Trần Văn Ðoàn
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan, Trung Hoa Dân Quốc
DẪN NHẬP
Một dân tộc vĩ đại là một dân tộc có một nền văn hóa sâu đậm và quảng bác. Văn hóa nói chung thường được hiểu như “cốt hồn cốt túy”, như là linh hồn, hay tinh thần của dân tộc đó. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nền văn hóa đều vĩ đại.[1] Vậy thì, cái gì làm văn hóa sâu đậm và quảng bác, cái gì khiến văn hóa được coi như quốc hồn quốc túy, như là tinh thần của dân tộc? Theo Hegel, đó chính là triết học. Triết học chính là cái nguyên lý xác định cái cốt hồn cốt túy này. Triết học chính là cái tinh thần tuyệt đối mà Hegel từng chứng minh trong tác phẩm bất hủ Die Phaenomenologie des Geistes (1807).[2] Hiểu theo Hegel, ta có thể nói, một dân tộc vĩ đại phải có một nền văn hóa sâu đậm và quảng bác, mà một nền văn hóa như vậy phải xây trên một nền triết học vĩ đại.
Ý thức như thế, các nhà triết học luôn ưu tư đi tím cái gọi là triết lý dân tộc. Triết học của Socrates, Plato, Aristotle phản ảnh lối suy tư, vấn đề, hy vọng cũng như mỹ cảm của người Hy lạp. Triết học của Khổng Tử, Lão Tử nói lên cách nhìn và giải quyết vấn đề của người Trung hoa, trong khi những suy tư trong các bộ kinh điển Vệ Ðà, Upanishads, vân vân, là những mối ưu tư của người Ấn độ về thế giới, về con người, và về vĩnh cửu. Những nền triết học dân tộc này trở thành triết học thế giới, phần vì sức mạnh quân sự, kinh tế của người Hy lạp, Trung hoa và Ấn độ, song phần chính là những suy tư của họ, những vấn đề của họ, những khát vọng của họ, những ưu tư của họ, và nhất là những niềm tin vào sự vĩnh cửu, vào một tương lai viên mãn, vân vân, đều là những vấn đề, ưu tư, cảm giác, niềm tin chung của tất cả nhân loại. Ðây là lý do duy nhất có thể giải thích được sức mạnh văn hóa của họ, ngay cả khi cái uy lực quân đội, cái thế lực kinh tế của họ đã sụp đổ.
Việt Nam chúng ta luôn tự hào với bốn ngàn năm văn hiến.[3] Song chúng ta đôi khi tự hỏi, có phải chính nhờ nền văn hiến này mà chúng ta không bị nền văn hóa Trung hoa, Ấn độ và Âu Mỹ thôn tính.[4] Nếu qủa thật như vậy, thì vấn đề quan trọng chúng ta phải làm sáng tỏ, đó là văn hiến Việt là loại văn hiến gì mà có một uy lực cực mạnh như thế? Ðây là một vấn đề quan trọng mà giới triết học Việt nói chung luôn luôn muốn khơi quật.[5]
Câu hỏi mà chúng ta đặt ra nơi đây, đó là làm sao có thể khơi quật được những nền tư tưởng (triết lý) để viết ra một bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, tức tiêu chuẩn khoa học, khách quan song vẫn mang được sắc thái dân tộc. Bộ sách này có thể làm kim chỉ nam hướng đạo cho những chương trình nghiên cứu khơi quật văn hóa Việt sau này. Câu hỏi này luôn đi đôi với câu hỏi khác, đó là làm thế nào để phân biệt triết học khỏi những tư duy thường nhật, triết học khỏi văn hóa. Mà câu hỏi thứ hai xem ra lại quan trọng hơn cả câu hỏi thứ nhất, bởi lẽ nếu chúng ta lẫn lộn giữa tư duy, văn hóa và triết học, chúng ta khó có thể khách quan, càng không thể chứng minh được tại sao văn hóa của một dân tộc nào đó (thí dụ văn hóa Hoa, văn hóa Kitô giáo, văn hóa Hy la, vân vân) có thể thống trị nhân loại, trong khi văn hóa của chúng ta bị hạn chế nơi tộc Việt mà thôi.
Trong bài tiểu luận gợi ý này, chúng tôi xin được góp vài ý kiến nho nhỏ về những đề tài sau: (1) Khác biệt giữa Triết học và Tư tưởng, (2) Khác biệt giữa Triết học và Văn hóa, (3)Triết học và Nguyên lý Khoa học, (4) Những Ðiều kiện tiên quyết để biên soạn bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam, (5) Thẩm định giá trị lịch sử của bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam. Phần 5 này cũng là phần kết luận cho rằng, một bộ lịch sử đáng gía để đời là một bộ lịch sử mang tính chất khoa học, cùng lúc thỏa mãn được tấm lòng (yêu nước) của người Việt, và cũng có thể cống hiến cho nhân loại những kho tàng giá trị của người Việt chúng ta,[6] hoặc giúp chúng ta hiểu thêm những sắc tộc, dân tộc khác.[7]
KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC VÀ TƯ TƯỞNG
Vị học giả đầu tiên có tham vọng và từng hoàn tất bộ Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam là Giáo sư Nguyễn Ðăng Thục.[8] Ðây là một bộ sách khá công phu với rất nhiều dữ kiện, “một công trình phong phú, công phu, nghiêm túc,” [9] và từng được khen ngợi như là một “bức ảnh chụp quá khứ, đẹp thì có đẹp thực.”[10] của văn hóa Việt. Tuy rất khâm phục nhiệt huyết và thành tâm của tiên sinh, chúng tôi vẫn phải theo tinh thần “Yêu chân lý hơn yêu thầý” của Aristotle khi phê bình thuyết lý hình (eidos) của sư phụ mình, tức đại triết gia Plato. – Xin thanh minh nơi đây là chúng tôi không phải là môn sinh của Nguyễn tiên sinh -. Thế nên, người viết mạn nghĩ, những lời ca ngợi như vậy tuy giữ được tập quán (tuy rất tốt, song rất nguy hiểm) “con hát mẹ khen hay.” Nhưng xin đừng quên bài học Minh Mạng, Tự Ðức, cũng như giới nho gia vào thế kỷ 19, những vị hoàng đế và giới sỹ phu chỉ biết cái hay cái đẹp nhưng không nhìn ra cái kém cái xấu của mình. Thực vậy, đa số các nhà điểm sách chỉ nhận ra sự đồ sộ của công trình, nhưng tiếc thay chỉ có một số rất ít nhận ra những khuyết điểm của bộ sách của cụ Nguyễn. Chúng bao gồm: (1) thiếu tính chất sử, (2) thiếu tính chất triết học, (3) thiếu tính chất khoa học (hỗn độn, thiếu hệ thống), và lỗi căn bản hơn cả, đó là (4) sự lẫn lộn giữa các phạm trù hành vi, tư tưởng, văn hóa và triết học.[11] Nơi đây, chúng tôi xin tạm bàn một cách rất vắn tắt những thiếu sót trong lịch sử và triết học, và dành nhiều hơn một chút cho sự nhầm lẫn phạm trù.
