ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ
Những Chủ Đề Chọn Lọc Về Giáo Hội Học
Nhân Dịp Kỉ Niệm Hai Mươi Năm
Ngày Bế Mạc Công Đồng Vaticanô II
(1984)
(Bản dịch của Học viện Đa Minh)
———————-
Mục Lục
Lời nói đầu
1. Đức Giêsu Kitô thiết lập giáo hội
1.1 Thực trạng của vấn đề
1.2 Những ý nghĩa khác nhau của hạn từ “Ekklesia”
1.3 Quan niệm và khởi điểm của việc thiết lập Giáo hội
1.4 Các bước và chặng trong tiến trình thiết lập Giáo hội
1.5 Nguồn gốc thường hằng của Giáo hội trong Đức Giêsu Kitô
2. Giáo hội “Dân mới của Thiên Chúa”
2.1 Những danh hiệu khác nhau của Giáo hội
2.2 “Dân Thiên Chúa”
3. Giáo Hội như “Mầu nhiệm” và như “Chủ thể lịch sử”
3.1 Giáo hội đồng thời là “mầu nhiệm” và “chủ thể lịch sử”
3.2 Giáo hội như “chủ thể lịch sử”
3.3 Sự viên mãn và tính tương quan của chủ thể lịch sử
3.4 Dân mới của Thiên Chúa trong cuộc sống lịch sử
4. Dân Thiên Chúa và việc Hội nhập Văn hóa
4.1 Sự cần thiết của việc hội nhập văn hóa
4.2 Nền tảng của việc hội nhập văn hoá
4. 3 Những lãnh vực khác nhau của việc hội nhập văn hoá
5. Các Giáo hội Địa phương và Giáo hội Phổ quát
5.1 Một vài phân biệt quan trọng
5.2 Tính hiệp nhất và đa dạng
5.3 Phục vụ sự hiệp nhất
6. Dân mới của Thiên Chúa như một Xã Hội có cơ cấu phẩm trật
6.1 Hiệp thông, cơ cấu và tổ chức
6.2 Những nguyên tắc của đời sống thực hành trong xã hội hiệp thông theo phẩm trật
7. Chức Tư tế Phổ quát trong Tương quan với Chức Tư tế Thừa tác
7.1 Hai dạng thức tham dự chức tư tế của Đức Kitô
7.2 Mối tương quan giữa hai dạng chức tư tế
7.3 Nền tảng bí tích của hai chức tư tế
7.4 Ơn gọi của các giáo dân
8. Giáo Hội như là Bí Tích của Đức Kitô
8.1 Bí tích và mầu nhiệm
8.2 Đức Kitô và Giáo hội
8.3 Giáo hội, Bí tích của Đức Kitô
9. Giáo Hội Duy nhất của Chúa Kitô
9.1 Sự hợp nhất của Giáo hội và sự khác biệt giữa các nhân tố Kitô giáo
9.2 Những nhân tố của ơn thánh hoá
10. Đặc tính Cánh chung của Giáo Hội: Vương quốc của Thiên Chúa và Giáo Hội
10.1 Giáo hội vừa ở dưới đất vừa thuộc về trời
10.2 Giáo hội và Vương quốc
10.3 Phải chăng Giáo hội là Bí tích của Vương Quốc?
10.4 Đức Maria, Giáo hội đã thành toàn
————————–
Lời nói đầu
Trong tài liệu này, Ủy ban Thần học Quốc tế sẽ xem xét một số chủ đề lớn trong Hiến chế Tín lý Lumen gentium về Giáo Hội.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai mươi ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II, thật là thích hợp để nghiên cứu trực tiếp các bản văn của Hiến chế cũng như phân tích một vài vấn đề gai góc của Giáo Hội học được đặt lên sau Công đồng.
Vì thế trước tiên, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các chương I, II, III và VII của hiến chế Lumen gentium. Chúng tôi thấy cần phải trở lại một số quan điểm nền tảng của Hiến chế, bởi vì chúng đã mang lại hiệu quả cho đời sống và thần học của Giáo Hội trong việc phục vụ sự canh tân (aggiornamento) mà Đức Giáo hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI mong muốn. Tuy nhiên, đôi khi những khái niệm ấy đã bị lãng quên hay bị bóp méo đến mức gần như mất hết ý nghĩa ban đầu. Ngoài ra, chúng tôi cũng thấy cần phải cứu xét thêm một vài vấn đề khác xem ra chưa rõ ràng trong Hiến chế, nhưng sau đó đã trở thành quan trọng, chẳng hạn như việc hội nhập Tin Mừng và Giáo Hội vào văn hoá, hoặc việc Đức Kitô thiết lập Giáo Hội.
Sau cùng, mặc dù biết rằng Bộ Giáo luật năm 1983 không phải là một tài liệu có cùng bản chất và giá trị như một Hiến chế Công Đồng, nhưng chúng tôi cũng thường quy chiếu vào đó để làm nổi bật những chỗ tương đồng và giải thích giữa hai văn kiện quan trọng của Giáo Hội để soi sáng những vấn đề tranh luận. Sau hết xét vì đã gần đến Thượng hội đồng Giám mục bất thường (24 tháng 11 năm 1985), ước mong công việc của chúng tôi sẽ giúp ích các nghị phụ trong công tác trọng đại này.
Rôma, ngày 7 tháng 10 năm 1985
————————-
1. Đức Giêsu Kitô thiết lập giáo hội
1.1 Thực trạng của vấn đề
Giáo Hội vẫn luôn xác quyết rằng không những Đức Giêsu Kitô là nền tảng của Giáo Hội (DS 774) mà còn khẳng định chính Người đã muốn và thực sự đã thiết lập một Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ quyết định tự do của Đức Giêsu (DS 3302ff.). Giáo Hội được hiện hữu nhờ việc Đức Giêsu đã trao ban sự sống của mình trên Thập giá (DS 539 và 575). Vì những lý do này, Công đồng Vaticanô II gọi Đức Giêsu Kitô là người sáng lập Giáo Hội (x LG 5).
Tuy nhiên, một vài đại biểu của khoa phê bình lịch sử hiện đại về các sách Tin Mừng đã chủ trương rằng Đức Giêsu không thực sự thiết lập một Giáo Hội, và bởi vì dành ưu tiên cho việc loan báo vương triều Thiên Chúa cho nên Người cũng chẳng có ý định thành lập Giáo Hội. Hệ luận của quan điểm này là tách biệt việc thiết lập Giáo Hội ra khỏi Đức Giêsu lịch sử; thậm chí, vài học giả còn loại bỏ các thuật ngữ “thành lập” (fondazione) hoặc “thiết lập” (istituzione) và coi nhẹ những hành động có liên quan đến việc ấy. Từ đó, việc khai sinh Giáo Hội – theo ngôn ngữ thường dùng hiện nay – là một sự kiện hậu-vượt-qua, một sự kiện dần dần được giải thích theo nghĩa thuần túy lịch sử hoặc xã hội học.
Sự chênh lệch giữa đức tin của Giáo Hội – được nhắc đến trên đây – với một vài quan niệm được gán cách sai lệch cho khuynh hướng phê bình lịch sử hiện đại đã làm nảy sinh không ít vấn đề. Để giải quyết hay tìm ra một giải pháp cho những vấn đề này, cần phải đặt mình trong phạm vi của khoa phê bình lịch sử và sử dụng các phương pháp của nó, ngõ hầu tìm ra một cách thức mới để biện minh và khẳng định đức tin của Giáo Hội.
1.2 Những ý nghĩa khác nhau của hạn từ “Ekklesia”
Trong Tân ước, “Giáo Hội” (ekklesia) là một thuật ngữ thần học mang một ý nghĩa súc tích ngay từ buổi đầu của lịch sử mặc khải. Chắc hẳn, Ekklesia (qahal) xuất phát từ ý tưởng trong Cựu Ước về “sự quy tụ của dân Thiên Chúa”, qua bản dịch LXX cũng như qua văn chương khải huyền của đạo Do Thái. Mặc dù bị dân tộc Israel khước từ, Đức Giêsu đã không thiết lập một hội đường khác biệt, cũng chẳng tạo ra một cộng đoàn biệt lập theo kiểu một “tàn dư thánh” hay một giáo phái ly khai. Trái lại, Người mong cho Israel trở lại, bằng cách gửi đến cho họ một sứ điệp cứu rỗi mà sau cùng sẽ được loan truyền một cách phổ quát (x. Mt 8,5-13; Mc 7,24-30). Tuy nhiên Giáo Hội theo ý nghĩa đầy đủ và thần học của hạn từ thì chỉ hình thành sau cuộc Phục sinh, dưới hình thức của một cộng đoàn gồm bởi những người Do Thái lẫn dân ngoại trong Chúa Thánh Linh (Rm 9,24).
Thuật ngữ ekklesia, trong bốn sách sách Tin Mừng chỉ xuất hiện ba lần trong Mátthêu (16,18; 18,17), có thể có ba ý nghĩa chồng chéo trong Tân Ước: (1) sự tụ họp của cộng đoàn; (2) mỗi cộng đoàn địa phương; và (3) Giáo Hội hoàn vũ.
1.3 Quan niệm và khởi điểm của việc thiết lập Giáo hội
Trong các sách Tin Mừng có hai biến cố biểu lộ cách đặc biệt niềm tin rằng Giáo Hội được Đức Giêsu Nadarét thiết lập. Thứ nhất là việc đổi tên tông đồ Phêrô (Mc 3,16) sau khi tuyên xưng về niềm tin của mình vào Đấng Mêsia và có liên quan đến việc thiết lập Giáo Hội (x. Mt 16,16ff.). Thứ hai là việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22ff.; Mt 26,26ff.; Ga 22,14ff; 1 Cr 11,23ff.).
Những lời (logia) của Đức Giêsu liên quan đến tông đồ Phêrô cũng như tường thuật về Bữa Tiệc Ly giữ vai trò tối quan trọng trong cuộc tranh luận hiện nay về việc thiết lập Giáo Hội. Tuy nhiên, ngày nay người ta không thích móc nối lời giải đáp về việc thiết lập Giáo Hội với một câu nói nào của Đức Giêsu hoặc với một sự kiện cụ thể trong cuộc đời của Người.
Theo một nghĩa nào đó, toàn thể hoạt động và cuộc đời của Đức Giêsu làm nên nguồn gốc và nền tảng của Giáo Hội; Giáo Hội ra như là hoa trái của tất cả cuộc đời Đức Giêsu. Việc thiết lập Giáo Hội giả định trước toàn bộ hành động cứu độ của Đức Giêsu trong cái chết và Phục sinh của Người cũng như sứ vụ của Thánh Linh. Vì thế có thể nhận ra trong hoạt động của Đức Giêsu, những thành tố chuẩn bị, các bước triển khai tiệm tiến và các chặng dẫn đến việc thiết lập Giáo Hội.
Điều này có thể nói cách chính xác về những gì mà Đức Giêsu đã nói và thực hiện trước cuộc Vượt Qua, theo nghĩa là nhiều thành tố nền tảng của Giáo Hội sẽ chỉ tỏ lộ rõ ràng sau. Nhiều khía cạnh nền tảng của Giáo Hội sẽ chỉ xuất hiện cách tròn đầy sau cuộc Vượt qua nhưng đã có thể thoáng thấy trong cuộc sống trần thế của Đức Giêsu và tìm thấy nền tảng của chúng ở đó.
1.4 Các bước và chặng trong tiến trình thiết lập Giáo hội
Các bước và chặng vừa đề cập trên đây, dù khi được xét cách riêng rẽ nhưng rõ ràng hơn nữa nếu được nhìn trong chiều hướng tổng thể, cho thấy một sự tiến triển năng động dẫn đến việc thiết lập Giáo Hội. Nơi đó, Kitô hữu nhận ra kế hoạch cứu độ của Chúa Cha và tác động cứu chuộc của Chúa Con và cả hai được Chúa Thánh Thần thông truyền cho loài người (x. LG 2-5). Các thành tố chuẩn bị, các bước khai triển và các chặng có thể được xác định và mô tả chi tiết như sau:
– Các lời hứa trong Cựu Ước hứa về dân Thiên Chúa, hàm ngụ trong lời giảng của Đức Giêsu và vẫn duy trì sức mạnh cứu độ;
– Lời mời của Đức Giêsu nhắm đến mọi người, kêu gọi họ hoản cải và tin vào Người;
– Việc kêu gọi và thiết lập nhóm Mười Hai như một dấu chỉ của sự phục hồi toàn thể Israel trong tương lai;
– Việc đặt tên cho ông Simon Phêrô, vị trí chính yếu dành cho ông giữa lòng các môn đệ và sứ mạng của ông;
– Dân Israel khước từ Đức Giêsu và sự chia cắt giữa dân tộc Do Thái với các môn đệ của Ngài;
– Sự kiện lịch sử là Đức Giêsu, trong việc thiết lập Bữa Tiệc ly và trong việc khổ nạn và cái chết tự tình chấp nhận, vẫn kiên trì với cuộc rao giảng Vương quyền phổ quát của Thiên Chúa, cốt tại việc trao tặng cuộc sống cho tất cả mọi người;
– Việc tái lập, nhờ cuộc Phục sinh của Chúa, cộng đoàn giữa Đức Giêsu với các môn đệ đã bị cắt đứt, và sau cuộc Phục sinh, việc dẫn đưa các môn đệ vào đời sống đích thực của Giáo Hội;
– Việc phái cử Thánh Thần làm cho Giáo Hội thực sự trở thành một thụ tạo của Thiên Chúa (xem cách mô tả “Lễ Ngũ tuần” trong các văn phẩm của thánh Luca);
– Sứ vụ của các môn đệ đến các dân ngoại và sự thiết lập Hội Thánh của dân ngoại;
– Việc đoạn giao dứt khoát giữa “Israel đích thực” và đạo Do Thái.
Nếu xét riêng rẽ, thì không một bước nào có thể cấu thành toàn bộ, nhưng nếu tất cả các bước được kết hợp với nhau thì cho thấy rõ rằng việc thiết lập Giáo Hội cần được hiểu như một tiến trình lịch sử, nghĩa là cũng tương tự như việc hình thành Giáo Hội trong lịch sử của mặc khải. Chúa Cha hằng hữu “ đã quyết định quy tụ tất cả những người tin kính Đức Kitô vào trong Giáo Hội. Giáo Hội này được tiên báo từ khi tạo thành vũ trụ, được chuẩn bị cách diệu kỳ trong lịch sử dân Israel và trong Cựu Ước và được thiết lập trong thời sau hết, được biểu lộ vào lúc Chúa Thánh Thần được đổ tràn, và sẽ được hoàn tất trong vinh hiển vào lúc kết tận thời gian” (LG 2).
Đồng thời, khi quá trình này khai mở, cấu trúc nền tảng thường hằng và bền vững của Giáo Hội được cấu thành trong chính diễn tiến ấy. Tự thân, Giáo Hội trần thế đã là nơi quy tụ dân tộc cánh chung của Thiên Chúa, tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ của Ngài. Trong viễn cảnh này, Giáo Hội là “hạt giống và khởi điểm của Vương triều của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên trần gian”, như hiến chế Lumen gentium số 5 đã viết. (x. chương 10 dưới đây).
1.5 Nguồn gốc thường hằng của Giáo hội trong Đức Giêsu Kitô
Được Đức Kitô thiết lập, Giáo Hội không chỉ phụ thuộc vào Người xét về sự khai sinh tự bên ngoài, lịch sử hoặc xã hội; nhưng Giáo Hội phát sinh từ Chúa của mình cách sâu đậm hơn nữa, bởi vì chính Người là Đấng không ngừng nuôi dưỡng và xây dựng trong Thánh Thần. Theo Kinh Thánh, và theo cách hiểu trong Truyền thống, Giáo Hội được sinh từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu Kitô (x. Ga 19,34; LG 3); “được thủ đắc bằng máu Chúa Con” (Cv 20,28; x. Tt 2,14). Bản tính của Giáo hội được đặt nền trên mầu nhiệm của bản tính của Đức Giêsu và của sự nghiệp cứu độ của Người.
