Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng: Văn Kiện Hướng Dẫn Việc Giải Thích Kinh Thánh Trong Hội Thánh – 1993 (2)

0
4159


ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG

BẢN HƯỚNG DẪN

VIỆC GIẢI THÍCH KINH THÁNH TRONG HỘI THÁNH

***

***

Lm. Giuse Nguyễn Tất Trung, OP. chuyển ngữ

LTS: Bản Việt ngữ này được dịch (1996) từ bản chính thức bằng Pháp ngữ do Liberia Editrice Vaticana ấn hành (Roma 1993). Tuy nhiên để cho ý tưởng sáng sủa, cũng tham chiếu bản dịch và chú giải bằng Anh ngữ của linh mục Joseph A. Fitzmyer do Editrice Pontificio Instituto Biblico ấn hành (Roma 1995). Trong lần tái bản này (2004), cha Albertô Trần Phúc Nhân đã đọc lại và góp ý sửa chữa cho bản dịch được chính xác và rõ ràng hơn. Chúng con xin chân thành cảm ơn Cha.

***

ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG

BẢN HƯỚNG DẪN

VIỆC GIẢI THÍCH KINH THÁNH TRONG HỘI THÁNH

***

PHẦN II

CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH

 

A. CÁC LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH THEO TRIẾT HỌC

Bước tiến của khoa chú giải được mời suy nghĩ lại phần nào, căn cứ vào cách giải thích của triết học hiện đại, vốn nhấn mạnh tương quan của chủ thể nhận thức trong tri thức của con người, đặc biệt là trong tri thức lịch sử. Suy tư giải thích đã có một đà tiến mới với việc xuất bản những tác phẩm của Friedrich Schleiermacher, Wilhelm Dilthey và nhất là Martin Heidegger. Theo chân các triết gia này, nhưng cũng lại tách ra khá xa, nhiều tác giả khác đã khai triển sâu hơn lý thuyết giải thích hiện đại và những ứng dụng của nó vào Sách Thánh. Trong số các tác giả đó, chúng ta sẽ đề cập đặc biệt đến Rudolf Bultmann, Hans Georg Gadamer và Paul Ricoeur. Ở đây ta không thể tóm tắt đầy đủ tư tưởng của họ. Chỉ xin nêu một vài tư tưởng chính yếu trong triết lý của họ đã ảnh hưởng đến cách giải thích các bản văn Kinh Thánh cũng đủ.[1]

1. Các quan điểm hiện đại

Nhận thấy khoảng cách về văn hoá giữa thế giới của thế kỷ thứ nhất với thế kỷ hai mươi, Bultmann đặc biệt lo làm thế nào để thực tại được Sách Thánh bàn tới có thể nói với con người hiện đại. Ông đã nhấn mạnh đến tiền thức (pré-compréhension) cần thiết cho bất cứ tri thức nào và ông đã thảo một lý thuyết giải thích có tính cách hiện sinh các tác phẩm của Tân Ước. Dựa trên tư tưởng của Heidegger, Bultmann nhấn mạnh rằng không thể chú giải một bản văn Kinh Thánh mà không có những giả thiết hướng dẫn việc hiểu biết. Tiền-thức (“Vorverstandnis”) được đặt căn bản trên một mối tương quan sống động (“Lebensverhaltnis”) của người giải thích với thực tại mà bản văn nói tới. Nhưng muốn tránh chủ quan, ta phải để cho tiền-thức được đào sâu và phong phú thêm, thậm chí được điều chỉnh và sửa chữa. nhờ thực tại của bản văn.

Khi thắc mắc không biết khung tư tưởng nào thích ứng nhất để xác định loại các vấn đề được bản văn Kinh Thánh nêu ra mà con người ngày nay có thể hiểu được, Bultmann cho rằng mình đã tìm được câu giải đáp trong lối phân tích hiện sinh của Heidegger, vì ông cho rằng những nguyên lý hiện sinh của trường phái Heidegger có một sự ứng dụng phổ quát và đã cung cấp những cấu trúc cũng như những quan niệm thích hợp nhất cho sự hiểu biết về cuộc hiện hữu của con người được mặc khải trong sứ điệp của Tân Ước.

Gadamer cũng nhấn mạnh đến khoảng cách lịch sử giữa bản văn với người giải thích bản văn đó. Ông lặp lại và khai triển lý thuyết vòng tròn giải thích. Những tiền dự và những tiền niệm ảnh hưởng đến tri thức của chúng ta xuất phát từ truyền thống đang nâng đỡ chúng ta. Truyền thống này hệ tại ở một toàn bộ những dữ kiện lịch sử và văn hoá tạo nên bối cảnh sống của chúng ta, chân trời hiểu biết của chúng ta. Người giải thích buộc phải tham gia cuộc đối thoại với thực tại được nói đến trong bản văn. Tri thức diễn ra trong sự hoà trộn những chân trời khác nhau của bản văn với người đọc bản văn (“Horizontverschmelzung”). Chỉ có thể có tri thức nếu có một “sự thuộc về” (“Zugehorigkeit”), tức là một sự liên hệ căn bản giữa người giải thích và đối tượng được giải thích. Khoa giải thích là một tiến trình biện chứng : biết một bản văn bao giờ cũng là biết chính mình một cách rộng rãi hơn.

Còn về tư tưởng giải thích của Ricoeur, điểm chính cần chú ý là nêu bật chức năng của khoảng cách như là một điều kiện cần có trước để có thể lĩnh hội đúng đắn bản văn. Cần có một khoảng cách trước tiên giữa bản văn và tác giả của bản văn đó, bởi vì bản văn một khi đã ra đời sẽ có một sự độc lập nào đó đối với tác giả đã viết ra. Nó khởi sự một đà ý nghĩa riêng. Rồi cần có một khoảng cách khác giữa bản văn với độc giả kế tiếp nhau đọc bản văn đó. Những người này cần phải tôn trọng thế giới của bản văn trong tha tính của nó. Vì thế, các phương pháp phân tích văn chương và lịch sử cần để có thể giải thích. Nhưng, chỉ có thể có trọn vẹn ý nghĩa của một bản văn nếu bản văn đó được hiện thực hoá trong cuộc sống cụ thể của những độc giả đang tìm cách lãnh hội nó. Khởi đi từ hoàn cảnh sống của mình, những người này được mời gọi khám phá ra những ý nghĩa mới, theo đường hướng của ý nghĩa nền tảng đã được bản văn nêu lên. Tri thức Kinh Thánh không được dừng lại ở ngôn ngữ, mà phải cố đạt tới thực tại mà ngôn ngữ trong bản văn muốn nói. Ngôn ngữ tôn giáo trong Kinh Thánh là một ngôn ngữ biểu tượng, ngôn ngữ này “thúc đẩy suy nghĩ”, một thứ ngôn ngữ mà người ta không ngừng khám phá được kho tàng ý nghĩa phong phú, một thứ ngôn ngữ nhằm tới một thực tại siêu việt nhưng đồng thời cũng đánh thức con người nghĩ đến những chiều kích sâu xa nhất trong cuộc đời của chính mình.

2. Ích lợi đối với khoa chú giải

Phải nói gì về những lý thuyết giải thích hiện đại nhằm các bản văn này ? Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa nói với mọi thời đại kế tiếp nhau. Vì thế, không thể bỏ qua một lý thuyết giải thích giúp đưa các phương pháp phê bình văn chương và lịch sử vào trong một khuôn mẫu giải thích rộng hơn. Đó là vấn đề làm sao vượt qua khoảng cách giữa thời đại của các tác giả và những độc giả đầu tiên đọc các bản văn Kinh Thánh với thời hiện đại của chúng ta, cũng như vấn đề làm sao hiện tại hóa đúng sứ điệp của đạicác bản văn Kinh Thánh để nuôi dưỡng đời sống đức tin của các Kitô hữu. Vì thế, mọi loại chú giải các bản văn đều được mời gọi tự bổ túc nhờ một “khoa giải thích”, hiểu theo nghĩa hiện đại của từ này.

Chính Kinh Thánh cũng như lịch sử việc giải thích Kinh Thánh cho thấy cần phải có một khoa giải thích, nghĩa là một thứ giải thích xuất phát từ thế giới ngày nay và ngỏ lời với thế giới ngày nay. Toàn thể các tác phẩm Cựu Ước và Tân Ước được coi như sản phẩm của một tiến trình dài trong đó những biến cố nền tảng không ngừng tìm được một sự giải thích lại nhờ gắn liền với sinh hoạt của các cộng đoàn tín hữu.

Khoa giải thích hiện đại là một phản ứng lành mạnh đối lại chủ trương thực nghiệm lịch sử và đối lại cám dỗ muốn đem những tiêu chuẩn thuần tuý khách quan vốn được sử dụng trong các khoa học tự nhiên áp dụng vào Kinh Thánh. Một đàng, mọi biến cố được tường thuật trong Kinh Thánh đều là những biến cố đã được giải thích. Đàng khác mọi lối chú giải các trình thuật về những biến cố ấy tất nhiên hàm chứa tính chủ quan của lối chú giải ấy. Chỉ ai có một liên hệ sống thật sự với điều mà bản văn nói đến mới hiểu đúng bản văn Kinh Thánh. Vấn đề mà bất kỳ nhà chú giải nào cũng phải đối diện là vấn đề này : lý thuyết giải thích nào khả dĩ hơn cả giúp nắm được đúng thực tại thâm sâu mà Sách Thánh nói đồng thời giúp nắm được cách diễn tả có ý nghĩa cho con người hôm nay ?

Cần phải thẳng thắn nhìn nhận là một số lý thuyết giải thích không thích hợp để giải thích Sách Thánh. Chẳng hạn lối giải thích hiện sinh của Bultmann đưa đến chỗ giam hãm sứ điệp Ki-tô giáo vào gông cùm của một thứ triết học đặc thù. Hơn thế nữa, do những giả thiết được lối giải thích này nhấn mạnh, sứ điệp tôn giáo của Kinh Thánh mất đi một phần lớn thực tại khách quan của mình (do chuyện “giải trừ huyền thoại” quá đáng) và bị giản lược vào một sứ điệp chỉ mang tính cách nhân học. Triết học trở thành một qui tắc giải thích hơn là khí cụ giúp hiểu đối tượng chính của mọi lối giải thích : đó là chính con người Đức Giêsu Kitô và những biến cố cứu độ được hoàn tất trong lịch sử nhân loại. Vì thế, một lối giải thích Kinh Thánh chân chính tiên vàn phải là một thái độ ân cần đón nhận ý nghĩa đã được đưa ra trong các biến cố và, nói cho cùng, trong chính con người Đức Giêsu Kitô.

Ý nghĩa này được diễn tả trong bản văn. Vì thế muốn tránh chủ quan thuần tuý, lối giải thích có giá trị đối với thời nay cần đặt căn bản trên việc nghiên cứu bản văn và lối giải thích như thế thường phải tuân theo những giả thiết được chứng nghiệm nhờ bản văn.

Khoa giải thích Kinh Thánh, vì hoàn toàn là thành phần của khoa giải thích tổng quát áp dụng cho bất kỳ bản văn văn chương và lịch sử nào, đồng thời là một trường hợp duy nhất của lối giải thích này. Những đặc nét riêng của nó xuất phát từ đối tượng của nó. Những biến cố cứu độ và việc hoàn tất những biến cố đó nơi con người Đức Giêsu Kitô đem lại ý nghĩa cho toàn thể lịch sử nhân loại. Những cách giải thích mới theo dòng thời gian chỉ có thể vén mở hoặc giãi bày kho tàng ý nghĩa phong phú này mà thôi. Lý trí mà thôi không đủ để có thể hiểu trọn vẹn trình thuật Kinh Thánh về những biến cố này. Những giả thiết đặc thù, như niềm tin sống động trong cộng đoàn Hội Thánh và ánh sáng của Thánh Thần, chi phối cách giải thích. Khi người đọc trưởng thành trong sự sống của Thánh Thần, bấy giờ khả năng hiểu biết của họ về những thực tại được bản văn Kinh Thánh nói tới cũng gia tăng.

B. NGHĨA CỦA SÁCH THÁNH ĐƯỢC LINH HỨNG

Đóng góp của các lý thuyết giải thích hiện đại, có tính cách triết học, cùng với những phát triển gần đây của việc nghiên cứu khoa học các nền văn chương giúp cho khoa chú giải Kinh Thánh hiểu biết sâu xa hơn về nhiệm vụ của mình. Rõ là nhiệm vụ này càng ngày càng phức tạp hơn. Lối chú giải cổ xưa hiển nhiên không thể biết những đòi hỏi khoa học hiện đại, đã gán cho mỗi bản văn Kinh Thánh nhiều cấp độ ý nghĩa. Cách phân biệt thông thường nhất là nghĩa theo chữ và nghĩa thiêng liêng. Khoa chú giải thời Trung cổ đã phân biệt trong nghĩa thiêng liêng ba khía cạnh khác nhau lần lượt liên hệ đến chân lý được mặc khải, đến cách sống phải theo và đến sự hoàn thành chung cuộc. Do đó mà có câu đối nổi tiếng của Augustin de Danemark (thế kỷ XIII) như sau : 

“Littera gesta docet, quid credas allegoria,  moralis quid agas, quid speres anagogia”.

