Joseph Tân Nguyễn, ofm
Chúng ta biết về vũ trụ qua cách quan sát các hành tinh, ngôi sao, thiên hà, v.v. Nhưng từ năm 1998 khi viễn vọng kính “Hubble Space Telescope” được phóng lên không gian thì khoa học gia có cơ hội chứng minh rằng phần vũ trụ mà chúng ta thấy được chỉ là 5%, và 68% phần còn lại là năng lượng tối (dark energy), và 27% là vật chất tối (dark matter).[1] Tri thức con người về vũ trụ vật lý càng ngày càng gia tăng theo đà tiến bộ của khoa học. Mặt khác, qua nhãn quan của triết học thiên nhiên, lý trí cũng có thể suy diễn và đi đến một số kết luận hợp lý về bản chất của vũ trụ vật lý. Khoa học tự nhiên và triết học thiên nhiên đều có chung một đối tượng là vũ trụ vật lý, nhưng lại khác nhau về phương pháp nghiên cứu của mỗi ngành. Trong lúc khoa học thực nghiệm dùng phương pháp quy nạp qua quan sát và thí nghiệm, thì triết thiên nhiên dùng cả phương pháp quy nạp và phân tích, xem thế giới vật lý như một trường hợp đặt biệt của hữu thể để suy diễn ra các điều kiện hay giới hạn trong cách thế thiên nhiên tồn tại. Trong bài này chúng ta lược qua cách triết học thiên nhiên nghiên cứu vũ trụ vật lý, trừu xuất các khái niệm “vũ trụ” và “luật thiên nhiên”, và từ đó suy ra các giới hạn trong cách thiên nhiên tồn tại.
TRI THỨC CON NGƯỜI VỀ HỮU THỂ VẬT LÝ
Trong triết học, có một mối quan hệ mật thiết và hỗ tương giữa đối tượng của tri thức và phương pháp chúng ta nhận thức đối tượng đó. Tri thức của chúng ta bị hạn chế bởi phương cách nhận thức của giác quan. Mỗi ý niệm trong tâm trí có nguồn gốc từ sự vật trong thế giới. Bản chất của năm giác quan bên ngoài – thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác –là bị động. Nếu không có ánh sáng thì không có thị giác; nếu không có âm thanh thì không có thính giác. Mỗi giác quan tương thích với một hình thức kích thích thể lý khác nhau.
Sau khi thông tin bên ngoài được đón nhận bởi các giác quan thì chúng được xử lý qua các tiến trình của tri giác: trí tưởng tượng, trí nhớ, và tri giác lượng định. Tri giác chỉ tổng hợp những dữ liệu thô đến từ các giác quan, sắp xếp và tạo thành một hình ảnh trong tâm trí. Trí tưởng tượng thu thập các hình ảnh tâm trí để sử dụng sau này hoặc khi những giác quan ngoại tại không hiện diện. Trí tưởng tượng có thể “lấp đầy” bức tranh, giúp chúng ta biết về một đối tượng ba chiều mặc dù thị giác chỉ nhìn thấy hai chiều. Trí nhớ so sánh đối tượng tri giác với những hình ảnh về sự vật mà chủ thể đã tiếp xúc trước đó. Tri giác lượng định giúp chủ thể phán đoán tức khắc về sự lợi hại của hình ảnh. Đối với động vật, tri giác lượng định là bản năng, nhưng đối với con người, bản năng chỉ ảnh hưởng một phần thôi. Kết quả cuối cùng của sự tương tác giữa các giác quan ngoại tại và tri giác là hình ảnh tâm trí sẵn sàng cho bước kế tiếp của nhận thức. Đây là sự kết thúc của tri giác, vốn là tri thức bị giới hạn theo tính vật chất và khách thể vật lý riêng lẻ.
