VIỆC ĐÀO TẠO THƯỜNG XUYÊN CÁC TU SĨ TRONG CÁC VĂN KIỆN TÒA THÁNH

0
284

Phan Tấn Thành

Nhập đề

I. Điểm qua các văn kiện

A. Các văn kiện kế tiếp Công đồng Vaticanô II

Renovationis causam (1969)

– Các tu sĩ và việc thăng tiến con người (1978)

– Chiều kích chiêm niệm của đời tu (1980)

– Bộ giáo luật (1983)

– Những yếu tố cốt yếu của đời tu (1983)

B. Các văn kiện từ cuối thế kỷ XX

Potissimum institutioni (1990)

– Đời sống huynh đệ (1994)

Vita consecrata (1996)

– Sự hợp tác liên dòng (1998)

– Các văn kiện trong thế kỷ XXI: Xuất phát lại từ Đức Kitô (2002); Quyền bính và vâng phục (2008); Căn tính và sứ mạng tu huynh trong Giáo hội (2015); Rượu mới bầu da mới (2017)

II. Tổng hợp

A. Bản chất thường huấn: quan niệm mới

1/ Đào tạo khởi đầu và đào tạo thường xuyên

2/ Những khía cạnh: đào tạo toàn diện (nhân bản – tâm linh – đạo lý – tông đồ)

3/ Những tác nhân: chính đương sự; cộng đoàn địa phương; tỉnh dòng và dòng.

B. Cách thức thường huấn

1/ Các hình thức thường huấn, thuộc lãnh vực tâm linh, thần học, mục vụ, huynh đệ

2/ Những thời điểm: tu sĩ trẻ; trung niên; cao niên; những lúc gặp khủng hoảng.

Kết luận

———

Khi tìm hiểu các văn kiện Tòa Thánh liên quan đến sự đào tạo thường xuyên, chúng ta thấy có một sự khác biệt khá lớn giữa các linh mục và các tu sĩ. Đối với các linh mục, những chỉ thị của Tòa Thánh mang tính phổ quát: tuy mỗi Hội đồng giám mục có thẩm quyền soạn ra chương trình đào tạo thích ứng với quốc gia, nhưng cần phải dựa trên một chương trình chung do Tòa Thánh ban hành, đặc biệt liên quan đến các giai đoạn huấn luyện. Đối với các dòng tu, tình hình trở nên phức tạp hơn: Tòa Thánh không thể nào ban hành một chương trình đào tạo chung cho tất cả các Dòng nam nữ, giáo sĩ hay giáo dân, đó là chưa nói đến các dòng chiêm niệm hoặc tông đồ. Vì lý do đó, Tòa Thánh để cho mỗi dòng soạn một chương trình đào tạo (ratio formationis) thích ứng với đặc sủng của mình. Dĩ nhiên, một câu hỏi hợp lý được đặt lên và không dễ gì trả lời: liệu mỗi dòng tu có đủ khả năng để thực hiện điều đó hay không?

Bài này gồm hai phần: phân tích và tổng hợp. Trong phần thứ nhất, chúng tôi sẽ điểm qua các văn kiện của Tòa Thánh từ sau công đồng Vaticanô II cho đến đầu thế kỷ kỷ XXI. Sang phần thứ hai, chúng tôi sẽ tổng hợp những điểm chính liên quan đến việc đào tạo thường xuyên các tu sĩ: bản chất và phương thế.

I. Điểm qua các văn kiện

Tầm quan trọng của việc đào tạo trong đời tu đã được công đồng Vaticanô II nhấn mạnh, nhưng đó là nói đến việc đào tạo nói chung, hoặc việc đào tạo khởi đầu. Phải chờ đến thập niên 90 (cuối thế kỷ XX), vấn đề mới được bàn đến một cách quy mô mạch lạc. Vì thế chúng tôi xin chia thành hai giai đoạn: 1/ Giai đoạn kế tiếp công đồng. 2/ Từ cuối thế kỷ XX[1].

A. Giai đoạn kế tiếp công đồng Vaticanô II

Trong sắc lệnh Perfectae caritatis (28-11-1965), công đồng đã dành số 18 để bàn về việc đào tạo các tu sĩ, với những ý tưởng chính như sau: a) việc canh tân các hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc đào tạo; b) việc huấn luyện phải đáp ứng với những đòi hỏi của thời đại; c) việc huấn luyện phải kéo dài suốt đời.

“Việc canh tân thích nghi các hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc huấn luyện tu sĩ. Vì thế, các tu sĩ không phải là giáo sĩ và các nữ tu không nên ra làm việc tông đồ ngay khi vừa mãn nhà tập, nhưng phải tiếp tục huấn luyện họ cách thích đáng về mặt tu trì, tông đồ, giáo lý và kỹ thuật trong những nhà có đủ điều kiện; cũng nên cho họ thi lấy văn bằng thích hợp.

Nhưng, để việc thích nghi đời tu với những đòi hỏi của thời đại chúng ta không chỉ hời hợt bên ngoài và để các tu sĩ chuyên lo việc tông đồ bên ngoài theo hiến pháp khỏi thiếu khả năng chu toàn nhiệm vụ, phải cho họ học biết cách thích đáng những lối sống, cách cảm nghĩ và suy tư đang thịnh hành trong xã hội hiện tại, mỗi người tùy theo khả năng tri thức và tâm tình riêng. Phải biết hòa hợp các yếu tố của việc huấn luyện sao cho người tu sĩ có một đời sống thuần nhất.

Suốt đời, các tu sĩ hãy chuyên chăm hoàn bị việc huấn luyện tu đức, giáo lý, kỹ thuật; còn các bề trên hãy tùy sức lo cho họ có cơ hội, phương tiện và thời giờ để chu toàn bổn phận ấy.”

Nên ghi nhận rằng, vào thời công đồng, nhiều dòng nữ coi việc huấn luyện chấm dứt với năm tập! Vì thế sắc lệnh Perfectae caritatis yêu cầu kéo dài thời gian huấn luyện trong các lãnh vực tông đồ, giáo lý và kỹ thuật. Đó mới chỉ là bổ khuyết cho việc đào tạo sơ khỏi. Việc đào tạo thường xuyên được nhắc sơ qua như là một nghĩa vụ kéo dài suốt đời, và cụ thể trong ba lãnh vực: tu đức, giáo lý, kỹ thuật.

1/ Sau công đồng, văn kiện đầu tiên đề cập đến việc đào tạo là huấn thị Renovationí causam (6-1-1969). Tuy nhiên huấn thị này chú trọng đến việc đào tạo ở tập viện và thời kỳ khấn tạm, nhưng không nhắc đến việc đào tạo sau khi khấn trọn đời.