Lịch sử gia là một người khám phá ra được, hay tin theo một định luật của lịch sử, và họ xếp lại tất cả những dữ kiện, tư liệu, kinh nghiệm theo cái định luật này. Tư Mã Thiên viết lại sử Trung Hoa theo luật nhân quả. Arnold Toynbee viết sử theo quy luật tiến hóa, trong khi Oswald Spengler lại nhìn lịch sử theo lối mạt thế của Kitô giáo và Do Thái giáo. Bộ sách của Nguyễn Ðăng Thục không theo định luật lịch sử nào. Nó chỉ là một đống tài liệu, tư liệu, dữ kiện. mà tác giả tùy tiện chọn lựa, xắp xếp một cách luộm thuộm (hay lập lại cùng dữ kiện), và giải thích lung tung (cùng một sự kiện, nhiều khi có tới ba lối giải thích!),[12] hay giải thích một cách sai lầm, sai cả lịch sử.[13] Thứ tới, nó thiếu khoa học. Nhà viết sử nghiêm túc phải biết phân biệt dữ kiện (thật hay gỉa), nên chọn hay bỏ những cái gì, phải xắp xếp chúng theo quy luật (thời gian, hay bậc thang giá trị) nào, và nhất là phải nắm được cái luật của các giai đoạn lịch sử;[14] và lẽ dĩ nhiên, ông không được phép giải thích sự kiện, từ ngữ theo ý riêng của mình. Quan trọng hơn cả, sử gia phải là người biết phê bình, dám vạch ra cái sai trong quá khứ, và đưa ra một đường lối cho tương lai.[15] Nhà sử học là những người đóng góp vào sự tiến bộ của nhân loại bằng chính việc ông có thể vạch ra những sai lầm của thời qúa khứ. Họ không nên, và không được phép chỉ là cái “loa tuyên truyền” hay cái “máy ghi chép” những cái hay (cho rằng có đúng), và “đánh bóng” hay “bóp méo” sự kiện (như các ngự sử thời phong kiến, hay người “chuyên sử” trong những xã hội đóng kín, một chiều). Sau Tư Mã Thiên, không phải việc “giết nho gia, đốt sách Thánh hiền” đã hết, song ít nhất, cái bi kịch này ít xẩy ra hơn. Hoặc nếu xẩy ra, – như trường hợp chính quyền quân Phiệt Ðức đốt sách và sát hại người (trí thức) Do Thái, hay như dưới thời Cách Mạng Văn Hóa của họ Mao (1968-1977)phá bỏ văn hóa cổ truyền và áp bức giới trí thức – thì nó cũng mang một sắc thái khác, với những nguyên do không giống thời Tần Thủy Hoàng. Ta không thấy học giả Nguyễn Ðăng Thục làm được những điều căn bản của sử gia, thế nên tác giả cho chúng ta cảm tưởng là cụ vớ được cái gì thì cứ “giét bừa” nó vào sách mà chẳng cần biết nó có quan trọng hay không, có tính cách đại biểu hay không, hay có phải là của người Việt hay không (nhiều tư liệu, quan niệm thực ra cũng thấy nơi người Hoa), hoặc có thừa thãi, liên quan hay không.
Bộ Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam cũng thiếu tính chất triết học. Một phần vì ông lầm lẫn giữa tư tưởng và triết học (như chúng tôi bàn trong đoạn tới), song một phần vì ông chưa nắm vững được lối suy tư triết học. Thế nên ông nghĩ rằng lối suy tư triết học không khác chi lối suy tư sử học, và sử học lại không khác chi khảo cổ học,[16] và khảo cỗ học lại đồng nghĩa với công việc đào bới, tìm kiếm tài liệu (lỗi của cụ Ðào Duy Anh).[17] Thực ra như chúng ta vốn biết, mỗi bộ môn tuy liên quan, song không đồng nhất, và trong mỗi bộ môn đều có thể thấy được nguyên lý triết học.[18] Chính vì không nhận ra sự khác biệt giữa các môn khoa học trên mà cụ Nguyễn Ðăng Thục đã không thể vạch ra được cái triết lý sống của người Việt qua các dữ kiện, và lối suy tư của họ.??
Trong lầm lẫn giữa các phạm trù, chúng ta thấy hành vi chưa phải là suy tư, tư tưởng chưa hẳn là triết học. Thứ nhất, tư tưởng chưa phải là triết học.[19] Ðể độc giả nhận ra sự khác biệt này, chúng tôi xin giải thích ngắn gọn như sau: Nếu tư tưởng là những hình thái (thức) của hành vi suy tư, của lối sống, thì tư tưởng có thể chỉ là một hình ảnh chụp lại cái gì (hiện tượng) chúng ta nhìn, nghe, cảm, ngửi thấy hay đã và đương sống. Tuy nhiên đây chỉ là loại tư tưởng phản xạ, chứ chưa phải là khúc xạ (danh từ của Giáo sư Phan Ngọc). Những tư tưởng theo đúng nghĩa là những tư tưởng trừu tượng. Chúng cần một loại suy tư tổng hợp hay phân tích. Mà để tổng hợp, phân tích, ta cần phải có những nguyên lý, phương thế. Lối suy tư (tư tưởng) sau này mới đáng gọi là triết học. Thứ hai, trực giác là một loại suy tư không qua tư tưởng, không thể dùng ngôn ngữ thường nhật để giải thích. Song trực giác mới là cội nguồn của phát minh, sáng tạo. Nói cách khác, trực giác là một loại “triết học vô ngôn”[20] không qua hệ tư tưởng, đôi khi có tính cách bẩm sinh,[21] thường thấy nơi thiên tài.[22] Thứ ba, tư tưởng chưa phản ảnh được văn hóa cá biệt của dân tộc. Chỉ có triết học mới nói lên được cái cá biệt, cái đặc biệt của nền văn hóa dân tộc mà thôi. Nếu tư tưởng chỉ là hình thái của thế giới tự nhiên, nếu tư tưởng chỉ là một hệ thống các dữ kiện xẩy ra thường nhật, thì con người ở đâu cũng giống nhau. Nếu như vậy, làm sao ta có thể giải thích được sự hình hành của ngôn ngữ, của lối biểu tả, của cách đặt và giải quyết vấn đề? Chúng hoàn toàn khác nhau nơi mỗi dân tộc. Cái khác nhau nằm ở chỗ, tuy cùng gặp một đối tượng, tuy sống trong cùng một thế giới, tuy đối diện với cùng một khó khăn, mỗi dân tộc lại hiểu khác, biểu tả cách khác (qua ngôn ngữ, âm nhạc), sống khác, và giải quyết vấn đề một cách khác nhau.[23] Chính cái khác biệt này (nói theo ngôn ngữ của Jacques Derrida) mới nói lên được nền triết lý cá biệt. Vậy thì, triết học là môn học về nguyên lý tại sao chúng ta lại hiểu như vậy, lại biểu tả như thế, lại cảm nghiệm như thế này, lại nhìn và giải quyết vấn đề như thế nọ. Hiển nhiên là những tác giả như Nguyễn Ðăng Thục, Trần Văn Giàu,[24] Ðào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên. đã chú trọng tới trình bày (description) và giải thích (explication) những sự kiện nhiều hơn. Tuy vậy, họ vẫn chưa vạch ra được những nguyên lý giúp ta hiểu hay thấy được tại sao người Việt lại suy tư, cảm nghiệm và hành động như thế này hay như thế khác; tại sao họ có những quy luật này, nghi lễ nọ khác với những người đô hộ họ – những người có một nền văn minh mạnh hơn, một thế lực quân sự, kinh tế vĩ đại, và một ngưồn nhân lực dồi dào hơn -, khiến họ không bị kẻ thù đồng hóa?