Bước kế tiếp của nhận thức là đi từ tri giác (sense) đến trí tuệ (intellect). Tác nhân trí tuệ (agent of the intellect) có năng lực đặc biệt để tạo nên tri thức. Trí tuệ thâm nhập vào hình ảnh tâm trí (phantasma) bằng ánh sáng của lý trí và loại bỏ tính vật chất của nó. Trí tuệ không tìm ý nghĩa của các hữu thể vật lý riêng lẻ, nhưng chỉ là làm sáng tỏ dạng vật lý của các hữu thể đó khi cố gắng tách bản chất phổ quát ra khỏi chúng. Trí tuệ trừu xuất bản chất trừu tượng của sự vật, từ đó tạo nên khái niệm hoặc ý tưởng về sự vật. Tuy trí tuệ con người không đơn thuần như linh hồn, nhưng vẫn là một thực thể hợp nhất, được kết nối bởi nhiều thành phần, do đó có vô số năng lực riêng biệt.
Tóm lại, mọi nhận thức bắt đầu bằng “res” chất thể, một khách thể tồn tại nơi thế giới bên ngoài, nguồn gốc của các kích thích thể lý được đón nhận qua năm giác quan, tạo ra các dữ liệu và được kết hợp lại qua tri giác (sense). Tiếp theo, các dữ liệu này được xử lý bởi ba tri giác nội tại (trí tưởng tượng, trí nhớ và trí lượng định), và cuối cùng, hình ảnh về chúng được tạo ra trong tâm trí của chúng ta. Tác nhân trí tuệ trừu xuất ý tưởng về bản chất hoặc yếu tính của sự vật từ những hình ảnh trong tâm trí. Thánh Tôma cảnh báo chúng ta về nguy cơ lầm lẫn giữa ý tưởng của trí tuệ với tri giác khách thể mà chủ thuyết duy thực quá khích đã cổ võ.
Tất cả tri thức con người là trừu tượng. Tri giác mà chúng ta có cùng với động vật không phải là tri thức theo nghĩa đầy đủ nhất về thế giới. Nó không phải là tri thức trí tuệ hay nhận thức trừu tượng. Động vật có những năng lực nhạy bén và khả năng tạo ra những hình ảnh, nhưng không phải ý tưởng, bởi vì chúng không có khả năng trừu tượng. Trí khôn con người thông qua khả năng trừu tượng có thể phi-vật chất hóa hình ảnh của hữu thể vật lý riêng lẻ và nhận ra yếu tính phi-vật chất hay “quidditas”. Đây mới là mục tiêu và chất liệu của trí tuệ. Tri thức tri giác có thể nhận thức hữu thể vật lý riêng lẻ như những cá thể riêng biệt, mỗi cái tồn tại một mình. Tri thức trí tuệ là kết quả của sự trừu tượng hóa, nhìn xuyên qua cá thể của một dạng để nhận ra đặc tính phổ quát hay điểm chung với những cá thể khác. Khả năng trừu tượng hóa của trí tuệ tiết lộ căn tính nội tại của sự vật cá thể qua cách nó liên kết sự vật riêng biệt với thực tại tổng thể. Sự trừu xuất này được cảm nhận như đến vô thức.
BA CẤP ĐỘ TRỪU XUẤT TRONG TIẾN TRÌNH NHẬN THỨC
Chúng ta thường không nhận thức được ba cấp độ trừu xuất riêng biệt mà qua đó chúng ta có được các ý tưởng. Cấp độ trừu xuất đầu tiên để lại những cá thể như những cá thể, rồi qua đó những điểm chung được phát hiện từ các cá thể được gọi là những “loại” hay “loài”. Đây là nhận thức của khoa học thực nghiệm. Cấp độ trừu xuất thứ hai là khi trí khôn bỏ lại không chỉ những cá thể mà còn cả tính vật chất, và tập trung vào khía cạnh số lượng của chất thể (con số, hình dạng và tương quan). Ở cấp độ trừu xuất thứ ba thì vật chất, số lượng, phẩm tính của sự vật đều bị loại trừ, đơn giản chỉ truy xét hữu thể như là hiện hữu (siêu hình học). Cấp độ trừu tượng hóa đầu tiên sử dụng phương pháp quy nạp vốn đi từ việc quan sát các cá thể để đạt tri thức phổ quát về loài hay loại. Cấp độ trừu tượng hóa thứ hai (toán học) sử dụng phương pháp diễn dịch, tức là tách biệt những khía cạnh định lượng khỏi hữu thể vật lý vốn cho phép sự hoán đổi theo logic của toán học. Cấp độ trừu tượng hóa thứ ba (siêu hình học) sử dụng phương pháp lý luận dựa trên các nguyên lý thuần túy của trí tuệ, như nguyên lý “mọi sự xảy ra phải có nguyên nhân”, nguyên lý không mâu thuẫn, nguyên lý đồng nhất, nguyên lý túc lý, v.v.
