai yếu tố nói trên. Nhưng khi nói đến hữu thể, người ta có thể nhấn mạnh đến một trong hai yếu tố. Tuỳ theo người ta nhấn mạnh đến yếu tố một hay yếu tố hai mà người ta sẽ nói rằng mình quan niệm hữu thể “ut nomen” như danh từ hay “ut participum hoặc verbaliter” như động từ.
Trong trường hợp thứ nhất, người ta đề cao yếu tính của sự vật : hữu thể là cái đang có, nhưng yếu tố thứ hai cũng không hoàn toàn vắng mặt.
Trong trường hợp thứ hai, sự hiện hữu lại được chú ý : hữu thể là cái đang có, đang hiện hữu, đang tham dự vào sự hiện hữu. Và dĩ nhiên yếu tố thứ nhất cũng không hoàn toàn bị loại trừ vì hiện hữu bao giờ cũng lệ thuộc vào cái gì; nói cách khác bao giờ cũng là cái gì hiện hữu. Như vậy hữu thể không thể tách biệt khỏi yếu tính (essentia) và hiện hữu (esse) được.
Đàng khác, hiện hữu cũng có nhiều cách : hiện hữu có thể là một hiện hữu hiện tại và đích thực, gọi là ens actuale, hiện hữu ấy cũng có thể chỉ là một việc có thể, nhưng hiện thì chưa có (ens possibile). Ngoài ra, ta còn gặp một loại hiện hữu khác trong luận lý học, gọi là hữu thể trí thuộc: gọi như thế vì tuy nó có nguồn gốc nơi thực tại nhưng tính chất của nó chỉ có thể hiện hữu trong lý trí con người mà thôi. Nó là một yếu tính (essentia) không kết hợp với sự hiện hữu (existentia). Ví dụ các mối quan hệ giữa chủ từ và thuộc từ trong một câu, hoặc giữa ý niệm phổ quát và các cá thể mà nó bao gồm. Nó không phải là đối tượng của siêu hình học. Đối tượng của siêu hình học là hữu thể hiện thực (réel) đang có hoặc có thể có trong thực tại.
7. Hư vô (néant, non-être)
Tóm lại, điều mà ta gọi là hư vô vẫn luôn luôn có liên quan đến hữu thể. Hư vô chỉ là phủ định về một cái gì có, một hữu thể nhất định nào đó. Vậy hư vô là tương đối. Nếu hiểu theo như hư vô tuyệt đối theo nghĩa là sự phủ định tất cả mọi hữu thể để tuyệt đối không còn là gì nữa, thì đó là một điều vô lý, hư vô chỉ là một từ ngữ trống rỗng.
8. Huyền nhiệm hữu thể
Qua những phân tích trên đây, ta thấy hữu thể thật là lạ lùng.Người ta có thể nói hữu thể là một huyền nhiệm.
Gabriel Marcel đã đặt đối kháng giữa huyền nhiệm và vấn đề.
Vấn đề là dữ kiện khách quan đứng trước mặt ta như một chướng ngai, một thách thức cần phải chinh phục, hoặc giải quyết. Để giải quyết vấn đề, chỉ cần có một kỹ thuật đúng (un technique).
Còn huyền nhiệm là câu hỏi liên quan trực tiếp tới người nêu câu hỏi, bao hàm luôn cả người đặt câu hỏi, là câu hỏi mà chủ thể không thể khách thể hoá nó ra mà không làm cho nó bị biến đổi. Người ta chỉ có thể để mình chìm vào trong đó ngày càng sâu hơn bằng thiện cảm, tình yêu, bằng chiêm niệm và sự dấn thân vì nó.
Vấn đề thì liên quan đến cái biết nhiều hơn, còn huyền nhiệm liên quan đến toàn bộ cuộc sống. Câu hỏi về hữu thể chính là một huyền nhiệm tiêu biểu.