(Chữ dạy cho biết các biến cố, ngụ ngôn cho biết điều bạn phải tin, nghĩa luân lý dạy điều bạn phải làm, nghĩa thần bí chỉ điều bạn phải hy vọng).

Để phản ứng chống lại thứ đa nghĩa này, lối chú giải phê bình-lịch sử đã chấp nhận hơn kém công khai thuyết một ý nghĩa duy nhất, theo đó bản văn không thể đồng thời có hơn một ý nghĩa. Tất cả nỗ lực của lối chú giải phê bình-lịch sử là làm sao xác định “cái ý nghĩa” chính xác của bản văn Kinh Thánh này bản văn Kinh Thánh kia trong những hoàn cảnh nó được viết ra.

Nhưng thuyết này bây giờ lại vấp phải những kết luận của các khoa học về ngôn ngữ và của các lý thuyết giải thích có tính cách triết học, cả hai đều quả quyết rằng các bản văn thành văn có tính đa nghĩa.

Vấn đề không đơn giản và cũng không được đặt ra cùng một cách cho hết mọi loại bản văn : các trình thuật lịch sử, các dụ ngôn, các sấm ngôn, luật, châm ngôn, các lời kinh nguyện, thánh thi… Tuy nhiên, có thể đưa ra một số nguyên tắc chung trong khi vẫn lưu ý đến những ý kiến khác biệt.

1. Nghĩa theo chữ (sens littéral)

Nghĩa mà người ta gọi là nghĩa theo chữ không những là hợp pháp, nhưng còn tuyệt đối cần thiết để tìm cách xác định ý nghĩa rõ rệt của những bản văn như chúng đã được các tác giả cho ra đời. Thánh Tommaso Aquino đã quả quyết rằng nghĩa này có một tầm quan trọng căn bản (S.Th.I, q.1, a.10, ad 1).

Không được lẫn lộn nghĩa theo chữ (littéral) với nghĩa “cứ chữ” (littéraliste) mà những người bảo thủ kiên quyết theo. Muốn có nghĩa theo chữ, không phải cứ dịch bản văn từng chữ là đủ, nhưng cần phải hiểu bản văn theo những qui ước văn chương của thời đại. Khi gặp một bản văn ám dụ, nghĩa theo chữ của bản văn đó không phải là nghĩa trực tiếp phát xuất từ việc dịch từng chữ một (ví dụ : “Hãy thắt lưng”, Lc 12,35) nhưng là nghĩa tương ứng với cách dùng các từ theo ám dụ (“Hãy sẵn sàng hành động”). Khi bản văn là một câu chuyện, nghĩa theo chữ của nó không nhất thiết đòi phải quả quyết là các sự kiện được thuật lại đã xảy ra thực sự như thế, bởi vì một câu chuyện có thể không thuộc loại lịch sử, nhưng là một tác phẩm do trí tưởng tượng mà ra.

Nghĩa theo chữ của Kinh Thánh là nghĩa đã được các tác giả loài người được linh hứng diễn tả trực tiếp ra. Vì là kết quả của ơn linh hứng, nghĩa này cũng là nghĩa Thiên Chúa, tác giả chính, muốn nói. Ta nhận ra được nghĩa theo chữ nhờ phân tích rõ bản văn, đặt nó vào bối cảnh văn chương và lịch sử của nó.

Nhiệm vụ chính của khoa chú giải là tiến hành cách phân tích này cho tốt đẹp, bằng cách sử dụng mọi khả năng của những nghiên cứu văn chương và lịch sử, nhằm xác định được nghĩa theo chữ của các bản văn Kinh Thánh cho chính xác tối đa (x. Divino afflante Spiritu, EB, 550). Muốn đạt được mục tiêu này, việc nghiên cứu các loại văn cổ xưa là điều đặc biệt cần thiết (ibid. 560).

Phải chăng một bản văn chỉ có một nghĩa theo chữ duy nhất ? Nói chung thì đúng như thế. Nhưng đó không phải là một nguyên tắc tuyệt đối, vì hai lý do. Thứ nhất, một tác giả loài người có thể đồng thời muốn nhằm đến nhiều cấp độ của thực tại. Đây là trường hợp thường xảy ra trong thi ca. Ơn linh hứng Kinh Thánh không khinh thường khả năng này của tâm lý và ngôn ngữ nhân loại. Sách Tin Mừng thứ tư cho ta nhiều ví dụ về khía cạnh này. Thứ hai, ngay cả khi một lời của con người xem ra chỉ có một ý nghĩa, ơn linh hứng vẫn có thể hướng lời ấy cách nào đó để làm phát sinh ra hơn một nghĩa. Đó là trường hợp lời tuyên bố của thượng tế Cai-pha, trong Ga 11,50. Lời tuyên bố của ông vừa nói lên một sự tính toán chính trị vô luân lại vừa nói lên một mặc khải của Thiên Chúa. Cả hai phương diện này đều thuộc về nghĩa theo chữ, bởi vì cả hai đều được nêu bật nhờ văn mạch. Dầu đây có thể là trường hợp hy hữu, nhưng vẫn là trường hợp tiêu biểu nhắc nhở ta cần phải coi chừng một quan niệm quá hẹp hòi về nghĩa theo chữ của các bản văn được linh hứng.

Đặc biệt cần lưu ý đến khía cạnh năng động của nhiều bản văn. Chẳng hạn không nên giới hạn quá chặt chẽ ý nghĩa của các Thánh vịnh nói về vua vào những hoàn cảnh lịch sử khi các Thánh vịnh ấy ra đời. Khi nói đến vua, tác giả Thánh vịnh vừa nói đến một thể chế thực sự lại vừa gợi lên một cái nhìn lý tưởng về vương quyền, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, khiến bản văn ông viết ra vượt quá thể chế vương quyền đang có trong lịch sử bấy giờ. Lối chú giải phê bình-lịch sử thường hay có khuynh hướng giới hạn ý nghĩa của các bản văn, bằng cách gắn chết ý nghĩa đó vào những hoàn cảnh rõ rệt. Đúng ra, phải cố xác định hướng đi của tư tưởng được bản văn diễn tả, hướng đó thay vì mời nhà chú giải giới hạn ý nghĩa bản văn thì lại gợi cho nhà chú giải nhận ra ý nghĩa đó được nối dài như thế nào.

Một trào lưu của khoa lý thuyết giải thích hiện đại nhấn mạnh rằng lời nói của cong người khi nó được viết ra thì ở vào một vị thế khác. Một bản văn viết có khả năng được đặt vào những hoàn cảnh mới. Những hoàn cảnh mới sẽ soi sáng bản văn theo những cách khác, và thêm những nghĩa mới vào nghĩa nguyên thuỷ. Khả năng này của những bản văn đặc biệt hữu hiệu trong trường hợp các bản văn Kinh Thánh, được nhìn nhận là Lời của Thiên Chúa. Quả thế, điều khiến cho cộng đoàn tín hữu bảo tồn các bản văn ấy, chính là niềm xác tín cho rằng các bản văn ấy sẽ còn tiếp tục mang ánh sáng và sự sống cho các thế hệ tương lai. Ngay từ đầu, nghĩa theo chữ được để mở cho những phát triển xa hơn. Những phát triển này có được là nhờ những “việc đọc lại” (relectures) trong những bối cảnh mới.

Nhưng không vì thế mà ta có thể tuỳ tiện gán cho một bản văn Kinh Thánh bất kỳ ý nghĩa nào, bằng cách giải thích bản văn ấy một cách chủ quan. Trái lại. cần phải loại bỏ, phải coi là không đích thực bất cứ lối giải thích nào không thuần nhất với ý nghĩa đã được tác giả loài người diễn tả trong bản văn họ viết. Chấp nhận những ý nghĩa không đồng nhất như thế tức là chặt đứt sứ điệp Kinh Thánh khỏi gốc rễ của nó, tức là Lời của Thiên Chúa được thông truyền trong lịch sử, và cũng là mở cửa cho một thứ giải thích chủ quan không thể kiểm soát được.

2. Nghĩa thiêng liêng

Tuy nhiên, không được hiểu “không thuần nhất” theo nghĩa hẹp, loại trừ mọi khả năng hoàn thành ở cấp độ cao hơn. Biến cố vượt qua, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, đã đem lại một bối cảnh lịch sử hoàn toàn mới. Bối cảnh này soi sáng một cách mới mẻ những bản văn cổ và làm cho các bản văn ấy thay đổi ý nghĩa. Đặc biệt, một số bản văn trong hoàn cảnh thời xưa phải coi là phóng đại (chẳng hạn như sấm ngôn trong đó Thiên Chúa, khi nói về một người con của vua Đa-vít, đã hứa củng cố ngai vàng của người con đó “cho đến mãi mãi” : 2 Sm 7,12-13; 1Sb 17,11-14). Các bản văn này từ nay lại phải được hiểu sát chữ, bởi vì “Chúa Kitô, một khi đã phục sinh từ trong cõi chết, thì không còn chết nữa” (Rm 6,9). Các nhà chú giải có một ý niệm hẹp hòi, “duy lịch sử”, về nghĩa theo chữ sẽ cho rằng đây là một cách giải thích không thuần nhất. Những người cởi mở đón nhận khía cạnh năng động của các bản văn sẽ nhận thấy ở đây có một sự liên tục sâu xa, đồng thời có một bước chuyển sang một bình diện khác : Chúa Kitô đang cai trị cho đến muôn đời, nhưng không phải trên ngai vàng trần thế của Đavít (cũng xem Tv 2,7-8; 110,1.4).

Trong những trường hợp thuộc loại trên đây, người ta gọi là “nghĩa thiêng liêng”. Theo cách chung, ta có thể định nghĩa ý nghĩa thiêng liêng, hiểu theo đức tin Ki-tô giáo, là nghĩa được các bản văn Kinh Thánh diễn tả, khi người ta đọc các bản văn đó dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, trong bối cảnh mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô và đời sống mới phát xuất từ mầu nhiệm đó. Bối cảnh này có thật. Tân Ước nhìn nhận các lời Sách Thánh được hoàn tất trong bối cảnh đó. Như thế việc đọc lại Sách Thánh dưới ánh sáng của bối cảnh mới này, tức là bối cảnh của đời sống trong Thánh Thần, là điều bình thường.

Từ định nghĩa trên, ta có thể rút ra nhiều kết luận hữu ích về những tương quan giữa nghĩa thiêng liêng với nghĩa theo chữ :

Trái với suy nghĩ thông thường, không nhất thiết phải có sự phân biệt giữa hai ý nghĩa này. Khi một bản văn Kinh Thánh có liên hệ trực tiếp với mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô hoặc với đời sống mới xuất phát từ mầu nhiệm đó, nghĩa theo chữ của bản văn đã là một nghĩa thiêng liêng rồi. Đó là trường hợp thông thường trong Tân Ước. Do đó mà khoa chú giải Kitô giáo thường hay nói đến nghĩa thiêng liêng khi nói về Cựu Ước. Nhưng ngay trong Cựu Ước cũng đã có nhiều trường hợp bản văn đã có nghĩa theo chữ là một nghĩa tôn giáo và thiêng liêng rồi. Đức tin Kitô giáo nhận thấy nơi những trường hợp đó có mối tương quan trước với đời sống mới do Đức Kitô mang đến.

Khi có sự phân biệt giữa hai nghĩa này, nghĩa thiêng liêng không bao giờ mất đi tương quan với nghĩa theo chữ. Nghĩa theo chữ vẫn là nền tảng không thể thiếu được. Nếu không, không thể nói đến việc “hoàn tất” Sách Thánh. Thật thế, muốn có sự hoàn tất, chủ yếu phải có mối tương quan liên tục và phù hợp. Nhưng cũng cần phải có bước chuyển tiếp đi lên cấp độ cao hơn của thực tại.

Không được lẫn lộn nghĩa thiêng liêng với những giải thích chủ quan do trí tưởng tượng hoặc lý luận thuần lý tạo ra. Nghĩa thiêng liêng phải xuất phát từ việc đặt bản văn tương quan với những dữ kiện không xa lạ với bản văn, tức là biến cố phục sinh và sự phong phú khôn dò của biến cố đó. Đây là đỉnh cao của việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử Israel nhằm lợi ích cho toàn thể nhân loại.