Trong khi vật lý và toán học vốn nắm bắt thực tại qua các hình thức lượng tính, thì triết học thiên nhiên tiếp cận cách tổng thể như là kinh nghiệm về hữu thể vật lý. Aristotle chưa tạo nên một loại vật lý toán học cao cấp hơn là vì lối phân tích siêu hình cố hữu của ông. Khuynh hướng này giúp phân tích các yếu tố nền tảng có liên quan đến sự biến dịch từ tiềm thể sang hiện thể của sự vật, nhưng lại ngăn cản khả năng trừu xuất sự chuyển động của một vật đang rơi, khỏi nền tảng chất thể của nó. Triết học thiên nhiên thì hoàn toàn là một khoa học duy nghiệm. Chính vì bản chất duy nghiệm này mà triết học thiên nhiên đến sau toán học và vật lý toán học theo thứ tự của giáo dục.
So với phương pháp của các khoa học khác, triết thiên nhiên luôn dùng phân tích duy nghiệm, tiệm tiến từ các chân lý phổ quát đến các chân lý đặc thù. Lối tiếp cận này được Thánh Tôma gọi là “phương pháp cụ thể hóa” (concretion) hay áp dụng các nguyên tắc phổ quát để khẳng định hay phân loại các hữu thể biến dịch. Tuy theo tiến trình đi xuống này, nhưng triết học thiên nhiên không phải là một khoa học suy diễn theo kiểu của toán học hay logic. Nó không tiên đoán, trừ những trường hợp cụ thể như nếu x là một hữu thể biến dịch thì phải có vật chất nguyên thủy, bản thể hình thức, và sự thiếu sót như là những nguyên tắc căn bản cho sự tồn tại của x. Dùng phương pháp cụ thể hóa, triết gia thiên nhiên phải khám phá, qua kinh nghiệm thay vì suy diễn, điều gì tồn tại trong thế giới biến dịch. Cách áp dụng các nguyên lý chung của hữu thể vào kinh nghiệm sẽ cung cấp cách giải thích cho những gì xuất hiện qua kinh nghiệm về thế giới biến dịch. Hơn nữa, trong toán học, trí khôn trừu xuất yếu tính của sự vật mà không cần kinh nghiệm về nó, như khi chúng ta khẳng định một hình tam giác là một hình có ba góc, hay tổng số góc trong của nó phải là 180%. Nhưng trong triết học thiên nhiên, trí khôn không chỉ nghiên cứu một sự vật (hình tam giác), nhưng phải so sánh kinh nghiệm về các hữu thể tương tự, cân nhắc về các yếu tính chung của chúng, rồi mới đưa ra kết luận về chúng.
Triết học thiên nhiên dùng phương pháp qui nạp. Trong tác phẩm Physics, Aristotle khẳng định triết học thiên nhiên cách chung là một sự tuy tầm cách qui nạp những gì thế giới tỏ lộ qua trải nghiệm của giác quan. Phương cách qui nạp đòi hỏi phải có một nền tảng biện chứng tiền qui nạp vốn không thuộc trong phạm vi của triết học thiên nhiên. Nhưng nó chuẩn bị cho tiến trình qui nạp, và chính biện chứng hậu qui nạp mới cho thấy bản chất trải nghiệm của khoa triết học thiên nhiên. Trong hai tác phẩm Physics và On the Soul, hầu hết Aristotle dùng phương pháp qui nạp. Ông chỉ dùng phương pháp nguyên nhân-hậu quả để minh chứng cho hai định nghĩa về chuyễn động và hai định nghĩa về hồn, mà tiền đề của chúng vốn là hiệu quả của qui nạp. Đa số lý luận của Aristotle đi từ hiệu quả đến nguyên nhân (quia) chứng không phải từ nguyên nhân đến hiệu quả (propter quid). Vì lý luận của triết học thiên nhiên không dựa trên nguyên tắc “propter quid”, do đó, triết học thiên nhiên không phải là một loại khoa học suy diễn. Phương pháp lý luận của nó thì dựa trên phân tích yếu tính của một hữu thể dựa theo ý nghĩa nền tảng phổ quát nhất của hữu thể.