2/ Ngày 29-6-1971, ĐTC Phaolô VI ban hành tông huấn Evangelica testificatio (Chứng tá Phúc âm), giải thích thêm ý nghĩa của việc canh tân đời tu do công đồng đề xướng. Tuy nhiên, văn kiện không đả động gì đến vai trò của việc đào tạo (cách riêng đào tạo thường xuyên) trong công cuộc đổi mới này.

3/ Vào tháng 4 năm 1978, phiên họp khoáng đại của Bộ Tu sĩ đã nghiên cứu “Việc tham gia của các tu sĩ vào việc thăng tiến con người”, kết thúc với việc phát hành huấn thị ngày 12-8-1980. Ở số 32, huấn thị tuyên bố rằng việc canh tân đời tu cần phải đối diện với việc dung hòa giữa loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người. Điều này đòi hỏi phải duyệt lại tiến trình huấn luyện khởi đầu cũng như liên tục. Tuy nhiên, văn kiện không đi sâu vào chi tiết.

4/ Vào tháng 3 năm 1980, phiên họp khoáng đại của Bộ Tu sĩ đã nghiên vấn đề tài “Chiều kích chiêm niệm của đời tu”, với văn kiện kết thúc được phát hành ngày 12-8-1980. Lần này vấn đề đào tạo (khởi đầu cũng như thường xuyên) được nhắc đến ở số 17, như là những giai đoạn giúp cho tu sĩ đi vào kinh nghiệm với Thiên Chúa, và hoàn chỉnh kinh nghiệm này trong đời sống của mình. Vì thế cần một sự huấn luyện trong việc tìm kiếm Thiên Chúa trong thinh lặng, trong kinh nguyện liên tục, dựa trên nền tảng Kinh thánh, giáo phụ, phụng vụ và tâm linh.

5/ Bộ giáo luật được ban hành vào ngày 25-1-1983 đã dành các điều 641-661 cho việc đào tạo các tu sĩ. Tuy nhiên, phần lớn các điều luật (từ đ. 641-658) đề cập đến việc huấn luyện sơ khởi (tiền tập viện, tập viện, tuyên khấn), và chỉ có 3 điều (659-661) nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tiếp tục việc đào tạo sau khi khấn lần đầu, “nhằm giúp họ sống đời tu riêng của dòng cách sung mãn hơn và chu toàn sứ mạng của dòng cách hoàn hảo hơn”. Sự huấn luyện này phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý và thực hành. Nếu thấy tiện, có thể lấy các bằng cấp đạo và đời.

6/ Năm tháng sau khi ban hành bộ giáo luật, vào ngày 31-5-1983, Bộ Tu sĩ ban hành văn kiện “Những yếu tố cốt yếu trong Giáo huấn của Hội thánh về đời tu”. Đề tài huấn luyện được nhắc đến ở các số 44-48. Việc huấn luyện người tu sĩ nhằm giúp đời sống tận hiến cho Chúa tăng trưởng, từ những giai đoạn đầu tiên, khi một ứng sinh bắt đầu nghiêm chỉnh nghĩ tới khả năng dấn thân vào con đường tu trì, cho tới lúc hoàn tất chung cục, khi người tu sĩ gặp Chúa vĩnh viễn, trong cái chết. Người tu sĩ chấp nhận một lối sống đặc biệt, và chính đời sống đó phải tăng trưởng mãi không ngừng. Đàng khác, không phải người tu sĩ được kêu gọi và thánh hiến một lần là xong, Tiếng Thiên Chúa kêu gọi và hoạt động thánh hiến của Người phải được theo đuổi suốt cả cuộc đời (số 44). Ở số 48, văn kiện vạch ra các giai đoạn của tiến trình huấn luyện như sau: “Việc huấn luyện không phải làm một lần là xong. Cuộc hành trình đi từ lời mời gọi đầu tiên tới lời đáp trả cuối cùng gồm năm giai đoạn: a) thời kỳ tiền tập (mục đích là tìm hiểu xem có ơn gọi đích thực hay không); b) tập viện (là giai đoạn khai tâm cho một lối sống mới); c) khấn lần đầu (là thời gian để ơn gọi được chín mùi trước khi khấn trọn); d) khấn trọn và thường huấn (là những năm trưởng thành); e) và cuối cùng là thời suy yếu bất cứ dưới hình thức nào (đây là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Chúa vĩnh viễn).

Tóm lại, tuy công đồng Vaticanô II coi việc đào tạo như yếu tố căn bản cho cuộc canh tân các hội dòng, nhưng các văn kiện sau công đồng không đào sâu lắm về đề tài ấy, cách riêng việc đào tạo thường xuyên chỉ được phớt qua. Tình trạng này thay đổi vào cuối thập niên 90, như sẽ thấy dưới đây.

B. Từ cuối thế kỷ XX

 1/ Văn kiện căn bản nhất là Chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các dòng tu: Potissimum institutioni (do Bộ Đời sống thánh hiến ban hành ngày 2-2-1990). Đây là một văn kiện đã được cưu mang 15 năm, vì thế được coi khá chín mùi. Có thể coi đây là một văn kiện đầu tiên trình bày đầy đủ huấn quyền về việc đào tạo các tu sĩ. Nội dung gồm 110 số, được chia thành sáu chương, có thể gom lại thành hai phần chính.

Phần thứ nhất bàn về những yếu tố tổng quát: Chương 1 (Thánh hiến trong đời tu và việc huấn luyện: số 6-18). Chương 2 (Những khía cạnh chung cho tất cả các giai đoạn huấn luyện: số 19-41). Chương 3 (Những giai đoạn huấn luyện, gồm bốn giai đoạn: tiền tập; tập viện; khấn tạm; khấn trọn đời và thường huấn: số 42-71).

Phần thứ hai xét đến vài khía cạnh đặc biệt: Chương 4 (Việc huấn luyện trong các Dòng kín: số 72-85). Chương 5 (Vài vấn đề riêng được nêu lên cho việc huấn luyện: số 86-100) Chương 6 (Việc huấn luyện các ứng sinh lãnh chức linh mục và phó tế: số 101-109).

Như vậy, vấn đề đào tạo thường xuyên được bàn trong chương Ba (từ số 66-71), dưới ba đề mục chính: a) lý do; b) nội dung; c) những thời điểm quan trọng. Chúng ta hãy rảo qua một vòng.

a) Lý do. (số 67) Có ba lý do cơ bản:

– Do chính chức năng của đời sống tu trì giữa lòng Giáo Hội. Chức năng ấy có tính đoàn sủng về cánh chung rất ý nghĩa, đòi buộc các tu sĩ phải đặc biệt lưu tâm đến đời sống của Thánh Linh, trong lịch sử riêng của mỗi người, và trong niềm hy vọng và lo âu của các dân tộc.