Cấu trúc nền tảng này được diễn tả bằng nhiều hình ảnh khác nhau trong Kinh thánh: Hiền thê của Đức Kitô; đàn chiên của Đức Kitô; sở hữu của Thiên Chúa, đền thờ của Thiên Chúa, dân Thiên Chúa, nhà của Thiên Chúa, mảnh vườn hay thửa ruộng của Thiên Chúa (x. LG 6) và nhất là Thân thể Đức Kitô (LG 7), một hình ảnh mà thánh Phaolô khai triển trong chương mười một thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô khi đề cập đến Bí tích Thánh Thể, mà thánh nhân tìm thấy cơ sở sâu sắc nhất để giải thích (x. 1 Cr 10,16tt.). Hình ảnh này còn được khai triển rộng hơn trong thư gửi các tín hữu Côlôsê và thư gửi các tín hữu Êphêsô (xem Cl 1,18; Ep 1,22; 5,23): Đức Kitô là Đầu của Thân thể Giáo Hội. Thiên Chúa Cha đã “bắt vạn vật suy phục dưới chân Người và đặt Người làm thủ lãnh Giáo hội ở trên vạn vật; Giáo Hội là Thân thể của Người, là sự viên mãn của Đấng được thể hiện hoàn toàn trong muôn vật” (x. Ep 1, 22-23) ngõ hầu Giáo Hội được tràn đầy “mọi sự sung mãn của Thiên Chúa” (x. Ep 3,19) (LG 7).
2. Giáo hội “Dân mới của Thiên Chúa”
2.1 Những danh hiệu khác nhau của Giáo Hội
Giáo Hội phản chiếu ánh sáng của Đức Kitô (x. LG 1), bày tỏ cho hết mọi người “kế hoạch vô lường và huyền bí, khôn ngoan và nhân hậu của Thiên Chúa Cha hằng hữu, Đấng muốn cứu độ nhân loại nhờ Chúa Con và trong Thánh Thần” (x. LG 2). Nhằm nêu bật vừa sự hiện diện của thực tại thần thiêng siêu việt trong Giáo Hội vừa sự thể hiện biểu lộ trong lịch sử, Công đồng Vaticanô II đã ám chỉ Giáo Hội bằng hạn từ “mầu nhiệm” (mysterium). Duy một mình Thiên Chúa mới biết được hạn từ nào diễn tả cách trọn vẹn thực tại của Giáo Hội, chứ ngôn ngữ loài người cảm thấy không thể nào diễn tả cân xứng ý nghĩa của “mầu nhiệm” Giáo hội. Bởi vậy, ngôn ngữ loài người buộc phải dùng đến nhiều hình ảnh, lối diễn tả và so sánh, tuy chúng chỉ nói lên vài khía cạnh phiến diện của thực tại.
Việc sử dụng các dạng thức này cho thấy “mầu nhiệm” vượt lên trên mọi ý niệm và biểu tượng; hơn nữa, việc dùng nhiều diễn ngữ giúp cho ta tránh những nhấn mạnh thái quá khi chỉ tập trung vào một mẫu thức. Điều này đã được hiến chế Lumen gentium nêu lên trong số 6: “Trong Cựu Ước, mặc khải về Vương Quốc thường được thực hiện qua những hình bóng, thì bây giờ cũng vậy, bản chất sâu sắc của Giáo Hội cũng được thông đạt qua nhiều hình ảnh khác nhau.” Trong Tân Ước, ước tính có tới 24 so sánh để nói về Giáo Hội. Công đồng cũng vận dụng nhiều hình ảnh để nêu bật tính cách bất tận của “mầu nhiệm” Giáo Hội. Thật vậy, ai chiêm ngắm mầu nhiệm này sẽ gặp thấy “một thực tại thấm đẫm sự hiện diện của Thiên Chúa, và luôn có khả năng khám phá nhiều điều mới mẻ và sâu xa hơn nữa (ĐGH Phaolô VI, Bài phát biểu khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, ngày 29 tháng 9 năm 1963 [AAS 55 (1963): 848]). Và, như thế, Tân Ước trình bày cho chúng ta những hình ảnh “lấy từ đời sống du mục, từ việc canh tác trên ruộng đất, kiến trúc hoặc từ đời sống gia đình và hôn nhân, đã được chuẩn bị trong các sách Ngôn sứ” (LG 6).
Dĩ nhiên, không phải tất cả những hình ảnh này đều có sức biểu lộ như nhau và một vài hình ảnh có tầm quan trọng đặc biệt, chẳng hạn như “thân thể”. Người ta dễ đồng ý rằng nếu không có thuật ngữ “thân thể Đức Kitô” áp dụng cho cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu thì hầu như chúng ta không thể nào tiếp cận được thực tại Giáo Hội. Thực vậy, các thư của thánh Phaolô triển khai lối so sánh này theo nhiều chiều hướng khác nhau như hiến chế Lumen gentium nói ở số 7. Tuy vậy, mặc dầu vẫn đề cao hình ảnh Giáo Hội như “Thân thể của Chúa Kitô”, nhưng Công đồng chú trọng hơn hình ảnh “dân Thiên Chúa”, được đặt làm tựa đề của chương thứ hai của Hiến chế. Thậm chí thuật ngữ “dân Thiên Chúa” đã trở thành tiểu biểu của Giáo Hội học của Công đồng.
Thật vậy, có thể quả quyết rằng khi tìm cách diễn tả mầu nhiệm, Công đồng đã chọn lựa thuật ngữ “dân Thiên Chúa” hơn là các hình ảnh khác, tựa như “thân thể Chúa Kitô” hoặc “đền thờ của Thánh Thần”. Việc lựa chọn này dựa trên những lý do thần học lẫn mục vụ, mà theo ý kiến của các nghị phụ bổ túc cho nhau: so sánh với các diễn ngữ khác, “dân Thiên Chúa” có một lợi thế là nó có thể truyền tải rõ ràng hơn thực tại bí tích chung mà tất cả các phần tử được chia sẻ, hoặc xét như là phẩm cách của Giáo Hội hoặc như trọng trách trong thế giới. Đồng thời, theo ước nguyện của nhiều nghị phụ, công thức chung này vừa làm nổi bật bản chất cộng đồng và chiều kích lịch sử của Giáo Hội.
2.2 “Dân Thiên Chúa”
Mặt khác, thuật ngữ “dân Thiên Chúa” tự nó không rõ nghĩa và, cũng như các thuật ngữ thần học khác, đòi hỏi phải suy tư, đào sâu và diễn giảng thích để tránh những giải thích lệch lạc. Ngay về mặt ngữ học, hạn từ populus trong tiếng Latinh xem ra không tương đương với từ Hy Lạp laos của bản LXX. Laos trong bản LXX là một thuật ngữ mang một ý nghĩa đặc thù và xác định, tức là không chỉ có tính tôn giáo mà còn có tính cứu độ, và nhắm đến việc kiện toàn trong Tân Ước.
Hiến chế Lumen gentium giả thiết ý nghĩa Kinh Thánh của hạn từ “dân”, và sử dụng hạn từ này với tất cả nội hàm chứa đựng trong Cựu Ước và Tân Ước. Hơn nữa, trong thuật ngữ “dân của Thiên Chúa”, thì thuộc từ “của Thiên Chúa” mang lại điểm nhấn đặc thù, và đặt nó vào trong bối cảnh Kinh Thánh là nơi nó xuất hiện và khai triển. Do đó, cần phải loại bỏ bất kỳ lối giải thích nào theo một ý nghĩa thuần túy sinh học, chủng tộc, văn hóa, chính trị hoặc ý thức hệ kèm theo hạn từ “dân”.
“Dân của Thiên Chúa” bắt nguồn “từ trên cao”, từ kế hoạch của Thiên Chúa, nghĩa là từ việc tuyển chọn, Giao ước và sứ mệnh. Điều này lại càng đúng nếu chúng ta xét đến thực tế rằng hiến chế Lumen gentium không chỉ giới hạn vào khái niệm của Cựu Ước về “dân Thiên Chúa”, mà còn vượt lên trên bằng cách nói đến “dân mới của Thiên Chúa” (LG 9). Dân mới của Thiên Chúa này được hình thành từ những người tin vào Đức Giêsu Kitô và được “tái sinh”, bởi vì được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần (Ga 3,3-6). Do đó, chính Chúa Thánh Thần, “bằng sức mạnh của Tin Mừng đã làm cho Giáo hội được trẻ trung và không ngừng đổi mới” (LG 4).
Vì thế, diễn ngữ “dân Thiên Chúa” nhận được một ý nghĩa đặc thù nhờ việc quy chiếu cốt yếu về mầu nhiệm Ba ngôi được Đức Giêsu Kitô mặc khải trong Chúa Thánh Thần (LG 4; UR 2). Dân mới của Thiên Chúa được giới thiệu như một “cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến” (LG 8), bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể (LG 3 và 7). Sự kết hiệp mật thiết của mỗi tín hữu với Đấng Cứu thế cũng như sự hợp nhất giữa các tín hữu với nhau tạo nên hoa trái bất khả phân chia của việc thuộc về Giáo Hội và biến đổi toàn thể cuộc sống của các Kitô hữu thành một “phụng tự tinh thần”. Chiều kích cộng đoàn nằm trong bản tính của Giáo Hội, bởi vì nơi đó các phần tử có thể sống và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức mến, và bởi vì sự hiệp thông nằm sâu trong thâm tâm của mỗi tín hữu được thực hiện trên bình diện cộng đoàn, khách thể và định chế. Giáo Hội cũng được mời gọi để sống trong ký ức và trông mong Đức Giêsu Kitô ở bình diện xã hội. Nhiệm vụ của Giáo hội là loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người.
3. Giáo Hội như “Mầu nhiệm” và như “Chủ thể lịch sử”
3.1 Giáo hội đồng thời là “mầu nhiệm” và “chủ thể lịch sử”
Theo ý định thâm sâu của Hiến chế Công đồng Lumen gentium, một ý định tuyệt nhiên không có gì trái ngược với suy tư sau công đồng, thuật ngữ “dân Thiên Chúa”, được sử dụng cùng với với các thuật ngữ khác để diễn tả Giáo Hội, nhằm nhấn mạnh đặc tính vừa “mầu nhiệm” và vừa “chủ thể lịch sử”, mà Giáo Hội thực hiện và thể hiện cả hai mặt trong mọi hoàn cảnh. Tính cách “mầu nhiệm” nói đến việc Giáo Hội phát xuất từ Ba Ngôi, còn tính cách “chủ thể lịch sử” muốn nói đến Giáo hội trong lịch sử và góp phàn vài việc định hướng cho nó.
Để tránh nguy cơ hoặc tách biệt hai tính cách ấy hoặc đặt chúng song hành với nhau, cần phải đào sâu mối tương quan nằm trong “Giáo Hội như là dân Thiên Chúa”, giữa khía cạnh “mầu nhiệm” và “chủ thể lịch sử”. Thực ra, chính đặc tính mầu nhiệm đã xác định bản chất của Giáo Hội là một chủ thể lịch sử. Đối lại, chủ thể lịch sử diễn tả bản chất của mầu nhiệm. Nói cách khác, dân Thiên Chúa đồng thời là mầu nhiệm và chủ thể lịch sử; mầu nhiệm cấu thành nên chủ thể lịch sử và chủ thể lịch sử biểu lộ mầu nhiệm. Do đó tách hai khía cạnh này trong “Giáo Hội dân Thiên Chúa” là chuyện thuần túy duy danh.
Khi được áp dụng cho Giáo Hội, “mầu nhiệm” ám chỉ kế hoạch tự do của Chúa Cha cao minh và nhân hậu muốn thông đạt chính mình, được thực hiện nhờ sứ vụ của Chúa Con và phái cử Chúa Thánh Thần, ngõ hầu nhân loại được cứu độ. Hành động này mở nguồn cho cuộc tạo dựng xét như là lịch sử của nhân loại, bởi vì nó có “nguyên ủy”, hiểu theo nghĩa sung mãn nhất (Ga 1,1) nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời làm người. Một khi được siêu tôn bên hữu Chúa Cha, Người tuôn đổ Thánh Thần, Đấng trở nên nguyên ủy của Giáo Hội bằng cách kiến tạo Giáo Hội như là Thân thể và Hiền thê của Đức Kitô, đưa Giáo Hội vào một mối liên hệ đặc biệt, duy nhất và độc hữu đối với Đức Kitô, và như vậy không thể nào mở ra vô hạn định.
Bởi thế, mầu nhiệm Ba ngôi được bày tỏ và hoạt động trong lòng Giáo Hội. Thực vậy, một đàng, mầu nhiệm Đức Kitô là Đầu, hiểu như nguyên ủy phổ quát của Christus totus, bao hàm và gói ghém mầu nhiệm Giáo Hội; đàng khác, mầu nhiệm Đức Kitô không đương nhiên đồng hóa với mầu nhiệm Giáo Hội, bởi vì Giáo hội còn mang tính cánh chung nữa. Vì thế, sự liên tục giữa Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội không phải là trực tiếp, nhưng là qua trung gian, nhờ quyền năng Thánh Thần. Xét vì là Thần khí của Đức Giêsu, Thánh Thần tác động để thiết lập trong Giáo hội vương quyền của Đức Giêsu Kitô, được thực hiện nhờ việc tìm kiếm ý muốn của Chúa Cha.
3.2 Giáo hội như “Chủ thể lịch sử”
Giáo Hội “mầu nhiệm”, xét vì được Chúa Thánh Thần tạo lập như sự thành toàn và sung mãn của mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô là Đầu – và do đó là sự biểu lộ Ba Ngôi – , thực sự là một chủ thể lịch sử.
Như đã nói trên đây, Công đồng Vaticanô II muốn nêu bật khía cạnh này của Giáo Hội khi sử dụng thuật ngữ “dân Thiên Chúa”. Trong Cựu Ước, diễn ngữ này bao hàm ý nghĩa là chủ thể lịch sử liên quan đến Giao ước với Thiên Chúa. Nét đặc trưng này được xác định hơn nữa trong Tân Ước khi dân “mới” của Thiên Chúa mang chiều kích phổ thế, nhờ quy hướng về Đức Kitô qua Thánh Thần. Chính nhờ việc quy hướng về Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần mà căn tính chủ thể lịch sử của dân mới của Thiên Chúa được cấu thành.
Dân này có một đặc trưng cơ bản khác với dân khác ở chỗ là nó luôn thực thi việc tưởng nhó và trông mong Đức Giêsu Kitô, và vì thế dấn thân truyền giáo. Đành rằng dân mới của Chúa được hiện thực nhờ gắn bó tự do và trách nhiệm của mỗi thành viên, nhưng cũng nhờ sự nâng đỡ bởi cơ cấu được thiết lập nhắm mục tiêu đó (Lời Chúa và luật mới, Thánh Thể và các bí tích, các đặc sủng và tác vụ). Dù sao việc tưởng nhớ và trông mong mang lại một nét đặc trưng dân Thiên Chúa bằng cách cung cấp cho nó một căn tính lịch sử giúp cho nó khỏi bị phân tán và vô danh, nhờ cơ cấu của mình.
Việc tưởng nhớ và trông mong cũng không thể nào tách rời khỏi việc truyền giáo, nhờ đó mà dân Thiên Chúa được liên lỉ quy tụ. Thực vậy, ta có thể khẳng định rằng việc truyền giáo phát sinh từ việc tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô, theo nghĩa là đặt nền tảng trên đó. Từ việc tưởng nhớ và mong đợi Đức Giêsu, dân Thiên Chúa học được điều mà các dân tộc khác không biết và sẽ không bao giờ biết về ý nghĩa của sự hiện hữu và lịch sử nhân loại. Do sự ủy thác từ Đức Giêsu, dân Thiên Chúa phải loan báo sự hiểu biết và tin vui ấy cho tất cả mọi người (Mt 28,19). Con người vẫn sẽ ở trong tình trạng nô lệ và tăm tối, cho dù họ sở hữu “sự khôn ngoan của người Hy Lạp” (được thánh Phaolô nói đến) hay tiến bộ của khoa học và công nghệ. Nhìn trong viễn tượng này, việc truyền giáo, là cứu cách lịch sử của dân Thiên Chúa, gây nên một hành động đặc thù không thể nào thay thế bằng các công việc khác. Hành động đặc biệt này vừa mang tính phê phán, vừa thôi thúc và đào tạo những lối sống của con người, ảnh hưởng đến sự cứu độ của họ. Do vậy, việc hạ thấp hoặc loại trừ việc truyền giáo chỉ làm tăng thêm những vấn đề và sự dữ trên thế giới.