Mãi cho đến giai đoạn Phục Hưng, triết học thiên nhiên của Aristotle vẫn được chấp nhận. Nhưng một khi khoa học và triết học cận đại ra đời, thì loại triết học thiên nhiên này bị tấn công liên tục từ các chủ thuyết cơ giới, thực nghiệm, và thực chứng. Thế kỷ 19 và 20 chứng kiến một cuộc cải cách trong quan tâm về triết học thiên nhiên. Cho dù có nhiều khác biệt so với cách tiếp cận thiên nhiên của thời Kinh Viện, nhưng hầu hết các triết học thiên nhiên hiện đại vẫn còn dựa trên một số lý luận nền tảng đã được khai triển trước đó.[2]
Bắt nguồn từ nỗ lực phản biện của Maxit chống lại triết duy tâm tuyệt đối của Hegel, một chủ nghĩa triết học về vật chất ra đời. Chủ nghĩa này ít nhiều được Lenin và một số triết gia hệ thống hóa trong thế kỷ 20. Các triết gia này tiếp tục khai triển và mở rộng triết học phê phán từ nguyên lý vật chất với tiền đề và phản đề của chúng qua các chủ thuyết hậu-hegel, biện chứng phủ định, sử học, kinh tế học và xã hội học. Còn ở các nước dân chủ tư bản, quan điểm vật lý toán học của Aristotle phải nhường chổ cho một loại khoa học tự nhiên phong phú hơn qua các luồn triết lý của C.S. Peirce, J. Dewey, A.N. Whitehead, H. Bergson, Teilhard de Chardin, v.v. Họ khai thác các chiều kích như cá tính đặc thù, cấu trúc sinh vật, hiện tượng đà sống, và phát triển tâm linh của thực tại. Nếu ngôn ngữ của các triết học tự nhiên hiện đại mang nặng mùi sinh học và cả tâm lý học, thì điều này chỉ nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa gốc của nguyên lý nội tại “tự nhiên” trong triết lý Hy-lạp.[3]
Qua nhiều hình thức loại suy, triết học thiên nhiên trong thế kỷ XX đã cập nhật hóa các nguyên lý nội tại này để tạo nên một lối giải thích hài hòa giữa thế giới vật chất và cảm nghiệm của dòng chảy của sự sống con người. Các triết gia này chấp nhận tính nhị nguyên của hữu thể biến dịch như theo như lối giải thích cổ điển qua các phạm trù chất thể và mô thể. Họ mô tả các “cấp độ” của tiến trình và “sự xuất hiện của tính mới lạ” như là chứng cứ rằng trong mọi hữu thể tự nhiên có một nền tảng căn bản, vốn được khái niệm hóa qua nhiều thể cách khác nhau gọi là hình thức (form). Tuy nhiên, họ chấp nhận các “cấp độ của tiến trình” hoặc “tính mới lạ” như là thực thể có sẳn, thay vì cố gắng giải thích sự tồn tại của chúng như Aristotle, Whitehead, Bergson, Peirce, Teilhard, và các triết gia Soviet.
Cuối cùng, tất cả các triết gia thiên nhiên trên đây đều chấp nhận tính định hướng của vũ trụ. Đây là một loại tư duy theo mục đích luận “nguyên nhân-hậu quả” cổ điển. Whitehead phân tích tính cùng đích của các nguyên nhân, trái lại Hume nhấn mạnh vào tính hiệu lực của nguyên nhân tác thành. Thế kỷ 19 cố gắng thiết lập một loại triết học tự nhiên mang tính tiên thiên như duy tâm tuyệt đối của Hegel, hoặc công khai loại trừ triết học tự nhiên như thuyết thực chứng. Thế kỷ 20 đã tái khám phá nhu cầu đánh giá cách thực tiễn hơn về thiên nhiên, xét hữu thế biến dịch ở cấp độ phổ quát hơn cách tiếp cận của khoa học tự nhiên, và ở cấp độ tự nhiên hơn là cách lý giải của vật lý toán học.