– Do những thách đố mà tương lai của niềm tin Kitô giáo đề ra trong một thế giới đang biến chuyển thần tốc.

– Do chính đời sống của các dòng tu và nhất là tương lai của họ. Đời sống và tương lai ấy tùy thuộc một phần vào việc huấn luyện liên tục cho các phần tử của mình.

b) Nội dung (số 68). Việc huấn luyện liên tục là một quá trình đổi mới toàn diện nhắm đến mọi khía cạnh của con người tu sĩ và của toàn thể hội dòng. Bốn khía cạnh đáng lưu ý là:

– Đời sống theo Thần khí hay đời sống tâm linh;

– Tham gia vào đời sống của Giáo hội theo đoàn sủng của hội dòng;

– Bồi dưỡng đạo lý và nghiệp vụ (đào sâu Kinh Thánh và thần học, nghiên cứu các tài liệu của huấn quyền, am hiểu các nền văn hóa tại những nơi mình đang sống và hoạt động, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ thuật);

– Học hỏi đoàn sủng riêng: lịch sử, tinh thần, sứ vụ.

c) Những thời điểm quan trọng (số 70). Việc huấn luyện liên tục mang tính thường xuyên, nhưng đặc biệt là vào những khúc ngoặt của cuộc đời, và dễ sinh ra những khủng hoảng, đáng kể nhất là ở 5 hoàn cảnh sau đây:

– Thời chuyển tiếp từ giai đoạn huấn luyện sơ khởi sang kinh nghiệm đầu tiên của đời sống tự lập hơn.

– Khoảng mười năm sau khấn trọn, tức là thời gian thấy có nguy cơ “sống máy móc” và mất đi tất cả nhiệt tình ban đầu.

– Sự trưởng thành đầy đủ thường có nguy cơ phát triển chủ nghĩa cá nhân, nhất là nơi những người có tính cương quyết và hiệu năng.

– Những khủng hoảng trầm trọng có thể xảy ra cho mọi lứa tuổi do những yếu tố ngoại lai (đổi nơi ở, đổi việc làm, thất bại…) hoặc do những yếu tố trực tiếp nơi cá nhân (bệnh tật về thể lý hay tâm lý, bị thử thách).

– Thời gian rút lui dần khỏi các công việc.

2/ Ngày 2-2-1994, Bộ Tu sĩ phát hành huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Ở số 43, văn kiện nhìn nhận rằng sự canh tân cộng đoàn đã đem lại lợi ích lớn lao nhờ việc đào tạo thường xuyên. Tuy nhiên, văn kiện cũng nhìn nhận rằng chính việc đào tạo sống đời cộng đoàn gặp những khó khăn không nhỏ. Vì thế văn kiện muốn góp phần suy tư về hai điểm trong chương trình đào tạo thường xuyên: a) chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc âm (số 44); b) sự hiểu biết sâu xa về đoàn sủng (số 45-46).

3/ Ngày 25-3-1996, ĐTC Gioan Phaolô II ban hành tông huấn hậu thượng hội đồng Vita consecrata, về sứ vụ đời sống thánh hiến trong Giáo hội và thế giới. Đây là một văn kiện quan trọng nhất của huấn quyền kể từ công đồng Vaticano II. Vấn đề đào tạo thường xuyên được đề cập  ở các số 69-71; phần lớn tư tưởng lặp lại Huấn thị Potissimum institutioni vừa nói trên. Có ba điểm đáng ghi nhận:

a) Về sự cần thiết của thường huấn, số 69 viết: “Thường huấn là một đòi hỏi nội tại của việc thánh hiến tu trì. Tiến trình đào tạo không bị giới hạn vào giai đoạn sơ khởi. Do các giới hạn của con người, người tận hiến không bao giờ có thể coi là đã hoàn tất nơi mình việc thai nghén con người mới”. Vì thế mỗi hội dòng, khi soạn thảo chương trình đào tạo (ratio institutionis), cần nghĩ đến một kế hoạch thường huấn nhằm giúp cho tu sĩ thăng tiến suốt đời trong lãnh vực nhân bản và tu trì (số 68).

b) Số 70, sau khi nói rằng “có một sự trẻ trung tinh thần mà thời gian không thể xóa nhòa: đó là khi đương sự tìm và thấy được trong mọi giai đoạn của cuộc sống, một nhiệm vụ mới cần thực hiện, một phong cách riêng biệt khi sống phục vụ và yêu mến”. Trong các giai đoạn ấy, tông huấn đã nêu bật 5 thời điểm đặc biệt, tuy nhìn nhận rằng các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra ở bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống: (i) Những năm đầu của việc hội nhập vào hoạt động tông đồ; (ii) ở tuổi trung niên; (iii) giai đoạn đứng tuổi; (iv) tuổi cao niên; (v) lúc sắp lìa đời; đó là chưa kể những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống có thể gây khủng hoảng. Tông huấn lấy lại tư tưởng mà huấn thị Potissimum institutioni đã nói.

c) Những chiều kích của việc huấn luyện. Tông huấn (số 71) lấy lại tư tưởng của huấn thị Potissimum institutioní số 68, diễn tả qua năm lãnh vực: (i) đời sống tâm linh; (ii) chiều kích nhân bản và huynh đệ; (iii) chiều kích tông đồ; (iv) chiều kích văn hóa và nghề nghiệp; (v) chiều kích đoàn sủng của dòng.

4/ Ngày 8-12-1988, Bộ các Hội dòng thánh hiến đã phát hành Huấn thị “Về sự hợp tác liên dòng trong việc huấn luyện”, nhằm bổ túc cho huấn thị Potissimum institutioni. Sự hợp tác này thường được diễn ra ở giai đoạn huấn luyện khởi đầu (chẳng hạn các lớp triết học và thần học, và giáo lý), nhưng cũng có thể được tổ chức cho giai đoạn thướng huấn (số 18), chẳng hạn như những dịch vụ thường xuyên và định kỳ để cổ xúy đời sống tâm linh, cập nhật thần học mục vụ và nâng cao trình độ để chu toàn nhiệm vụ được ủy thác, đặc biệt là trong việc đào tạo các nhà đào tạo (số 23-26).

5/ Bước sang thế kỷ XX.