3.3 Sự viên mãn và tính tương quan của chủ thể lịch sử
Mặt khác, việc nhấn mạnh đến dân Thiên Chúa như chủ thể lịch sử và việc quy chiếu về sự tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô cũng giúp lưu ý đến tính cách tương quan và bất toàn trong đời sống Giáo Hội. Thực vậy, “việc tưởng nhớ ” và “trông mong” vừa nói lên “sự tương đồng” vừa nói lên “sự khác biệt”.
“Việt tưởng nhớ” và “trông mong” diễn tả “sự tương đồng” theo nghĩa là việc quy chiếu của dân mới của Thiên Chúa về Đức Kitô nhờ Thánh Thần, không làm cho dân này trở thành một thực tại “khác”, độc lập và khác biệt, nhưng chỉ là một thực tại được đầy tràn “sự tưởng nhớ” và “trông mong” liên kết với Đức Giêsu Kitô. Dưới khía cạnh này, đặc tính tương quan của dân mới của Chúa nổi lên cách rõ rệt, bởi vì nó không thể nào khép lại trong chính mình, nhưng nó hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Giêsu Kitô. Do đó, dân mới của Chúa không có một bản sắc riêng để tranh đấu, áp đặt hoặc đề xướng cho thế giới, nhưng chỉ có thể là công bố và loan truyền trong sự tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô, nguồn sống của chính mình: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20a).
Một hê luận nữa là “tưởng nhớ” và “trông mong” nói lên sự hiện diện của một Ai khác, vì thế vừa hàm ngụ mối tương quan với Người vừa nói đến tính “bất toàn”. Vì lý do này, dân mới của Thiên Chúa, dù xét đến các cá thể của mình hoặc xét như toàn bộ các phần tử thì luôn ở trong tình trạng “lữ hành” (in via), không bao giờ hoàn tất ở dưới thế này.Vận mệnh của dân Chúa là trở nên “tưởng nhớ và trông mong”, luôn trung tín và vâng phục hơn nữa. Do đó, vị thế chân chính của Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép dung túng bất cứ hình thức ngạo mạn hay trịch thượng nào. Trái lại, vị thế của Giáo Hội trước mặt Đức Kitô phải khơi dậy trong mình một nỗ lực khiêm tốn để hoán cải. Dân mới của Chúa không thể đòi buộc người khác nhiều hơn điều đòi hỏi cho chính mình. Thật vậy, những gì Giáo Hội đề ra không phải là điều gì thuộc về bản thân mình, nhưng là điều dã lãnh nhận từ Thiên Chúa mà không do công lênh của mình.
3.4 Dân mới của Thiên Chúa trong cuộc sống lịch sử
Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà dân mới của Thiên Chúa nhận lãnh tư cách bền vững của một dân tộc. Như lời thánh tông đồ Phêrô, từ chỗ vốn “chưa phải là dân” họ chỉ có thể trở thành một “dân” (x. 1 Pr 2,10) nhờ Đấng quy tụ từ trên cao và từ bên trong để thể hiện sự hơp nhất trong Thiên Chúa. Thánh Thần làm cho dân mới của Thiên Chúa sống trong việc tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô và trao cho họ sứ vụ loan báo Tin mừng về sự tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô đến toàn thể nhân loại. Sự tưởng nhớ, trông mong và sứ vụ không phải là điều gì thêm vào cuộc sống và hoạt động vốn đã có. Về mặt này, các thành phần dân Chúa không tạo nên một nhóm cụ thể khác biệt với các nhóm khác ở cấp độ hoạt động hay công việc hàng ngày của họ. Hoạt động của các Kitô hữu không khác biệt với hoạt động của tất cả mọi người dù là ai đi nữa trong việc “nhân đạo hóa” thế giới. Đối với các thành phần của dân Chúa, cũng như đối với tất cả mọi người, duy chỉ có những điều kiện thông thường và phổ thông của đời sống con người mà tất cả được mời gọi chia se với nhau trong tình liên đới, tùy theo sự đa dạng của ơn gọi của mình.
Tuy nhiên, điều kiện làm phần tử của Dân Thiên Chúa mang lại cho các Kitô hữu một trách nhiệm đặc biệt đối với thế giới. “Linh hồn là gì trong thân xác, thì các Kitô hữu cũng như vậy trong thế giới!” (LG 38, x. Thư gửi ông Điônhêtô số 6). Bởi vì Chúa Thánh Thần được gọi là linh hồn của Giáo Hội (LG 7) nên các Kitô hữu cũng đón nhận sứ vụ từ Ngài để thực hiện trong thế giới một sự hiện diện sống động cũng tương tự với điều Ngài thực hiện trong Giáo Hội. Đây không phải là hành động kỹ thuật, nghệ thuật và xã hội nhưng là đối chiếu hoạt động của con người dưới mọi hình thức với niềm hy vọng Kitô giáo, hoặc, nói theo ngôn ngữ của văn kiện này, với những đòi hỏi về sự tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, chính từ “nội tại” các nhiệm vụ của con người mà các Kitô hữu, cách riêng là giáo dân, được mời gọi “cộng tác vào việc thánh hóa thế giới”. Sứ mạng “làm men” được thể hiện khi nhờ việc hoàn thành các nhiệm vụ của mình. Họ làm cho Đức Kitô trở nên hữu hình cho những người khác nhờ chứng tá đời sống và nhờ ánh sáng của đức tin, hy vọng và bác ái” (LG 31).
Vì vậy, dân mới của Thiên Chúa không nổi bật nhờ một lối sống hoặc một sứ mạng thay thế cho cuộc sống và những dự phóng vốn đã có sắn. Trái lại, sự tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô sẽ chuyển biến hoặc thay đổi từ nội tại lối sống và những dự phóng đã thực hiện giữa loài người. Có thể nói được rằng việc tưởng nhớ và trông mong Đức Giêsu Kitô cấu thành yếu tố “mô thể” (theo thuật ngữ của kinh viện) định hình cho nếp sống cụ thể của của một khi dân mới của Chúa lôi kéo cuộc sống của con người. Cuộc sống này, tựa như “chất thể” (theo thuật ngữ của kinh viện), dĩ nhiên là có trách nhiệm và tự do, sẽ lãnh nhận một sự xác định nào đó để trở thành một lối sống “theo Thần khí”. Những lối sống như vậy không hiện hữu cách tiên thiên cũng không thể được xác định ngay từ đầu; chúng được biểu lộ dưới nhiều hình thức đa dạng và vì thế không thể lường trước được, mặc dù tất cả đều có thể quy chiếu về tác động thường xuyên của một Thánh Thần duy nhất. Tuy vậy, các lối sống đa dạng có một điểm chung và thường hằng đó là chúng đều thể hiện những đòi hỏi và niềm vui Tin Mừng Chúa Kitô “trong các bối cảnh thường nhật nơi cuộc sống gia đình và xã hội, tức là môi trường của nó (x. LG 31).
4. Dân Thiên Chúa và việc Hội nhập Văn hóa
4.1 Sự cần thiết của việc hội nhập văn hóa
Dân Thiên Chúa dù xét như là “mầu nhiệm” hoặc “chủ thể lịch sử” đều “là một cộng đoàn gồm những người… hiệp nhất với Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, trên đường lữ hành về Vương quốc của Chúa Cha và đã lãnh nhận một sứ điệp cứu rỗi để truyền thông cho tất cả mọi người. Đó là lý do tại sao cộng đoàn các Kitô hữu cảm thấy thực sự liên đới chặt chẽ với nhân loại và lịch sử của họ” (GS 1). Bởi sứ vụ của Giáo Hội giữa nhân loại nhằm xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa, nên dân mới của Thiên Chúa “không loại bỏ điều hay lẽ tốt của bất kỳ dân tộc nào, mà còn ủng hộ và đón nhận tất cả những điều tốt đẹp nơi gia sản, nguồn lực và phong hóa của các dân tộc; rồi khi đón nhận, lại thanh lọc, củng cố và thăng tiến chúng” (LG 13). Như hiến chế mục vụ Gaudium et spes gợi ý, thuật ngữ khái quát “văn hóa” bao hàm tất cả những đặc tính cá nhân và xã hội biểu trưng nơi con người, cho phép nó nắm bắt và chế ngự tình thế và vận mệnh của mình (GS 53-62).
Do đó, Giáo Hội, trong sứ mệnh truyền giáo của mình, phải “mang sức mạnh của Tin Mừng vào chính trung tâm của nền văn hóa“ (Đức Gioan Phaolô II, tông huấn Catechesi Tradendae 53). Vì nếu không có điều này, sứ điệp cứu rỗi của Giáo Hội sẽ không thực sự tiếp cận được những con người mà mình truyền đạt. Trên thực tế, việc suy tư về việc loan báo Tin mừng càng thêm sâu đậm hơn khi con người càng nhận thức sâu xa hơn về chính mình. Việc loan báo Tin mừng chỉ đạt được mục tiêu khi nào con người, xét là cá thể cũng như xét là phần tử của cộng đồng chi phối mình, đón nhận Lời Chúa và làm cho Lời ấy sinh hoa trái trong cuộc đời của họ. Điều này khiến Đức Phaolô VI đã viết trong Evangelii nuntiandi rằng: “Các giai tầng của nhân loại phải được biến đổi: vì mục đích của Giáo Hội không chỉ giới hạn vào việc rao giảng Tin Mừng trong các lãnh thổ và các dân tộc càng ngày càng rộng hơn, nhưng còn đem sức mạnh Tin mừng để uốn nắn các tiêu chí đánh giá, các giá trị quyết định, các động cơ chọn lựa, các đường hướng suy tư, các nguồn cảm hứng, các lối sống tương phản với Lời của Thiên Chúa và kế hoạch cứu rỗi (EN 19). Quả vậy, như lời Đức Giáo hoàng đã nêu bật trong cùng văn kiện: “Sự rạn nứt giữa Tin Mừng và văn hóa ắt hẳn là một thảm kịch của thời đại chúng ta” (EN 19 và 20).
Để ám chỉ viễn cảnh và hành động mà Tin Mừng có thể chạm tới cốt lõi của các nền văn hóa nhân loại, thời nay người ta dùng thuật “sự hội nhập văn hoá” (inculturation). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “tuy là một thuật ngữ mới, nhưng nó diễn tả rất rõ một trong yếu tố quan trọng của Mầu nhiệm Nhập thể (Catechesi Tradendae 53; x. Bài phát biểu trước Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, ngày 26 tháng 6 năm 1979; Bài phát biểu trước các giám mục Zaire, ngày 3 tháng 6 năm 1980; Bài chia sẻ cho các trí thức và nghệ sĩ Hàn Quốc, ngày 3 tháng 5 năm 1984). Và khi ở Hàn Quốc, Giáo hoàng đã nhấn mạnh bản chất năng động của sự hội nhập văn hoá : “Giáo Hội phải tiếp nhận mọi thứ nơi các dân tộc. Trước mặt chúng ta là một tiến trình hội nhập lâu dài và quan trọng, ngõ hầu Tin mừng có thể thấm nhập sâu xa vào linh hồn của các nền văn hóa sống động. Việc khuyến khích tiến trình này nhằm đáp ứng những khát vọng sâu xa của các dân tộc và giúp họ bước vào lãnh vực của đức tin”.
Ở đây, chúng tôi không có tham vọng trình bày một học thuyết hoàn bị về việc hội nhập văn hóa, mà chỉ muốn nhắc lại nền tảng của nó trong mầu nhiệm Thiên Chúa và Đức Kitô, nhằm tìm hiểu ý nghĩa của nó đối với sứ vụ hiện tại của Giáo Hội. Tất cả các cộng đồng Kitô hữu đều cảm thấy sự cần thiết của việc hội nhập văn hóa, nhưng chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến hoàn cảnh sinh sống của các Giáo Hội ở Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương, Bắc và Nam Mỹ, cho dù mới được thành lập hay đã có từ lâu đời.
4.2 Nền tảng của việc hội nhập văn hoá
Trước hết, nền tảng học thuyết về sự hội nhập văn hóa được gặp thấy nơi sự đa dạng và phong phú của các loài thụ tạo, do ý định của Thiên Chúa Tạo thành, Đấng đã muốn cho nhiều loài khác nhau diễn đạt rõ rệt vô vàn khía cạnh của lòng nhân hậu của Ngài (x. Thánh Tôma, Tổng luận thần học, vấn đề số 47, mục 1). Nền tảng đó được gặp thấy ở câp độ cao hơn nữa nơi mầu nhiệm Đức Kitô: việc Nhập thể, cuộc đời, cái chết và Phục sinh của Người.
Thật vậy, cũng như Lời Thiên Chúa đã đảm nhận một nhân tính cụ thể trong ngôi vị của mình và sống tất cả những hoàn cảnh của thân phận con người ở một nơi, một thời nhất định, và giữa một dân tộc, thì cũng như vậy, Giáo Hội theo gương Chúa Kitô và nhờ ân huệ Thánh Thần, cũng phải nhập thể vào mọi nơi, mọi thời và mọi dân tộc (x. Cv 2,5-11).
Cũng như Đức Giêsu đã rao giảng Tin Mừng bằng cách sử dụng tất cả những thực tại quen thuộc làm nên văn hóa của dân tộc mình, thì cũng như vậy, Giáo Hội không thể nào không vay mượn các yếu tố thuộc các nền văn hóa nhân loại để xây dựng Vương Quốc.
Đức Giêsu đã nói, “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15), và đã đương đầu với thế giới tội lỗi cho đến nỗi chết trên Thập giá ngõ hầu giúp cho con người có khả năng hoán cải và tin tưởng. Điều này cũng xảy ra cho các nền văn hóa cũng như với các cá nhân: không có hội nhập văn hóa trọn vẹn nếu không tố giác những giới hạn, sai lầm và tội lỗi mà họ mắc phải. Mọi nền văn hóa đều phải chấp nhận phán quyết của Thập giá về đời sống và ngôn ngữ của mình.
Chúa Kitô đã sống lại, đã tỏ lộ cho con người biết ơn gọi sung mãn của mình, và thông ban cho nó những hoa trái của ơn cứu chuộc toàn vẹn. Cũng thế, một nền văn hóa quay về với Tin Mừng sẽ tìm thấy sự giải thoát của mình và khám phá những kho tàng mới mẻ vừa là ân sủng và lời hứa của sự Phục sinh.
Có một sự trao đổi kỳ diệu giữa việc đưa Tin Mừng vào các nền văn hóa và việc đưa văn hoá vào Tin Mừng: một mặt, Tin Mừng tỏ lộ chân lý cho mọi văn hóa và giải thoát khỏi văn hóa chân lý tối cao tiềm tàng trong đó; mặt khác, mỗi nền văn hóa diễn tả Tin Mừng một cách độc đáo và khai mở những khía cạnh mới mẻ. Như thế, sự hội nhập văn hoá là một yếu tố của việc thâu hồi vạn vật về với Đức Kitô là đầu (Ep 1,10) và của đặc tính phổ thế của Giáo Hội (LG 16 và 17).
4.3 Những lãnh vực khác nhau của việc hội nhập văn hoá
Việc hội nhập văn hoá tác động sâu sắc đến mọi khía cạnh sự hiện hữu của Giáo Hội, đặc biệt là đối với đời sống và ngôn của Giáo hội mà chúng tôi muốn nêu bật ở đây.
– Trên bình diện đời sống, sự hội nhập văn hoá cốt ở chỗ là các dạng thức biểu lộ và tổ chức cơ chế của Giáo Hội tương ứng với các giá trị tích cực tạo nên bản sắc của một nền văn hóa. Sự hội nhập văn hoá cũng liên quan đến sự hiện diện tích cực và dấn thân chủ động đối với các vấn đề nhân sinh. Hội nhập văn hóa không chỉ đơn thuần là bảo tồn các truyền thống văn hóa, nhưng còn là hoạt động nhắm phục vụ tất cả con người và tất cả mọi người; thấm nhập và biến đổi mọi mối tương quan; lưu tâm đến những giá trị của quá khứ cũng như hướng nhìn về tương lai.
– Trong lĩnh vực ngôn ngữ (được hiểu theo nghĩa văn hóa – nhân học), sự hội nhập văn hoá tiên vàn cốt ở việc diễn tả nội dung đức tin trong các từ ngữ, khái niệm tư tưởng, biểu tượng và lễ nghi của một nền văn hóa nhất định. Kế đó, nó đòi hỏi việc sáng chế một lời đáp trả đạo lý vừa trung thành vừa đổi mới, vừa xây dựng lại vừa phê phán, đối với những vấn đề đạo lý hay luân lý liên quan đến các khát vọng và khước từ, các giá trị hay những lệch lạc của nền văn hóa đó.