Việc đọc Sách Thánh có tính cách thiêng liêng, dù làm trong cộng đoàn hoặc riêng cá nhân, chỉ có thể khám phá ra nghĩa thiêng liêng đích thực nếu luôn nằm trong những viễn tượng này. Khi đó ta đặt ba cấp độ của thực tại trong tương quan với nhau : bản văn Kinh Thánh, mầu nhiệm vượt qua và những hoàn cảnh hiện tại của đời sống trong Thánh Thần.

Khoa chú giải thời xưa tin chắc rằng mầu nhiệm Đức Kitô là chìa khoá giúp giải thích toàn thể Sách Thánh, nên đã cố gắng tìm ra một nghĩa thiêng liêng trong những chi tiết nhỏ nhặt nhất của bản văn – chẳng hạn trong mỗi khoản luật phụng tự – bằng cách dùng những phương pháp của các Rabbi hoặc những phương pháp cảm hứng từ lối chú giải ngụ ngôn của Hy-lạp. Khoa chú giải hiện đại không thể cho loại cố gắng này một giá trị giải thích thực sự cho dù trong quá khứ lối giải thích như thế đã có lợi ích mục vụ (x. Divino afflante Spiritu, EB, số 553).

Một trong những khía cạnh có thể có của nghĩa thiêng liêng là khía cạnh tiên trưng (typologie). Người ta thường cho rằng loại này không thuộc về chính Sách Thánh, nhưng thuộc về những thực tại được Sách Thánh nói tới : Ađam tiên trưng cho Đức Kitô (x. Rm 5,14), hồng thuỷ tiên trưng cho phép thánh tẩy (1Pr 3,20-21)… Thực ra, tương quan tiên trưng thường đặt căn bản trên cách Sách Thánh dùng để miêu tả thực tại cổ xưa (x. tiếng của Aben : St 4,10; Hr 11,4; 12,24) chứ không phải thuần tuý trên chính thực tại ấy. Do đó, trong trường hợp như vậy, cũng có thể nói đó thực là một nghĩa của Sách Thánh.

3. Nghĩa sung mãn (sensus plenior)

“Nghĩa sung mãn” là một kiểu nói tương đối mới đang gây nên những tranh luận. Nghĩa sung mãn được định nghĩa là một ý nghĩa sâu xa hơn của bản văn, do Thiên Chúa muốn, nhưng không được tác giả loài người diễn tả rõ ràng. Người ta khám phá ra nghĩa này trong một bản văn Kinh Thánh, khi nghiên cứu bản văn này dưới ánh sáng của những bản văn Kinh Thánh khác đã sử dụng bản văn ấy hoặc dựa vào mối liên hệ của nó với việc phát triển nội tại của mặc khải.

Như thế, nghĩa sung mãn hoặc là ý nghĩa mà một tác giả Kinh Thánh gán cho một bản văn Kinh Thánh có trước, khi tác giả này dùng lại bản văn trong một văn mạch đem lại cho bản văn một nghĩa theo chữ mới, hoặc là ý nghĩa mà một truyền thống đạo lý đích thực hay một định tín của Công Đồng đem đến cho một bản văn Kinh Thánh. Ví dụ văn mạch của Mt 1,23 đem lại một nghĩa sung mãn cho lời sấm của Is 7,14 liên quan đến alma (người thiếu nữ) sẽ thụ thai, khi sử dụng bản dịch Bảy Mươi (parthenos) : “Người trinh nữ sẽ thụ thai”. Giáo huấn giáo phụ và công đồng về Ba Ngôi diễn tả nghĩa sung mãn của giáo huấn Tân Ước về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Định tín về tội nguyên tổ do Công Đồng Trentô đem nghĩa sung mãn cho giáo huấn của thánh Phaolô trong Rm 5,12-21 về những hậu quả của tội Ađam đối với nhân loại. Nhưng khi thiếu một sự kiểm soát thuộc loại này, nhờ một bản văn Kinh Thánh minh nhiên hoặc nhờ một truyền thống đạo lý đích thực, việc nại đến một nghĩa mà ta coi là nghĩa sung mãn sẽ có thể đưa đến những cách giải thích chủ quan hoàn toàn không có giá trị.

Tóm lại, có thể coi “nghĩa sung mãn” là một cách thế khác để gọi nghĩa thiêng liêng của một bản văn Kinh Thánh, trong trường hợp nghĩa thiêng liêng này phân biệt với nghĩa theo chữ. Nền tảng của nghĩa sung mãn này là sự kiện Chúa Thánh Thần, tác giả chính của Kinh Thánh, có thể dẫn dắt tác giả loài người lựa chọn những cách diễn tả đến độ những cách diễn tả ấy nói lên một chân lý mà chính các tác giả cũng không thấu triệt được trọn vẹn chiều sâu của nó. Chân lý này, theo dòng thời gian, được mặc khải trọn vẹn hơn, một đàng nhờ những việc Thiên Chúa thực hiện sau này biểu lộ rõ hơn tầm ý nghĩa của các bản văn, đàng khác cũng nhờ việc các bản văn được đưa vào trong Thư Qui Sách Thánh. Như thế một văn mạch mới đã được thiết lập. Văn mạch này làm xuất hiện những khả năng tiềm tàng của ý nghĩa mà văn mạch nguyên thuỷ vẫn còn để trong bóng tối.

 

PHẦN III

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA GIẢI THÍCH CÔNG GIÁO

Khoa chú giải công giáo không nhận một phương pháp khoa học nào đó làm phương pháp riêng của mình. Khoa chú giải này nhìn nhận rằng một trong những khía cạnh của các bản văn Kinh Thánh là các bản văn Kinh Thánh là tác phẩm của các tác giả nhân loại. Những tác giả này đã sử dụng những khả năng diễn tả của riêng mình cũng như những phương tiện mà thời đại và môi trường xã hội của họ đã cung cấp cho họ. Do đó, lối chú giải công giáo sử dụng một cách thoải mái mọi phương pháp và mọi lối tiếp cận khoa học khả dĩ giúp lĩnh hội rõ hơn ý nghĩa của các bản văn trong bối cảnh ngữ học, văn chương, xã hội-văn hóa, tôn giáo cácvà lịch sử của chúng, đồng thời cũng nghiên cứu các nguồn mạch của chúng và để ý đến cá tính của mỗi tác giả (x. Divino afflante Spiritu, EB, số 557). Khoa chú giải này tích cực góp phần vào việc triển khai những phương pháp mới và vào sự tiến bộ của công việc nghiên cứu.

Điểm đặc biệt của khoa chú giải công giáo là tự đặt mình một cách có ý thức vào trong truyền thống sống động của Hội Thánh, mà mối quan tâm thứ nhất của truyền thống là trung thành với mặc khải đã được Kinh Thánh ghi lại. Các lý thuyết giải thích hiện đại đã cho thấy rõ, như chúng ta đã ghi nhận, là không thể giải thích một bản văn mà không khởi đi từ một “tiền-thức” thuộc loại này hoặc loại khác. Khoa chú giải công giáo tiếp cận các tác phẩm Kinh Thánh với một tiền thức nối kết chặt chẽ văn hoá hiện đại có tính cách khoa học với truyền thống tôn giáo phát xuất từ Israel và từ cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi. Qua đó, cách giải thích công giáo tiếp nối tính năng động của việc giải thích ở ngay trong Kinh Thánh và còn kéo dài trong đời sống Hội Thánh. Cách giải thích công giáo năng động này phù hợp với yêu cầu phải có mối tương quan sống động giữa nhà chú giải với đối tượng, mối tương quan này là một trong những điều kiện để có thể có công việc chú giải.

Tuy nhiên, mọi tiền thức đều có kèm theo những nguy cơ. Trong trường hợp của khoa chú giải công giáo, nguy cơ là gán cho bản văn một ý nghĩa mà bản văn không diễn tả, nhưng là kết quả của một sự phát triển sau này của truyền thống. Nhà chú giải phải coi chừng nguy cơ này.

A. VIỆC GIẢI THÍCH TRONG TRUYỀN THỐNG KINH THÁNH

Các bản văn Kinh Thánh là cách diễn tả các truyền thống tôn giáo vốn hiện hữu trước khi có các bản văn. Các văn bản này nối kết với các truyền thống đó theo cách thức khác nhau tuỳ trường hợp, với tính sáng tạo của các tác giả bộc lộ ra ở những cấp độ khác nhau. Theo dòng thời gian, nhiều truyền thống đã dần dần hội tụ lại để tạo nên một truyền thống chung lớn hơn. Kinh Thánh là một cách biểu lộ rõ rệt nhất tiến trình này, tiến trình mà Kinh Thánh đã góp phần thực hiện và vẫn tiếp tục đóng vai trò điều hành.

“Việc giải thích trong truyền thống Kinh Thánh” có nhiều mặt khác nhau. Có thể hiểu kiểu nói đó về cách Kinh Thánh giải thích các kinh nghiệm căn bản của con người hoặc các biến cố đặc thù của lịch sử Israel, hoặc cũng có thể hiểu về cách các bản văn Kinh Thánh sử dụng các nguồn, thành văn hoặc truyền khẩu – một số nguồn đó rất có thể phát xuất từ những tôn giáo hoặc những nền văn hoá khác – bằng cách giải thích lại các nguồn đó. Nhưng vì chúng ta đang bàn về việc giải thích Kinh Thánh, nên ở đây chúng tôi sẽ không bàn đến những vấn đề mênh mông đó, mà chỉ đề nghị một vài nhận xét về cách giải thích của các bản văn Kinh Thánh trong chính Kinh Thánh.

1. Đọc lại (relecture)

Một yếu tố làm cho Kinh Thánh có được sự thống nhất bên trong, một trường hợp độc nhất vô nhị, đó chính là sự kiện các tác phẩm Kinh Thánh có sau thường lệ thuộc vào các tác phẩm có trước. Các tác phẩm sau nhắc đến những tác phẩm cổ xưa hơn, và như thế tạo nên việc “đọc lại” các tác phẩm có trước. Những cách đọc lại này khai triển thêm những khía cạnh mới của ý nghĩa, đôi khi khác hẳn ý nghĩa nguyên thuỷ. Có khi các tác phẩm có sau tham chiếu rõ rệt các tác phẩm có trước, hoặc để đào sâu thêm ý nghĩa, hoặc để xác nhận sự hoàn tất của tác phẩm trước.

Chính theo hướng đó, việc hưởng gia tài là một miền đất được Thiên Chúa hứa ban cho ông Ápraham và dòng dõi của ông (St 15,7.18) trở thành việc đi vào thánh điện của Thiên Chúa (Xh 15,17), việc tham dự vào sự nghỉ ngơi của Thiên Chúa (Tv 132, 7-8) dành cho những tín hữu đích thực (Tv 95,8-11; Hr 3,7 – 4,11) và cuối cùng là sự đi vào thánh điện thiên quốc (Hr 6,12.18-20), “gia tài vĩnh cửu” (Hr 9,15).

Lời sấm của ngôn sứ Natan hứa cho vua Đavít một “nhà”, tức là một triều đại luôn có người nối ngôi, “bền vững cho đến muôn đời” (2 Sm 7,12-16), lời sấm ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần (2 Sm 23,5; 1 V 2,4; 3,6; 1 Sb 17,11-14), nhất là vào những lúc nguy ngập (Tv 89,20-38), không phải không có những khác biệt đáng kể. Và lời sấm ấy được kéo dài bởi nhiều lời sấm khác (Tv 2,7-8; 110,1-4; Am 9,11; Is 7,13-14; Gr 23,5-6….), trong đó một số lời loan báo vương quyền của chính vua Đavít sẽ trở lại (Hs 3,5; Gr 30,9; Ed 34,24; 37, 24-25; x. Mc 11,10). Triều đại được hứa ban trở thành phổ quát (Tv 2,8; Đn 2,35.44; 7,14; x. Mt 28,18). Triều đại đó là ơn gọi của con người được thành tựu một cách sung mãn (St 1,28; Tv 8,6-9; Kn 9,2-3; 10,2).

Lời sấm của ngôn sứ Giêrêmia về hình phạt bảy mươi năm Giêrusalem và Giuđa đáng phải chịu (Gr 25,11-12; 29,10) được nhắc lại ở 2 Sb 25,20-23. Bản văn này chứng nhận lờøi sấm trên đã thành tựu, nhưng đó là bản văn đã được suy đi gẫm lại, rất lâu sau đó, bởi tác giả sách Đanien, với xác tín rằng Lời Thiên Chúa đó vẫn còn tiềm ẩn một ý nghĩa ẩn giấu, ý nghĩa này có thể chiếu soi hoàn cảnh hiện tại (Đn 9,24-27).