Chúng tôi chỉ xin ghi nhận vài văn kiện có nhắc đến việc đào tạo thường xuyên:

– Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Kitô” (19-5-2002). Số 15. Việc đào tạo nhắm tới việc đồng hóa tiệm tiến những tâm tình của Đức Kỉtô. Đời sống thánh hiến tự bản chất là một sự huấn luyện không bao giờ kết thúc nhằm tham gia vào hành động của Chúa Cha, Đấng, nhờ Thánh Linh, uốn nắn trong lòng con người những tâm tình Người Con. Vì vậy những người thánh hiến được huấn luyện để tự mình học tập suốt đời, trong mọi môi trường mọi lứa tuổi và mọi giai đoạn, trong mọi môi trường và mọi nền văn hóa, để có thể học hỏi bất cứ sự thật và vẻ đẹp nào chung quanh họ.

– Huấn thị “Quyền bính và vâng phục” (11-5-2008). Số 14 nhắc đến nhiệm vụ của các bề trên đồng hành với lộ trình thường huấn.

– Huấn thị “Căn tính và sứ mạng tu huynh trong Giáo hội” (4-10-2015). Số 35 đề cập đến thường huấn dưới viễn tượng nuôi dưỡng niềm hy vọng.

– Bản định hướng “Rượu mới bầu da mới” (3-1-2017), nhận xét rằng về việc thường huấn, có nguy cơ nói rất nhiều, nhưng thực hiện quá ít. Nếu chỉ tổ chức các khóa học lý thuyết về thần học và bàn luận đề tài về linh đạo thì chưa đủ, nhưng rất cần phải phát triển văn hóa đào tạo liên tục (số 14). Việc thường huấn  được so sánh với “cuộc cải hoán lần thứ hai” diễn ra vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời (số 35).

II. Tổng hợp

Trong phần thứ hai, chúng tôi xin trình bày hai điểm chính: 1/ Bản chất của việc thường huấn; 2/ Những phương thế. Mặc dù bàn đến việc thường huấn trong các Dòng tu, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi cũng đối chiếu với các văn kiện Tòa Thánh về việc thường huấn các linh mục.

Nhận xét đầu tiên là khi so sánh việc đào tạo thường xuyên các linh mục, ta thấy các văn kiện về việc đào tạo các tu sĩ dồi dào hơn, và hầu hết đều được ban hành bởi Bộ các Hội dòng thánh hiến (Bộ tu sĩ), và chỉ có một văn kiện của Giáo hoàng, tức là tông huấn Vita consecrata của ĐTC Gioan Phaolô II.

Mặt khác, cũng phải nhận rằng phần lớn các văn kiện bàn đến việc đào tạo nói chung. Văn kiện bàn về việc đào tạo thường xuyên cách hệ thống mạch lạc hơn cả là huấn thị Potissimum institutioni, được tông huấn Vita consecrata lấy lại.

A. Bản chất thường huấn: quan niệm mới

Chúng ta thấy có sự tiến triển trong quan niệm về thường huấn trong những năm gần đây. Thực vậy, quan niệm về thường huấn mới ra đời vào giữa thế kỷ XX, vì thế không lạ gì mà nó chưa xuất hiện trong các văn kiện Giáo hội trước Vaticanô II. Công cuộc đào tạo tu sĩ cũng như giáo sĩ được coi như kết thúc với việc khấn trọn đời hoặc thụ phong linh mục. Dần dần người ta mới thêm những khóa “mục vụ” để học thêm những kỹ năng thực hành nhằm bổ túc cho các kiến thức khá nặng về lý thuyết trong việc đào tạo quy củ.

Vào giữa thế kỷ XX, trước những thay đổi mau lẹ của khoa học kỹ thuật, người ta thấy cần phải tổ chức những khóa huấn luyện để “canh tân, cập nhật, bồi dưỡng” ngõ hầu theo kịp đà tiến của xã hội. Đây là một nhu cầu theo xã-hội-học, và thường chỉ giới hạn vào lãnh vực kiến thức (hiểu biết hay thực hành). Từ đó mới nảy ra những thuật ngữ: huấn luyện / đào tạo liên tục / thường xuyên (ongoing formation / continued training / education / formation), hoặc “tu nghiệp”.

Giáo hội cũng cảm thấy nhu cầu tương tự đối với các nhân viên của mình: bên ngoài, xã hội đang thay đổi; bên trong, Giáo hội sau công đồng Vaticanô II đang thúc đẩy việc canh tân. Không lạ gì mà đó đây nhiều khóa tu nghiệp hoặc bồi dưỡng được tổ chức. Tuy nhiên, bên cạnh những lý do thuộc nghiệp vụ, trong những thập niên gần đây, Giáo hội còn phải đương đầu với một thách đố khác: nhiều tu sĩ hoặc giáo sĩ xin hồi tục vì không thấy hạnh phúc trong ơn gọi của mình. Tại sao vậy? Có lẽ động lực không chỉ bởi vì họ không thể thích nghi với thời đại, nhưng còn bởi vì họ gặp những khủng hoảng trong ơn gọi của mình. Từ đó, việc thường huấn trở thành khẩn trương và phần nào cũng làm thay đổi quan niệm về bản chất của nó: việc cập nhật kiến thức mà thôi chưa đủ; cần phải đổi mới lòng say mê với ơn gọi nữa. Đây là điều mà có lẽ ít người nhận ra khi phân tích các văn kiện về đào tạo.  Sự mới mẻ nằm ở hai điều căn bản: thứ nhất, tương quan giữa đào tạo khởi đầu và đào tạo thường xuyên; thứ hai, phạm vi thường huấn. Hai điều này sẽ làm thay đổi tất cả các nguyên tắc liên quan đến trách nhiệm và những phương thức thể hiện thường huấn.

1/ Đào tạo khởi đầu và đào tạo thường xuyên

Trước đây, người ta cho rằng việc đào tạo kết thúc với lời khấn trọn đời (hoặc chịu chức). Những gì tiếp theo đó chỉ nhằm bổ túc thêm. Quan niệm như vậy coi thường huấn như bổ túc cho huấn luyện sơ khởi, và giới hạn vào phạm vi kiến thức: cần phải ôn lại những gì đã học ở nhà trường (để lâu ngày thì dễ quên) hoặc cập nhật hóa sự hiểu biết theo đà tiến của  khoa học. Bây giờ người ta quan niệm ngược lại, việc đào tạo là một tiến trình bao gồm toàn diện con người và kéo dài suốt đời; vì thế việc huấn luyện sơ khởi chỉ là chuẩn bị cho việc huấn luyện liên tục. Có thể nói được rằng việc đào tạo chính thức bắt đầu từ lúc khấn trọn đời (tu sĩ) hoặc thụ phong linh mục (giáo sĩ). Tại sao? Bởi vì đối với ơn gọi tu sĩ hay linh mục, thì việc đào tạo có một nội dung sống động, đó là đáp lại tiếng gọi của Chúa. Việc huấn luyện sơ khởi giúp cho đương sự đáp lại tiếng gọi ấy một cách ý thức (qua lời khấn dòng, hoặc lãnh chức thánh). Sau khi đáp lại tiếng “Xin vâng” ấy, việc huấn luyện thường xuyên giúp cho đương sự duy trì cho lời cam kết ấy luôn sống động. Mặt khác, lời cam kết tận hiến (tu sĩ hoặc giáo sĩ) bao hàm việc “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”. Điều này không thể nào diễn ra trong nháy mắt, nhưng đòi hỏi một tiến trình hoán cải liên lỉ, ngõ hầu lột bỏ con người cũ, và dần dần mặc lấy những tâm tình của con người mới giống như Đức Kitô (Pl 2,5).