Thế nên, một nghiên cứu đầy đủ hơn phải bao gồm: (1) Tìm tòi dữ kiện, tư liệu, vật liệu (phương pháp khảo cổ); (2) Xác định và thu thập chúng (khoa học xã hội); (3) Chọn lựa chúng (theo tiêu chuẩn khảo chứng, lịch sử và thẩm định giá trị); (4) Giải nghĩa chúng (ars explanandi, explanation); (5) Giải thích chúng (ars explicandi, explication) tức phân tích các ý nghĩa của dữ kiện (analysis); và (6) chuyển ý, chuyển nghĩa, và chuyển cách suy tư từ thời cổ tới thời nay để chúng ta có thể hiểu (ars interpretandi, interpretation).[25]
KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC VÀ VĂN HÓA
Như chúng tôi đã nhắc sơ qua, triết học là cái linh hồn, hay tinh thần của văn hóa. Tuy nhiên không phải bất cứ nền văn hóa nào cũng có một nền triết học đáng gọi là triết học. Vậy ta có thể nói (theo kiểu chơi chữ), là mọi nền văn hóa đều có triết lý.[26] Tùy theo hiệu quả (tất yếu) và mức độ ảnh hưởng (phổ biến), mà chúng ta có thể xưng nền triết lý này là triết lý sống, minh triết hay triết học. Nếu triết lý là một lối suy tư, một ý hệ căn cơ, một phương thế cho cuộc sống chỉ của một cá nhân, một tộc, một xã hội hay một quốc gia, thì triết học là một môn học có hệ thống về các nền triết lý này, và có tham vọng tìm ra nguyên lý chung của chúng để áp dụng cho tất cả mọi người ở mọi thời đại. Như vậy, ta có thể nói, chỉ nền triết lý nào có thể giúp tộc, xã hội, quốc gia sinh tồn, liên kết, phát triển . mới đáng được gọi là minh triết; và chỉ có nền triết lý nào vượt khỏi giới hạn của không gian, tộc tính, thời gian (lịch sử) và đảm bảo cho một nền tri thức chân thật (khoa học), cũng như luôn phát sinh ra cùng hiệu quả cho tất cả mọi đối tượng, nền triết lý này mới đáng gọi là triết học. Nói cách khác, ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa triết lý, minh triết và triết học? không phải từ các phạm trù bản thể, phương pháp khoa học hay nhận thức, song từ cái giá trị của chúng: một nền triết lý nếu giá trị càng quảng bác, càng tất nhiên, càng gần vĩnh cửu, càng viên mãn, và càng gần cuộc sống (thực tiễn, thực hành) thì nó càng được tôn vinh lên hàng minh triết. Và nếu ta có thể tìm ra được nguyên lý của minh triết để quảng bá, phát triển hay bảo tồn, thì đó chính là lãnh vực nghiên cứu của triết học vậy.
Nếu hiểu triết lý, minh triết và triết học như vậy, ta có thể nói là triết học tuy là linh hồn của văn hóa, song nó không đồng nhất với văn hóa. Trong khi triết lý, minh triết bắt buộc phải gắn liền với văn hóa.
Hegel là người đã nhận ra sự khác biệt này khi triết gia khảo sát lại tất cả diễn tiến lịch sử của mọi nền triết học và triết lý, Ðông cũng như Tây. Theo Hegel, chúng ta có thể lý luận rằng, nếu chúng ta không thể chối bỏ được sự kiện mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa cá biệt của mình, thì chúng ta cũng không được phép hồ nghi về sự hiện diện của một nền triết lý sống của mỗi giống người, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc (Hegel gọi là Volksgeist), mỗi thời đại (Hegel gọi là Zeitgeist).[27][27] Triết lý Việt là những nguyên lý về cách sống, lối cảm nghiệm, cái nhìn, cách suy tư, vân vân, của người Việt. Ðiểm quan trọng là triết lý của người Việt chúng ta đã có thể vươn lên tới hàng minh triết chưa,[28][28] và điểm càng quan trọng hơn, đó là chúng ta có thể hệ thống, phát triển nền triết lý Việt biến thành một nền triết học Việt, tức một hệ thống tư tưởng có tính chất khoa học, chặt chẽ hay không. Ðó là việc chúng ta có thể áp dụng được hay không cái nguyên lý sống của chúng ta vào trong tất cả cuộc sống, cho mọi người và vào mọi thời đại như đức Khổng Tử đã làm (triết học? nhân bản), như đức Giê-su đã thi hành (triết học bác ái), như đức Thích Ca đã phát hiện (triết học từ bi) và như nhà hiền triết Socrates đã từng lấy sinh mệnh để bảo vệ (triết học về chân lý ).[29][29] Nói cách khác, chỉ khi nào chúng ta tìm ra cái nguyên lý Việt nó từng sống động trong lịch sử Việt, và sẽ tiếp tục phát động uy lực của nó trong cuộc sống của chúng ta qua những nền triết lý khác nhau, thì lúc đó chúng ta mới dám cả quyết có một nền triết học Việt. Và chỉ khi nào nền triết học Việt này có thể cống hiến cho nhân loại một nguyên lý phổ quát và tất yếu (thấy trong mọi thời đại và áp dụng cho mọi dân tộc) thì lúc đó nền Việt triết mới có thể được coi như là minh triết của nhân loại, tức tinh thần tuyệt đối (absolute Geist) theo Hegel. Công việc biên soạn bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam ?là một công việc khai quật, hệ thống và phát huy cái nguyên lý Việt thấy trong các hệ tư tưởng, trong nền văn hóa nói chung của người Việt vậy.