Quả quyết căn bản về sự thưởng phạt công bình của Thiên Chúa, thưởng người lành phạt kẻ gian ác (Tv 1,1-6; 112,1-10; Lv 25,3-33…) vấp phải kinh nghiệm trực tiếp, kinh nghiệm này thường lại không phù hợp với quả quyết ấy. Trước vấn đề này, Kinh Thánh cho ta nghe thấy những tiếng phản kháng và lý luận (Tv 44; G 10,1-7; 13,3-28; 23-24) và đào sâu dần dần mầu nhiệm này (Tv 37; G 38-42; Is 53; Kn 3 – 5).

2. Những liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước

Những liên hệ giữa các bản văn với nhau chiếm một mật độ rất cao trong các tác phẩm Tân Ước, chỗ nào cũng đầy dẫy những ám chỉ hoặc trích dẫn minh nhiên Cựu Ước. Các tác giả Tân Ước nhìn nhận Cựu Ước có giá trị mặc khải của Thiên Chúa. Các ông công bố rằng mặc khải này đã hoàn tất nơi cuộc đời, giáo huấn và nhất là cái chết và phục sinh của Đức Giêsu, nguồn mạch ơn tha thứ và sự sống vĩnh cửu. “Đức Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như lời Sách Thánh và Người đã được mai táng. Người đã phục sinh ngày thứ ba theo như lời Sách Thánh và Người đã hiện ra…” (1Cr 15,3-5) : đó là cái nhân chính yếu của lời giảng các Tông Đồ (1Cr 15,11).

Bao giờ cũng vậy, giữa Sách Thánh với các biến cố hoàn tất các lời Kinh Thánh có những mối liên hệ không phải chỉ thuần tuý ở khía cạnh chữ viết, mà là một sự soi sáng hỗ tương và tiến triển biện chứng : người ta vừa thấy Sách Thánh mặc khải ý nghĩa của các biến cố, lại vừa thấy các biến cố mặc khải ý nghĩa của Sách Thánh, nghĩa là chúng buộc phải bỏ một số khía cạnh nào đó của một lối giải thích đã được chấp nhận để nhận một lối giải thích mới.

Ngay từ lúc thi hành một sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã có một lập trường độc đáo riêng, khác với cách giải thích đã được chấp nhận ở thời đại của Người, tức là lối giải thích của “các kinh sư và Biệt phái” (Mt 5,20). Có nhiều bằng chứng cho thấy điều đó : các phản đề trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5,21-48), sự tự do cao vời của Đức Giêsu trong việc giữ ngày Sabát (Mc 2,27-28 và // ), cách Người tương đối hoá các giới luật về sự thanh sạch theo nghi thức (Mc 7,1-23 và // ). Trái lại, Người đòi hỏi triệt để trong những lãnh vực khác (Mt 10,2-12 và //; 10,17-20 và // ) và nhất là thái độ thân thiện của Người đối với “những người thu thuế và những người tội lỗi” (Mc 2,15-17 và //). Tất cả những chuyện trên không phải là do Người thích phản chứng, nhưng ngược lại cho thấy lòng trung thành sâu sa hết sức của Người đối với thánh ý Thiên Chúa được diễn tả trong Sách Thánh (x. Mt 5,17; 9,13; Mc 7,8-13 và //; 10,5-9 và // ).

Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu đã đẩy cách giải thích tuy mới mẻ nhưng còn rất giới hạn đã được Người mở đầu lên đến cực điểm, bằng cách tạo nên, xét về một số điểm nào đó, sự cắt đứt hoàn toàn với quá khứ đồng thời lại có những cửa mở ra bất ngờ. Cái chết của Đấng Mêsia, “Vua người Do-thái” (Mc 15,26 và // ) đã biến đổi mau lẹ cách giải thích các Thánh vịnh nói về vua và các lời sấm nói về Đấng Mêsia theo nghĩa hoàn toàn trần gian. Việc Đức Giêsu phục sinh và được tôn vinh làm Con Thiên Chúa trên thiên quốc đã khiến cho chính những bản văn ấy có một ý nghĩa sung mãn mà trước đó không thể tưởng tượng được. Kết quả là một số thành ngữ có vẻ ám dụ từ nay trở đi phải được hiểu sát chữ. Ra như Thiên Chúa đã chuẩn bị những thành ngữ ấy để diễn tả vinh quang của Đức Kitô Giêsu, bởi vì Đức Giêsu thực sự là “Đức Chúa” (Tv 110,1) hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này (Cv 3,36; Pl 2,10,11; Hr 1,10-12). Người là Con Thiên Chúa (Tv 2,7; Mc 14,62; Rm 1,3-4), là Thiên Chúa ở với Thiên Chúa (Tv 45,7; Hr 1,8; Ga 1,1; 20,28), “triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33; x.1Sb 17,11-14; Tv 45,7; Hr 1,8) và Người đồng thời là “tư tế vĩnh cửu” (Tv 110,4; Hr 5,6-10; 7,23-24).

Các tác giả Tân Ước đã đọc lại Cựu Ước nhờ chính ánh sáng của những biến cố trong cuộc Phục Sinh. Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Kitô vinh quang phái đến (x. Ga 15,26; 16,7), đã giúp các tác giả Tân Ước khám phá ra nghĩa thiêng liêng. Như thế các ông đã được hướng dẫn đến chỗ nhấn mạnh hơn bao giờ hết ý nghĩa ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng cũng còn tương đối hoá một cách đáng kể giá trị định chế cứu độ của nó. Quan điểm thứ hai này đã xuất hiện trong các sách Tin Mừng rồi (x. Mt 11,11-13 và //; 12,41-42 và //; Ga 4,12-14; 5,37; 6,32), quan niệm này nổi lên mạnh mẽ trong một số thư của thánh Phaolô cũng như trong thư Hípri. Thánh Phaolô và tác giả thư Hípri chứng minh rằng Torah, xét như là mặc khải, loan báo mục đích riêng của nó như là một hệ thống luật pháp (x. 2,15-5,1; Rm 3,20-21; 6,14; Hr 7,11-19; 10,8-9). Từ đó suy ra các người ngoại giáo liên kết với niềm tin vào Đức Kitô không buộc phải tuân giữ mọi giới lệnh của luật pháp Kinh Thánh, luật pháp đó từ rày mà đi đã bị giản lược, xét theo toàn bộ, vào định chế luật lệ của một dân đặc thù. Nhưng người ngoại giáo vẫn cần được nuôi dưỡng bằng Cựu Ước xét như là Lời Thiên Chúa, Đấng giúp họ khám phá sâu xa hơn mọi chiều kích của mầu nhiệm vượt qua nay đang chi phối cuộc sống của họ (x. Lc 24,25-27.44-45; Rm 1,1-2).

Tất cả những chuyện trên cũng cho thấy rằng bên trong Kinh Thánh của Kitô giáo, những mối liên hệ giữa Tân Ước với Cựu Ước không thiếu những phức tạp. Nếu đó là vấn đề sử dụng những bản văn đặc thù, các tác giả Tân Ước tự nhiên vận dụng những kiến thức và những phương thức giải thích của thời đại mình. Đòi các ông phải hợp với những phương pháp khoa học hiện đại là không thích hợp. Đúng ra, nhà chú giải phải biết những kỹ thuật chú giải cổ xưa, để có thể giải thích đúng cách các tác giả Kinh Thánh đã sử dụng phương thức đó. Đàng khác, đúng là nhà chú giải không được dành cho tri thức của con người, vốn dĩ giới hạn, một giá trị tuyệt đối.

Cuối cùng cần thêm rằng bên trong Tân Ước, cũng như đã thấy bên trong Cựu Ước, người ta thấy có những quan điểm khác nhau được xếp chung với nhau và có khi quan điểm này lại căng thẳng với quan điểm khác, chẳng hạn trường hợp của Đức Giêsu (Ga 8,29; 16,32 và Mc 15,34) hoặc giá trị của luật Môsê (Mt 5,17-19 và Rm 6,14) hoặc cần thiết phải có việc làm để được nên công chính (Gc 2,24 và Rm 3,28; Ep 2,8-9). Hiển nhiên một trong những nét đặc biệt của Kinh Thánh là thiếu tinh thần hệ thống và, trái lại, có những căng thẳng năng động. Kinh Thánh là cái kho chứa đựng nhiều cách giải thích đối với cùng những biến cố như nhau hoặc suy nghĩ cùng những vấn đề như nhau. Như thế Kinh Thánh thúc bách chúng ta từ bỏ thái độ đơn giản hoá quá đáng và óc hẹp hòi.

3. Một số kết luận

Từ những gì vừa trình bày trên, có thể kết luận rằng Kinh Thánh có nhiều chỉ dẫn và gợi ý liên quan đến nghệ thuật giải thích Kinh Thánh. Quả thật, ngay từ đầu, chính Kinh Thánh là công trình giải thích. Các bản văn Kinh Thánh đã được các cộng đoàn Cựu Ước và các cộng đoàn thời các Tông Đồ nhìn nhận là cách diễn tả đức tin của họ tuyệt vời. Hợp với cách giải thích của các cộng đoàn và liên kết với việc giải thích đó, các bản văn được nhìn nhận là Sách Thánh (chẳng hạn, sách Diễm ca được nhìn nhận là Sách Thánh, vì được áp dụng vào mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel). Suốt quá trình hình thành Kinh Thánh, các tác phẩm họp thành Kinh Thánh, trong nhiều trường hợp, đã được soạn lại và được giải thích lại, để đáp ứng với những hoàn cảnh mới mà trước đó chưa được biết đến.

Cách thức Sách Thánh giải thích các bản văn cho thấy những nhận xét sau đây :

– Xét vì Sách Thánh ra đời trên nền tảng một sự đồng thuận của các cộng đoàn tín hữu nhìn nhận bản văn ấy diễn tả đức tin được mặc khải, nên chính việc giải thích Sách Thánh phải là nguồn phát sinh sự đồng thuận về những điểm chính yếu, đối với đức tin sống động của các cộng đoàn giáo hội.

– Xét vì cách diễn tả đức tin, như thấy trong Sách Thánh được mọi người nhìn nhận, đã không ngừng được đổi mới để có thể đáp ứng với những hoàn cảnh mới – điều này giải thích những “việc đọc lại” nhiều bản văn Kinh Thánh -, nên việc giải thích Kinh Thánh cũng phải có một khía cạnh sáng tạo và phải đương đầu với những vấn đề mới, để đi từ Kinh Thánh mà đưa ra câu trả lời.

– Xét vì đôi khi có những tương quan căng thẳng giữa các bản văn Kinh Thánh với nhau, cho nên việc giải thích nhất thiết phải có tính đa dạng. Không có cách giải thích nào có thể khai thác hết ý nghĩa của toàn bộ, toàn bộ là một bản hợp xướng nhiều giọng. Vì thế, việc giải thích một bản văn phải tránh tính cách loại trừ.

Kinh Thánh đối thoại với các cộng đoàn tín hữu : Kinh Thánh xuất phát từ những truyền thống đức tin của các cộng đoàn đó. Các bản văn Kinh Thánh đã được khai triển trong tương quan với các truyền thống đó và ngược lại cũng góp phần khai triển các truyền thống đó nữa. Do đó, việc giải thích Kinh Thánh phải được thực hiện trong lòng Hội Thánh, trong tính cách đa dạng và thống nhất của Hội Thánh và trong truyền thống đức tin của Hội Thánh.

Các truyền thống đức tin là môi trường sống cho hoạt động văn chương của các tác giả Sách Thánh. Tham gia vào trong môi trường này cũng bao gồm việc tham dự vào sinh hoạt phụng vụ và hoạt động bên ngoài của các cộng đoàn, tham dự vào thế giới thiêng liêng, văn hoá và những thăng trầm trong thân phận lịch sử của các cộng đoàn. Tương tự như thế, việc giải thích Kinh Thánh cũng đòi các nhà chú giải phải tham gia vào toàn thể đời sống và toàn bộ đức tin của cộng đoàn tín hữu thời đại mình.

Việc đối thoại với Sách Thánh trong toàn bộ, và như vậy là đối thoại với cách hiểu đức tin riêng của các thời đại trước, nhất thiết phải kèm theo việc đối thoại với thế hệ đi trước. Đối thoại như thế nghĩa là thiết lập một mối tương quan liên tục, nhưng cũng còn là nhận biết những khác biệt. Do đó, việc giải thích Kinh Thánh bao gồm công việc kiểm chứng và chọn lựa. Việc giải thích này phải tiếp nối những truyền thống chú giải đã có trước, duy trì và đón nhận nhiều yếu tố trong những truyền thống đó, nhưng lại tách ra ở những điểm khác, để có thể tiến thêm nữa.