Hiểu như thế, tông huấn Vita consecrata  (điều 70) quan niệm thường huấn như là một sự “trung tín năng động” (fidelitas dynamica). Tông huấn Pastores dabo vobis (điều 70) diễn tả mối liên hệ giữa đào tạo sơ khởi với đào tạo thường xuyên qua công thức: vocatio ad sacerdotiumvocatio in sacerdotio. Nói cho cùng đây chỉ là nhắc lại lời của thánh Phaolô nhắn nhủ ông Timotê:  “Hãy làm khơi dậy ân huệ Thiên Chúa ở nơi anh” (x. 2 Tm 1,6).

2/ Các khía cạnh của việc đào tạo thường xuyên

Như đã nói trên đây, ngoài xã hội, việc thường huấn thường chỉ giới hạn vào lãnh vực kiến thức. Trong Giáo hội, nhiều người cũng thường nghĩ như vậy. Nhưng các văn kiện gần đây của Giáo hội (chẳng hạn hai tông huấn Pastores dabo vobis Vita consecrata) đều nhấn mạnh đến sự việc đào tạo toàn diện, nghĩa là toàn thể con người giáo sĩ hoặc tu sĩ, thường được mô tả qua bốn khía cạnh: nhân bản – tâm linh – đạo lý – tông đồ. Việc liệt kê các khía cạnh này không hàm ngụ hệ trật giá trị (cái gì cao nhất) cho bằng đi từ cái chung đến cái riêng. “Nhân bản” liên quan đến tất cả con người, cả hồn lẫn xác. “Tâm linh” liên quan đến chiều kích tín ngưỡng, cách riêng liên quan đến mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. “Đạo lý” liên quan đến lãnh vực đức tin và thần học Kitô giáo. “Tông đồ” được hiểu về lãnh vực mục vụ; đối với các tu sĩ, nó được hiểu về đoàn sủng của mỗi dòng. Sự phân biệt các khía cạnh mang tính cách miêu tả lý thuyết; trên thực tế, tất cả bốn đều có liên hệ với nhau, chẳng hạn như “tâm linh” không thể nào tách rời khỏi “tâm lý” của cá nhân và “linh đạo” của mỗi dòng.

Dưới một khía cạnh khác, các văn kiện Tòa Thánh cũng vạch cho thấy những “méo mó” thường gặp trên tiến trình sống ơn gọi, và vì thế cần được lưu ý trong vấn đề đào tạo.

a) Nhân bản. Trên nguyên tắc, theo dòng thời gian, con người phải chín chắn già dặn hơn. Tuy nhiên, tình trạng tương phản không chỉ là con người ấu trĩ, nhưng còn là người khó tính khó nết, cau có, cộng thêm thái độ hách dịch, kiêu căng. Nhiều người quy gán cho não trạng giáo-sĩ-trị (cléricalisme); nhưng có người giải thích rằng tiền tài và địa vị chẳng qua chỉ là sự bù trừ cho tình trạng trống vắng tình cảm của người độc thân, dưới danh nghĩa là “làm sáng danh Chúa”!

b) Tâm linh. Nói đơn giản, đường tâm linh là đường nên thánh. Có lẽ chúng ta không kỳ vọng muốn làm thánh. Nhưng thử hỏi: liệu người đời cho nhận ra nơi chúng ta những bậc “chân tu” hay không, sau khi đã mừng ngân khánh, kim khánh, ngọc khánh khấn dòng hoặc chịu chức?

c) Đạo lý. Khía cạnh này thường được nhấn mạnh hơn cả, qua các lớp tu nghiệp, các khóa thường huấn. Tiếc rằng người ta giới hạn việc thường huấn vào các khóa học học hỏi mà quên rằng những buổi “tĩnh tâm” cũng là thường huấn!

d) Tông đồ. Đây cũng là một lãnh vực khá mênh mông. Còn rất nhiều kỹ năng mà chúng ta cần học hỏi để thi hành sứ vụ, chẳng hạn như trong ngành truyền thông xã hội. Nhưng chỉ xin lưu ý một khía cạnh, đó là sự dấn thân cho sứ vụ. Nhiều người an phận với một công tác nào đó, nhưng không sẵn sàng “lên đường” tới các sứ vụ mà Giáo hội (hay Dòng) đang cần!

3/ Các tác nhân

Quan niệm mới mẻ về thường huấn kéo theo sự đổi mới trong những người có trách nhiệm thực hành. Tác nhân chính yếu là bản thân mỗi người (dĩ nhiên là với ơn Chúa).

a) Chính đương sự

Mỗi khi bàn về đào tạo (giáo dục, huấn luyện), chúng ta lập tức nghĩ đến những nhà huấn luyện (nhà giáo) và những người được huấn luyện (môn sinh, người thụ huấn). Cha ông chúng ta đã chẳng nói rằng: “Không thầy đố mầy làm nên” đấy ư? Tuy nhiên, thứ tự đã bị đảo ngược trong văn kiện của Bộ Đời sống thánh hiến Những chỉ dẫn về việc huấn luyện khi đặt trách nhiệm trước tiên cho chính cá nhân tu sĩ (điều 29), rồi mới đến các vị huấn luyện (điều 30). Thứ tự này áp dụng cho toàn thể việc đào tạo, và lại càng đúng hơn nữa khi bước sang giai đoạn thường huấn. Lý do là vì việc đào tạo nhằm giúp tu sĩ đáp lại cách tự do tiếng gọi của Thiên Chúa; đây là chuyện cá nhân của tu sĩ, và không ai làm thay được. Điều này mang theo ít là hai hệ luận khi soạn thảo chương trình đào tạo cho một cộng đoàn (tu viện, tỉnh dòng, toàn đòng).

–  Hệ luận thứ nhất: mọi chương trình đào tạo cần được cá-biệt-hóa. Mỗi người là một hữu thể có-một-không-hai trên đời này. Mỗi người cần có một chương trình riêng, phù hợp với điều kiện của mình. Thỉnh thoảng cần biết đọc lại lịch sử của cuộc đời, để khám phá những “dấu chỉ” của Chúa Quan phòng trong đó.