TRIẾT HỌC VÀ NGUYÊN LÝ KHOA HỌC
Vậy thì một nền triết học phải là một nền khoa học theo đúng nghĩa của truyền thống của nó (episthmh, scientia, Wissenschaft).[30][30] Ðó là một tri thức nguyên lý mà luôn đúng ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào, vân vân. Lẽ tất nhiên, các triết gia Hy lạp và cận đại đều hiểu triết học theo nghĩa này, và do đó họ nhận thấy tri thức triết học không khác chi tri thức toán học. Từ đây những người như Descartes, Leibniz, Pascal (các toán học gia) cho rằng nền tảng của triết học phải là toán học. Từ một khía cạnh khác, tri thức không chỉ luôn đúng, mà nó còn phải là nền tảng cho tri thức mới. Chỉ một tri thức như vậy mới đáng gọi là triết học. Triết học như vậy mang thêm một công năng mới, đó là một tri thức giúp chúng ta dự đoán (predict) một cách chính xác cái gì sẽ xảy ra. Một tri thức (triết học) như vậy được những người như Galileo, Newton, Bayle, Locke, Hume hiểu như là một nền khoa học thực nghiệm hay kinh nghiệm, tức nền vật lý học.
Ðúng hay sai,[31][31] từ thời triết học hiện đại (modern), triết học được đồng nghĩa với khoa học, tức một nền tri thức luôn đúng (toán học), và giúp ta biết một cách chính xác cái gì sẽ xảy ra (vật lý). Ðiểm mà Kant đã từng làm, đó là làm sao chúng ta có thể xây dựng được một nền triết học (suy tư) vững chắc dựa trên những điều kiện tất yếu và siêu nghiệm giống như những điều kiện của khoa học . Tương tự, nhưng đi ngược lại, Hegel coi triết học như là cái tinh thần tuyệt đối, như là động lực nội tại (giống như luật hấp lực của Newton) khiến thế giới con người phải theo và tiến tới. Lẽ tất nhiên Marx không phản đối luận điểm của Hegel. Ông chỉ lật ngược lại chiều hướng lịch sử: đối với Marx, cái động lực căn bản cho nền khoa học khiến lịch sử tiến bộ không phải là triết học tư biện (speculative) mà là một nền triết học thực hành (practical philosophy).[32][32] Nền triết học này (1) khám phá ra định luật của sinh hoạt, biến đổi nơi xã hội con người, (2) khám phá ra cái động lực khiến con người và thế giới biến đổi, và (3) giúp chúng ta phải tuân theo luật này để có thể tiến tới một lịch sử viên mãn.[33][33]
Những lối nhìn của các triết gia vĩ đại trên quả quá “lạc quan.” Thực ra triết học khác với khoa học, nhất là vớ?ững nền học khoa, tức khoa học cá biệt. Triết học là môn học về nguyên lý chứ không phải về một tình trạng (thực trạng) tri thức cố định. Nó càng không thể tự đồng nghĩa với bất cứ học khoa nào như toán học, vật lý, sinh vật, vân vân, bởi lẽ nó là nền tảng của những học khoa (hay tri thức cá biệt) này. Nếu triết học đồng nghĩa với khoa học theo nghĩa học khoa thì Auguste Comte có lẽ đã có lý khi ông này gạt bỏ tất cả mọi lối suy tư (trừ lối suy tư học khoa mà ông đồng nghĩa với vật lý học), và coi chúng như là man dã, dị đoan, tiền triết học.[34][34] Thực sự thì Comte quá ngây thơ. Ông không chỉ nhầm lẫn giữa tri thức và kiến thức khoa học, và ngây ngô đồng nghĩa sự tiến bộ khoa học với sự tiến bộ của nhân loại mà thôi. Cái nguy hiểm của Comte, đó là ông cho là triết học đề là triết học phải là khoa học, mà khoa học theo đúng nghĩa phải là một nền học khoa thực chứng, tức học khoa.[35][35]
Không cần nói, Comte và những người theo ông đã hạn hẹp khoa học và bóp méo triết học. Chúng tôi đồng ý với Jaspers, đó là triết học không thể đồng nhất với khoa học, cho dù là bất cứ nền khoa học nào. Triết học đi trước khoa học, và cũng đi sau khoa học. Nó luôn luôn đặt ra những câu hỏi bắt khoa học gia phải đi tìm giải đáp.[36][36] Nó đi trước đưa ra những viễn kiến (visions), hay giả đề (hypotheses) mà các nhà (nền) khoa học tuy theo (chấp nhận), song phải phản tỉnh và phê phán. Họ (chúng) phải chứng minh (thực chứng) xem các viễn kiến, giả thuyết (giả đề) có đúng hay không, có hoàn toàn hay không. Nếu không thì, như Karl Popper từng chủ trương, họ phải gạt bỏ chúng, sửa đổi chúng. Họ phải tìm một giả thuyết (giả đề) mới, một cái nhìn mới, một nguyên lý mới, tức một nền triết học mới.[37][37] Triết học đi sau khoa học, không phải như người hầu đi sau sách đồ cho chủ[38][38] hay như người nữ tì cho nền thần học thời Trung Cổ (philosophia ancilla theologiae). Nó giúp khoa học phản tỉnh. Nó cũng tự phản tỉnh để có thể đưa ra một giả thuyết (đề) mới, để rồi các khoa học gia tiếp tục phê bình, sửa đổi hay gạt bỏ.
NHỮNG ÐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ÐỂ BIÊN SOẠN BỘ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
Sau khi đã làm sáng tỏ một số ngô nhận hay thiếu minh bạch về những quan niệm văn hóa, triết lý, triết học và khoa học, chúng ta trở lại vấn đề then chốt trong công việc biên soạn bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam, đó là làm thế nào để hoàn thành bộ sách này một cách lý tưởng, và có giá trị cho ít nhất cả hàng chục thập niên sau. Nếu chúng ta đã có một nề⮠văn hóa cả 4 ngàn năm, nếu chúng ta không thể phủ định là chúng ta có triết lý sống, thì công việc quan trọng, đó là làm thế nào để khai quật, hệ thống, và phát triển cái nguyên lý Việt thấy trong văn hóa, triết lý sống của người Việt thành một nền triết học Việt. Chúng tôi xin bàn qua về những điều kiện tiên quyết để khai quật, hệ thống và phát triển như sau:
Khai Quật- Năng Lực
Ðể khai quật, chúng ta phải có đủ khả năng. Ðó là khả năng của những nhà ngữ học, khảo cổ học, lịch sử gia và triết gia. Về phương diện ngữ học, chúng ta cần những người thông thạo Hán cổ, chữ Nôm, Hoa ngữ (chữ Tầu hiện nay), tiếng Phạn (hay Pali trong trường hợp nghiên cứu Phật giáo), cũng như một số ngôn ngữ Âu châu hiện đại như Pháp, La-tinh (và Bồ, Ý, Tây ban nha trong trường hợp nghiên cứu luồng tư tưởng cận đại thời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, hay sau một chút, như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký. Bởi nếu không thông hiểu những ngôn ngữ này, chúng ta khó thể đọc được những tư liệu cổ. Riêng về luồng tư tưởng miền Nam, nếu biết thêm được ngôn ngữ hệ Chàm (hay Mã lai), công việc nghiên cứu càng nghiêm túc hơn. Về phương diện khảo cổ, chúng ta phải khai quật những tư liệu, dữ kiện mới.[39][39] Sự khám phá ra trống đồng Ðông Sơn, Ngọc Lữ đã đem lại cho giới nghiên cứu tư tưởng (văn hóa và văn minh) Việt một lối nhìn khác biệt với “lối nhìn Trung hoa”.[40][40] Thứ tới, như nhà khảo cổ, chúng ta phải tìm ra cái nguyên tính, cái đặc thù, cũng như nhận biết rõ thời gian phát sinh ra tư tưởng (hay tư liệu) của người Việt.[41][41] Bởi nếu không xác định được thời gian, sự chính xác, cũng như lịch sử (bối cảnh) của những dữ kiện, tư liệu, kinh nghiệm. thì những phán quyết của triết gia sẽ “trên mây, dưới gió.” Như một nhà sử học, chúng ta cùng một lúc phải có cái nhìn vĩ mô và vi mô. Triết gia thường hay quá chú trọng vĩ mô mà quên đi những chi tiết tuy rất nhỏ nhặt, song có thể rất quan trọng. Những sử gia vĩ đại là những người biết phân tích rất tỉ mỉ, song lại có thể đưa ra một cái nhìn bao quát (tức cái luật hay logic) về lịch sử. Sau cùng, để viêt một bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học, chúng ta phải dùng ngôn ngữ và phạm trù triết học, phải suy tư lại những gì khảo cổ, ngữ học và sử học cung cấp, phải đặt lại vấn đề, và nhất là phải tìm ra nguyên lý khoa học giải thích dữ kiện, quy luật, cũng như tiên đoán cái phải xảy ra, vân vân.