B. VIỆC GIẢI THÍCH TRONG TRUYỀN THỐNG CỦA HỘI THÁNH

Hội Thánh, Dân Thiên Chúa, ý thức mình được Chúa Thánh Thần trợ giúp để có thể hiểu và giải thích Sách Thánh. Các môn đệ tiên khởi của Đức Giêsu đã từng biết rằng họ không thể hiểu đầy đủ ngay mọi khía cạnh của kho tàng sung mãn mà họ đã đón nhận. Khi kiên trì trong đời sống cộng đoàn, họ nghiệm thấy mặc khải họ đã lãnh nhận không ngừng được đào sâu và mỗi ngày mỗi sáng tỏ thêm lên. Trong việc đó, họ nhìn nhận có ảnh hưởng và hoạt động của “Thần Chân Lý”, Đấng mà Chúa Kitô đã hứa ban cho họ để dẫn dắt họ đến sự sung mãn của chân lý (Ga 16,12-13). Tương tự như thế, Hội Thánh ngày nay đang đi tới trên con đường của mình, được lời hứa của Chúa Kitô nâng đỡ : “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).

1. Thư Qui thành hình

Nhờ Thánh Thần hướng dẫn và trong ánh sáng của Truyền Thống sống động mà Hội Thánh đã lãnh nhận, Hội Thánh đã phân định các tác phẩm nào phải được coi là Sách Thánh hiểu theo nghĩa các sách đó “đã được viết ra dưới ơn linh hứng của Thánh Thần, có Thiên Chúa là tác giả, đã được truyền lại cho Hội Thánh với tư cách đó” (Dei Verbum, số 11) và chứa đựng “chân lý mà Thiên Chúa đã muốn đặt vào trong Sách Thánh để cứu độ chúng ta” (ibid).

Sự phân định một “thư qui” Sách Thánh là kết quả của một tiến trình lâu dài. Các cộng đoàn trong Cựu Ước (từ các nhóm riêng, như các nhóm có liên quan đến giới ngôn sứ hoặc tư tế, cho đến toàn dân) đã nhìn nhận một số các bản văn là Lời của Thiên Chúa, có khả năng khơi lên đức tin của họ và dẫn dắt họ trong cuộc sống. Các cộng đoàn đó đã đón nhận các bản văn này như một gia sản cần phải gìn giữ và truyền lại. Như thế, các bản văn này thôi không còn thuần tuý là cách diễn tả ơn linh hứng của các tác giả cụ thể riêng biệt, nhưng đã trở thành sở hữu chung của toàn Dân Thiên Chúa. Tân Ước tỏ thái độ tôn kính đối với các bản văn thánh này. Tân Ước đón nhận những bản văn ấy như thể đó là một gia sản quí báu dân Do-thái truyền lại. Tân Ước coi các bản văn ấy là “ Sách Thánh” (Rm 1,2), được Thần Khí của Thiên Chúa “linh hứng” (2 Tm 3,16; x. 2 Pr 1,20-21) nên “không thể bị huỷ bỏ” (Ga 10,35).

Hội Thánh đã đem nối kết chặt chẽ với những bản văn làm thành “Cựu Ước” (x. 2 Cr 3,14), những tác phẩm khác : trước hết là những tác phẩm trong đó Hội Thánh nhìn nhận lời chứng đích thực xuất phát từ các Tông Đồ (x. Lc 1,2; 1 Ga 1,1-3) và được Chúa Thánh Thần bảo đảm (x.1 Pr 1,12) về “tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm và đã dạy” (Cv 1,1) rồi, thứ đến là những giáo huấn do chính các Tông Đồ và các môn đệ khác đã đưa ra để xây dựng cộng đoàn các tín hữu. Sau đó, hai loạt văn phẩm này được gọi là “Tân Ước”.

Có nhiều động lực góp phần vào tiến trình này : niềm xác tín cho rằng Đức Giêsu – và cùng với Người có các Tông Đồ – đã nhìn nhận Cựu Ước là Sách Thánh được linh hứng và mầu nhiệm Vượt qua của Người là sự hoàn tất Sách Thánh; niềm xác tín cho rằng các tác phẩm Tân Ước thực sự xuất phát từ lời giảng của các Tông Đồ (điều này không hàm ý là tất cả các tác phẩm đó do chính các Tông Đồ biên soạn); sự nhận định rằng các tác phẩm đó phù hợp với qui luật đức tin và chúng được sử dụng trong phụng vụ Kitô giáo; cuối cùng là kinh nghiệm về việc các tác phẩm đó hoà hợp với đời sống giáo hội của các cộng đoàn và có khả năng nuôi dưỡng đời sống đó.

Khi phân định thư qui Sách Thánh, Hội Thánh cũng phân biệt và xác định căn tính riêng của chính mình. Từ nay trở đi, Sách Thánh trở thành tấm gương để Hội Thánh soi vào mà không ngừng khám phá lại căn tính của mình cũng như kiểm chứng, qua các thế kỷ, cách Hội Thánh không ngừng đáp lại lời Tin Mừng và chuẩn bị cho mình sẵn sàng trở thành phương tiện truyền thông Tin Mừng (x. Dei Verbum, số 7). Điều đó đem lại cho các tác phẩm thuộc thư qui một giá trị cứu độ và thần học hoàn toàn khác với giá trị của các bản văn cổ khác. Nếu các bản văn cổ này có thể soi sáng cho thấy rõ nguồn gốc của đức tin, thì lại không bao giờ có thểû thay thế cho thế giá của các tác phẩm được coi là thuộc thư qui và do đó là căn bản để hiểu đức tin Kitô giáo.

2. Chú giải của các Giáo Phụ

Ngay từ những thời đầu, người ta đã hiểu rằng cùng một Thánh Thần đã thúc đẩy các tác giả Tân Ước làm cho sứ điệp cứu độ thành chữ viết (Dei Verbum, số 7; 18) cũng không ngừng trợ giúp Hội Thánh để Hội Thánh giải thích các tác phẩm linh hứng đó (x. thánh Irênê, Adv. Haer., 3.24.1; x. 3.1.1; 4.33.8; Origène, De Princ., 2.7.2.; Tertullien, De Praesc., 22).

Các Giáo phụ của Hội Thánh, những người từng giữ vai trò đặc biệt trong tiến trình thành hình thư qui, cũng đóng một vai trò nền tảng đối với truyền thống sống động, truyền thống không ngừng đồng hành và hướng dẫn việc đọc và giải thích Sách Thánh của Hội Thánh (x. Providentissimus, EB số 110-111; Divino afflante Spiritu, số 28-30, EB, số 554; Dei Verbum, số 23; PCB, Instr.de Evang. Histor., số 1). Trong dòng truyền thống vĩ đại ấy, phần đóng góp riêng biệt của lối chú giải giáo phụ hệ tại điểm này : rút từ toàn thể Sách Thánh những đường hướng căn bản giúp thành hình truyền thống đạo lý của Hội Thánh và đem lại một giáo huấn thần học phong phú để dạy dỗ và nuôi dưỡng phần thiêng liêng của các tín hữu.

Các Giáo phụ của Hội Thánh dành cho việc đọc và giải thích Kinh Thánh một vị trí đáng kể. Bằng chứng rõ rệt nhất là các tác phẩm trực tiếp giúp hiểu Sách Thánh, tức là các bài giảng và các bài chú giải, nhưng phải kể cả các tác phẩm tranh luận và thần học, trong đó lập luận chính là nại vào Kinh Thánh.

Nơi thường xuyên để đọc Kinh Thánh là thánh đường, trong phụng vụ. Đó là lý do tại sao các bài giải thích do các giáo phụ đưa ra bao giờ cũng có bản chất thần học, mục vụ và đề cập đến mối tương quan với Thiên Chúa, ích lợi cho cả cộng đoàn lẫn cá nhân các tín hữu.

Các Giáo phụ coi Kinh Thánh tiên vàn là Cuốn Sách của Thiên Chúa, tác phẩm độc nhất của một tác giả duy nhất. Nhưng không vì thế mà các ngài giản lược vai trò của các tác giả nhân loại đến độ chỉ còn là những dụng cụ thụ động. Và các ngài cũng biết cuốn sách này cuốn sách kia có mục đích đặc biệt riêngï. Nhưng kiểu tiếp cận của các ngài rất ít chú ý đến sự phát triển lịch sử của mặc khải. Nhiều Giáo phụ của Hội Thánh trình bày Logos, Lời của Thiên Chúa, như là tác giả của Cựu Ước và như thế là quả quyết rằng toàn thể Sách Thánh có ý nghĩa Kitô học.

Trừ một số nhà chú giải thuộc trường phái Antiôkhia (đặc biệt là Theodore de Mopsueste), các Giáo phụ đều thấy mình được tự do đem một câu ra ngoài văn mạch để đưa ra một chân lý do Thiên Chúa mặc khải. Trong khoa minh giáo đối lại người Do-thái hoặc trong tranh luận giáo lý với các nhà thần học khác, các ngài không ngại dựa vào loại giải thích này.

Mối quan tâm chính của các Giáo phụ là làm sao sống Kinh Thánh trong sự hiệp thông với anh chị em của mình, nên các ngài thường sử dụng bản văn Kinh Thánh thông dụng trong môi trường của mình. Yếu tố khiến giáo phụ Origène chú ý một cách có hệ thống đến bản Kinh Thánh Hípri, là vì ông lo tìm chứng cớ trong các bản văn được những người Do-thái nhìn nhận để tranh luận với người Do-thái. Khi đề cao bản Kinh Thánh Hípri, hebraica veritas, thánh Giêrônimô đã trở thành một khuôn mặt ngoại lệ.

Các Giáo phụ hơn kém năng sử dụng phương pháp ngụ ngôn, nhằm đánh tan gương mù mà một số Kitô hữu và những người ngoại giáo đối nghịch với Ki-tô giáo có thể cảm thấy khi đọc một đoạn văn Kinh Thánh này kia. Nhưng rất hiếm khi các ngài bỏ tính cách sát chữ và lịch sử của các bản văn. Việc các Giáo phụ sử dụng phương pháp giải thích ngụ ngôn thường khác xa hiện tượng thích ứng theo phương pháp ngụ ngôn của các tác giả ngoại giáo.

Việc sử dụng phương pháp ngụ ngôn cũng xuất phát từ xác tín cho rằng Kinh Thánh, cuốn sách của Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa ban tặng cho dân Người là Hội Thánh. Trên nguyên tắc, không có gì trong cuốn sách đó bị bỏ qua một bên, coi như đó là cái cổ hủ hoặc hoàn toàn vô nghĩa. Thiên Chúa gởi cho dân Kitô hữu của Người một sứ điệp luôn luôn có tính thời sự. Trong các bài giải thích Kinh Thánh, các Giáo phụ hoà lẫn và xe kết chú giải tiên trưng và giải thích ngụ ngôn một cách gần như không thể tách ra được, nhưng luôn nhằm mục đích mục vụ và sư phạm, vì xác tín rằng tất cả những gì đã được viết ra là được viết nhằm dạy dỗ chúng ta (x. 1Cr 10,11).

Xác tín rằng đó là cuốn sách của Thiên Chúa, do đó không bao giờ có thể cạn, các Giáo phụ tin rằng có thể giải thích đoạn văn này đoạn văn kia theo một lối giải thích riêng dựa trên cơ sở ngụ ngôn. Nhưng các ngài cho rằng mỗi người vẫn tự do đề nghị một cách khác, miễn là cách đó tôn trọng tích cách suy loại của đức tin.

Chú giải Sách Thánh theo hướng ngụ ngôn, đặc điểm của lối chú giải giáo phụ, có nguy cơ khiến con người hiện đại cảm thấy bỡ ngỡ. Nhưng kinh nghiệm của Hội Thánh được diễn tả trong lối chú giải này lại là một cống hiến luôn luôn hữu ích (x. Divino afflante Spiritu, số 31-32; Dei Verbum, số 23). Các Giáo phụ của Hội Thánh dạy cách đọc Kinh Thánh theo cách thần học, giữa lòng một Truyền Thống sống động, với một tinh thần Kitô giáo đích thực.

3. Vai trò của các phần tử khác nhau trong Hội Thánh đối với việc giải thích

Vì được ban cho Hội Thánh, Sách Thánh là kho tàng chung của toàn thể các tín hữu : ”Thánh Truyền và Sách Thánh làm nên một kho tàng thánh thiện độc nhất chứa đựng Lời Thiên Chúa, được trao phó cho Hội Thánh. Khi gắn bó với kho tàng đó, toàn thể dân thánh hợp nhất với các mục tử luôn bền vững trung thành với giáo huấn của các Tông Đồ…“ (Dei Verbum, số 10; x. cả số 21). Đúng là trong lịch sử Hội Thánh, đã có một số thời đại các tín hữu thân thiết với bản văn Sách Thánh một cách đáng kể hơn những thời đại khác. Nhưng Sách Thánh đã chiếm một vị trí hàng đầu ở mọi giai đoạn canh tân quan trọng trong đời sống của Hội Thánh, từ phong trào đan tu thuộc các thế kỷ đầu tiên cho tới thời Công Đồng Vaticanô mới đây.