–  Hệ luận thứ hai: mọi kế hoạch đào tạo tùy thuộc vào quyết tâm của đương sự. Mỗi người cần nhận thức sự cần thiết của việc thường huấn và cam kết thực hiện. Nếu thiếu sự quyết tâm, thì bao nhiêu dự án được tổ chức ở cấp cộng đoàn hoặc giáo phận đều vô ích. Sự quyết tâm này bao hàm sự ngoan ngoãn tuân theo Lời Chúa và Thánh Linh (docibilitas: một thuật ngữ được tạo ra để nói đến ý muốn học hỏi, học từ đời sống), để mỗi ngày trung thành với Tin Mừng hơn. Tôi biết rằng mình còn bất toàn, và cương quyết tiến lên.

b) Cộng đoàn địa phương

Đối với các tu sĩ, cộng đoàn địa phương là môi trường thường xuyên của việc đào tạo, nơi mà tu sĩ sống cuộc đời dâng hiến, không chỉ qua việc thi hành ba lời khuyên Tin Mừng, mà còn qua việc đọc kinh, làm việc, tông đồ. Cộng đồng cũng nâng đỡ đương sự qua nhiều cách thức khác: những gương xây dựng, những lời khuyến khích hoặc sửa bảo, những cơ hội cổ võ thường huấn như sẽ nói dưới đây.

B. Phương thế thường huấn

Chúng tôi xin trình bày hai điểm: những hình thức và những thời điểm.

1/ Những hình thức

Như trên đã nói, thường huấn có nghĩa là huấn luyện thường xuyên, liên tục, mỗi ngày. Nhưng trên bình diện cơ cấu cộng đoàn, cần tổ chức những buổi thường huấn vào vài dịp đặc biệt.

Từ sau công đồng Vaticanô II, nhiều sáng kiến đó đây đã được đề ra để giúp cho việc thường huấn, được Ủy ban giáo sĩ của Hội đồng Giám mục Italia (năm 2000) gom vào bốn nhóm như sau[2]:

a) Tâm linh: Những cuộc tĩnh tâm chung mỗi tháng hoặc hằng năm. Bên cạnh các bài giảng, còn có những cuộc trao đổi chia sẻ. (Có lẽ ở Việt Nam, các cuộc tĩnh tâm chưa được đánh giá như là “thường huấn”).

b) Thần học: Những buổi hội thảo, hoặc những lớp bồi dưỡng, hoặc những khóa tu nghiệp. (Bên cạnh những phương tiện cổ truyền, thiết tưởng cần thêm internet, nơi mà chúng ta tìm thấy những kho tài liệu khổng lồ).

c) Mục vụ: thảo luận về những vấn đề nằm trong kế hoạch mục vụ tại địa phương. Những khóa đặc biệt dành cho các tân linh mục hoặc các linh mục mới được bổ nhiệm làm Cha Sở.

d) Gặp gỡ huynh đệ. Các cuộc gặp gỡ nhân ngày thánh hóa linh mục, truyền chức, hay các lễ trong giáo phận. Đối với các giáo sĩ giáo phận, các văn kiện Tòa Thánh khuyến khích thiết lập những hiệp hội cổ võ đời sống huynh đệ để nâng đỡ khích lệ nhau.

2/ Những thời điểm

Giai đoạn đào tạo sơ khởi được phân chia thành nhiều chặng, chẳng hạn như: tiền tập viện, tập viện, khấn đơn, khấn trọn đời đối với các tu sĩ; hoặc: tiền chủng viện, triết học, năm thực tập, thần học, năm mục vụ, đối với các chủng sinh. Nhưng khi bước sang cuộc đào tạo thường xuyên thì không thể phân thành các chặng như vậy, một phần bởi vì giai đoạn rất dài và mang tính cá vị, nhưng đã nói trên đây. Tuy vậy, các văn kiện của Tòa Thánh về đào tạo tu sĩ và giáo sĩ đều nêu bật vài thời điểm cần đến thường huấn đặc biệt (và không chỉ về trí thức mà thôi), khi đương sự gặp những cuộc khủng hoảng.

Những cuộc khủng hoảng có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc đời, chẳng hạn do bệnh tật thể lý hoặc tâm thần, do sự mất mát một người thân, do sự thất bại trong công việc. Dĩ nhiên, những hoàn cảnh rất là cá biệt, và không thể dự đoán được. Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm của khoa tâm lý học, người ta có thể phân biệt được vài “chu kỳ” trong cuộc đời, thường dễ gây khủng hoảng, được nói khá tỉ mỉ trong các văn kiện của Tòa Thánh về đào tạo giáo sĩ và tu sĩ: a) những năm đầu tiên sau khi mãn khóa; b) tuổi trung niên; c) người cao niên.

Tu sĩ trẻ vừa mới hoàn tất việc đào tạo sơ khởi.

Việc chuyển đổi môi trường rất dễ gây sốc: từ tình trạng được hướng dẫn, sang tình trạng tự lập; từ cộng đoàn đào tạo với những phần tử thuộc cùng lứa tuổi, sang cộng đoàn hoạt động với những phần tử thuộc nhiều lứa tuổi và não trạng khác nhau. Vì thế các quy chế đào tạo nên dự trù những thời điểm thuận lợi để các tu sĩ này cơ hội chia sẽ kinh nghiệm với nhau, dưới sự hướng dẫn của một người đàn anh từng trải.

b) Lứa tuổi trung niên.

Khoảng 10 năm sau khấn trọn đời hay chịu chức. Tu sĩ đã dần dần quen hoạt động, với nguy cơ là sống cách máy móc, đó là chưa kể giảm sút sức khỏe hoặc không thu lượm được nhiều thành quả. Vì thế đương sự cần được giúp đỡ để lấy lại niềm hăng say. Nhiều nơi đề nghị một kỳ nghỉ “sabat”, để bồi dưỡng chuyên nghiệp hoặc tâm linh, mục vụ[3].

c) Tuổi cao niên

Sức lực đã suy giảm. Tu sĩ bắt đầu rút lui khỏi hoạt động. Dễ cảm thấy bị bỏ rơi, trở thành vô dụng. Cộng đoàn cần làm thế nào để nâng đỡ tinh thần cho người anh em ấy, để giúp họ cảm thấy mình luôn luôn có thể góp phần xây dựng Nước Chúa, bằng hy sinh, cầu nguyện, truyền thụ kinh nghiệm cho lớp trẻ. Ngoài ra, mỗi người cũng cần chuẩn bị cho tuổi già, qua lời dạy của Thánh vịnh 92,12: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan biết phân biệt cái gì là chính yếu trong cuộc đời, và cái gì là thứ yếu.”