LUẬT THIÊN NHIÊN VÀ VŨ TRỤ VẬT LÝ
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu hai khái niệm “thiên nhiên” và “vũ trụ”. Chúng ta trải nghiệm thiên nhiên, thế giới vật lý, thế giới vật chất như là những hữu thể vật chất xuất hiện như một tổng thể chặt chẽ, chứ không chỉ đơn thuần là tập hợp của các hữu thể vật lý. Chúng ta dùng hạn từ “vũ trụ” (kosmos) để nói lên một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là một sự kết hợp chặt chẽ của các sự vật, như một tập hợp vừa đẹp vừa chân thực của những thành phần khác nhau, tạo nên một thể thống nhất có tổ chức. Vũ trụ là một thực tại trái ngược hoàn toàn với sự hỗn độn (hư vô), vô trật tự và vô tổ chức. Người Hy Lạp cho rằng không có tư duy nếu không có gì tồn tại. Trong các chuyện thần thoại Hy Lạp về nguồn gốc vũ trụ, không có hành vi sáng tạo nhưng có một sự thay đổi quan trọng khi các vị thần sắp xếp lại trật tự từ sự hỗn độn để tạo thành vũ trụ như chúng ta biết ngày nay. Sự hư vô thì hỗn độn, chẳng có ý nghĩa gì hết. Ở nơi hư vô, có thể có hữu thể vật lý nhưng không có hệ thống hay nguyên tắc lề luật. Tất cả như một khối xáo động của sự rời rạc và bất liên kết, một sự vô định hình, thiếu tương tác nội tại, đối ngược hoàn toàn với vũ trụ. Thiên nhiên hay vũ trụ là sự hình thành nên một tổng thể liên kết chặt chẽ. Sự liên kết hay tổng hợp này cho thấy có một trật tự hay quy luật nào đó hầu như đang điều phối mọi chuyển động. Vì lý do đó mà vũ trụ hay thiên nhiên có thể nhận thức được bằng trí tuệ.[4]
Đối với các triết gia, việc nhận thức rằng vũ trụ vật lý có một sự thống nhất về các nguyên tắc trật tự mang một ý nghĩa to lớn. Mọi thứ trong thiên nhiên đan xen với nhau. Chúng ta không thể dùng những thuật ngữ “tổng thể” để nói về hư không. Khi ta cố gắng nhận thức thiên nhiên thì ta đang nhìn nó như một tổng thể. Nhiều triết gia hiện sinh kết luận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phi lý và con người hành động một cách vô ý thức. Nhưng có thể đồng nghĩa hành vi con người với vũ trụ xét như một tổng thể không? Hành vi của con người có phản ảnh trật tự xuất phát từ thiên nhiên hay vũ trụ không? Câu nói “chúng ta đang sống trong một thế giới vô nghĩa” chỉ có nghĩa là nó đang trái ngược với sự có ý nghĩa, và do đó, sự có ý nghĩa thì căn bản và nền tảng hơn là vô nghĩa. Như thế, thiên nhiên hay thế giới vật lý không phải là một vật hỗn tạp, lửng chửng và đối lập, hay ở trạng thái hỗn độn. Thiên nhiên là một vũ trụ, một thế giới, hay một tổng thể liên kết chặt chẽ, hợp nhất và đầy ý nghĩa.
Nếu thiên nhiên là một tổng thể hay hệ thống liên kết chặt chẽ, thì chúng ta có thể đặt ra câu hỏi là: cái gì làm cho nó kết nối với nhau? Cái gì làm cho thiên nhiên ăn khớp với nhau để tạo thành một hệ thống? Những nhà khoa học để ý thấy rằng vũ trụ thì ở khắp mọi nơi và nó luôn được biểu lộ bằng những nguyên tắc. Những nguyên tắc hay quy luật của thiên nhiên giải thích cho thấy tính cố kết của thiên nhiên và sự hiệp nhất của nó. Sự hiểu biết thông thường về nhân luật như luật nhà nước có thể mang tính tiêu cực, bởi vì nó ràng buộc và trừng phạt chúng ta trong quyền hạn của nó. Nhân luật được tạo ra bởi con người để giải quyết những vấn đề gây nên bởi con người không sống trọn vẹn trách nhiệm của họ. Nhưng luật thiên nhiên mang tính tích cực vì chúng phát xuất từ nội tại. Chúng là những biểu hiện của những mối tương quan có trật tự vốn tồn tại giữa những thành phần khác nhau của tổng thể gọi là thiên nhiên. Xét theo ý nghĩa cơ bản nhất thì luật là một sự diễn đạt của khả niệm tính nội tại. Luật không đơn giản chỉ là căn nguyên của trật tự, nó còn là dấu hiệu biểu hiện của trật tự. Luật vừa là sự khẳng định vừa là sự củng cố của tính hợp nhất chặt chẽ. Luật là một phần của hệ thống được sắp đặt và là ý nghĩa cuối cùng của hệ thống. Luật được xem như là nguyên lý nền tảng của tổ chức và sự hợp nhất mà hữu thể vật chất tự biểu lộ về chính nó.