Cũng chính Công Đồng này dạy rằng mọi người đã được chịu phép thánh tẩy, khi tham dự việc cử hành Thánh Thể (lễ Tạ ơn) với lòng tin vào Chúa Kitô, đều nhìn nhận sự hiện diện của Chúa Kitô trong lời của Người, “vì chính Người nói khi người ta đọc Sách Thánh trong Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium, số 7). Họ lắng nghe Lời này với “cảm thức đức tin (sensus fidei),, là nét đặc biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa. Nhờ cảm thức đức tin được Thần Khí sự thật khơi dậy và nâng đỡ, dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền thánh mà họ trung thành đi theo, Dân Thiên Chúa đón nhận không phải lời nói của nhân loại nhưng là chính Lời của Thiên Chúa (x. 1Tx 2,13). Họ gắn bó hoàn toàn với đức tin chỉ một lần được thông truyền cho các thánh (x. Gđ 3). Họ đào sâu đức tin cách đúng đắn và áp dụng vào cuộc sống Kitô hữu của họ một cách trọn vẹn hơn” (Lumen Gentium, 12).

Như thế mọi phần tử trong Hội Thánh đều có một vai trò trong việc giải thích Kinh Thánh. Khi thi hành tác vụ mục tử, các Giám mục, vì là những người kế vị các Tông Đồ, phải là những chứng nhân đầu tiên và là những người đảm bảo truyền thống sống động trong đó Sách Thánh được giải thích ở mỗi thời đại. “Được Thánh Thần chân lý soi sáng, các ngài phải trung thành gìn giữ Lời Thiên Chúa, phải giải thích và phổ biến Lời Thiên Chúa bằng lời giảng của các ngài” (Dei Verbum, số 9; Lumen Gentium , số 25). Vì là những cộng tác viên của các giám mục, các linh mục có nhiệm vụ trước tiên là phải công bố Lời Chúa (Presbyterorum Ordinis, số 4). Các ngài được ban tặng một đặc sủng để giải thích Sách Thánh khi các ngài áp dụng chân lý vĩnh cửu của Tin Mừng vào các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống bằng cách thông truyền không phải những tư tưởng cá nhân của mình mà là Lời Thiên Chúa (ibid.). Các linh mục và các phó tế có nhiệm vụ, nhất là khi cử hành bí tích, nêu rõ sự thống nhất do Lời Chúa và bí tích tạo nên trong tác vụ của Hội Thánh.

Vì là những người chủ toạ cộng đoàn Thánh Thể và là những người giáo dục đức tin, các thừa tác viên Lời Chúa có nhiệm vụ chính yếu, không phải chỉ đơn thuần là chia sẻ một giáo huấn, nhưng còn phải giúp các tín hữu nghe và nhận biết những gì Lời Thiên Chúa ngỏ với tâm hồn họ khi họ nghe đọc và suy niệm Sách Thánh. Như thế, Hội Thánh địa phương, xét như một toàn thể, theo khuôn mẫu của Israel, Dân của Thiên Chúa (Xh 19,5-6), trở thành một cộng đoàn ý thức rằng Thiên Chúa đang nói với mình (x. Ga 6,45) và mau mắn nghe Lời Chúa với lòng tin, lòng mến và tinh thần ngoan ngoãn đối với Lời Chúa (Đnl 6,4-6). Những cộng đoàn thực sự biết lắng nghe như thế trở thành những trung tâm mạnh mẽ loan báo Tin Mừng và đối thoại trong môi trường riêng của mình, cũng như trở thành những tác nhân giúp biến đổi xã hội, với điều kiện là phải luôn hiệp nhất trong đức tin và lòng mến với toàn thể Hội Thánh (Evangelii nuntiandi, số 57-58; CDF, Instruction sur la liberté chrétienne et la libération, số 69-70).

Dĩ Thánh Thần cũng được ban ơn cho cá nhân các Ki-tô hữu làm sao để lòng họ có thể bừng cháy (x. Lc 24,32) khi họ cầu nguyện và học hỏi Sách Thánh với tinh thần cầu nguyện trong bối cảnh đời sống cá nhân của họ. Chính vì thế, Công Đồng Vaticanô II đã khẩn khoản yêu cầu làm sao để bằng bất cứ cách nào có thể, các Kitô hữu đến được với Kinh Thánh một cách dễ dàng (Dei Verbum, số 22; 25). Cần phải chú ý là lối đọc này không bao giờ hoàn toàn có tính cách riêng tư, vì người tín hữu luôn luôn đọc và giải thích Sách Thánh trong lòng tin của Hội Thánh và rồi mang lại cho cộng đoàn hoa trái do việc đọc của mình để làm cho niềm tin chung thêm phong phú.

Toàn thể truyền thống Kinh Thánh và, một cách đặc biệt, giáo huấn của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng nêu lên cho thấy những người mà thế gian coi là những người hèn mọn lại là những thính giả ưu tuyển của Lời Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nhìn nhận rằng những điều bị che giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan biết thì lại được mặc khải ra cho những người đơn sơ (Mt 11,25; Lc 10,21) và Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như các em nhỏ (Mc 10,14 và //).

Tương tự như thế, Đức Giêsu đã công bố : “Phúc thay, anh em là những người nghèo, bởi vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20; x. Mt 5,3). Một trong số các dấu chỉ của thời đại Đấng Mêsia là việc công bố Tin Mừng cho những người nghèo (Lc 4,18; 7,22; Mt 11,5; x. CDF, Instruction sur la liberté chrétienne et la libération, số 47-48). Những người vì yếu thế và thiếu thốn những phương tiện nhân loại cảm thấy bị đẩy đến chỗ chỉ còn đặt hy vọng độc nhất nơi Thiên Chúa và sự công chính của Người, là những người có một khả năng lắng nghe và giải thích Lời Thiên Chúa mà toàn thể Hội Thánh phải lưu ý và phải có một câu trả lời trên bình diện xã hội.

Khi nhìn nhận những ơn huệ và chức năng khác biệt mà Thánh Thần ban để phục vụ cộng đoàn, nhất là ơn giảng dạy (1 Cr 12,28-30; Rm 12,6-7; Ep 4,11-16), Hội Thánh tỏ lòng trân trọng đối với những người tỏ ra có một khả năng riêng biệt để góp phần vào việc kiến tạo Thân Thể Chúa Kitô qua lãnh vực chuyên môn về việc giải thích Sách Thánh (Divino afflante Spiritu, số 46-48, EB, số 564-565; Dei Verbum, số 23; PCB, Instruction sur l’historicité des Evangiles, Dẫn nhập). Dầu công lao vất vả của các nhà chú giải không phải lúc nào cũng được khích lệ như hiện nay, họ đem sự hiểu biết của mình phục vụ Hội Thánh và ở trong truyền thống phong phú trải dài từ các thế kỷ đầu, với ông Origène và thánh Giêrônimô, cho tới những thời mới đây, với cha M. J. Lagrange và những người khác, và kéo dài cho tới ngày nay. Đặc biệt, việc tìm nghĩa theo chữ của Kinh Thánh, một điều ngày nay đang được nhấn mạnh nhiều, đòi hỏi những nỗ lựïc kết hợp của những người có khả năng chuyên môn về lãnh vực ngôn ngữ cổ, sử học và văn hoá, hiệu đính văn bản và phân tích các hình thức văn chương, và biết sử dụng các phương pháp phê bình khoa học. Ngoài việc chú ý đến bản văn trong bối cảnh nguyên thuỷ như vừa nói, Hội Thánh còn tin tưởng vào các nhà chú giải được thúc đẩy bởi cũng một Thánh Thần, Đấng đã linh hứng Sách Thánh, để bảo đảm rằng “một số đông hết sức những người phục vụ Lời Thiên Chúa có khả năng cung cấp lương thực Sách Thánh một cách hiệu quả cho Dân Thiên Chúa” (Divino afflante Spiritu, số 24; 53-55; EB, số 551, 567; Dei Verbum, số 23; Phaolô VI, Sedula Cura (1971). Một lý do đặc biệt phấn khởi cho thời đại chúng ta là ngày càng có nhiều nhà chú giải nữ. Họ nhiều khi đóng góp cho việc chú giải Sách Thánh những quan điểm mới và sâu sắc, đồng thời khám phá lại những khía cạnh đã từng bị quên lãng.

Nếu Sách Thánh, như đã nói trên, là tài sản của toàn thể Hội Thánh và là thành phần của “gia tài đức tin” mà mọi người, mục tử cũng như tín hữu, phải “bảo tồn, tuyên xưng và đem ra thực hành bằng một nỗ lực chung”, thì một điều vẫn đúng là “trách nhiệm giải thích một cách đích thực Lời Thiên Chúa, được Sách Thánh và Truyền Thống truyền lại, đã được giao phó cho một mình Huấn Quyền sống động của Hội Thánh mà thôi, Huấn Quyền đó hành sử quyền hành nhân danh Đức Giêsu Kitô” (Dei Verbum, số 10). Như thế, cuối cùng, chính Huấn Quyền có trách nhiệm bảo đảm tính đích thực của việc giải thích và, chỉ cho thấy, nếu trường hợp xảy ra, rằng cách giải thích nào đó là không dung hợp được với Tin Mừng đích thực. Huấn Quyền chu toàn trách nhiệm này trong koinonia (sự hiệp thông) của Nhiệm Thể, khi chính thức diễn tả đức tin của Hội Thánh, để phục vụ Hội Thánh. Để đạt mục tiêu đó, Huấn Quyền tham khảo các nhà thần học, các nhà chú giải và các nhà chuyên môn khác mà Huấn Quyền nhìn nhận sự tự do chính đáng của họ và Huấn Quyền vẫn liên kết với họ bằng một mối quan hệ hỗ tương nhằm mục đích chung là “gìn giữ dân của Thiên Chúa trong chân lý, chân lý làm cho họ được tự do” (CDF, Instruction sur la vocation écclesiale du théologien, số 21).

C. NHIỆM VỤ CỦA NHÀ CHÚ GIẢI

Nhiệm vụ của các nhà chú giải công giáo gồm nhiều khía cạnh. Đó là một nhiệm vụ của Hội Thánh, vì nó hệ tại việc nghiên cứu và giải thích Sách Thánh làm sao hữu ích cho các mục tử và các tín hữu. Nhưng đồng thời đó cũng là một bổn phận khoa học khiến cho nhà chú giải công giáo phải liên hệ với các đồng nghiệp không công giáo và với nhiều nhóm nghiên cứu khoa học. Đàng khác, nhiệm vụ này vừa bao gồm việc nghiên cứu lại vừa bao gồm việc dạy dỗ. Cả hai việc này bình thường đưa đến việc xuất bản.

1. Những đường hướng chính

Khi thi hành nhiệm vụ của mình, các nhà chú giải công giáo phải để ý đến tính cách lịch sử của mặc khải Kinh Thánh. Vì hai giao ước đều diễn tả, bằng những lời nói của con người và mang dấu ấn thời đại của nó, mặc khải có tính cách lịch sử mà Thiên Chúa đã thực hiện bằng nhiều cách khác nhau để bộc lộ chính Người và kế hoạch cứu độ của Người. Do đó, các nhà chú giải phải sử dụng phương pháp phê bình-lịch sử. Nhưng các nhà chú giải không được cho các phương pháp ấy là tuyệt đối. Mọi phương pháp thích đáng để giải thích các bản văn đều có khả năng đóng góp cho việc chú giải Kinh Thánh.

Trong việc giải thích, các nhà chú giải công giáo không bao giờ được quên rằng những gì mình đang giải thích là Lời của Thiên Chúa. Nhiệm vụ chung của họ không kết thúc khi họ đã phân biệt được các nguồn, xác định được những hình thức hoặc giải thích được những phương thức văn chương. Công việc họ làm chỉ đạt tới đích khi họ đã giải được ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh xét như Lời của Thiên Chúa cho ngày hôm nay. Muốn đạt mục đích ấy, họ phải xem xét các viễn tượng giải thích khác nhau khả dĩ giúp họ nhận ra ý nghĩa hiện đại của sứ điệp Kinh Thánh và làm cho sứ điệp ấy có thể giải đáp những nhu cầu của người đọc Kinh Thánh ngày hôm nay.