Dù sao, chúng ta không thể bỏ qua những cuộc “khủng hoảng”[4] nằm trong chính ơn gọi của mình, sự căng thẳng giữa đời sống cộng đoàn và công tác mục vụ, giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa sáng kiến riêng và sự hợp tác chung, vv …

Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng có ba điểm quan trọng đã làm thay đổi quan điểm về thường huấn (đào tạo thường xuyên) trong đời tu vào những năm gần đây.

1/ Thường huấn không phải là phụ thêm cho huấn luyện sơ khởi, nhưng là ngược lại: huấn luyện sơ khởi chuẩn bị cho thường huấn. Việc huấn luyện kéo dài suốt đời.

2/ Việc thường huấn không chỉ giới hạn vào lãnh vực trí thức mà còn bao gồm toàn thể con người, trong đó chiều kích tâm linh giữ vai trò trọng yếu. Nói khác đi, việc thường huấn nhắm đến việc nên thánh, qua việc duy trì tình bạn hữu thân mật với Chúa Giêsu.

3/ Do đó, người có trách nhiệm đầu tiên của việc thường huấn là chính mỗi người tu sĩ (hay giáo sĩ). Những nhân viên, cơ quan, thể chế được đặt ra nhằm hỗ trợ cho nỗ lực của đương sự. Nếu thiếu sự quyết tâm của đương sự thì các hỗ trợ ấy không mang lại ích lợi gì.

Cuối cùng, đừng bao giờ quên rằng việc đào tạo không chỉ tùy thuộc vào nỗ lực của ta, nhưng còn là kết quả của sự hợp tác với ơn thánh Chúa: ơn kêu gọi cũng như ơn trung thành. Cũng như các trường hợp khác của ơn gọi, chính Chúa là tác nhân chính; chúng ta hãy mở rộng lòng đón nhận ơn Chúa. Người đứng ở cửa và gõ … (Kh 3,20). Đôi khi chính Ngài gây ra những cuộc khủng hoảng để lay động chúng ta và mời gọi chúng ta hãy lên đường.

Kết luận

Như đã nói ở đầu, trong việc đào tạo linh mục, Tòa Thánh ra một Ratio formationis có giá trị cho toàn thế giới; còn với các dòng tu, Tòa Thánh chỉ đưa ra vài đường hướng chỉ dẫn, chứ không đề ra một Ratio chung. Mỗi dòng sẽ soạn Ratio phù hợp với đặc sủng của mình. Tuy vậy, thiết tưởng nên ghi nhận một “luật trừ”, đó là Bộ các Hội dòng Đời sống thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ đã ban hành một văn kiện có thể được coi như Ratio dành cho các nữ tu chiêm niệm, mang tựa đề: Nghệ thuật tìm kiếm thánh nhan Thiên Chúa. Những định hướng cho việc đào tạo các nữ tu chiêm niệm (15-8-2019)[5].

Văn kiện này có hai điểm đáng lưu ý: 1/ Tầm quan trọng của việc đào tạo thường xuyên. 2/ Những khía cạnh cụ thể của sự tăng trưởng về mặt nhân bản, Kitô hữu và đoàn sủng.

1/ Tầm quan trọng của việc đào tạo thường xuyên

Thông thường, các văn kiện về đào tạo đi theo một tiến trình tự nhiên: Đào tạo khởi đầu (dự tu, thỉnh tu, tập viện, thời gian khấn tạm); Đào tạo thường xuyên. Tuy nhiên, trong văn kiện này, sau khi đã bàn về Chủ thể tiến trình đào tạo (chương 1); Những chiều kích của việc đào tạo, môi trường đào tạo và các tác nhân của việc đào tạo (chương II), văn kiện đề cập đến việc đào tạo thường xuyên (chương III), rồi mới đến việc đào tạo ban đầu (chương IV).

Thứ tự này phản ánh một quan điểm mới về đào tạo thường xuyên. Theo thứ tự thời gian, thì giai đoạn đào tạo ban đầu đi trước giai đoạn đào tạo thường xuyên. Nhưng xét về tầm quan trọng thì cần đảo ngược thứ tự: việc đào tạo “thường xuyên” được đưa lên trước việc đào tạo “ban đầu”. Tại sao vậy? Thưa vì hai lý do:

a) Xét về thời gian, giai đoạn thường xuyên kéo dài hơn (có khi cả nửa thế kỷ hay hơn nữa), trong khi giai đoạn ban đầu dài lắm cũng chỉ trên dưới 10 năm.

b) Sau khi đã khấn trọn, tu sĩ gặp nhiều khủng hoảng hơn, như Potissimum institutioni đã nói! Vì thế, thay vì nói rằng “đào tạo thường xuyên tiếp tục đào tạo ban đầu”, thì ta phải nói ngược lại: “đào tạo ban đầu chuẩn bị cho đào tạo thường xuyên”.

Dĩ nhiên, việc đào tạo thường xuyên cũng cần mang tính cách toàn diện, nghĩa là: nhân bản, Kitô hữu, tâm linh, đoàn sủng.

2/ Những khía cạnh cụ thể của sự tăng trưởng

Trong phần phụ lục, văn kiện mô tả “Những khía cạnh cụ thể của sự tăng trưởng về mặt nhân bản, Kitô hữu và đoàn sủng”. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn, hy vọng rằng nó sẽ giúp ích cho nhiều hội dòng.

Những khía cạnh của sự tăng trưởng về mặt nhân bản và Kitô hữu, mặc dù về lý thuyết chúng khác biệt nhau, nhưng lại phát triển như một bộ phận thống nhất trong đời sống thực tiễn.

Trong nhũng khía cạnh quan trọng hơn hết của sự tăng trưởng về mặt nhân bản và Kitô hữu, việc đào tạo chú ý đến nhũng khía cạnh sau đây:

(1) Những khía cạnh của sự tăng trưởng về mặt nhân bản

a) Đối với bản thân

– Hiểu biết và chấp nhận chính mình và cảm thức về căn tính riêng;

– Cảm thức về sự tự do cá nhân, sự sáng tạo và trách nhiệm cho cuộc sống của mình;

– Khả năng phân định, quyết định và đảm nhận một sự cam kết;

– Cam kết trong sự tăng trưởng về thể chất, tâm lý, luân lý, thiêng liêng và xã hội, xét về mặt luân lý và tâm linh;

– Sự quân bình cảm xúc và tình cảm;

– Khả năng siêu thăng và vượt lên tính quy ngã;

– Ý thức và chấp nhận ân huệ của phái tính của mình và khao khát sống khiết tịnh;

– Sẵn sàng lao động chân tay;

– Mở ra và khả năng đón nhận những giá trị, thái độ, viễn cảnh và kinh nghiệm mới;

– Khả năng chấp nhận, sống, đối thoại và làm việc với người khác, kể cả những người thuộc nền văn hóa khác;

– Cảm thức về công lý và hòa bình;

– Khả năng liên đới với nhũng người nghèo;

– Chân thật và trung thành;

– Hân hoan và vui tươi.

b) Đối với cộng đoàn

– Khả năng phát triển các mối tương quan liên vị tích cực với các nũ tu khác;

– Khả năng truyền đạt và đối mặt với nhũng xung đột theo cách thức tích cực;

– Tinh thần hợp tác;

– Thái độ cởi mở và uyển chuyển.

c) Đối với thế giới

– Khả năng đọc “các dấu chỉ của thời đại”;

– Liên đới với nhũng người nghèo và người bên lề xã hội.