Chúng tôi xin đan cử một ví dụ để làm sáng tỏ chủ trương trên. Ta biết, đa số các nhà nghiên cứu Việt học, từng coi chủ nghĩa ái quốc lá chủ thuyết căn bản của nền tư tưởng Việt.[42][42] Nếu quả là vậy, thì sử gia cần phải chứng minh là chủ nghĩa ái quốc này bắt đầu xuất hiện vào giai đoạn lịch sử nào; nhà ngữ học phải tìm hiểu sự kiến cấu, cái ý nghĩa nguyên thủy của từ ngữ ái quốc, yêu nước., nhà khảo cổ học phải chứng minh là có tộc Việt thuần nhất ở vùng này, có một quốc gia Việt vào thời này hay không… Riêng giới triết gia phải đặt ra câu hỏi: tại sao chúng ta lại quá chú trọng vào chủ thuyết ái quốc? Có phải chỉ người Việt mới có, hay bất cứ tộc nào (vào cùng một cảnh ngộ như vậy) cũng có một quan niệm, một ý thức, và hành vi như vậy?
Ði vào chi tiết hơn, triết gia phải cùng lúc là nhà ngữ học, sử học, khảo cổ học, mỹ học. Từ phương diện ngữ học, triết gia bắt buộc phải suy tư về câu hỏi: có phải chủ nghĩa ái quốc đồng nghĩa với yêu nước? Nếu không, thì quan niệm về nước và quốc khác nhau; như vậy chúng ta không thể hồ đồ cho rằng người Việt yêu nước, giống như người Tầu ái quốc. Từ khía cạnh lịch sử, triết gia phải chứng minh là chủ nghĩa ái quốc không phải là một sản phẩm bẩm sinh; mà chỉ sau khi có một hệ thống tổ chức, hành chánh, pháp luật lúc bấy giớ mới có quốc, có bang, có công dân.[43][43] Vậy thì quan niệm yêu nước không hẳꮠgiống ái quốc, bởi vì con người tự bẩm sinh đã yêu nước. Con người cần có nước (uống), có đất đai (cư ngụ, thực phẩm, trồng trọt). Thành thử người Việt rất có thể hiểu? “đất nước” khác với “quốc gia.”[44][44] Nếu quả như vậy, cho rằng chủ nghĩa ái quốc tức chủ nghĩa yêu nước Việt, và là chủ nghĩa nòng cốt của triét học Việt, có lẽ sẽ vướng vào nhiều khó khăn,[45][45] nếu không nói là sai lầm. Lỗi sai lầm sử học, đó là Việt Nam (quốc gia) có sau chứ không phải có trước người (tộc) Việt, vậy thì làm sao ta có thể nói chủ nghĩa yêu nước Việt là nền tư tưởng căn bản? Thứ đến, nếu yêu nước tức yêu đất và nước (tức sự sống) thì con người ở đâu mà không giống nhau. Làm sao chúng ta có thể vơ vào một mình cho chúng ta? Thứ ba, nếu ái quốc là nòng cốt thì chúng ta làm sao giải thích được những bản chất khác của người Việt như khoan dung, không quá khích, dễ dĩ hòa vi qúy, dễ gia nhập vào các cộng đồng khác, dễ chấp nhận những lý thuyết khác (thí dụ tam giáo), và nhất là không duy tộc (huyền thoại Lạc Long Quân-Âu Cơ và 100 con, dòng Bách Việt, sự hội nhập giữa Kinh và Thượng, giữa Bắc và Nam, giữa Việt và Chàm), vân vân?