Cho dù những nền văn hóa có khác nhau, nhưng thân phận con người vẫn là một và giống nhau; vì thế sự giao lưu giữa các nền văn hóa không những là có thể được mà còn cần thiết nữa. Tin Mừng, hướng đến thâm tâm con người, mang một giá trị xuyên văn hóa, và bản sắc của nó có thể nắm bắt được ở mọi nền văn hóa. Điều này cũng đòi hỏi rằng mỗi nền văn hóa phải mở ra cho các nền văn hóa khác. Nên nhớ rằng “Tin Mừng vốn luôn được truyền thông bằng một cuộc đối thoại tông đồ mà chắc chắn được lồng trong một đối thoại nào đó giữa các nền” (CT 53).
Nhờ sự hiện diện và dấn thân trong lịch sử loài người, dân mới của Thiên Chúa luôn được đưa đến những cảnh huống mới, vì thế phải không ngừng bắt tay vào nhiệm vụ loan báo Tin Mừng giữa lòng văn hóa nhân loại và các nền văn hóa riêng biệt. Đôi khi có những cảnh huống và thời buổi đòi hỏi một nỗ lực đặc biệt, như là trường hợp loan báo Tin mừng ngày nay cho các dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương, và Bắc và Nam Mỹ. Cho dù mới được thành lập hoặc đã có từ lâu đời, các Giáo Hội này, mà chúng ta có thể gọi là “ngoài Âu châu”, đang ở trong một cảnh huống đặc biệt liên quan đến sự hội nhập văn hoá. Các vị thừa sai đã mang Tin mừng đến các Giáo hội ấy với những yếu tố của văn hóa của mình. Đó là chuyện đương nhiên, và không thể đòi hỏi các nhà thừa sai phải thực hiện điều thuộc về các Kitô hữu sống tại các nền văn hóa mới được truyền giáo. Như lời Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh với các giám mục tại Zaire: “Việc loan báo Tin Mừng có những chặng và những hồi thâm cứu”. Vì thế, xem ra đã đến lúc mà các Giáo Hội ngoài châu Âu, một khi nhận thức được sự độc đáo của mình và những nhiệm vụ kèm theo, có bổn phận phải tạo ra những phương thức mới mẻ để diễn đạt một Tin Mừng duy nhất trong đời sống và ngôn ngữ Giáo Hội. Mặc dù có những khó khăn và thời gian mà công cuộc này đòi hỏi, những nỗ lực của các cộng đoàn này thực hiện trong sự hiệp thông với Tòa thánh và với sự trợ giúp của các Giáo Hội khác, chắc chắn là then chốt cho tương lai của việc loan báo Tin mừng.
Trong toàn bộ sứ vụ này, đành rằng việc cổ vũ công bình chỉ là một yếu tố nhưng là một yếu tố quan trọng và khẩn thiết nhất. Việc loan báo Tin Mừng phải chấp nhận thách đố của những bất công ở địa phương cũng như bất công trên toàn cầu. Trong lãnh vực này, quả là có một vài sai lệch về mặt chính trị và tôn giáo; nhưng đừng để cho điều này gây ra nghi ngờ hoặc quên lãng sứ vụ cần thiết là việc cổ vũ công bình; trái lại, nó cho thấy sự khẩn thiết của việc phân định thần học dựa trên việc phân tích phù hợp với khoa học nhưng luôn luôn dưới ánh sáng của đức tin (x. Huấn thị của Bộ Giáo lý đức tin về một vài khía cạnh của Thần học giải phóng năm 1984. Mặt khác, xét vì các sự bất công thường gắn liền với mối bất công toàn cầu, như Giáo hoàng Phaolô VI đã lưu ý tất cả thế giới trong thông điệp Populorum Progressio, cho nên việc cổ vũ công lý liên quan đến Giáo Hội Công giáo trên khắp thế giới, nghĩa là đòi hỏi sự tương trợ giữa các Giáo Hội địa phương và sự hỗ trợ của Tòa thánh.
5. Các Giáo hội Địa phương và Giáo hội Phổ quát
5.1 Một vài phân biệt quan trọng
Theo một lối nói khá thông dụng kể từ Công đồng Vaticanô II dã được Bộ giáo luật 1983 lấy lại, trong văn kiện này chúng tôi hiểu thuật ngữ Ecclesia peculiaris aut particularis như giáo phận (x. Điều 368) “được liên kết với vị mục tử riêng và được Người quy tụ nhờ Tin mừng và Thánh Thể trong Thánh Thần” (Christus Dominus 11). Ở đây, tiêu chí mang tính cách thần học. Mặt khác, thuật ngữ Ecclesia localis (không được bộ giáo luật chấp nhận) có thể ám chỉ một nhóm gồm nhiều ecclesiae particularis có ít nhiều đồng nhất, dựa theo các yếu tô địa lý, lịch sử, ngôn ngữ hoặc nền văn hóa. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Quan phòng, các giáo hội này đã phát triển (chẳng hạn như các Tòa Thượng phụ cổ kính) hoặc đang phát triển một gia sản riêng về thần học, luật pháp, phụng vụ, và tâm linh. Ở đây, tiêu chí được viện dẫn chủ yếu thuộc loại văn hóa xã hội.
[Lưu ý về việc dịch thuật. Văn kiện này cũng dựa theo Bộ giáo luật dùng hạn từ ecclesia particularis; nếu muốn dịch sát thì phải gọi là “giáo hội riêng biệt” (đối lại với “phổ quát”), nhưng chúng tôi xin dịch là “giáo hội địa phương” tuy rằng thuật ngữ này tương ứng với hạn từ ecclesia localis, mà hai tài liệu ấy muốn tránh].
Chúng tôi cũng muốn phân biệt giữa cấu trúc thiết yếu của Giáo Hội và hình thức (hoặc tổ chức) cụ thể của nó. “Cấu trúc thiết yếu” bao gồm tất cả những gì trong Giáo Hội bắt nguồn từ luật Thiên Chúa (iure divino), do việc thiết lập bởi Đức Kitô và ân huệ của Chúa Thánh Thần. Cấu trúc này thì duy nhất và tồn tại mãi mãi, nhưng luôn luôn khoác một hình dạng cụ thể và một tổ chức (luật Giáo Hội), kết quả của các thành tố tùy thuộc vào diễn biến, lịch sử, văn hóa, địa lý và chính trị… Vì thế, hình dạng cụ thể của Giáo hội có thể biến đổi và do đó có những khác biệt hợp pháp và nói được là cần thiết. Tuy nhiên sự khác biệt về cách tổ chức luôn quy hướng về cấu trúc duy nhất.
Sự phân biệt giữa cấu trúc thiết yếu và hình dạng cụ thể (hoặc tổ chức) không có nghĩa là có một sự tách rời giữa hai bên. Cấu trúc thiết yếu luôn gắn liền với một hình dạng cụ thể và nếu không có nó thì không thể thực sự hiện hữu. Vì lý do ấy hình dạng cụ thể không thể nào trung lập đối với cấu trúc thiết yếu nhưng buộc phải diễn tả nó cách trung thực và hữu hiệu trong một cảnh huống nhất định. Ở một vài điểm, sư ấn định chính xác điều gì thuộc cấu trúc và điều gì thuộc về hình dạng (hoặc tổ chức) có thể đòi hỏi sự phân định hết sức tinh tế.
Giáo Hội địa phương, khi gắn bó với giám mục và mục tử của mình, thuộc về cấu trúc thiết yếu của Giáo Hội. Tuy nhiên, trải qua các thời đại, cấu trúc ấy đã mặc lấy những hình dạng có thể thay đổi. Các thức điều hành trong nội bộ một Giáo Hội địa phương, cũng tựa như các hợp đoàn nhiều Giáo Hội địa phương, thì thuộc về hình dạng cụ thể và tổ chức. Và dĩ nhiên đó cũng là trường hợp của các “Giáo Hội địa phương” gắn liền với một vùng hoặc truyền thống.
5.2 Tính hiệp nhất và đa dạng
Sau những phân biệt vừa rồi, cần nêu bật rằng thần học Công giáo về sự hiệp nhất và đa dạng của Giáo Hội dựa trên cùng một nguồn gốc, đó là Ba Ngôi vị khác biệt trong một Thiên Chúa. Sự phân biệt thực sự giữa các Ngôi vị không phân chia bản tính. Thần học Tam Vị cho chúng ta thấy sự khác biệt thực sự chỉ hiện hữu trong sự hiệp nhất; ngược lại, điều gì không hiệp nhất thì không thể chấp nhận sự khác biệt (như J. A. Moehler đã nhận xét). Chúng ta có thể áp dụng những suy tư này một cách tương tự vào thần học của Giáo Hội.
Giáo Hội của Ba Ngôi (x. LG 4) với sự đa dạng phong phú, đón nhận sự hiệp nhất do ân huệ của Thánh Thần, Đấng là dây hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Do đó, tính phổ quát “công giáo” phải được phân biệt với những hình ảnh phổ quát được gắn với các học thuyết toàn trị hoặc các hệ thống duy vật, các ý thức sai lạc của khoa học và công nghệ, hoặc các loại hình chiến lược đế quốc. Cũng không nên nhầm lẫn tính phổ quát Công giáo với một sự đồng nhất phá hủy các nét đặc trưng hợp lệ, và cũng không thể đồng hóa nó với chủ trương đòi hỏi sự riêng biệt đến độ đe dọa tính hiệp nhất cốt yếu.
Bộ Giáo luật (điều 368) đã lấy lại một công thức của Hiến chế Lumen gentium (23), khẳng định rằng “Giáo Hội Công giáo duy nhất và hợp nhất tồn hữu trong và từ các Giáo hội địa phương”. Do đó, giữa các Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát có một thâm nhập hỗ tương, một dạng thẩm thấu. Thực vậy, Giáo Hội phổ quát hiện hữu cách cụ thể tại nơi mà Giáo Hội địa phương hiện diện; đối lại, mỗi Giáo Hội địa phương “được hình thành theo hình ảnh của Giáo Hội phổ quát” (LG 23) và sống trong hiệp thông bền chặt với Giáo Hội đó.
5.3 Phục vụ sự hiệp nhất
Giữa tâm điểm mạng lưới phổ quát của các Giáo Hội địa phương tạo nên Giáo Hội duy nhất của Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy một trọng tâm và điểm quy chiếu, đó là Giáo Hội tại Rôma. Đó là Giáo Hội mà, như thánh Irênê đã viết, “tất cả Giáo Hội đều cần phải tìm cách hòa hợp”, chủ tọa đức bác ái và sự hiệp thông phổ quát (x. Thánh Inhaxiô Antiôkia, Ad Romanos, Proemium). Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, Mục tử hằng hữu, ngõ hầu hàng giám mục được nên một và không chia rẽ, đã đặt Phêrô làm đầu các tông đồ khác, và làm nguyên ủy trường tồn và hữu hình của sự hiệp nhất cả trong đức tin lẫn sự thông hiệp” (LG 18). Người kế vị tông đồ Phêrô, Giáo mục Rôma là Đại Diện của Đức Kitô, nguyên thủ hữu hình của toàn thể Giáo Hội và nắm giữ quyền bính “sung mãn, tối cao và phổ quát” (LG 22).
Hiến chế Lumen gentium không muốn tách rời đạo lý liên quan đến quyền tối thượng và giáo huấn của Giám mục Rôma, ra khỏi “đạo lý liên quan đến các giám mục là những người kế vị các tông đồ “(LG 18). Tập đoàn các giám mục – kế vị tập đoàn các tông đồ – bày tỏ tính đa dạng, phổ quát và hiệp nhất của dân Chúa. Và “các giám mục, những người kế vị các tông đồ… cùng với người kế vị thánh Phêrô, Đại Diện của Chúa Kitô và nguyên thủ hữu hình của toàn Giáo Hội, hướng dẫn toà nhà của Thiên Chúa hằng sống” (LG 18), tức là Giáo Hội. Do đó, tập đoàn giám mục, “cũng là chủ thể của quyền tối cao và sung mãn đối với Giáo Hội phổ quát, cùng với nguyên thủ là giám mục Rôma và không bao giờ thiếu vị ấy” (LG 22). Mỗi giám mục, trong Giáo Hội địa phương được trao phó cho mình, “có nhiệm vụ canh chừng sự tinh tuyền của đức tin và sự hiệp nhất của Giáo Hội, liên đới với giám mục đoàn, theo gương tập đoàn các tông đồ,” (ĐGH Phaolô VI, Tông thư Quinque jam anni, ngày 8 tháng 12 năm 1970). Do đó, ngài “có nghĩa vụ quan tâm đến toàn thể Giáo Hội, góp phần vào thiện ích của Giáo Hội phổ quát, tuy dù không thực thi hành vi tài phán” (LG 23); tương tự như vậy, giám mục sẽ cai quản giáo phận của mình và nhớ rằng giáo phận được “hình thành theo hình ảnh của Giáo Hội phổ quát” (LG 23; xem CD 11).
“Tâm thức tập đoàn” (affectus collegialis) do Công đồng đã khơi lên nơi các giám mục, sau đó đã được thể hiện cách cụ thể nhờ vai trò quan trọng của các Hội đồng giám mục (x. LG 23). Qua những cơ chế này, các giám mục của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thực hiện “cùng nhau” hoặc “chia sẻ” một số trách vụ tông đồ hay mục vụ của mình (x. CD 38; Bộ Giáo Luật điều 447).
Cũng nên nhấn mạnh rằng các Hội đồng giám mục thường phát triển những mối tương quan láng giềng, hợp tác và liên kết, nhất là là ở cấp lục địa. Chúng ta gặp thấy các hội nghị giám mục lục địa quy tụ các đại biểu của các Hội đồng giám mục trên cơ sở của các khu vực lớn trên thế giới, chẳng hạn: Hội nghị Giám mục châu Mỹ La tinh (CELAM), Hội nghị các Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar (SECAM), Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Á châu (FABC), Hội đồng Giám mục Âu châu (CCEE) ). Vào thời đại chúng ta, với những cơ quan và tổ chức ở cấp khu vực địa lý chính trị, các hội nghị giám mục này là biểu hiện cụ thể về tính hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng của các nền văn hóa và cảnh huống nhân văn.
Sự hữu ích, và thậm chí là sự cần thiết, mục vụ của các Hội đồng giám mục cũng như các hội nghị ở cấp lục địa là một điều không thể chối cãi. Tuy nhiên, cũng nên đặt câu hỏi xem: phải chăng do sự kiện làm việc chung với nhau, các cơ chế ấy được xem là “tập đoàn” theo nghĩa chặt chẽ của hiến chế Lumen gentium (22, 23) và Christus Dominus (4, 5, 6) không? Các văn bản này, theo nghĩa chặt, không cho phép gán tính từ “tập đoàn” cho các Hội đồng giám mục hoặc các hội nghị cấp lục địa. (Ở đây chúng tôi dùng tính từ “tập đoàn”- collegialis – thay vì danh từ ”tập thể tính” – collegialitas, không có trong các tư liệu của Công đồng Vaticanô II). Thực vậy, tập đoàn giám mục đặt nền tảng trên tập đoàn các tông đồ, mang tính phổ quát và được hiểu về toàn thể hàng giám mục trong sự hiệp nhất với Giáo hoàng đối với toàn thể Giáo hội. Những điều kiện này được hội đủ cách trọn vẹn trong Công đồng hoàn vũ, và có thể hội đủ trong một hành động đồng nhất của các giám mục rải rác trên khắp thế giới theo những điều kiện ấn định trong sắc lệnh Christus Dominus số 4. Theo một nghĩa nào đó, chúng cũng có thể hội đủ nơi Thượng hội đồng giám mục; thể chế này có thể xem như một hình thức diễn tả tập đoàn phổ quát, tuy không hoàn toàn, bởi vì “là đại diện cho toàn thể hàng giám mục công giáo, nó chứng tỏ rằng tất cả các giám mục, trong sự hiệp thông phẩm trật, đều tham dự vào mối quan tâm của Giáo hội phổ quát (CD 5; x. LG 23). Ngược lại, các định chế như là Hội đồng giám mục (và các hội nghị cấp lục địa) phát sinh từ sự tổ chức và hình thái cụ thể của Giáo Hội (iure ecclesiastico), vì thế áp dụng các từ ngữ “tập đoàn”, “tính tập đoàn tính” chỉ theo nghĩa loại suy, và không thích hợp với thần học.