(2) Những khía cạnh của sự tăng trưởng về mặt Kitô hữu

a) Đối với Thiên Chúa

Cảm thức về lòng biết ơn;

Khao khát sự hoán cải liên tục;

Đời sống của đủc tin, được diễn giải qua lời nói và hành động, và đời sống của đức cậy;

Sự tăng trưởng trong tình yêu vô điều kiện;

Tìm kiếm Thánh Ý Thiên Chúa trong mọi sự;

Khao khát tìm kiếm và thi hành Thánh Ý Thiên Chúa;

Khao khát câu nguyện và khao khát trở nên một con người chỉ tập trung vào Thiên Chúa;

Tương quan cá vị với Chúa Giêsu Kitô được nuôi dưỡng bằng những cử hành thường xuyên các Bí Tích và bằng việc suy gẫm Lời Chúa, và một sự cam kết nghiêm túc trong việc bước theo Người;

Hiểu biết đức tin công giáo và yêu mến Giáo Hội;

Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa và hành động củu độ của Người trong chính đời sống của mình, trong Giáo Hội và toàn thế giới;

Khao khát được loan báo Tin Mừng và đi loan báo Tin Mừng bằng chứng tá của đời sống và lời nói mang đặc tính chiêm niệm;

Tinh thần ngôn sứ, truyền giáo và đại kết.

b) Đối với mối quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới

Cảm thúc vê sự hiện diện của Thiên Chúa trong thê’ giới;

Hiểu biết đức tin công giáo:

Yêu mến Giáo Hội công giáo;

Tinh thân truyền giáo và đại kết;

Tìm kiếm công lý và hòa bình.

(3) Những khía cạnh của sự tăng trưởng theo đoàn sủng riêng

a) Đối với Thiên Chúa

Buớc theo Chúa Kitô khiêm nhuờng và nghèo khó;

Đời sống theo Tin Mừng cách triệt để;

Đời sống đền tội;

Tinh thần cầu nguyện và sùng đạo.

b) Đối với cộng đoàn / tình huynh đệ

Yêu mến cộng đoàn của mình;

Yêu mến và thông cảm dành cho từng chị em;

Phục vụ trong tình huynh đệ, đặc biệt là đối với các chị lớn tuổi và đau yếu;

Vâng phục lẫn nhau trong tình bác ái;

vuợt tháng sự ích kỷ, ý riêng và những sức mạnh làm ngăn trở việc xây dựng cộng đoàn/ tình huynh đệ;

sẵn sàng lao động tay chân;

Tham gia tích cực vào đời sống cộng đoàn và đời sống huynh đệ.

c) Đối với mối quan hệ giữa Giáo Hội và thế giới

Yêu mến Giáo Hội;

Yêu mến vâng phục các vị mục tử;

Loan báo Tin Mừng và truyền giáo;

Tinh thần ngôn sứ;

Lựa chọn ưu tiên vì nguời nghèo;

Dấn thân vào cuộc hòa giải và tha thứ;

Tôn trọng thiên nhiên và môi truờng sống.

 ————————————

Thư mục

Phần lớn các văn kiện Tòa Thánh về đời tu đã được dịch sang tiếng Việt và thu tập trong bộ sách “Theo Chúa Kitô. Các văn kiện đời tu”, gồm 2 tập:

Tập I gồm những văn kiện từ Công đồng Vaticanô II đến tông huấn Vita Consecrata (1964-1994), do linh mục Giuse Nguyễn Tất Trung O.P. làm chủ biên, được xuất bản năm 1999, và tái bản vào năm 2014 và năm 2021.

Tập II gồm những văn kiện tiếp theo, do linh mục Giuse Phan Tấn Thành O.P. làm chủ biên, được xuất bản năm 2006, và được tái bản vào năm 2014 và 2021.

————————————

[1] Gonzalo Tejerina Arias, OSA, Formación permanente. La enseñanza del magisterio eclesial. In: Revista CONFER • Volumen 58 • Nº 222 • Abril-Mayo-Junio 2019 • pp. 163-186.

[2] CEI Commissione per il Clero, La formazione permanente dei presbiteri (Lettera 18 maggio 2000), nn. 4-7. Bộ Giáo sĩ, Kim chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục (2013), mô tả chi tiết các phương tiện này từ số 99-104.

[3] Nên ghi nhận rằng thường tuổi trung niên được hiểu vào khoảng 40-45 tuổi. Trước năm 1975, tu sĩ hoặc chủng sinh ra trường năm 26 tuổi, và đến tuổi 40 thì đã có nhiều người làm giám mục hoặc bề trên cao cấp. Ngày nay, tuổi ra trường là 35, và người ta cứ muốn trẻ mãi, cho nên hiếm khi thấy một giám mục dưới 60 tuổi !

[4] “Khủng hoảng” dịch bởi chữ “crisis” (tiếng Anh và crise tiếng Pháp). Theo tầm nguyên Hán Việt, “khủng hoảng” có nghĩa là quá sợ hãi, làm đầu óc rối loạn (khủng: sợ hãi; hoảng: đầu óc rối loạn, không còn phân biệt gì). Tuy nhiên, gần đây, người ta nhận thấy rằng crisis được chuyển sang tiếng Hoa là “nguy cơ”. Từ này gồm bởi hai từ: “nguy” (là sợ hãi vì điều tai hại có thể xảy đến) và “cơ” (vừa có nghĩa là căn cớ, vừa có nghĩa là cơ hội, dịp may). Như vậy, nó sát với nguyên gốc Hy lạp, bởi vì krisis có nghĩa là “phân tích, cân nhắc, thử thách”. Do đó cái crisis không hẳn là tiêu cực, nhưng có thể trở thành cơ may để trưởng thành.

[5] Bản dịch tiếng Việt do Đan viện Cát Minh Saigon thực hiện. Nhà xuất bản Đồng Nai, 2020, 120 trang.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here