Khách Quan
Những giải thích hơi cực đoan như trên lẽ dĩ nhiên không thể thỏa mãn được? sự đòi hỏi khách quan, khoa học của các bộ môn lịch sử, khảo cổ và cả khảo chứng ngữ học. Ðể tránh những yếu điểm này, để biên bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam, chúng ta cần phải khách quan. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta ý thức được là, là một dân tộc từng bị các cường quốc đô hộ bóc lột dễ có những cái nhìn cực đoan (hoặc chống, hoặc theo), và nhất là tâm lý báo thù (hay phẫn uất như Nietzsche từng phân tích). Thế nên mặc dù có cảm tình với những học giả như Kim Ðịnh, Vũ Ðình Trác hay Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Lê Mạnh Thát, chúng ta cần phải tránh được cái gọi là “lấy Việt Nam làm trung tâm.” Vơ tam hoàng ngũ đế nhừ Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Ðế, Chuyên Húc, Nghiêu, Thuấn, vân vân, làm tổ tiên của mình,[46][46] tuy “oai thật” song ta (nếu không chứng minh được) sẽ bị chửi là mắc phải căn bệnh “thấy người sang bắt quàng làm họ.” Vơ thuyết âm dương, tam tài làm của báu di truyền riêng của mình[47][47] chỉ khiến các học giả ngoại quốc “ngạc nhiên” và tự hỏi có phải người Việt chúng ta là tổ tiên của người Tầu? Tự cho Phật giáo tới Việt Nam trước, rồi sau đó mới truyền sang Trung Hoa,[48][48] nếu có thật đi nữa (mà điều này rất đáng nghi ngờ), thì chúng ta cũng khó có thể chứng tỏ chúng ta tài hơn họ (bởi lẽ những tư liệu của chúng ta nghèo nàn, cóp nhặt và cũng chỉ vào thời gian mãi sau này).[49][49] Người Ðức đâu cần lấy A-Lich-San đại đế làm tổ, họ đâu có tham lam vơ Plato và Aristotle làm “bố” họ, thì họ mới có triết học? Thì họ mới vĩ đại? Họ có những vĩ nhân như Luther, Bismark, Humbolt; những đại thi hào như Goethe, Schiller, Hoelderlin; họ là những triết gia vĩ đại như Kant, Hegel, Nietzsche, Heidegger; những nhà cải cách bất tử như Marx, Weber; họ sản sinh ra được cả một thế giới âm thanh với Bach, Beethoven, Brahms, Wagner; rồi họ là cái nôi cho những đại khoa học gia như Einsteins, Heisenberg, Max-Planck và biết bao vĩ nhân khác. Và quan trọng hơn cả, đó là nước Ðức còn đang tiếp tục sản sinh ra rất nhiều vĩ nhân,để chứng minh là họ vĩ đại, vượt xa Hy Lạp.[50][50]
Thế nên, chúng ta cần phải tránh dựa vào tình cảm, và chỉ được tin vào dữ kiện mà sử gia, khảo cổ gia cung cấp, chứng minh và được các nhà ngữ học khảo chứng. Những dữ kiện này cần phải hội đủ tiêu chuẩn khoa học về lượng và về phẩm, và phải rộng rãi. Thí dụ như chỉ căn cứ vào một trống đồng tại Ðông Sơn, và thấy trống này đẹp hơn những trống ở Vân Nam, hay ở Mã Lai, để rồi đi đến kết luận là tộc Việt là cha đẻ của trống đồng (Vũ Ðình Trác), hay văn minh hơn, và các tộc khác chỉ bắt chước (Kim Ðịnh, Trần Ngọc Thêm), đây đúng là một võ đoán. Các học giả quên đi cái nghịch lý triết học: nếu cổ lỗ hơn làm sao mà đẹp hơn, phức tạp hơn, văn minh hơn? Nếu người ta bắt chước thì tại sao trống của họ lại cũ kỹ hơn trống của ta? Ðó là chưa kể quảng cách địa lý, điều kiện khí hậu, điều kiện thiên nhiên (có mỏ đồng hay không), cũng như nền văn minh địa phương (họ có biết khai mỏ, đúc đồ đồng hay không), họ đã có chữ nghĩa chưa,[51][51] họ đã có phương tiện làm, viết sách vở hay không . mà các học giả chúng ta cố ý làm ngơ coi như là lẽ dĩ nhiên không cần phải đặt vấn đề.
Chuyên Gia liên ngành
Một nghiên cứu cần những chuyên gia như vậy đòi hỏi chúng ta phải làm việc theo tinh thần liên ngành (inter-disciplinary),[52][52] tức cộng tác chung với các chuyên gia sử, ngữ, khảo cổ, tôn giáo học, vân vân. Nếu triết học là công việc phản tỉnh, hệ thống, phê bình và đi tìm nguyên lý, thì triết gia cần phải có tư liệu; cần phải hiểu chúng cũng như cái bối cảnh (tức thế giới) của chúng. Triết học cũng cần phải được sử gia, nhà ngữ học, nhà khảo cổ học, các nhà khoa học văn hóa, tôn giáo. kiểm chứng và phê bình.
Thế nên, để tiến hành công việc biên soạn bộ Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học, chúng cũng cần kiếm ra những chuyên gia của các bộ môn liên quan muốn sẵn sàng hợp tác, thí dụ các chuyên gia của Viện Hán Nôm, Viện Sử Học, Viện Tôn Giáo, vân vân. Họ có thể giúp chúng ta về khía cạnh tư liệu hay văn bản,[53][53] và nhất là giúp chúng ta có một cái nhìn khách quan, trung thực hơn.
Hệ Thống
Như chúng tôi đã phê bình bộ Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam của cụ Nguyễn Ðăng Thục, một trong những điểm yếu của bộ sử này, đó là tác giả không viết theo một hệ thống khoa học nào. Hoặc nói đúng hơn, tác giả không biết hệ thống các mảng tư tưởng. Tác giả không nhìn ra sự liên tục giữa các hệ tư tưởng. Hay chính xác hơn, tác giả chưa tìm ra được cái quy luật lịch sử tức cái luận lý (logic) của người Việt. Mà quả thực, không chỉ một mình Giáo sư Nguyễn Ðăng Thục, mà tiếc thay, đa số các học giả Việt đều vướng vào lỗi lầm này.
Vậy thì cái luật lịch sử giúp chúng ta có thể trình bày một cách nhất quán những hệ tư tưởng, những mảng văn hóa là cái luật gì. Nó có phải là phương pháp chăng? Trong 2 Tập Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam của Viện Triết Học (1993, 1998), và đặc biệt trong tập Lịch Sử Triết Học (giáo trình tại Ðại Học Quốc Gia Hà Nội),[54][54] nhiều học giả hiểu cái luật (logic) này như là phương pháp (biện chứng pháp). Các vị nhận định (theo Marx) là lịch sử diễn tiến theo luật biện chứng duy vật.[55][55]
Một lối nhìn vậy không hẳn sai, song chưa đủ.[56][56] Thứ nhất, quy luật nghiên cứu lịch sử không phải là quy luật của lịch sử. Ðể nghiên cứu lịch sử ta có thể áp dụng nhiều phương pháp khoa học khác nhau, thí dụ phân tích dữ kiện, thu tập dữ kiện, tổng hợp chúng. Chúng ta cũng có thể áp dụng phương pháp truy nguyên (của khảo cổ), hay kết cấu trong ngữ học. Nhưng quy luật của lịch sử khác với quy luật nghiên cứu. Quy luật của nó có thể là biện chứng, tiến hóa, cách mạng hay chẳng theo một quy luật cố định nào (thí dụ, lối nhìn của chủ thuyết Hậu Hiện Ðại). Nói là dùng biện chứng pháp để nghiên cứu lịch sử tức là một câu nói chưa đủ nghiêm túc. Y hệt như cho rằng lịch sử chỉ theo một quy luật duy nhất của biện chứng pháp là một lối nhìn hạn hẹp về lịch sử. Thứ tới, mỗi nhà lịch sử có lẽ chỉ nhìn ra một quy luật mà ông cho là quan trọng nhất, để rồi ông (chỉ) thu tập tư liệu liên quan, giải thích chúng theo cái nhìn này. Thí dụ Toynbee nhìn lịch sử theo lối nhìn tiến hóa, nhưng Spengler lại nhìn ngược lại. Thí dụ như các nhà dân tộc, khảo cổ học như B. Manilovski nhìn lịch sử như một kiến trúc toàn thể, trong khi C. Frazer và E. B. Tylor lại theo lý thuyết tiên hóa của Darwin để nhìn các dân tộc khác.