Chúng ta trở lại mối quan hệ giữa luật và khả niệm tính. Nếu một cái gì đó mà hoàn toàn vô trật tự thì được gọi là sự hỗn độn, do đó trí tuệ con người không thể hiểu thấu được điều gì cả. Khi trí khôn đối diện với sự lộn xộn hay vô trật tự thì điều tốt nhất mà trí khôn có thể làm được là đơn giản nhận ra sự bất trật tự là thiếu quy luật. Như thế, chỉ qua luật chúng ta mới hiểu trật tự và trật tự đem đến khả niệm tính. Vì vậy khi chúng ta sống trong một vũ trụ đầy ý nghĩa, tức là chúng ta đang sống trong một vũ trụ có trật tự, được điều hành bởi luật. Những quy luật của thiên nhiên – luật vật lý, là sự phức hợp toàn diện của những mối tương quan có trật tự mà chúng được tạo nên từ những thành phần khác nhau. Khi nhà khoa học tìm hiểu luật thiên nhiên, họ cố gắng nhận thức những gì đang biểu lộ các hoạt động bên trong của thiên nhiên, hay khả niệm tính tự nhiên của nó.
Để hiểu rõ hơn về luật vật lý hay luật thiên nhiên, chúng ta hãy xem cách các quy luật này điều tiết thế nào trong bối cảnh phổ quát hơn phạm vi mà nó đang hoạt động. Chúng ta cần xét điều kiện phổ quát của luật vật lý. Các triết gia duy vật đúng khi họ chủ trương rằng mọi quy luật vật lý đều phải áp dụng cho bất cứ hữu thể nào trong vũ trụ. Newton phải chứng minh trọng lực là nguyên nhân trái táo từ cây táo rơi xuống đất cũng là nguyên nhân làm cho mặt trăng xoay quanh địa cầu. Nhưng nhà khoa học có thể sai lầm nếu họ giả định rằng luật thiên nhiên là quy luật tối thượng của vũ trụ. Trái lại, các luật thiên nhiên đều phụ thuộc vào một luật tối cao, đó là luật vĩnh cửu của Thiên Chúa vốn chi phối mọi sự vật tồn tại. Mọi sự tồn tại trong vũ trụ như cách chúng đang tồn tại là vì một lý do tối cao và duy nhất, đó là Thiên Chúa muốn chúng hiện hữu. Triết gia thiên nhiên cần quan tâm về nền tảng chân thực của thế giới vật lý. Thế giới vật chất là kết quả trực tiếp của nguyên nhân siêu nhiên. Thế giới biến dịch tự nó không thể giải thích cho sự tồn tại của nó. Chúng ta cũng không thể thấu hiểu yếu tính của nó nếu chúng ta không nhận ra mối tương quan của nó với Thiên Chúa như hậu quả đối với nguyên nhân.