Nói như vậy không có nghĩa là giảm thiểu tầm quan trọng và vai trò thiết thực mà các Hội đồng giám mục và các hội nghị cấp lục địa sẽ diễn tả trong tương lai, cách riêng liên quan đến mối tương quan giữa các Giáo Hội địa phương, giữa các Giáo Hội khu vực và Giáo Hội phổ quát. Các thành quả đã đạt được cho phép tin tưởng vững mạnh về điều này.
Dù nói gì đi nữa, trong điều kiện lữ hành của chúng ta, những tương quan giữa các Giáo Hội địa phương với nhau cũng như với Tòa Rôma đảm nhận việc phục vụ sự hợp nhất và hiệp thông phổ quát, có thể gặp nhiều khó khăn. Xu hướng tội lỗi nơi con người thúc đẩy biến những sự khác biệt thành chống đối. Vì thế, trong sự hiệp thông và dưới sự chỉ đạo của Tòa Rôma, cần phải không ngừng tìm kiếm những cách thức thích hợp để diễn tả tính phổ quát công giáo, cho phép thấm nhập những yếu tố nhân văn rất khác biệt vào trong sự hợp nhất của đức tin.
6. Dân mới của Thiên Chúa như một Xã Hội có cơ cấu phẩm trật
6.1 Hiệp thông, cơ cấu và tổ chức
Ngay từ khi xuất hiện lịch sử, dân mới của Thiên Chúa đã có tổ chức cơ cấu chung quanh các mục tử do chính Đức Giêsu Kitô tuyển chọn, được đặt làm của các tông đồ của Người (Mt 10,1-42) với ông Phêrô đứng đầu (Ga 21,15-17). “Sứ vụ thần linh, mà Đức Kitô ủy thác cho các tông đồ, cần phải tồn tại cho đến tận thế (x. Mt 28,20), bởi vì Tin Mừng, mà các ngài phải truyền đạt, phải là nguyên lý của đời sống Giáo Hội qua hết mọi thời. Vì vậy, trong xã hội được tổ chức có trật tự, các tông đồ đã cẩn thận thiết đặt những người kế nhiệm” (LG 20).
Như vậy, không thể nào tách rời dân Thiên Chúa là Giáo Hội khỏi các tác vụ thuộc về cơ cấu, và cụ thể là chức giám mục. Sau khi các tông đồ qua đi, chức giám mục thực sự trở thành “tác vụ của cộng đoàn” mà các giám mục thi hành cùng với sự trợ giúp của các Linh mục và Phó tế (LG 20). Kể từ đó, nếu Giáo Hội được giới thiệu như là một đoàn dân và một cộng đoàn hiệp thông trong đức tin, đức cậy và đức mến, trong đó những kẻ tìn vào Chúa Kitô… “được hưởng phẩm giá Kitô hữu đích thực” (LG 18), thì đoàn dân và cộng đoàn ấy cũng được trang bị với các tác vụ và những phương tiện tằng trưởng nhằm bảo đảm thiện ích cho toàn thân thể. Bởi vậy, trong Giáo Hội, không thể nào tách rời những khía cạnh của cấu trúc khỏi những khía cạnh sự sống bởi vì chúng gắn chặt với nhau. “Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, nhờ đó Người thông truyền chân lý và ân sủng cho mọi người. Giáo Hội vừa là cộng đồng được tổ chức theo cơ chế phẩm trật, vừa là Nhiệm Thể Đức Kitô, là đoàn thể hữu hình và cũng là cộng đoàn thiêng liêng, là Giáo Hội tại thế đồng thời cũng là Giáo Hội dư tràn của cải trên trời. Dù vậy, không được nhìn Giáo Hội như hai thực thể, nhưng đúng hơn, tất cả chỉ làm nên một thực tại đa phức, được kết thành từ yếu tố nhân loại và thần linh” (LG 8).
Vì thế, sự hiệp thông làm nên bản chất dân mới của Thiên Chúa là một sự hiệp thông mang tính xã hội có cơ cấu phẩm trật. Như đã giải thích trong “Chú thích dẫn nhập” (nota praevia explicativa) ngày 16 tháng 11 năm 1964: “Hiệp thông là một khái niệm quan trọng trong Giáo Hội cổ xưa (mà ngày nay đặc biệt bên Giáo Hội Đông Phương), không được hiểu như một “tâm tình” mơ hồ mà là một “thực tại hữu cơ” đòi hỏi hình thức pháp lý và đồng thời cần được đức mến linh hoạt”.
Đến đây, ta có thể nêu thắc mắc về sự hiện hữu và tầm quan trọng của cơ cấu pháp lý trong Giáo Hội. Tuy có thể phân biệt giữa chức năng bí tích thuộc bản thể và khía cạnh pháp lý thuộc giáo luật (x. “Chú thích dẫn nhập” phần giới thiệu hiến chế nota praevia explicativa ngày 16 tháng 11 năm 1964), nhưng cả hai khía cạnh đó đều rất cần thiết cho đời sống Giáo Hội, ở hai bình diện khác nhau. Ta có thể so sánh Giáo hội cách loại suy phần nào với Ngôi Lời Nhập thể (được khai triển ở LG 8), “cũng như bản tính nhân loại được kết nạp chặt chẽ với Lời Thiên Chúa để phục vụ như một cơ thể sinh động của sự cứu độ, thì một cách tương tự như vậy, cơ chế xã hội của Giáo hội cũng được Thần khí của Đức Kitô linh hoạt nhằm cho thân thể được tăng trưởng”. Sự so sánh với Ngôi Lời nhập thể cho phép ta khẳng định rằng cái “tổ chức cứu rỗi” là Giáo hội phải được hiểu đúng đắn để tránh hai thái cực điển hình của các lạc giáo Kitô học thời xưa: một mặt cần tránh “thuyết Nestôriô về Giáo hội”, theo đó không có mối tương quan bản thể nào giữa yếu tố thánh thiêng và yếu tố nhân loại; mặt khác, cũng phải tránh “thuyết Nhất tính về Giáo hội” theo đó tất cả mọi thứ trong Giáo Hội đều được “thần hóa”, không có chỗ cho những giới hạn, thiếu sót hoặc lỗi lầm nơi tổ chức Giáo Hội, là hậu quả của tội lỗi và sự u mê của con người. Hẳn nhiên, Giáo Hội là một bí tích, nhưng không phải cùng một cường độ và hoàn thiện như nhau trong từng hành động của mình. Bởi vì chúng ta sẽ trở lại với chủ đề Giáo Hội-bí tích, nên ở đây chỉ cần nhắc lại phụng vụ là lãnh vực mà tính bí tích của Giáo Hội tác dụng và diễn đạt cách hữu hiệu hơn cả (x. SC 7, 10). Tiếp đến là tác vụ của Lời trong những biểu hiện cao cấp nhất (x. LG 21 và 25). Sau cùng là lãnh vực thì hành nhiệm vụ mục vụ quyền hành pháp lý hoặc quyền cai trị (LG 23). Hệ luận là luật pháp Giáo Hội, tuy dựa trên một quyền bính bắt nguồn từ Thiên Chúa, nhưng không thể tránh khỏi ảnh hưởng ít nhiều của sự u mê vì tội lỗi. Nói cách khác, luật pháp Giáo Hội không phải và không thể nào bất khả ngộ; nhưng điều này không có nghĩa là nó chẳng ảnh hưởng gì đến mầu nhiệm cứu độ. Xét cho cùng, việc chối bỏ tất cả mọi giá trị cứu độ tích cực của luật Giáo Hội sẽ đưa đến việc thu gọn tính bí tích của Giáo Hội vào các bí tích mà thôi, và sẽ làm giảm tính hữu hình của Giáo Hội trong đời sống thường nhật.
6.2 Những nguyên tắc của đời sống thực hành trong xã hội hiệp thông theo phẩm trật
Trong cấu trúc cơ bản của Giáo Hội, chúng ta có thể nhận ra các nguyên tắc soi sáng cơ chế của nó và việc thi hành pháp luật của mình.
1. Như một cộng đoàn hữu hình và tổ chức xã hội, Giáo Hội cần những quy chuẩn diễn tả cấu trúc nền tảng và xã hội của mình, và xác định những quy luật cần tuân thủ trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống cộng đoàn, dựa trên những phán đoán khôn ngoan. Cũng như các hoàn cảnh thực tiễn có thể thay đổi thế nào, thì sự trung thành với Chúa Thánh Thần cũng có thể đòi hỏi phải thay đổi một vài quy luật như vậy.
2. Mục tiêu của luật pháp Giáo Hội không gì khác hơn là thiện ích chung của Giáo Hội. Thiện ích chung này đương nhiên bao hàm việc bảo đảm gia sản đức tin đã lãnh nhận từ Đức Kitô lẫn sự tiến triển tinh thần của những con cái Chúa đã trở thành các chi thể của Thân Mình Đức Kitô.
3. Nếu Giáo Hội cần các quy chuẩn và luật pháp thì hậu nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng Giáo Hội có thẩm quyền lập pháp (LG 27; x. Bộ Giáo Luật,các điều 135, 333, 336, 391, 392, 445, 455, v.v.). Quyền lập pháp này sẽ tôn trọng nghiêm chỉnh quy tắc chung được Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo của Công Đồng nhắc lại, đó là “quyền tự do phải được nhìn nhận cho con người đến mức tối đa có thể được, và chỉ nên bị giới hạn khi nào và trong mức độ cần thiết” (DH 7). Một quyền hành như thế cũng ngụ ý rằng các quy định pháp luật hợp pháp phải được các tín hữu đón nhận và tuân hành với lòng vâng phục đạo đức. Tuy nhiên, việc thực thi thẩm quyền này đòi buộc các mục tử hãy quan tâm đặc biệt đến trách nhiệm đáng sợ gói ghém trong thẩm quyền lập pháp; quyền này cũng mang theo bổn phận luân lý nghiêm trọng phải tham khảo những nhà chuyên môn, cũng như bổn phận phải tiến hành việc tu chính luật lệ khi cần thiết.
Sự hiện diện của các yếu tố pháp lý trong các quy định chi phối đời sống của Giáo Hội còn đòi hỏi một vài suy tư nữa. Sự tự do Kitô giáo là một trong những điểm đặc trưng của Giao ước mới hoặc của “dân mới của Thiên Chúa” và nó cấu thành một điểm mới mẻ so với Luật cũ. Tuy nhiên, việc xuất hiện của sự tự do mới mẻ này, được các ngôn sứ của Israel liên kết với việc luật được ghi khắc sau vào trong tâm hồn con người, không có nghĩa là luật bên ngoài sẽ hoàn toàn biến khỏi đời sống của Giáo hội, ít là bao lâu Giáo Hội vẫn còn “lữ hành” trên trần thế. Chính Tân Ước trình bày cho chúng ta những yếu tố đầu tiên của luật Giáo Hội (Mt 18,15-18; Cv 15,28tt.; 1 Tm 3,1-13; 4,17-22; Tt 1,5-9; v.v.). Các giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội là những chứng nhân của sự phát triển các quy chuẩn nhằm thiết lập và duy trì trật tự tốt đẹp trong cộng đoàn. Chúng ta thấy điều này nơi thánh Clêmentê Rôma, Inhaxiô Antiôkia, thánh Pôlicarpô Smyrna, Tertullianô, Hippôlytô, vân vân. Các Công đồng hoàn vũ hoặc địa phương đã ấn định các quy định về kỷ luật bên cạnh khác các định nghĩa về đạo lý theo nghĩa chặt. Vì vậy, luật pháp cổ điển của Giáo Hội đã được coi là quan trọng, tuy dù không luôn luôn là luật thành văn. Ngoài ra, còn có một thứ luật của tập quán, có giá trị ràng buộc không kém và được coi là nguồn gốc của các điều giáo luật sẽ được soạn thảo sau này.
7. Chức Tư tế Phổ quát trong Tương quan với Chức Tư tế Thừa tác
7.1 Hai dạng thức tham dự chức tư tế của Đức Kitô
Công đồng Vaticanô II đã dành sự quan tâm mới đối với chức tư tế phổ quát của các tín hữu. Diễn ngữ “chức tư tế phổ quát”, và thực tại mà nó hàm chứa đã có nguồn gốc trong Kinh thánh (chẳng hạn như Xh 19, 6; Is 61,6; 1Pr 2,5, 9; Rm 12,1; Kh 1,6 ; 5, 9-10) và được các giáo phụ chú giải khá nhiều (như Origen, Gioan Kim Khẩu, Augustinô, vv). Tuy nhiên, cụm từ này đã hầu như biến mất khỏi danh mục từ vựng thần học Công giáo, bởi vì nó được các nhà Cải cách sử dụng để chống lại phẩm trật. Dù vậy cũng nên nhớ là Sách Giáo lý Rôma đã minh thị đề cập đến nó. Hiến chế Lumen gentium đã dành nhiều chỗ cho đề tài “chức tư tế phổ quát của người tín hữu”, liên quan đến các cá nhân đã chịu phép rửa (LG 10) hoặc đến cộng đoàn hay toàn thể Giáo Hội được gọi là “tư tế” (LG 11).
Mặt khác, Công đồng cũng sử dụng diễn ngữ “chức tư tế thừa tác hay phẩm trật” (LG 10) để ám chỉ “tác vụ thánh… được thi hành [trong Giáo Hội, do các giám mục và linh mục] nhằm thiện ích của các anh em mình” (LG 13). Mặc dù cụm từ này không xuất hiện trực tiếp hay rõ ràng trong Tân Ước, nhưng nó đã được sử dụng thường xuyên trong Truyền thống kể từ thế kỷ III. Công đồng Vaticanô II thường đề cập đến nó, và Thượng hội đồng giám mục năm 1971 đã dành một văn kiện riêng cho chủ đề này.
Công đồng đã liên kết chức tư tế phổ quát của các tín hữu với bí tích rửa tội, đồng thời cũng nói rằng đối với các Kitô hữu, mục tiêu và nội dung của chức tư tế này là “dâng hy lễ tinh thần, bằng tất cả các công việc của minh”, hoặc theo như thánh Phaolô đã nói, “hiến dâng thân thể mình như một hy lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Do đó, đời sống Kitô hữu được xem như lời ca ngợi Thiên Chúa và sự phụng thờ Thiên Chúa được thực thi bởi mỗi tín hữu và bởi toàn thể Giáo Hội. Chức tư tế này được diễn tả cụ thể qua Phụng vụ thánh (SC 7), qua chứng tá đức tin và loan báo Tin Mừng (LG 10) dựa trên cảm thức siêu nhiên về đức tin mà tất cả tín hữu đều thông dự (x. LG 12). Một cách cụ thể, chức tư tế này được thực hiện trong đời sống hằng ngày của người chịu phép rửa, khi chính cuộc đời trở thành việc hiến dâng bản thân, kết hợp với mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô. Chức tư tế phổ quát của các tín hữu (hoặc của những người chịu phép rửa) làm nổi bật sự hiệp nhất sâu xa giữa việc thờ phượng phụng vụ và việc thờ phượng thiêng liêng của đời sống thường nhật. Đồng thời, chúng ta cũng phải nêu bật rằng một chức tư tế như vậy chỉ có thể hiểu được nhờ việc chia sẻ vào chức tư tế của Đức Kitô: không lời ca tụng nào lên tới Chúa Cha mà không qua trung gian của Đức Kitô như là Vị Trung gian duy nhất; điều này ngụ ý tác động bí tích của Đức Kitô. Thực vậy, trong nhiệm cục cứu độ Kitô giáo, việc dâng hiến cuộc đời chỉ được thực hiện cách tròn đầy nhờ các bí tích và đặc biệt là nhờ Bí tích Thánh Thể. Các bí tích chẳng phải vừa là nguồn mạch ân sủng vừa là biểu hiện của việc dâng hiến phụng tự đó sao?