Theo ý kiến hạn hẹp của chúng tôi, khi viết lịch sử chúng ta nên tránh chỉ dựa vào một tiên kiến nào, hay một lý thuyết nào, dẫu rằng lý thuyết này rất khoa học. Lý do chính yếu, đó là cuộc sống và thế giới sống của chúng ta rất phức tạp. Chúng cùng một lúc theo nhiều quy luật khác nhau, đôi khi mâu thuẫn, đôi khi xem ra chẳng có vẻ tương quan gì. Thế nên lối nhìn duy lý của Hegel, duy vật của Marx, lối nhìn duy linh của thánh Augustin, lối nhìn duy ý của Plato. về lịch sử đều chỉ đúng một phần nào đó mà thôi. Nhưng nếu coi bất cứ loại “duy” nào là quy luật duy nhất, thái độ như vậy tự nó đã giáo điều và phản thực tại, điều mà Karl Marx từng cực lực phản đối.
Vậy nên, khi viết bộ lịch sử chúng ta cần để ý: Thứ nhất, chúng ta có thể cùng một lúc áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, miễn là chúng không đối nghịch, nhưng liên quan và bổ túc cho nhau. Thứ hai, mỗi thời đại, mỗi xã hội, mỗi giống người, mỗi cách sống, đều có những quy luật riêng biệt của thời đó, xã hội đó, dân tộc đó. Thế nên, ta không được phép bỏ quên những khác biệt, hay loại bỏ những sự kiện không hợp với chúng ta, hay đi ngược lại với quan diểm của chúng ta. Thứ ba, tuy nhìn ra sự khác biệt song chúng ta càng phải tìm ra được sự tương quan giữa những lối sống, giữa những xã hội, giai cấp con người . tức phải tìm ra được cái mã số chung, cái chìa khóa chung của dân tộc.
KẾT LUẬN: THẨM ÐỊNH GIÁ TRỊ
Trong các bộ Sử hiện nay của Viện Triết Học và của các cơ quan nghiên cứu, đa số chúng ta thường phân công mỗi học giả viết một đoạn.[57][57] Người chủ biên (các giáo sư Nguyễn Tài Thư, Lê Sỹ Thắng, Nguyễn Hữu Vui, Trịnh Doãn Chính, Bùi Thanh Quất . ) chịu trách nhiệm biên tập. Lối phân công này tuy có nhiều cái hay (không đụng chạm, không dẫm chân lên nhau, và có lẽ tương đối nhanh). Tuy vậy, đây là lối biên soạn Từ Ðiển Bách Khoa chứ không phải Lịch Sử. Bởi lẽ, lịch sử phải hệ thống, nhất quán, liên tục. Mà lịch sử triết học lại đòi hỏi hơn nữa: chúng ta phải tìm ra nguyên lý chung và đường hướng chung, chưa nói đến là chúng ta phải dùng cùng phạm trù, từ ngữ, lối phiên dịch chung.
Một trong những mã số chung của người Việt là tấm lòng yêu nước, gắn bó với tổ, với dòng tộc. Chủ nghĩa yêu nước không phải là cái mã số, hay cái logic (tinh thần), nhưng chỉ là một hình thức (đôi khi cực đoan) của tấm lòng yêu nước mà thôi. Giáo sư Trần Văn Giàu là một trong những bộ óc bách khoa của Việt Nam. Gọi cụ là nhà bác học thì cũng không quá đáng. Thế nên, tôi không nghĩ là cụ quá đơn sơ đến nỗi giản đơn tư tưởng Việt vào chủ nghĩa yêu nước. Khi nâng lòng yêu nước lên hàng chủ nghĩa, Trần tiên sinh thực ra muốn nói lên cái tâm tình của cụ và những người cùng thời đại của cụ, tức thời đại của chúng ta hiện nay mà thôi.[58][58] Mà thực vậy, thời đại của chúng ta hiện nay là một thời đại xây dựng trên lòng yêu nước (nếu nước được hiểu theo nghĩa rộng của quê cha đất tổ). Bảo vệ nước nhà khỏi ngoại xâm, bảo vệ dân tộc khỏi bị đô hộ. thì người Việt cho dù ở bất cứ đâu cũng đều như nhau. Họ vẫn rất nặng tấm lòng yêu đất nước, thương giống nòi, nhớ quê hương và luôn hướng về xứ sở. Song le, tâm tình này không phải và không nên đồng nghĩa với chủ nghĩa. Bởi vì lòng yêu nước là tinh thần, là mã số, chứ không phải là hình thức hay cơ cấu.
Một chủ nghĩa không chỉ cần nguyên lý, mà còn phải mang vào một hình thức cố định. Nó phải có những điều kiện sau: (1) nó là nguyên lý chỉ đạo trong tất cả cuộc sống, (2) nó là luật (logic) của mọi suy tư, (3) nó là giá trị căn bản để đánh giá mọi sinh hoạt của chúng ta, (4) nó là nguồn, hình thức, và chất liệu cho thẩm mỹ; (5) nó thể hiện trong cơ cấu, tổ chức, nền giáo dục. của xã hội. Nói tóm lại, khi công nhận chủ nghĩa yêu nước thì trước hết phải chứng minh có một tâm tình yêu nước chung nơi người Việt; có một lối suy tư chung dựa trên tâm tình này; có một lối tổ chức (sống) chung theo nguyên lý này, có một nền đạo đức, thẩm định giá trị chung dựa trên nguyên lý này, và mọi sáng tạo, sản sinh chỉ có thể từ cái động lực yêu nước này. Tất cả các nguyên tố trên cấu tạo thành nền triết học yêu nước. Là chủ nghĩa, ta phải công nhận đó là nền triết học căn bản nhất, hay nói theo ngôn ngữ triết học, đó là nền siêu hình của triết học Việt Nam.
Hiển nhiên là, tấm lòng yêu nước không hội đủ những chuẩn mực của một chủ nghĩa nêu trên. Lòng yêu nước của chúng ta chỉ là một lối sống, cách suy tư của những ai gắn liền với nhà, với nước, với non, với ao với vườn. Nó chưa phải, và khó có thể biến thành nền siêu hình bởi lẽ một khi con người không còn quá gắn liền với đất, với nước, với vườn với tược, thì một tâm tình yêu nước như vậy sẽ phai nhạt. Ðây là một lý do giải thích tại sao có những cuộc nội chiến không ngừng giữa những người yêu nước một cách cực đoan. Ðây cũng là lý do giải thích được, những người yêu nước (theo kiểu của họ) khó có thể công tác với nhau được.