Nói một cách đơn giản là Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ. Thiên Chúa là nguyên nhân và vũ trụ là kết quả. Trong bất kì mối liên hệ nhân quả nào, qua lôgic chúng ta có thể đi đến một số kết luận về bản chất của nguyên nhân vốn tạo ra kết quả. Nguyên nhân đóng ấn hay để lại trên kết quả dấu vết của nó như một dấu hiệu đặc trưng riêng tư. Khi một họa sĩ vẽ một bức tranh được xem là đẹp thì bức tranh đó mô phỏng về một thực tại có trật tự. Trí tuệ thông minh của người họa sĩ được phản ảnh qua tác phẩm của mình. Người họa sĩ có thể tạo ra một bức tranh phong thủy đẹp bởi vì người họa sĩ tuân theo những quy tắc trong hội họa. Cũng như một nghệ gia để lại dấu ấn trí tuệ trên tác phẩm của mình, thì theo một cách hoàn toàn đặc thù Thiên Chúa đã lưu lại dấu ấn đặc trưng của Ngài trên vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Thánh Thomas lý luận rằng toàn thể công trình sáng tạo tràn ngập và chứa đầy sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nguồn gốc của mọi sự thì chính là sự khôn ngoan thánh thiêng vốn chiếu tỏa và được biểu lộ nơi tất cả mọi vật như trong lời Thánh Vịnh 19,1: “Trời xanh tường thuật vinh quang của Chúa, và không trung loan báo việc tay Người làm.”
Sự khác biệt là khi các nghệ nhân sáng tác, họ chỉ tiếp nhận và diễn đạt chúng qua tác phẩm nghệ thuật của họ. Đối với Thiên Chúa, chính Chúa là nguồn gốc của mọi sự hiện hữu. Nghệ nhân tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng không tạo ra vật liệu hay quy luật về nghệ thuật. Trái lại, Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và những quy luật, bởi chúng mà vũ trụ được tạo thành và điều hành. Thiên Chúa vừa là quy luật điều khiển vừa là nguồn gốc của mọi tồn tại. Thiên Chúa không bị điều phối bởi nguyên tắc ngoại tại hay trổi vượt hơn chính Người. Thiên Chúa hành động hoàn toàn từ chính quyền năng siêu việt của mình. Trí tuệ siêu việt tự tại này được biểu lộ thông qua những quy luật của Thiên Chúa.
Luật của Thiên Chúa thể hiện qua ba dạng thức: luật tự nhiên (luân lý), luật siêu nhiên (Kinh Thánh) và luật thiên nhiên (vật lý). Luật thiên nhiên được thấu hiểu bởi lý trí con người; nhưng khi áp dụng vào phạm vi đạo đức thì được gọi là luật tự nhiên hoặc luật luân lý. Luật tự nhiên là một thành phần nội tại trong trật tự vũ trụ. Nó áp dụng cho những thụ tạo sở hữu tự do và lý trí vì vậy các thụ tạo này có khả năng tự phản ánh quy luật đó. Luật tự nhiên được khắc ghi trong tâm khảm con người như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Rô-ma (Rm 2:15). Thông qua lương tâm, hay tiếng nói của luật tự nhiên, chúng ta có thể nhận biết ý định của Thiên Chúa và mục đích của các hành vi nhân bản. Nhìn cách phổ quát hơn, chúng ta có thể nói rằng luật tự nhiên cũng chính là luật Thiên Chúa vốn có áp dụng cách cụ thể cho các thụ tạo có lý tính. Qua luật tự nhiên mà chúng ta nhận ra trật tự luân lý trong vũ trụ.
Luật siêu nhiên hay thiên luật không thể tự nhận thức bằng lý trí nhưng phải do Mặc Khải. Thiên luật biểu lộ như sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vừa là sự hợp nhất nội tại của mọi quy luật và vừa được biểu lộ qua các mối tương quan có trật tự tồn tại ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý. Luật siêu nhiên được mặc khải như là nền tảng cho luật thiên nhiên và luật tự nhiên.
Luật vật lý hay luật thiên nhiên một cách tổng thể cấu thành nên toàn bộ các mối tương quan có trật tự đang tồn tại trong vũ trụ vật chất. Mục đích cuối cùng và toàn bộ năng lực của khoa học là khám phá luật các quy luật vật lý, vì chúng tiết lộ những hoạt động bên trong của thế giới vật chất. Quy luật thiên nhiên là những nguyên tắc tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong thế giới vật lý và khả niệm tính. Thế giới vật lý có thể được xem như là một hệ thống vĩ mô, bao gồm những mối quan hệ nhân quả với nhau. Nhưng để biết quan hệ nhân quả thì phải có tri thức về yếu tính của sự vật – cách thức một sự vật cụ thể này có liên quan đến một sự vật cụ thể khác. Vì thế, tri thức về tương quan nguyên nhân-hậu quả đưa đến khả năng tiên đoán. Một khi chúng ta đã tạo nên mô hình nguyên tắc (“regulare”) cho thế giới vật lý trong quá khứ, ta có thể dự đoán là mô hình đó sẽ đúng trong tương lai.