7.2 Mối tương quan giữa hai dạng của chức tư tế
Công đồng Vatican II đã khôi phục một cách nào đó ý nghĩa sung mãn của việc diễn ngữ “chức tư tế phổ quát của các tín hữu”, nhưng sau đó đã đặt ra câu hỏi về mối tương quan giữa chức tư tế phổ quát này với chức tư tế thừa tác hoặc phẩm trật. Hẳn nhiên là cả hai đều có nền tảng và nguồn gốc nơi chức tư tế duy nhất của Đức Kitô: “Chức tư tế của Đức Kitô được thông dự theo nhiều dạng thức khác nhau bởi các thừa tác viên và bởi các tín hữu” (LG 62; x. 10). Cả hai dạng thức đều được sáng tỏ trong Giáo Hội nhờ mối tương quan bí tích với bản thân, cuộc đời và hoạt động thánh hóa của Đức Kitô. Để phát triển sung mãn đời sống trong Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, chức tư tế phổ quát của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật bổ khuyết cho nhau hoặc “hướng đến nhau”, mặc dù nếu nhìn từ quan điểm của đời sống Kitô hữu và sự trưởng thành của nó thì chức tư tế phổ quát đứng trước, còn nếu xét theo cơ cấu hữu hình và hiệu lực bí tích thì vị trí ưu tiên được dành cho chức tư tế thừa tác. Hiến chế Lumen gentium đã định nghĩa các mối tương quan này ở số 10: “Chức tư tế phổ quát của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, dù khác nhau về yếu tính chứ không chỉ về cấp bậc, nhưng cả hai đều hướng về nhau; thật vậy, mỗi bên đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô theo cách thức riêng của mình. Chức tư tế thừa tác, nhờ được lãnh thánh chức, có nhiệm vụ xây dựng và điều khiển, thực hiện hy tế Thánh Thể với tư cách là hiện thân của Đức Kitô và dâng hiến lễ lên cho Thiên Chúa nhân danh toàn dân; phần các tín hữu, họ tham dự vào việc dâng Thánh Thể nhờ chức tư tế vương giả, và thi hành chức tư tế bằng việc thông dự các bí tích, cầu nguyện và tạ ơn, bằng chứng tá đời sống thánh thiện, bằng việc từ bỏ mình và bác ái năng động”.
7.3 Nền tảng bí tích của hai chức tư tế
Như đã thấy trong đoạn văn vừa trích dẫn, chính nhờ thực tại bí tích hiện diện trong đời sống Giáo hội, thực tại được biểu lộ hết sức đặc biệt của Thánh Thể, mà chúng ta có thể xác định, dưới khía cạnh thần học, về mối tương quan của hai chức tư tế này và sự gắn bó hỗ tương của chúng. Như đã nhắc trên đây, các bí tích vừa là nguồn mạch ân sủng vừa là biểu hiện của việc dâng hiến thiêng liêng của cuộc sống. Thế nhưng, việc thờ phượng phụng vụ của Giáo Hội, trong đó việc dâng hiến ấy đạt đến sự trọn hảo, chỉ có thể thực hiện khi nào cộng đoàn được chủ tọa bởi một vị trong tư cách là hiện thân Đức Kitô in persona Christi chủ sự. Đây là điều kiện duy nhất mang lại sự sung mãn của việc “thờ phượng thiêng liêng”, nhờ được liên kết với sự dâng hiến và hy lễ của Người Con:
“Qua thừa tác vụ của các linh mục, lễ tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất nhờ kết hợp với hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất; thật vậy, trong mầu nhiệm Thánh Thể, lễ tế ấy được hiến dâng cách bí tích và không đổ máu nhờ tay các linh mục, nhân danh toàn thể Giáo Hội, cho tới khi Chúa lại đến. Tác vụ của các linh mục hướng đến việc tế lễ và được thành toàn trong chính hiến lễ ấy. Thật vậy, bắt đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng, tác vụ của các ngài đón nhận sức mạnh và năng lực từ Hy Tế của Chúa Kitô, và hướng đến việc làm cho “toàn thể thành đô đã được cứu chuộc, nghĩa là công hội và cộng đoàn các thánh, nên như hiến lễ phổ quát dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng đã dâng hiến chính mình trong cuộc Khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở nên Thân Thể của Người là Đầu vô cùng cao cả” (T. Augustinô, De civitate Dei 10,6) (PO 2).
Chức tư tế phổ quát của các tín hữu và chức tư tế thừa tác của các giám mục và linh mục có tương quan mật thiết bởi lẽ cả hai đều xuất phát từ một nguồn duy nhất là chức tư tế của Chúa Kitô và cùng nhắm đến một mục đích duy nhất là dâng hiến toàn thể Thân Mình Đức Kitô. Điều này quả đúng bởi vì như thánh Inhaxiô Antiokia đã khẳng định rằng nếu không có giám mục, linh mục và phó tế thì cũng không thể nói đến Giáo Hội (x. Ad Trall. 3, 1). Giáo Hội chỉ hiện hữu như là Giáo Hội có cơ cấu, và lời tuyên bố này cũng đúng khi người ta sử dụng khái niệm “dân Thiên Chúa”, bởi vì sẽ sai lầm nếu chỉ giới hạn vào các giáo dân mà không đếm xỉa đến các giám mục và linh mục.
Cũng vậy, “cảm thức siêu nhiên về đức tin” liên hệ đến “toàn dân, khi mà từ các giám mục cho đến người tín hữu thấp bé nhất điều biểu lộ sự đồng thuận trong một điều thuộc đức tin và luân lý” (LG 12). Vì thế không thể nào đối chọi cảm thức đức tin của dân Chúa với Huấn quyền của hàng phẩm trật Giáo Hội, gạt bỏ các giám mục và các linh mục. Theo Công đồng, cảm thức đức tin, được khơi dậy và duy trì bởi Thần khí sự thật, chỉ đón nhận Lời Chúa một cách chân thực dưới sự hướng dẫn bởi quyền giáo huấn (x. LG 12).
Giữa lòng dân mới duy nhất của Thiên Chúa, không thể tách rời chức tư tế phổ quát và chức tư tế thừa tác của các giám mục và linh mục. Chức tư tế phổ quát đạt đến giá trị sung mãn trong Giáo Hội nhờ có chức tư tế thừa tác; còn chức tư tế thừa tác chỉ hiện hữu nhằm thực thi chức tư tế phổ quát. Các giám mục và linh mục không thể nào vắng bóng trong đời sống của Giáo Hội và của các tín hữu, và các tín hữu được mời gọi hãy sống trọn vẹn chức tư tế phổ quát này, và rồi vì lý do này, họ cần đến chức tư tế thừa tác, như thánh Augustinô đã nói: “Tôi là giám mục vì anh chị em, tôi là người tín hữu cũng với anh chị em” (Bài Giảng 340, 1).
Tuy liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng có sự khác biệt về yếu tính chứ không chỉ về cấp bậc giữa chức tư tế phổ quát của tất cả các tín hữu với chức tư tế của các giám mục và linh mục, xét vì mục đích của chúng. Khi hành động như hiện thân của Đức Kitô (in persona Christi), thì các giám mục và linh mục làm cho Người hiện diện trước mặt cộng đoàn; đồng thời các ngài cũng đại diện cho toàn dân trước mặt Chúa Cha.
Tất nhiên, có một số hành vi bí tích mà tính hữu hiệu tùy thuộc vào sự kiện là vị chủ sự, do bí tích truyền chức, có năng quyền hành động trong tư thế của Đức Kitô (in persona Christi), hoặc trong chức vụ của Đức Kitô (in munere Christi). Tuy nhiên, người ta không thể chỉ dừng lại ở nhận xét này để biện minh cho sự hiện diện của tác viên có chức thánh trong Giáo Hội. Tác vụ này thuộc về cơ cấu cốt yếu của Giáo Hội và do đó thuộc về hình ảnh và tính hữu hình của Giáo hội. Cơ cấu cốt yếu và hình ảnh của Giáo Hội còn mang theo một chiều kích “hàng dọc”, làm dấu chỉ và dụng cụ của sáng khởi và dự phòng của Thiên Chúa trong nhiệm cục Kitô giáo.
7.4 Ơn gọi của các giáo dân
Việc suy tư trên đây thật là hữu ích để giải thích một số quy định của Bộ giáo luật liên quan đến chức tư tế phổ quát của các tín hữu. Dựa theo số 31 của hiến chế Lumen gentium, Giáo luật điều 204, § 1 nối kết bí tích Thánh tẩy với việc Kitô hữu thông dự vào các chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô: “Các Kitô hữu là những người được sáp nhập vào Đức Kitô nhờ bí tích thánh tẩy, cấu thành dân Thiên Chúa, và vì được tham gia theo cách thức của mình vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, cho nên được kêu gọi, tùy theo điều kiện pháp lý của mỗi người, thi hành sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho Giáo Hội để thực hiện trong thế giới”.
Trong tinh thần sứ vụ của toàn thể Giáo hội mà các giáo dân thực thi trong Giáo Hội và thế giới, các điều 228, §l và 230, § 1 và 3 của Giáo luật dự trù việc thâu nhận các giáo dân vào công tác và chức vụ thuộc Giáo Hội; chẳng hạn như tác vụ đọc sách, giúp lễ và những công việc khác (x. Bộ giáo luật các điều 861, §; 910, §2; 1112). Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu chủ trương rằng các điều khoản này xóa bỏ sự khác biệt giữa các chức vụ thuộc về giám mục, linh mục và phó tế và các chức vụ thuộc giáo dân.
Vai trò của giáo dân trong những công tác và chức vụ Giáo hội được nói trong các khoản giáo luật vừa kể chắc hẳn là hợp pháp, và trong một vài hoàn cảnh lại còn cần thiết nữa; tuy nhiên người giáo dân không thể sở hữu trọn vẹn đặc tính dấu chỉ là làm Đức Kitô hiện diện cách bí tích ở trong Giáo Hội, là điều thuộc về tác viên có chức thánh. Việc mở rộng cho các giáo dân được giữ các công tác và chức vụ Giáo Hội không được phép đưa đến việc làm mờ nhạt dấu chỉ hữu hình của Giáo Hội, là dân Thiên Chúa được tổ chức có phẩm trật, theo ý định của Đức Kitô.
Cũng vậy, việc mở rộng vừa nói cũng không nên làm cho chúng ta quên rằng các giáo dân có một ơn gọi riêng, trong toàn bộ sứ vụ chung của Giáo Hội mà họ cùng chia sẻ với các tín hữu khác, cũng tựa như các giám mục, linh mục và phó tế, và ở một bình diện khác, các nam nữ tu sĩ cũng có một ơn gọi riêng. Như hiến chế Lumen gentium số 31 đã viết: “Do chính ơn gọi đặc biệt của mình, các giáo dân có bổn phận tìm kiếm vương quốc Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần thế, nghĩa là giữa tất cả và từng nghề nghiệp cũng như công việc trần thế, trong môi trường thông thường của cuộc sống gia đình và xã hội, tất cả những điều đó như thể dệt thành cuộc sống của họ. Trong khung cảnh đó, họ đã được Thiên Chúa mời gọi để nhờ việc chu toàn những bổn phận riêng của mình và được tinh thần Tin Mừng hướng dẫn, họ trở nên như nắm men góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong, và như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô, đặc biệt bằng chứng từ đời sống tỏa sáng đức tin, cậy, mến”.
8. Giáo Hội như là Bí Tích của Đức Kitô
8.1 Bí tích và mầu nhiệm
Giáo Hội Đức Kitô, “dân mới của Thiên Chúa”, được giới thiệu vừa như mầu nhiệm vừa như chủ thể lịch sử, hai khía cạnh này không thể nào tách rời. Để diễn tả thực tại vừa thần thiêng vừa nhân loại của Giáo hội, hiến chế Lumen gentium đã sử dụng thuật ngữ “bí tích”, như chúng ta đã ghi nhận. Thuật ngữ này mang một giá trị đặc biệt vì được sử dụng ngay từ đoạn mở đầu của văn kiện : “Bởi vì Giáo Hội, trong Đức Kitô, là như một bí tích, nghĩa là dấu chỉ và công cụ của sự hiệp nhất vôi Thiên Chúa và của sự đoàn kết của toàn thể nhân loại…”. Trong toàn thể Hiến chế, hạn từ “bí tích” còn được áp dụng hai lần nữa cho Giáo Hội (số 9 và 48) ; dù sao việc sử dụng này không cần giải thích thêm bởi vì khái niệm xem ra đã khá rõ ràng ở đoạn mở đầu văn kiện rồi. Tuy không được phổ biến như là diễn ngữ “dân Thiên Chúa”, nhưng việc áp dụng hạn từ “bí tích” cho Giáo hội cũng trở thành khá thông dụng. Dù sao, việc sử dụng thuật ngữ này đòi hỏi một vài giải thích.
Việc áp dụng hạn từ “Bí tích” đối với Giáo Hội cho phép nhấn mạnh đến nguồn gốc Giáo Hội và sự tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa và Đức Kitô (x. SC 5). Điều này cũng cho thấy rõ định hướng của Giáo Hội là biểu lộ cho con người và sự hiện diện ở giữa họ của Tình yêu phổ quát của Thiên Chúa, hướng đến sự kết hiệp mật thiết tất cả mọi người với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng như sự hiệp thông của mọi người với nhau. Liên quan đến mối tương quan này, hạn từ “bí tích” làm nổi bật cấu trúc sâu sắc của “mầu nhiệm” Đức Kitô và bản chất chân chính của Giáo hội. Giáo Hội “có đặc tính vừa nhân loại vừa thần linh, vừa hữu hình vừa chứa đựng những thực tại vô hình, vừa nhiệt thành hoạt động vừa sốt sắng chiêm niệm, hiện diện nơi trần gian nhưng chỉ như người lữ hành; trong Giáo Hội, yếu tố nhân loại phải quy hướng và lệ thuộc vào yếu tố thần linh, thực tại hữu hình phải quy hướng về thực tại vô hình, hoạt động phải hướng về chiêm niệm, và thực tại hiện thời phải hướng về thành đô tương lai mà chúng ta đang tìm kiếm” (SC 2; x. LG 8). Thật không phải là thừa khi nhắc lại rằng, cách đây 50 năm, một vài nhà thần học Công giáo đã muốn nêu bật danh hiệu của Giáo Hội như là bí tích nhằm trả lại cho Kitô giáo một bộ mặt mang tính cộng đoàn và xã hội hơn, chứ không phải là cá nhân hay cơ chế. Tự bản chất, Kitô giáo là mầu nhiệm của kết hợp và hiệp nhất: kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, hiệp nhất giữa con người với nhau.
Khi áp dụng vào Giáo hội, hạn từ “Bí tích”, chuyển dịch thuật ngữ sacramentum trong tiếng Latinh, đưa chúng ta đến nguồn gốc mysterion trong tiếng Hy Lạp, cả hai cùng có nghĩa cơ bản như nhau. Như chúng ta đã ghi nhận, “mầu nhiệm” là quyết định thần linh qua đó Chúa Cha thực hiện ý muốn cứu rỗi của Người trong Đức Kitô, đồng thời, Người tỏ lộ ý chí đó trải qua một thực tại lịch sử luôn bảo tồn được sự trong suốt của nó.
8.2 Đức Kitô và Giáo hội
Dĩ nhiên, không nên quên rằng diễn ngữ “bí tích”, cũng như các từ khác (như là: hình bóng, hình ảnh, so sánh hoặc thí dụ), đều không thể nào định nghĩa chính xác hay mô tả thấu đáo. Tuy nhiên, việc gọi Giáo Hội là “bí tích” làm nổi bật hơn hết mối liên kết giữa Giáo Hội với Đức Kitô. Vì vậy, nó rất gần với các hình ảnh trong Kinh Thánh về Giáo Hội như là Thân thể Chúa Kitô và Hiền thê của Người; cũng như dạng thức “dân mới của Thiên Chúa” nhìn dưới hai ý niệm không thể tách rời là mầu nhiệm và chủ thể lịch sử. Trên thực tế, thuật ngữ “bí tích” phản ánh tất cả các hình ảnh Kinh Thánh của Giáo Hội được liệt kê trong chương đầu tiên của hiến chế Lumen gentium nhằm nêu nêu bật sự đồng nhất và khác biệt giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Đức Kitô thực sự cư ngụ trong Giáo hội đến nỗi ai tìm thấy Giáo hội thì cũng tìm thấy Đức Kitô. Đức Kitô hiện diện như thế trong bí tích Rửa tội và bí tích Thánh Thể, trong Lời Chúa, trong cộng đoàn Kitô hữu (Mt 18,20), trong chứng tá của sứ vụ tông đồ (Lc 10,16; Ga 13,20), trong việc phục vụ người nghèo (Mt 25:40), trong hoạt động tông đồ… Tuy nhiên, đồng thời, Giáo Hội, gồm bởi những con người tội lỗi, cần phải hoán cải, thanh tẩy và xin vị Chúa của mình ban những hồng ân thiêng thánh cần thiết cho sứ mệnh của mình nơi trần gian. Giáo Hội là bí tích hữu hiệu của sự kết hợp với Thiên Chúa và của sự hợp nhất giữa loài người, với con người, nhưng đồng thời, Giáo Hội cũng không ngừng van nài lòng thương xót của Thiên Chúa và sự hợp nhất giữa con cái của Người, nhất là cho các phần tử của mình. Nói cách khác, Đức Kitô hiện diện ở trong Giáo Hội (Kh 21,3; 22), nhưng Người không ngừng đứng trước mặt Giáo Hội để, trong Thánh Thần, dẫn đưa Giáo hội đến những thực tại lớn lao hơn nữa (x. Ga 5,20) của sự hiện diện vĩnh viễn của Thiên Chúa là “tất cả trong mọi người” (1 Cr 15,28; Cl 3,11).