Những vĩ nhân như Khổng Tử, Giê-Su, Thích Ca, Karl Marx. không gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Họ là những người quốc tế, vô sản (theo đúng nghĩa không giai cấp của Marx). Ðối với các ngài, thì tấm lòng yêu nước vẫn chưa đủ. Phải là tấm lòng nhân bản, tứ hải giai huynh đệ, thiên hạ vi công, từ bi hỉ xả. mới là nguyên lý căn bản cho cuộc sống. Vây? nên chúng ta phải nói, nền triết học (nguyên lý) của lòng yêu nước phải xây trên nền nhân bản, trên ý thức sinh tồn, phát triển, trên sự ước vọng, khát vọng về một thế giới hoàn mỹ của con nguời toàn thiện.[59][59]
Thế nên, khi viết bộ Lich Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam, chúng ta ý thức được rằng chúng ta viết vì độ䮧 lực yêu nước, và phát xuất từ tấm lòng yêu nước. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta được phép biến bộ sử thành Lịch Sử Triết Học Yêu Nước. Vậy thì, từ tấm lòng yêu nước, với tinh thần khoa học chúng ta nên cố gắng viết bộ sử xứng đáng cho cả nhiều thế hệ, có thể dịch sang ngoại ngữ (Anh, Pháp, Hoa) và cống hiến cho nhân loại. Và để có thể hoàn thành bộ này, chúng ta cần có những điều kiện căn bản (phần 3), cũng như sự tiếp tay của các chuyên gia liên ngành,và sự đóng góp của những học giả Việt sống tại hải ngoại, hay các học giả ngoại quốc.[60][60] Một bộ sử như vậy không chỉ thỏa mãn được tấm lòng ái quốc của chúng ta, mà còn đóng góp vào kho tàng văn hóa của nhân loại.
—————————————-
SÁCH THAM KHẢO
Trong phần này, chúng tôi chỉ nêu ra một số tác phẩm liên quan tới phần lịch sử tư tưởng, triết học và Việt triết. Vì không được hân hạnh đọc một số tác phẩm của những học giả Việt tại hải ngoại, nên chúng tôi không dám mạo muội ghi tác phẩm của họ nơi đây.
Bùi Thanh Quất, chb., Lịch Sử Triết Học. Hà Nội, 1999.
Cao Xuân Huy, Tư Tưởng Phương Ðông Gợi Những Ðiểm Nhìn Tham Chiếu. Hà
Nội: Nxb Văn Học, 1995.
Doãn Chính, chb., Ðại Cương Triết Học Phương Ðông Cổ Ðại. Hà Nội: Nxb
Chính Trị Quốc Gia, 1998.
Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, Ðại Cương Triết Học Trung Quốc. 2 Tập. Sài
Gòn: Xuân Thu xb., 1964.
Kim Ðịnh, Việt Lý Tố Nguyên. Sài Gòn: An Tiêm, 1971.
Kim Ðịnh, Gốc Rễ Triết Việt. Houston: An Việt, 1988.
Kim Ðịnh, Việt Triết Nhập Môn. Houston: An Việt, 1988.
Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Phương Tây. Sài Gòn, 1971.
Lê Sỹ Thắng, Lịch Sử Tư TưởngViệt Nam, Tập 2. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã
Hội, 1997.
Nguyễn Ðăng Thục, Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, 5 Tập. Tph. Hồ Chí
Minh: Nxb Tph. HCM., 1991. Tái bản.
Nguyễn Ðăng Thục, Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, 7 Tập. Tph. Hồ Chí Minh:
Nxb Tph. HCM, 1992. Tái bản.
Nguyễn Hữu Vui, chb., Lịch Sử Triết Học, 2 Tập. Hànội: Nxb Chính Trị Quốc
Gia, 1991-1992, Tb., 1998.
Nguyễn Tài Thư, chb., Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Viện Triết
Học, 1993.
Nguyễn Tài Thư, chb., History of Buddhism in Vietnam. Hà Nội: Social
Sciences Publ. House, 1992. Tái bản: Washington, D.C.: The Council for
Research in Values and Philosophy, 2002.
Nguyễn Trọng Chuẩn, chb., Nửa Thế Kỷ Nghiên Cứu và Giảng Dậy Triết Học
ở Việt Nam. Hà Nội: Viện Triết Học, 2001.
Phan Ngọc, Một Cách Tiếp Cận Văn Hóa. Hà Nội: Nxb Thanh Niên, 2000.
Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam. Tph. Hồ Chí Minh: Nxb
Tph. HCM, 2001(lần 3).
Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam – Tìm Tòi và Suy Ngẫm. Hà Nội: Nxb
/span>Văn Hóa Dân Tộc, 2000.
Trần Ðức Thảo, Lịch Sử Tư Tưởng trước Marx. Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội,
1995.
Trần Trọng Kim, Nho Giáo. Sài Gòn: Trung Tâm Học Liệu BGD, 1971.
Trần Văn Ðoàn, Chính Trị dữ Ðạo Ðức. Ðài Bắc: Học Sinh Thư Cục (Bộ Giáo
?????? Dục Ðài Loan), 1998. (Trung ngữ)
Trần Văn Ðoàn, Việt Triết Luận Tập, Tập 1. Washington, D.C.: Vietnam
University Press, 2000. (Việt ngữ)
Trần Văn Ðoàn, The Idea of a Viet-Philosophy, Vol. 1. The Formation of
Vietnamese Confucianism. Washington, D.C.: Council for Research in
Values and Philosophy, 2002.
Trần Văn Ðoàn, The Category of Relation in the Human Sciences. 4 Vols.
Taipei: National Sciences Council, 1997-2001.
Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển của Tư Tưởng ở Việt Nam từ Thế Kỷ XIX đến
Cách Mạng Tháng Tám, 2 Tập. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1973.
Viện Triết Học, chb., Một Số Vấn Ðề Lý Luận về Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam.
Hà Nội: Viện Triết Học, 1984.
Vũ Ðình Trác, Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ. Orange: Hội Hữu, 1988.
Vũ Ðình Trác, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du. Orange: Hội Hữu, 1993.
[1][1] Các học giả theo trường phái Hậu hiện đại (Postmodernism) có lẽ sẽ không đồng ý về sự phân chia văn hóa theo cấp bậc giá trị cao thấp. Họ sẽ viện chứng lối suy tư của các nhà khảo cổ học như E. Evans-Pritchard, hay triết gia chủ trương Kiến (Cơ) cấu luận như Claude Lévi-Strauss, hay các triết gia như R. G. Collingwood, Peter Winch, hay các nhà nhân chủng học như Clifford Geerzt để chứng minh rằng, bất cứ nền văn hóa nào cũng dựa trên một nền khoa học (hay tri thức khoa học). Thế nên, theo họ, ta không được phép lấy bất cứ chuẩn mực (criteria) nào để so sánh, đối chiếu và nhất là phán đoán, phân cao thấp các nền văn hóa. Tuy nhiên, nếu quả thật như vậy thì làm sao mà chúng ta có thể giải thích được sự kiện có nhiều nền văn hóa đã mai một, và nhất là việc nền văn hóa man dã dễ dàng bị nền văn hóa hiện đại (văn hóa kỹ khoa, văn minh Âu Mỹ) đè bẹp? Xtkh. Trần Văn Ðoàn, Chủ Thuyết Hậu Hiện Ðại Ði Về Ðâu? (Hà Nội: Viện Triết Học, 2002 dự trù).