Nhưng tri thức về nguyên nhân và mô hình của hoạt động trong thế giới vật lý không có nghĩa là chúng ta có cái nhìn hoàn toàn tổng thể về vũ trụ vật chất. Chúng ta không thể giới hạn sự hiểu biết của con người về thế giới trong phạm vi tri thức luận mang tính chính xác như máy móc, như không hề có các yếu tố ý chí con người hoặc phi vật chất nào khác. Người thợ máy sẽ đánh lừa chính bản thân mình nếu anh ta tự cho mình là nguồn cội của mọi hoạt động của mình, vì anh ta biết rằng công việc của anh ta lệ thuộc vào loại vật chất vốn tạo nên những máy móc anh ta đang điều hành. Anh ta cần phải tôn trọng bản tính mỏng dòn hay khả năng bền vững của vật chất mà anh đang tiếp xúc. Cũng vậy, triết gia thiên nhiên cần nắm bắt những quy luật vật lý đang điều phối vũ trụ.
Tuy nhiên, quan tâm đến quy luật vật lý không có nghĩa là triết thiên nhiên phải chấp nhận não trạng tất định. Lẽ dĩ nhiên triết thiên nhiên một cách thực tế phải nhìn vũ trụ như một trật tự dựa trên các nguyên tắc được thiết lập, chứ không phải là sự hỗn độn, nghĩa là thế giới được sắp đặt trong cách mà nó là. Nhưng điều này không có nghĩa là thế giới không thể vượt trên cái cách mà thực sự nó là. Rất có thể nó cũng được hình thành trong một cách thức khác hơn là cách thức chúng ta đang cảm nhận nó. Thiên Chúa không buộc phải sáng tạo một thế giới cụ thể như Ngài đã tạo nên. Chúa lựa chọn tạo dựng thế giới theo ý muốn của Người một cách tự do, và không lệ thuộc vào bất cứ gì khác. Thiên Chúa đã lập nên các quy luật vốn điều phối thế giới vật lý như chúng ta biết và kinh nghiệm hằng ngày. Chúng ta vẫn có thể tưởng tượng ra một thế giới vật lý khác với thực tại mà chúng ta đang sống, được điều hành bởi một hệ thống các quy luật vật lý khác. Nhưng vì đây là một thế giới thực sự đã tồn tại; nó được mặc định để tồn tại trong cách thức mà trí tuệ siêu nhiên muốn nó tồn tại.
Con người được tạo nên như một sự tổng hợp gồm linh hồn và thân xác, vật chất và phi vật chất. Chính bởi trạng thái phức hợp này mà chúng ta cùng lúc là mặc định vừa là không mặc định. Một cách đơn giản, chúng ta là cách thức mà Thiên Chúa đã dựng nên để hiện hữu. Cụ thể, chúng ta đã được mặc định sống và hành động theo tính vật chất của mình trong phạm vi trọng lực cho phép. Qua thời gian và nhiều cách thức khác nhau, cơ thể của chúng ta cũng sẽ phát triển và thay đổi trong sự tương tác với quy luật này. Tất cả những gì chúng ta nghĩ chúng ta có thể vượt qua thế giới vật lý thật ra chỉ đơn giản là vượt trên những hiện hữu vật lý khác. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không có quyền hướng đến cái vô hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của chúng ta.
———————
Tài liệu tham khảo:
Triết Học Thiên Nhiên, Joseph Tân Nguyễn, OFM. NXB Đồng Nai, 2021
———————
[1] https://science.nasa.gov/astrophysics/focus-areas/what-is-dark-energy
[2] Xem Christopher Smeenk & George Ellis, “Philosophy of Cosmology” (2017). Nguồn: (https://plato.stanford.edu/entries/cosmology/)
[3] Xem Lorenzo Minio-Paluello, “The Nature of Aristotelianism”. Nguồn: (https://www.britannica.com/topic/Aristotelianism#ref408050).
[4] Xem Peter Adamson, “The Theology of Aristotle,” (2021). Nguồn: (https://plato.stanford.edu/entries/theology-aristotle/)