Trong niềm mong đợi Đức Kitô đến vào thời sau hết, Giáo Hội cảm nghiệm tội lỗi nơi các phần tử của mình và trải qua cơn thử thách của sự chia rẽ. Đôi khi, những con người làm nên Giáo Hội đối khi có thể trở thành những trở ngại cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Các mục tử, hơn ai khác, không được thoát khỏi những lạm dụng và sai lầm bởi chính quyền hành hợp pháp của mình. Về mặt cơ cấu, bởi vì bí tích là “dấu chỉ và công cụ”, cho nên thực tại xã hội và biểu trưng cấu tạo nên nó (res et sacramentum) dẫn đưa chúng ta đến một một thực tại lớn hơn và cơ bản hơn, tức là thực tại thần thiêng (res tantum). Và điều này đúng trong trường hợp của Giáo Hội, bởi lẽ Giáo hội hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Kitô – là tận đích của mình, nhưng không bao giờ đồng hóa với Người là vị Chúa cùa mình.
8.3 Giáo hội, Bí tích của Chúa Kitô
Như thế, khi áp dụng thuật ngữ “bí tích” cho Giáo Hội cần phải thêm vài giải thích cho rõ. Đã hẳn là khi nói về Giáo hội, ta không thể nào hiểu như là bí tích thứ tám, bởi vì ở đây, thuật ngữ được hiểu theo nghĩa loại suy. Nói cho đúng, khi áp dụng cho Giáo hội, thì hạn từ bí tích mang ý nghĩa cơ bản hơn so với bảy bí tích, nhưng đồng thời lại kém chính xác hơn. Thực vậy, như đã giải thích trên đây, Giáo hội tự mình không nhận được giá trị của hiệu lực cứu độ giống như bảy bí tích. Ngoài ra, cũng nên ghi nhận rằng nếu Giáo Hội là bí tích, thì chính Đức Kitô mới là bí tích “nguyên khởi” và Giáo Hội tùy thuộc vào Người: “Người có trước muôn vật, và tất cả tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Giáo Hội” (Cl 1,18).
Như vậy, hạn từ “bí tích” diễn tả một điều thiết yếu thuộc thực tại của Giáo Hội, và nó được hiểu đúng nghĩa. Đàng khác, ngay từ trước Công đồng, vài nhà thần học Công giáo đã sử dụng thuật ngữ này, lấy từ truyền thống các giáo phụ, nhắm góp phần giúp cho Giáo Hội diễn tả bản chất của mình. Lúc ấy, hạn từ mang ý nghĩa là “Giáo Hội, bí tích của Thiên Chúa” hoặc “bí tích của Chúa Kitô”. Chính xác hơn, bởi vì chính Đức Kitô có thể được gọi là “bí tích của Thiên Chúa”, nên Giáo Hội có thể được gọi cách chính xác là “bí tích của Đức Kitô”. Chính bởi Giáo Hội là Tân Nương và là Thân thể của Người nên Giáo Hội đã nhận được danh hiệu “bí tích”. Tuy nhiên, thật quá rõ là Giáo Hội chỉ là bí tích nếu tùy thuộc hoàn toàn vào Chúa Kitô, Đấng đáng được gọi là “bí tích nguyên khởi nguyên”. Bảy bí tích chỉ có thực tại và ý nghĩa khi được đặt trong toàn bộ bối cảnh của Giáo Hội.
Cuối cùng, chúng ta nhận thấy rằng, khi được áp dụng cho Giáo Hội, hạn từ “bí tích” bao hàm sự cứu rỗi nhờ vào việc kết hợp với Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì cũng đưa đến sự hợp nhất giữa loài người với nhau. Chúng ta có thể nối kết “bí tích” với “thế giới” nhằm nêu bật rằng Giáo Hội là bí tích của sự cứu rỗi thế giới, bởi vì thế giới cần đến ơn cứu rỗi mà Giáo Hội đã lãnh nhận sứ mệnh loan báo. Trong viễn cảnh này, chúng ta có thể nói rằng Giáo Hội là bí tích của Đức Kitô để cứu rỗi thế giới.
Vì thế một nền thần học về Giáo Hội – bí tích cho phép chúng ta chú ý hơn đến trách nhiệm cụ thể của cộng đoàn Kitô giáo. Thực vậy, chính qua đời sống, chứng tá và hành động thường nhật của các môn đệ Chúa Kitô mà loài người sẽ được dẫn đến Đấng Cứu Độ của họ. Một số người, thông qua sự hiểu biết về “dấu chỉ” Giáo Hội và ơn hoán cải, sẽ tự mình khám phá sự cao cả của Tình yêu của Thiên Chúa và chân lý của Tin Mừng; như vậy, đối với họ, Giáo Hội quả thật là “dấu chỉ và khí cụ” của ơn cứu độ. Còn những người khác được Chúa Thánh Thần kết hợp với mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô, theo đường lối huyền nhiệm hơn mà duy chỉ có Thiên Chúa biết, và cũng như vậy đối với Giáo Hội (LG 14 và 16; AG 7; GS 22 và 5).
9. Giáo Hội Duy nhất của Chúa Kitô
9.1 Sự hợp nhất của của Giáo hội và sự khác biệt giữa các nhân tố Kitô giáo
“Chỉ có một Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, Giáo Hội mà Đấng Cứu Độ chúng ta, sau khi sống lại, đã ủy thác cho Phêrô chăn dắt (Ga 21,17), đồng thời cũng trao cho Phêrô và các Tông đồ khác nhiệm vụ truyền bá và cai quản Giáo Hội (x. Mt 28,18tt.), và Người cũng thiết lập Giáo Hội nên như “cột trụ và điểm tựa của chân lý” đến muôn đời (x. 1 Tm 3,15). Giáo Hội ấy được tổ chức như một cộng đồng xã hội trên trần gian, được tồn hữu (subsistit) trong Giáo Hội Công Giáo, được cai quản bởi Đấng kế vị thánh Phêrô và các Giám mục hiệp thông với ngài, mặc dù nhiều nhân tố của ơn thánh hoá và chân lý có thể tìm thấy bên ngoài cơ chế hữu hình, nhưng những nhân tố ấy, như là các ân huệ riêng của Giáo Hội Đức Kitô, đang thúc bách tiến tới sự hợp nhất công giáo” (LG 8).
Trên thực tế, ta không thể bỏ qua việc đối chiếu giữa sự hiệp nhất thần học của Giáo Hội và sự đa nguyên thực tế của lịch sử của: “nhiều cộng đoàn Kitô hữu giới thiệu mình như là thừa kế đích thực của Chúa Giêsu Kitô; tất cả khẳng định mình là những môn đệ của Chúa, nhưng họ suy nghĩ khác nhau và đi theo những con đường khác nhau như thể chính Chúa Kitô bị chia rẽ” (UR 1). Những chia rẽ này là nguyên nhân gây ra những vấp phạm và trở ngại cho việc truyền giáo cho thế giới, vì thế, Công đồng đã quyết định xác nhận sự hiện diện của Giáo Hội Đức Kitô nơi Giáo Hội Công giáo và đồng thời sự hiện hữu ở bên ngoài biên cương hữu hình của Giáo Hội Công giáo những yếu tố hoặc thiện hảo thiêng liêng mà nhờ đó chính Giáo Hội được xây dựng và sinh động (x. UR 3).
9.2 Tính duy nhất của Giáo hội Công giáo
Trước hết, ta cần nhớ đến “sự sung mãn ân sủng và chân lý được ký thác cho Giáo Hội Công giáo” (Sắc lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio UR 3). Giáo hội Công giáo được hưởng những ơn ích ấy bởi vì “chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã ký thác cho tập đoàn các tông đồ với thủ lãnh là Phêrô tất cả các ân huệ của Giao ước mới, nhằm thiết lập trên trái đất Thân thể duy nhất của Đức Kitô, mà tất cả mọi người thuộc về Dân Thiên Chúa cần được tháp nhập” (UR 3). Chiều kích thiêng thánh của Giáo Hội không thể bị tách ra khỏi chiều kích hữu hình của nó. Một Giáo Hội, duy nhất và phổ quát, Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô có thể được nhận ra trong lịch sử nơi Giáo Hội hữu hình được thiết lập chung quanh tập đoàn các giám mục với vị thủ lãnh là Giáo hoàng (x. LG 8). Vì thế Giáo Hội được tìm thấy ở bất cứ đâu mà các vị kế nhiệm thánh Phêrô và các tông đồ khác thể hiện cách hữu hình sự liên tục với nguồn cội. Thực vậy, cùng với tính tông truyền, các thành tố cốt yếu khác sẽ đương nhiên đi kèm theo: Thánh Kinh, đạo lý đức tin và Huấn quyền, các bí tích, và các sứ vụ. Những yếu tố như thế giúp cho việc khởi đầu và tăng trưởng cuộc sống trong Đức Kitô. Theo như đức tin chính thống khẳng định, những yếu tố trên cấu thành công cụ thiết yếu và phương thế đặc thù nhờ đó đời sống thần linh giữa nhân loại được tăng trưởng. Thực vậy, những yếu tố này cấu tạo nên chân tướng của Giáo Hội. Chúng ta được phép nhìn nhận rằng toàn bộ công trình cứu độ của Thiên Chúa trên thế giới nói về Giáo Hội, bởi vì trong đó các phương thế để tăng trưởng trong cuộc sống của Đức Kitô đã đạt đến đỉnh cao và toàn hảo.
Sắc lệnh về Đại kết có lý để nói đến “mầu nhiệm thánh thiêng của sự hợp nhất Giáo hội” và liệt kê các nhân tố thiết yếu như sau: “Qua các Tông đồ và những Đấng kế vị các ngài là các Giám mục cùng với thủ lãnh là Đấng kế vị Thánh Phêrô, nhờ việc trung thành rao giảng Tin mừng, trao ban các bí tích và cai quản trong yêu thương, Đức Giêsu Kitô muốn cho đoàn dân của Người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, được luôn tăng trưởng và kiện toàn sự hiệp thông trong tình hợp nhất: cùng tuyên xưng một đức tin, cùng cử hành một nghi lễ phụng tự, cùng hòa hợp huynh đệ trong một gia đình của Thiên Chúa” (UR số 2). Nếu Giáo Hội là kế hoạch toàn bộ đời sống của Chúa phục sinh, thì danh xưng “Giáo Hội” có thể được áp dụng cách trọn vẹn ở nơi đâu mà đời sống bí tích và đức tin tông đồ này hiện diện cách toàn vẹn và liên tục. Chúng tôi tin rằng các nhân tố ấy hiện hữu cách sung mãn và tuyệt hảo trong Giáo Hội Công giáo. Đây là điều mà hiến chế Lumen gentium (số 8) muốn nhấn mạnh khi nói: “Giáo Hội ấy được tổ chức như một cộng đồng xã hội trên trần gian, được tồn hữu trong Giáo Hội Công Giáo, được cai quản bởi Đấng kế vị thánh Phêrô và các Giám mục hiệp thông với ngài…”. Bởi đó Giáo Hội được tìm thấy ở đâu mà những người kế nhiệm thánh Phêrô và các tông đồ khác thể hiện cách hữu hình sự liên tục với nguồn cội. Ơn hiệp nhất đã được ban cho Giáo Hội ấy, và “chúng tôi chúng tôi tin rằng ơn huệ này tồn hữu trong Giáo Hội Công giáo, và không có thể đánh mất” (UR số 4). Do đó, Giáo Hội được thể hiện một cách trọn vẹn trong xã hội được điều khiển bởi người kế vị thánh Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài.
9.3 Những nhân tố của ơn thánh hoá
Tuy nhiên, sự hiện diện trọn vẹn và hoàn hảo của Giáo Hội Đức Kitô trong Giáo Hội Công giáo không loại trừ sự hiện diện của Giáo Hội Đức Kitô ở nơi “nhiều nhân tố của ơn thánh hoá và chân lý bên ngoài cơ chế hữu hình, như là các ân huệ riêng của Giáo Hội Đức Kitô, đang thúc bách tiến tới sự hợp nhất công giáo” (LG 8). Nhờ ân huệ của chính Thiên Chúa ban cho Giáo Hội, có nhiều nhân tố của ơn thánh hóa và chân lý, tuy ở bên ngoài cơ chế hữu hình của Giáo Hội Công giáo, nhưng vẫn thực sự liên kết với trật tự cứu độ. Về các thực tại thánh hóa và chân lý này, Công đồng nêu bật hai đặc điểm, một đàng xét về thực tế, một đàng xét về thần học. Xét về thực tế, người ta có thể nhận thấy các thành tố của sự thánh hóa và chân lý được phát triển bên ngoài cơ chế hữu hình của Giáo Hội Công giáo; về mặt thần học, các thành tố ấy “thúc bách tiến tới sự hợp nhất Công giáo” (LG 8).
Do đó, bên ngoài Giáo Hội Công giáo không những có nhiều Kitô hữu chân chính mà còn có rất nhiều nguyên tắc đời sống và đức tin Kitô giáo chân thật. Vì thế, trong sắc lệnh Unitatis redintegratio Giáo Hội Công giáo có thể nói đến các “Giáo Hội Đông phương” (De Ecclesiis Orientis), và, liên quan đến Tây phương, các “Giáo hội và giáo đoàn ly khai” (De Ecclesiis et Communitatibus in Occidente seiunctis) (số 14, 19). Các giá trị đích thực của Giáo Hội cũng hiện diện nơi các Giáo hội và các giáo phái Kitô giáo khác. Sự hiện diện ấy mời gọi tất cả mọi người, [dù là Công giáo hay không Công giáo] hãy “duyệt xét lòng trung thành của mình với ý muốn của Chúa Kitô đối với Giáo Hội và mạnh mẽ bắt tay vào công việc đổi mới và cải cách” (UR 4; x. 6 và 7).
Sắc lệnh Công đồng về đại kết đã trình bày các nguyên tắc của Công giáo về đại kết cũng như việc thực hành cụ thể đối với các Giáo Hội Đông phương và các Giáo hội và giáo đoàn ly khai bên Tây phương. Toàn bộ những quy tắc này khai triển đạo lý nằm trong hiến chế Lumen gentium, nhất là số 8: “Chỉ qua Giáo Hội Công giáo của Đức Kitô là công cụ phổ quát của ơn cứu độ mới có thể nhận được sự sung mãn của các phương tiện cứu độ. [Tuy nhiên] các Giáo hội và giáo đoàn ly khai, tuy mang nhiều thiếu sót nhưng không vì thế mà họ chẳng có ý nghĩa và tầm quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ” (UR 3).
Qua việc phân tích của chúng tôi, có thể nhận thấy rằng “Giáo Hội đích thật” không thể nào bị xem như một điều không tưởng mà tất cả các cộng đoàn Kitô giáo hiện đang bị chia ly phân rẽ đang tìm cách đạt đến. “Giáo Hội đích thật”, cũng như hợp nhất của Giáo Hội, không phải hoàn toàn là một thực tại “thuộc tương lai”. Những điều ấy đã được tìm thấy trong Giáo Hội Công giáo, nơi đó Giáo Hội của Đức Kitô thực sự hiện diện. Do đó, “các tín hữu không được phép tưởng tượng rằng Giáo Hội của Đức Kitô chỉ là một tập hợp các Giáo hội và giáo đoàn (tuy chia rẽ, nhưng vẫn duy trì vài điểm hợp nhất); họ cũng không có quyền chủ trương rằng ngày nay Giáo Hội của Đức Kitô chẳng còn tồn hữu ở đâu cả, mà chỉ là một mục đích mà tất cả các Giáo Hội và giáo đoàn Giáo Hội phải gắng đạt đến” (Tuyên ngôn Mysterium Ecclesiae của Bộ Giáo lý Đức tin, 24 tháng 6 năm 1973).