Các nhà chú giải cũng phải cắt nghĩa tầm quan trọng về Kitô học, thư qui và giáo hội học của các bản văn Kinh Thánh.

Tầm quan trọng về Kitô học của các bản văn Kinh Thánh không phải lúc nào cũng rõ rệt, cần phải nêu bật lên mỗi khi có thể. Dầu Đức Kitô đã thiết lập Giao Ước mới trong Máu của Người, các sách thuộc Giao Ước Thứ Nhất vẫn không mất đi giá trị của chúng. Vì được tiếp nhận vào trong lời công bố của Tin Mừng, các sách đó có và biểu lộ ý nghĩa trọn vẹn của chúng trong “Mầu nhiệm Chúa Kitô” (Ep 3,4), Các sách đó cũng soi sáng nhiều khía cạnh của mầu nhiệm ấy, trong khi lại được mầu nhiệm ấy soi sáng cho. Quả thật, các sách này đã chuẩn bị Dân Thiên Chúa đón Người đến (x. Dei Verbum, 14-16).

Dầu mỗi cuốn sách trong bộ Kinh Thánh đã được viết ra nhằm một mục đích rõ rệt và có ý nghĩa đặc biệt riêng, nó vẫn mang một ý nghĩa sâu xa hơn khi nó trở thành một phần của toàn bộ thư qui. Vì thế, nhiệm vụ của các nhà chú giải bao hàm việc trình bày chân lý của câu châm ngôn của thánh Augustinô : “Novum Testamentum in Vetere latet, et in Novo Vetus patet” (Tân Ước ẩn trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước, x. Quaest. in Hept., 2, 73, CSEL 28, III, 3, p. 141).

Các nhà chú giải cũng phải cắt nghĩa mối tương quan giữa Kinh Thánh với Hội Thánh. Kinh Thánh đã ra đời trong các cộng đoàn tín hữu. Kinh Thánh diễn tả niềm tin của Israel, rồi niềm tin của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Được nối kết vào Truyền Thống sống động có trước Kinh Thánh, đồng hành với Kinh Thánh và được nuôi dưỡng nhờ Kinh Thánh (x. Dei Verbum, số 21), Kinh Thánh là phương tiện ưu việt Thiên Chúa dùng để hướng dẫn, ngay cả bây giờ nữa, việc kiến tạo và làm tăng trưởng Hội Thánh xét như là Dân Thiên Chúa. Hướng mở đại kết cũng không thể tách khỏi chiều kích Hội Thánh này.

Hơn nữa, vì Kinh Thánh nói đến việc Thiên Chúa tặng ban ơn cứu độ cho mọi người, nên nhiệm vụ chú giải bao gồm một chiều kích phổ quát, nghĩa là phải chú ý tới các tôn giáo khác và những nỗi niềm hy vọng của thế giới hôm nay.

2. Công việc nghiên cứu

Nhiệm vụ chú giải quá mênh mông, không thể đạt kết quả hoàn toàn mà chỉ do cố gắng của một cá nhân. Cần có sự phân công tác, nhất là đối với việc nghiên cứu, một công việc đòi phải có những nhà chuyên môn về nhiều lãnh vực khác nhau. Sẽ tránh được hững bất tiện có thể có do việc chuyên môn hoá nếu có nỗ lực cộng tác giữa các bộ môn với nhau.

Một điều tối quan trọng đối với lợi ích của toàn thể Hội Thánh cũng như đối với ảnh hưởng của Hội Thánh trong thế giới hiện đại, đó là cần có một túc số những người được huấn luyện chu đáo dấn thân vào công việc nghiên cứu trong những lãnh vực khác nhau thuộc khoa chú giải. Vì quá quan tâm đến những nhu cầu trực tiếp hơn thuộc tác vụ, các giám mục và các bề trên dòng tu thường bị cám dỗ không đánh giá đủ nghiêm túc trách nhiệm của mình là cung cấp cho nhu cầu căn bản này. Nhưng sự thiếu thốn về lãnh vực này đưa Hội Thánh đến chỗ thiệt hại trầm trọng hơn, vì các mục tử và các tín hữu khi đó liều mình rơi vào tình trạng phó mặc cho một thứ khoa học chú giải xa lạ với Hội Thánh và thiếu tương quan với đời sống đức tin. Khi tuyên bố rằng “việc nghiên cứu Sách Thánh” phải là “như thể hồn của Thần học” (Dei Verbum, số 24), Công Đồng Vaticanô II đã nêu lên tầm quan trọng to lớn của công việc nghiên cứu về chú giải. Đồng thời, Công Đồng cũng ngầm nhắc cho các nhà chú giải công giáo nhớ rằng những việc nghiên cứu của họ có một mối tương quan thiết yếu với thần học, họ phải ý thức rõ về mối tương quan thiết yếu đó.

3. Dạy

Lời tuyên bố của Công Đồng cũng bao gồm cả vai trò căn bản của việc dạy khoa chú giải trong các phân khoa Thần học, các Đại chủng viện và các Học viện của các dòng tu. Đương nhiên các trường hợp khác nhau trên đây không có cùng một cấp độ nghiên cứu như nhau. Điều đáng mong ước đó là việc dạy khoa chú giải được cả những người nam lẫn những người nữ đảm nhận. Trong các phân khoa, việc dạy này có tính cách chuyên môn nhiều hơn, còn ở các chủng viện thì lại có khuynh hướng mục vụ trực tiếp hơn. Nhưng không bao giờ được thiếu chiều kích trí thức nghiêm túc. Làm khác đi là tỏ ra thiếu kính trọng Lời Thiên Chúa.

Các giáo sư dạy môn chú giải phải thông truyền cho sinh viên thái độ trọng kính sâu xa đối với Sách Thánh, bằng cách cho họ thấy Kinh Thánh đáng được nghiên cứu cẩn thận và khách quan như thế nào, và việc nghiên cứu khách quan giúp cho đánh giá trị văn chương, lịch sử, xã hội và Thần học của Sách Thánh đúng đắn hơn như thế nào. Các giáo sư không được bằng lòng với việc truyền thụ một loạt các kiến thức cần ghi chép một cách thụ động, nhưng phải dẫn sinh viên đi vào các phương pháp chú giải, bằng cách giải thích những bước chính của phương pháp nhằm giúp sinh viên có thể có phán đoán của riêng cá nhân. Vì thời gian có hạn, cần phải luân phiên sử dụng hai cách giảng dạy : một đàng trình bày tổng hợp nhằm đưa sinh viên vào việc nghiên cứu toàn thể các sách Kinh Thánh mà không bỏ qua một phần quan trọng nào của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Đàng khác, phân tích sâu một số bản văn được lựa chọn kỹ lưỡng, nhằm đồng thời đưa sinh viên vào việc thực hành chú giảiù. Trong cả hai trường hợp, cần phải chú ý tránh lối tiếp cận một chiều, nghĩa là đừng giới hạn ở lối bình luận thiên về thiêng liêng mà thiếu nền tảng phê bình-lịch sử, và cũng đừng giới hạn ở việc bình luận phê bình-lịch sử mà thiếu mất nội dung đạo lý và thiêng liêng (x. Divino afflante Spiritu, EB, số 551-552; PCB, De Sacra Scriptura recte docenda, EB, số 598). Việc dạy phải vừa chứng minh được gốc rễ lịch sử của các tác phẩm Kinh Thánh, cách thức các tác phẩm đó làm thành lời của chính Cha trên trời đang đem lòng thương yêu ngỏ lời với con cái của Người (x. Dei Verbum, 21), vừa chứng minh được vai trò không thể thiếu của Kinh Thánh trong tác vụ mục vụ (x. 2 Tm 3,16).

4. Xuất bản

Xét như là kết quả của việc nghiên cứu và bổ túc cho việc giảng dạy, việc và xuất bản có một vai trò rất quan trọng đối với sự tiến bộ và việc truyền bá công trình chú giải. Ngày nay, việc xuất bản không còn chỉ được thực hiện bằng những bản văn in, nhưng còn bằng nhiều phương tiện truyền thông khác, nhanh hơn, mạnh hơn (truyền thanh, truyền hình, các kỹ thuật điện tử khác). Học cách sử dụng các phương tiện ấy là điều rất hữu ích.

Đối với những người dấn thân vào công việc nghiên cứu, việc xuất bản ở trình độ khoa học cao là những phương thế chính yếu của việc đối thoại, tranh luận và cộng tác. Nhờ đó, khoa chú giải công giáo có thể duy trì được mối quan hệ hỗ tương với nhiều lĩnh vực nghiên cứu chú giải khác cũng như với giới học giả nói chung.

Có một hình thức xuất bản khác, tự bản chất ngắn hạn hơn, đó là những việc xuất bản phục vụ rất nhiều bằng cách thích ứng với nhiều loại độc giả khác nhau, từ công chúng có học cho tới các em đang học giáo lý, qua các nhóm Kinh Thánh, các phong trào tông đồ và các dòng tu. Các nhà chú giải có thiên phú về việc phổ biến cho đại chúng đem lại một công trình hữu ích và phong phú, không thể thiếu, nếu muốn cho những cố gắng nghiên cứu chú giải được lan rộng. Trong lãnh vực này, nhu cầu làm cho sứ điệp Kinh Thánh hiện tại hoá càng ngày càng tỏ ra cấp thiết hơn. Điều đó đòi hỏi các nhà chú giải phải chú ý đến những yêu cầu chính đáng của những người có học, có văn hoá trong thời đại chúng ta và giúp họ phân biệt rõ ràng cái gì cần được coi là chi tiết phụ thuộc, do hoàn cảnh của thời đại, cái gì cần phải giải thích như thể đó là ngôn ngữ huyền thoại và cái gì cần phải trân trọng như là nghĩa lịch sử đích thực và được linh hứng. Các tác phẩm Kinh Thánh đã không được biên soạn bằng ngôn ngữ hiện đại, cũng không theo văn phong của thế kỷ XX. Vì thế, phải làm sao cho các hình thức diễn tả và các thể văn được dùng trong các bản văn Hípri, Aram hoặc Hy-lạp trở thành khả dĩ hiểu được đối với những người nam nữ đang sống trong thời đại hôm nay, những người mà nếu làm khác đi, có lẽ họ sẽ bị cám dỗ hoặc không thích thú Kinh Thánh nữa, hoặc giải thích Kinh Thánh một cách dễ dãi : cứ chữ hoặc đơn giản là tưởng tượng ra.

Trong tất cả các nhiệm vụ khác nhau này, nhà chú giải công giáo không nhằm mục đích nào khác ngoài việc phục vụ Lời Thiên Chúa. Tham vọng của nhà chú giải không phải là đem những kết quả do nỗ lực của mình thay thế cho các bản văn Kinh Thánh, cho dù đó có là nỗ lực tái lập lại những tài liệu cổ đã được các tác giả linh hứng sử dụng hoặc là nỗ lực trình bày cập nhật hoá những kết luận mới nhất của khoa chú giải. Trái lại, tham vọng của nhà chú giải phải là làm cho chính các bản văn Kinh Thánh sáng tỏ nhiều hơn nữa, bằng cách giúp cho các bản văn đó được người ta trân trọng nhiều hơn và được hiểu càng ngày càng chính xác hơn về lịch sử và chiều sâu thiêng liêng.

D. NHỮNG LIÊN HỆ VỚI CÁC MÔN THẦN HỌC KHÁC

Vì chính môn chú giải cũng là một môn thần học, “fides quaerens intellectum” (đức tin tìm kiếm trí hiểu), nên khoa chú giải cũng có những mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp đối với các môn thần học khác. Thật vậy, một đàng thần học hệ thống có ảnh hưởng đối với tiền thức (pré-compréhension) nhờ đó các nhà chú giải tiếp cận các bản văn Kinh Thánh. Nhưng đàng khác khoa chú giải lại cung cấp các dữ kiện nền tảng cho các môn thần học khác. Vì thế, phải thiết lập những liên hệ đối thoại giữa môn chú giải với các môn thần học khác, trong tinh thần tôn trọng tính chuyên môn của mỗi bên.

1. Thần học và tiền thức liên quan đến các bản văn Kinh Thánh

Khi tiếp cận các tác phẩm Kinh Thánh, các nhà chú giải nhất thiết phải có một tiền thức (pré-compréhension). Trong trường hợp nhà chú giải công giáo, đó là vấn đề về những giả định trước đặt căn bản trên những sự chắc chắn của đức tin : Kinh Thánh là một bản văn được Thiên Chúa linh hứng và được trao cho Hội Thánh để nuôi dưỡng đức tin và hướng dẫn đời sống Kitô hữu. Những sự chắc chắn về đức tin đó không đến với nhà chú giải trong trạng thái thô sơ, nhưng sau khi đã được khai triển trong cộng đoàn Hội Thánh qua tiến trình suy tư thần học. Vì thế, các nhà chú giải được định hướng trong nỗ lực nghiên cứu của mình nhờ suy tư của các nhà thần học hệ thống về ơn linh hứng của Sách Thánh và về chức năng của Sách Thánh trong đời sống Hội Thánh.