Lời cầu của Đức Giêsu càng ngày càng thêm cấp bách: “Nguyện cho tất cả được nên một. Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng nên một ở trong chúng ta, ngõ hầu thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Cũng không kém cấp bách nghĩa vụ đối với các Kitô hữu và tất cả cộng đoàn Kitô giáo từ này phải hết lòng hướng đến sự hợp nhất này, là đối tượng của niềm hy vọng của chúng ta.
10. Đặc tính Cánh chung của Giáo Hội: Vương quốc của Thiên Chúa và Giáo Hội
10.1 Giáo hội vừa ở dưới đất vừa thuộc về trời
Chương VII của Hiến chế Lumen gentium mang tựa đề “Đặc tính cánh chung của Giáo Hội và sự kết hợp với Giáo Hội Thiên quốc”, đã không thu hút quan tâm của những người chú giải Công đồng Vaticanô II. Tuy nhiên, một cách nào đó, nó là chìa khóa để đọc chương Hai, bởi nó vạch ra đích điểm mà Dân Thiên Chúa đang trên đường đi tới. Đích điểm này đã được gợi ra ở số 9 của Hiến chế: “Đoàn dân thiên sai này… có cùng đích là Vương quốc Thiên Chúa đã được chính Ngài khởi sự trên trần thế, và phải được trải rộng cho đến khi được Ngài đưa đến hoàn tất vào lúc tận cùng thời gian”. Cùng đích này được tái khẳng định ở đầu số 48 trong cùng Hiến chế: “Tất cả chúng ta được mời gọi gia nhập Giáo Hội trong Đức Giêsu Kitô và nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo Hội, và Giáo Hội sẽ chỉ nên hoàn trọn trong vinh quang thiên quốc vào thời canh tân vạn vật”.
Ngoài ra, chúng ta gặp thấy môt đạo lý tương tự như vậy trong Hiến chế mục vụ Gaudium et spes: “Khởi phát từ tình yêu của Chúa Cha hằng cửu, được thiết lập trong thời gian bởi Đức Kitô Đấng Cứu chuộc, được quy tụ nên một trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mang một cứu cánh cứu độ và cánh chung, và điều này chỉ đạt được trọn vẹn trong cuộc sống mai hậu” (GS 40). Hơn nữa, chương Bảy của hiến chế Lumen gentium mở rộng viễn ảnh của Giáo Hội bằng cách nhắc nhở chúng ta rằng dân Thiên Chúa, trong tình cảnh hiện tại của mình là chủ thể lịch sử đã mang tính cánh chung rồi và rằng Giáo Hội lữ hành được kết hiệp với Giáo Hội trên trời.
Thực vậy, không thể nào rút gọn Giáo Hội vào chiều kích thuần túy trần thế và hữu hình. Bởi vì đang khi Giáo Hội lữ hành trên trần gian này, thì những nguồn mạch mang lại sức sống và đổi mới liên lỉ lại “ở trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, nơi đời sống Giáo Hội hiện đang ẩn tàng với Đức Kitô trong Thiên Chúa, cho đến khi Giáo Hội xuất hiện trong vinh quang cùng với Vị Lang quân của mình (x. Cl 3,1-4)” (LG 6). Đó là công trình mà Chúa Thánh Thần hoàn tất “nhờ sức mạnh của Tin Mừng: Ngài làm cho Giáo Hội giữ được luôn tươi trẻ, không ngừng đổi mới và dẫn đưa Giáo Hội đến sự kết hợp hoàn hảo với Vị Lang quân của mình” (LG 4). Chính cứu cánh này mà Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội, đã xác định cuộc sống sâu xa của Giáo Hội lữ hành. Và chính bởi thế, các tín hữu từ nay trở đi có quê hương (politeuma) “ở trên trời” (Pl 3,20; LG 13 và 48); ngay từ bây giờ, “Giêrusalem thượng giới đã là mẹ của chúng ta” (Gl 4,26; x. LG 6). Đó là một phần của mầu nhiệm Giáo Hội mà mục tiêu này đã được hiện diện cách ẩn tàng trong Giáo Hội lữ hành. Đặc tính cánh chung này của Giáo Hội không dẫn tới việc coi nhẹ các trách nhiệm trần thế; ngược lại, nó hướng dẫn Giáo Hội bước vào con đường theo gương Đức Kitô nghèo khó và phục vụ. Chính nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và nhờ các ân sủng của Thánh Thần, Giáo Hội lãnh nhận sức mạnh để hiến thân phục vụ mỗi người và mọi người. Tuy nhiên, đang khi “tiến về Vương Quốc Chúa Cha (x. GS 1), Giáo Hội vẫn nhìn nhận quãng đường cần phải trải qua cho đến lúc hoàn trọn cuối cùng, nghĩa là nhận ra rằng trong số con cái vẫn còn những người tội lỗi và mình cần phải hoán cải không ngừng (x. LG 8). Tuy vẫn thường cảm thấy đau đớn vì quãng cách này, nhưng đừng nên quên rằng Giáo Hội về cơ bản là một trải qua những chặng khác nhau: tiên báo lúc tạo dựng, chuẩn bị trong Cựu Ước, hình thành vào “thời gian cuối cùng”, biểu lộ nhờ Chúa Thánh Thần, và, sau cùng, hoàn tất lúc kết thúc thời gian, trong vinh quang (x. LG 2). Hơn nữa, nếu Giáo Hội là một trong những chặng khác nhau của nhiệm cục thiêng thánh, thì Giáo Hội cũng là một trong ba chiều kích: lữ hành, thanh luyện và vinh hiển: “Hết những ai thuộc về Đức Kitô và đón nhận Thần khí của Người đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và gắn bó với nhau trong Người (x. Ep 4,16)” (LG 49).
10.2 Giáo hội và Vương quốc
Cần đặt trước mắt viễn tượng về sự thống nhất của Giáo hội khi chúng ta giải quyết vấn đề gai góc về mối tương quan giữa Giáo Hội và Vương quốc. Trong khi, nói chung, nhiều người trong số các Giáo phụ, các nhà thần học trung cổ và các nhà cải cách thế kỷ XVI đồng hóa Giáo Hội và Vương quốc, thì từ hai thế kỷ gần đây, người ta lại tách rời hai thực tại ra, cách xa nhau hoặc ít hoặc nhiều, đơn phương nhấn mạnh đến khía cạnh cánh chung của Vương quốc và khía cạnh lịch sử của Giáo Hội. Công đồng đã không minh thị đề cập đến vấn đề này, nhưng việc liên kết các văn bản khác nhau cho phép chúng tôi nhận ra giáo huấn của hiến chế Lumen gentium.
Khi khảo sát các văn bản liên quan đến thời hoàn tất cuối cùng, người ta không thấy có sự khác biệt nào giữa Giáo Hội và Vương quốc. Một mặt, văn kiện nói rằng “đang khi Giáo Hội từ từ tiến bước, Giáo Hội khát mong Vương quốc hoàn bị” (LG 5); nhưng mặt khác, Giáo hội sẽ tới mức hoàn tất cuối cùng trong vinh quang trên trời (x. LG 48 và 68). Một đàng, sự hoàn tất cuối cùng sẽ xảy ra “khi Đức Kitô sẽ trao cho Chúa Cha một Vương quốc vĩnh cửu và phổ quát” (GS 39; x. 1 Cr 15,24; PO 2); đàng khác, theo Công đồng, “Giáo Hội sẽ được hoàn tất vào lúc kết thúc thời gian. Khi ấy, như đọc thấy trong các giáo phụ, tất cả những người công chính, kể từ ông Ađam, ‘kể từ Abel công chính cho đến người cuối cùng được tuyển chọn’, sẽ được quy tụ bên Chúa Cha trong Giáo Hội hoàn vũ (LG 2). Chính Chúa Thánh Thần “dẫn dắt Giáo Hội đến với sự kết hợp hoàn hảo với Lang quân của mình” (LG 4). Giáo Hội “trong mong và ước muốn mãnh liệt được kết hợp với Vị Vua của mình” (LG 5), còn ở chỗ khác, Công đồng khẳng định rằng dân Thiên Chúa có đích điểm là Vương quốc Thiên Chúa” và thêm rằng “Thiên Chúa sẽ đưa Giáo Hội đến chỗ hoàn tất vào lúc tận cùng thời gian” (LG 9). Rõ ràng là trong giáo huấn của Công đồng, khi nói đến thực tại tương lai vào lúc tận cùng của thời gian, thì không có sự khác biệt nào giữa Giáo Hội hoàn thành (consummata) và Vương quốc hoàn tất (consummatum).
Còn mối tương quan của chúng ở vào thời hiện nay như thế nào? Bản văn minh thị nhất về chủ đề này (LG 5) cho thấy rằng mối tương quan giữa các khái niệm Vương quốc và Giáo Hội rất là tinh tế. Vận mệnh của Giáo Hội và vận mệnh của Vương quốc dường như không thể tách rời vào lúc khởi đầu: “Chúa Giêsu đã khai mở Giáo Hội của Người bằng cách rao giảng Tin Mừng, nghĩa là Vương quốc Thiên Chúa đang đến” (LG 5). Sự ra đời của Giáo Hội và khai nguyên của Vương quốc Thiên Chúa được tỏ lộ cùng một lúc; sự tiến triển của đôi bên cũng vậy. Thực vậy, “những người tin tưởng đón nhận lời của Đức Kitô thì thuộc về “đoàn chiên bé nhỏ của Đức Kitô (x. Lc 12,32), đón nhận chính Vương quốc của Thiên Chúa” (LG 5). Thuộc về Giáo Hội có nghĩa là: “Những người tin vào Đức Kitô, được Chúa Cha quy tụ vào trong Giáo hội” (LG 2). Do đó, chúng ta có thể sử dụng các thuật ngữ như nhau để diễn tả sự tăng trưởng của cả Vương quốc và Giáo Hội (LG 5). Thật ra, chính trong sự phát triển của Giáo Hội, Công đồng đã nhận ra sự tăng trưởng của Vương quốc: “Nhằm thực hiện ý muốn của Chúa Cha, Đức Kitô đã khai mở Vương Quốc trên trần gian […]. Giáo Hội, nghĩa là “Vương quốc Thiên Chúa đã hiện diện cách mầu nhiệm”, nhờ sức mạnh của Thiên Chúa đã tăng trưởng rõ rệt trong thế giới (LG 3; x. DV 17; LG 13). Do vậy, Giáo Hội lữ hành là “Vương quốc của Thiên Chúa đã hiện diện một cách mầu nhiệm”, và khi tăng trưởng, Giáo Hội tiến tới Vương quốc tận cùng, nhưng sự tăng trưởng của Giáo Hội không gì khác hơn là hoàn thành sứ mệnh của mình: “Giáo Hội lãnh nhận sứ mệnh loan báo và thiết lập Vương quốc của Đức Kitô và của Thiên Chúa giữa tất cả các dân tộc; Giáo Hội là hạt giống và khởi đầu của Vương quốc” (LG 5). Sự mô tả Giáo Hội như là “hạt giống” và “khởi đầu” của Vương quốc diễn tả vừa sự đồng nhất lại vừa sự khác biệt giữa đôi bên.
Giáo Hội và Vương quốc lại còn đồng quy với nhau trong cách thế tăng trưởng đặc thù, một sự tăng trưởng chỉ được thực hiện trong và bằng việc trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống. Vương quốc phải “đương đầu bằng vũ lực” (x. Mt 11,12), và về điểm này thì vận mệnh Giáo Hội cũng chẳng khác gì, bởi vì Giáo Hội “tiếp tục cuộc lữ hành giữa bao cuộc bách hại của thế gian và những niềm an ủi của Thiên Chúa (Thánh Augustinô, trích trong LG 8). Giáo Hội là Giáo Hội Thánh, mặc dù ôm ấp trong mình những con người tội lỗi (LG 8); và chính Vương quốc, “hiện diện cách mầu nhiệm” (in mysterio), cũng được ẩn giấu trong thế gian và trong lịch sử, và do đó phải được thanh lọc các yếu tố xa lạ (x. Mt 13,24-30, 47-49). Là một mầu nhiệm vừa thần thiêng vừa nhân loại, Giáo Hội vượt quá cấu trúc xã hội (socialis compago) của Giáo Hội Công giáo (LG 8, 13-17). Đã là thành phần của Vương quốc thì cũng thuộc về Giáo Hội, ít là cách ám tàng.
10.3 Phải chăng Giáo hội là Bí tích của Vương Quốc?
Để bổ túc đạo lý của chương trước nói về Giáo Hội là bí tích, thật là hữu ích đặt câu hỏi: có thể gọi Giáo Hội là bí tích của Vương Quốc không? Đây không chỉ là một câu chuyện về từ ngữ, nhưng thực chất là một câu hỏi thần học, mà bài nghiên cứu của chúng tôi đưa ra một câu trả lời thích thời.
Trước tiên, chúng tôi ghi nhận rằng Công đồng đã không sử dụng thuật ngữ này, mặc dù hạn từ “bí tích” được dùng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, như chúng ta đã thấy. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng diễn ngữ “Giáo Hội, bí tích của Vương Quốc”, miễn là trong khung cảnh như sau:
1. Khi áp dụng cho Giáo Hội, thuật ngữ “bí tích” được sử dụng một cách loại suy, như đoạn văn mở đầu của hiến chế Lumen gentium nhấn mạnh: “ví như bí tích”(veluti sacramentum).
2. Diễn ngữ này muốn nói đến tương quan giữa một bên là Vương Quốc được hiểu theo nghĩa là hoàn tất,và bên kia là Giáo Hội giới hạn vào khía cạnh “lữ hành”;
3. Ở đây, thuật ngữ “bí tích” được hiểu cách trọn vẹn theo nghĩa là thực thể (của Vương quốc) đã hiện diện cách huyền nhiệm (iam praesens in mysterio: LG 3) trong bí tích (Giáo Hội lữ hành);
4. Giáo Hội không chỉ là một dấu chỉ thuần túy (sacramentum tantum) mà là một dấu chỉ trong đó đã hiện diện thực tại được biểu thị (res et sacramentum) như là thực tại Vương Quốc;
5. Khái niệm về Giáo Hội không thể nào chỉ giới hạn vào khía cạnh tạm thời và trần thế; đối lại, khái niệm về Vương Quốc bao hàm sự hiện diện “đã có trong mầu nhiệm” (hic et nunc in mysterio).
10.4 Đức Maria, Giáo hội đã thành toàn
Không thể nào đọc Hiến chế Lumen gentium cách đúng đắn nếu không đưa chương Tám của hiến chế vào sự hiểu biết về mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo Hội và Vương Quốc tìm thấy sự thể hiện cao nhất của mình nơi Đức Maria. Căn tính của Giáo Hội như sự hiện diện trong mầu nhiệm của Vương Quốc được chiếu toả cách dứt khoát khi chúng ta nhìn vào Đức Maria, nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần, gương mẫu đức tin, biểu tượng sống động của Giáo Hội. Vì lý do ấy, Công đồng khẳng định về Người rằng: “nơi Đức Trinh Nữ rất diễm phúc, Giáo Hội đã đạt đến sự hoàn hảo, nhờ đó Giáo Hội xuất hiện không tì ố, không nếp nhăn (x. Ep 5,27) (LG 65). Khoảng cách khá đau thương giữa Giáo Hội lữ hành và Vương Quốc hoàn thành đã được khỏa lấp nơi Đức Maria, Người đã được đưa lên trời, “đã trở nên giống như Con của mình đã sống lại từ cõi chết, đã hưởng trước điều kiện mà tất cả mọi người công chính sẽ sống (Đức Phaolô VI, Tuyên xưng Đức tin, 15). Vì vậy, Thân mẫu của Đức Giêsu là “hình mẫu và khởi đầu của Giáo Hội sẽ được nên hoàn trọn trong tương lai” (LG 68).