Nhưng đối lại, công trình của các nhà chú giải về các bản văn linh hứng đem lại cho họ một kinh nghiệm mà các nhà thần học hệ thống phải lưu ý đến khi tìm cách cắt nghĩa rõ hơn thần học về ơn linh hứng Sách Thánh và việc giải thích Kinh Thánh trong Hội Thánh. Nhất là việc chú giải khơi lên một ý thức sống động và rõ rệt hơn về tính cách lịch sử của ơn linh hứng Kinh Thánh. Việc chú giải cho thấy rằng tiến trình của ơn linh hứng có tính cách lịch sử, không phải vì ơn linh hứng đã có được một vị trí trong dòng lịch sử của Israel và của Hội Thánh tiên khởi, mà còn vì được thành tựu qua trung gian của những con người nhân loại, tất cả đều mang dấu ấn của thời đại mình và tất cả, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, đều đóng một vai trò tích cực trong đời sống của Dân Thiên Chúa.

Hơn nữa, quả quyết của thần học về mối liên hệ chặt chẽ giữa Sách Thánh và Truyền Thống của Hội Thánh còn được xác nhận và làm rõ nhờ tiến bộ của việc nghiên cứu chú giải, việc này đã khiến các nhà chú giải càng ngày càng chú ý đến ảnh hưởng, đối với các bản văn, của môi trường sống (“Sitz im Leben”), trong đó các bản văn đã thành hình.

2. Chú giải và thần học tín lý

Dẫu không phải là uyên nguyên thần học độc nhất, Kinh Thánh vẫn là nền tảng ưu việt của các nghiên cứu thần học. Muốn giải thích Kinh Thánh cho chính xác, khoa học và rõ ràng, các nhà thần học cần đến công việc của các nhà chú giải. Về phần mình, các nhà chú giải phải hướng việc nghiên cứu của mình sao cho “việc nghiên cứu Sách Thánh” có thể thực sự thành “như thể hồn của Thần học” (Dei Verbum, số 24). Muốn đạt được hiệu quả đó, các nhà chú giải cần phải đặc biệt chú ý đến nội dung tôn giáo của các tác phẩm Kinh Thánh.

Các nhà chú giải có thể giúp các nhà thần học tín lý tránh được hai thái cực này : một đàng là thứ nhị nguyên tách rời hẳn một chân lý tín lý ra khỏi cách diễn tả ngữ học, bị coi là không quan trọng, đàng khác đó là thứ bảo thủ lẫn lộn cái thuộc về con người với cái thuộc về linh thiêng, thậm chí cả những khía cạnh bất tất trong cách diễn tả của con người cũng được coi là chân lý mặc khải.

Muốn tránh hai thái cực trên, cần phân biệt mà không tách rời, và như thế là chấp nhận, một sự căng thẳng dằng dai. Lời của Thiên Chúa được diễn tả trong tác phẩm của các tác giả nhân loại. Các tư tưởng và từ ngữ đồng thời là của Thiên Chúa và của con người, đến nỗi chỗ nào trong Kinh Thánh cũng đều là của Thiên Chúa và của tác giả được linh hứng. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là Thiên Chúa đã dành cho hoàn cảnh lịch sử của sứ điệp của Người một giá trị tuyệt đối. Sứ điệp này vừa có thể được giải thích vừa có thể đươc cập nhật hoá, nghĩa là được tách rời, ít là phần nào, ra khỏi những hoàn cành lịch sử thuộc quá khứ, để đem vào trong những hoàn cảnh lịch sử hiện tại. Nhà chú giải là người thiết lập những nền tảng cho hoạt động này, nhà thần học tiếp nối bằng cách chú ý đến những uyên nguyên thần học khác góp phần vào sự phát triển của tín điều.

3. Chú giải và thần học luân lý

Có thể áp dụng những nhận xét tương tự vào mối liên hệ giữa chú giải với thần học luân lý. Kinh Thánh nối kết chặt chẽ nhiều giáo huấn về thái độ sống cần phải có – các giới răn, các lệnh cấm, các chỉ thị luật pháp, các lời khuyên nhủ và cáo giác, những lời khuyên của các hiền nhân – với những trình thuật liên quan đến lịch sử cứu độ. Một trong những nhiệm vụ của khoa chú giải là dọn đường cho công việc của các nhà luân lý bằng cách xác định tầm quan trọng của những chất liệu phong phú này.

Nhiệm vụ này không đơn giản, vì thường các bản văn Kinh Thánh không quan tâm đến việc làm sao phân biệt các nguyên tắc luân lý phổ quát, các chỉ thị về sự thanh sạch theo nghi thức, với những chỉ thị luật pháp đặc thù. Tất cả đều được hoà lẫn với nhau. Đàng khác, Kinh Thánh phản ánh một sự chuyển biến đáng kể về luân lý, sự chuyển biến này lên đến chỗ thành toàn trong Tân Ước. Vì thế, một lập trường nào đó về luân lý được chứng thực trong Cựu Ước (như thói bắt người làm nô lệ hoặc ly dị, hay việc tận diệt trong chiến tranh chẳng hạn), không đủ để cho lập trường này tiếp tục còn giá trị. Cần phải có tiến trình phân biệt. Tiến trình này duyệt lại vấn đề dựa theo sự tiến bộ của ý thức luân lý và sự nhạy cảm đã xuất hiện theo dòng thời gian. Các tác phẩm Cựu Ước chứa đựng một số yếu tố “bất toàn và nhất thời” (Dei Verbum, số 15) mà khoa sư phạm của Thiên Chúa đã không thể loại đi ngay được. Chính Tân Ước không cũng dễ giải thích trong lãnh vực luân lý, vì thường Tân Ước diễn tả một cách bóng bẩy, hoặc ngược đời, hay thậm chí có tính cách gợi ý. Hơn nữa, trong địa hạt Tân Ước, mối liên hệ giữa các Kitô hữu với Luật Do-thái cũng là đề tài tranh luận gay gắt.

Vì thế, các nhà thần học luân lý buộc phải đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề quan trọng. Những vấn đề này sẽ kích thích sự tìm tòi của các nhà chú giải. Trong nhiều trường hợp, câu giải đáp có thể làø chẳng có bản văn Kinh Thánh nào nói rõ về vấn đề được nêu lên. Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, chứng tá của Kinh Thánh, hiểu trong tính năng động mạnh mẽ chi phối toàn bộ, chắc chắn sẽ giúp xác định một hướng đi phong phú. Đối với những điểm quan trọng nhất, những nguyên tắc luân lý trong Thập giới vẫn là căn bản. Cựu Ước đã chứa đựng những nguyên tắc và những giá trị chi phối cách hành động hoàn toàn phù hợp với phẩm giá con người, con người đã được sáng tạo theo “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,27). Tân Ước soi sáng trọn vẹn những nguyên tắc và những giá trị này, qua mặc khải của tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô.

4. Những quan điểm khác nhau và sự cần thiết phải phối hợp hành động

Trong văn kiện năm 1988 về việc giải thích các tín điều, Uỷ Ban Thần Học Quốc tế đã nhắc nhở rằng một cuộc xung đột đã bùng nổ trong thời gian gần đây giữa khoa chú giải công giáo với thần học tín lý. Tiếp theo, Uỷ Ban nhận xét về những đóng góp tích cực của khoa chú giải hiện đại cho thần học hệ thống (L’interprétation des dogmes, 1988, C.I,2). Muốn rõ hơn, cần thêm rằng cuộc xung đột đó do lối chú giải tự do gây nên. Giữa lối chú giải công giáo với thần học hệ thống không có xung đột, hiểu theo nghĩa tổng quát, nhưng chỉ có một số lúc thật căng thẳng. Tuy nhiên, quả thật là căng thẳng có thể thoái hoá và trở thành xung đột, nếu như bên này hoặc bên kia, những quan điểm khác biệt, nhưng tự nó hoàn toàn chính đáng, trở thành cứng nhắc đến độ thực sự trở thành những đối chọi không thể hoà giải được nữa.

Quả thật, quan điểm của cả hai môn có khác và phải khác. Nhiệm vụ hàng đầu của khoa chú giải là phân biệt rõ ý nghĩa của các bản văn Kinh Thánh trong văn mạch riêng của nó, tức là trước tiên trong văn mạch văn chương và lịch sử đặc thù, kế đó trong văn mạch rộng hơn của Thư Qui Sách Thánh. Trong khi hoàn thành nhiệm vụ này, nhà chú giải làm nổi ý nghĩa thần học của các bản văn, khi các bản văn này có một ý nghĩa như thế. Một mối tương quan liên tục như thế trở thành khả dĩ giữa chú giải với suy tư thần học xa hơn. Nhưng quan điểm không giống nhau, vì nhiệm vụ của nhà chú giải có tính cách căn bản lịch sử và miêu tả đồng thời giới hạn ở việc giải thích Kinh Thánh.

Còn nhà thần học có vai trò mang tính chất suy lý và hệ thống hơn. Vì lẽ đó, nhà thần học thực sự chỉ quan tâm đến một số bản văn nào đó và một số khía cạnh nào đó của Kinh Thánh. Đàng khác nhà thần học chú ý đến nhiều dữ kiện khác không thuộc về Kinh Thánh – các văn phẩm giáo phụ, các định tín của các Công Đồng, các văn kiện khác của Huấn Quyền, phụng vụ – cũng như những hệ thống triết lý và bối cảnh văn hoá, xã hội và chính trị của thế giới đương thời. Nhiệm vụ của nhà thần học không phải đơn thuần là giải thích Kinh Thánh, nhưng nhắm trình bày một sự hiểu biết hoàn toàn có suy nghĩ cách suy tư về đức tin Ki-tô giáo trong mọi chiều kích và nhất là trong mối tương quan quyết định của đức tin với cuộc sống con người.

Vì theo hướng suy lý và hệ thống, thần học thường dễ thua chước cám dỗ coi Kinh Thánh như một kho chứa những lời để minh chứng (dicta probantia) nhằm xác quyết những chủ đề tín lý. Ngày nay, các nhà tín lý đã ý thức rõ hơn về tầm quan trọng của văn mạch văn chương và lịch sử trong việc giải thích đúng đắn các bản văn cổ và họ sẵn sàng cộng tác làm việc với các nhà chú giải nhiều hơn.

Xét như Lời Thiên Chúa được viết ra, Kinh Thánh có một kho tàng phong phú về ý nghĩa mà không một hệ thống thần học nào có thể hoàn toàn nắm bắt hoặc giam hãm. Một trong những chức năng chính yếu của Kinh Thánh là đưa ra những thách đố nghiêm túc cho các hệ thống thần học và không ngừng nhắc nhở về việc có khía cạnh quan trọng trong mặc khải của Thiên Chúa và trong thực tại con người mà đôi khi bị quên lãng hay bị lơ là trong những nỗ lực suy tư có hệ thống. Sự canh tân của phương pháp học chú giải có thể đóng góp vào sự cảnh giác này.

Đối lại, khoa chú giải cần phải để cho việc nghiên cứu soi sáng cho. Nghiên cứu thần học sẽ kích thích khoa chú giải đặt cho các bản văn những vấn đề quan trọng và khám phá rõ hơn tất cả tầm quan trọng và phong phú của các bản văn đó. Nghiên cứu Kinh Thánh một cách khoa học không thể tách rời khỏi nghiên cứu thần học, cũng như khỏi kinh nghiệm thiêng liêng và sự phân định của Hội Thánh. Khoa chú giải sản sinh hoa quả tốt hơn khi được thực hiện trong bối cảnh đức tin sống động của cộng đoàn Kitô hữu, cộng đoàn được hướng về ơn cứu độ của toàn thể thế giới.

 

[1] Lý thuyết giải thích Lời Chúa do Gerhard Ebeling và Fuchs khai triển xuất phát từ một lối tiếp cận khác và thuộc về một phạm vi tư tưởng khác. Đây là một thứ thần học giải thích hơn là triết học giải thích. Tuy nhiên Ebeling đồng ý với những tác giả như Bultmann và Ricoeur khi xác quyết rằng Lời của Thiên Chúa chỉ có được ý nghĩa trọn vẹn khi gặp được những người mà Lời ấy muốn ngỏ.
 
 

* Những chữ nghiêng trong ngoặc đơn đầu mỗi số không có trong nguyên bản văn kiện, bản dịch thêm vào để dễ hiểu nội dung.