Tông Thư Bát Thập Niên (Octogesima Adveniens) Của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI 14-05-1971

0
2077


 TÔNG THƯ OCTOGESIMA ADVENIENS

(BÁT THẬP NIÊN)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI

GỬI ĐỨC HỒNG Y MAURICE ROY

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG ĐẶC TRÁCH “CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH”

NHÂN DỊP 80 NĂM KỶ NIỆM THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM

TRẢ LỜI CHO NHỮNG NHU CẦU MỚI MẺ CỦA MỘT THẾ GIỚI ĐANG BIẾN ĐỔI

Ngày 14 Tháng 05 Năm 1971

***

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI

***

 

GIỚI THIỆU TÔNG THƯ

 

Tông thư kỷ niệm 80 năm thông điệp “Rerum Novarum” (Octogesima adveniens) này của Đức Phaolô VI gởi cho đức hồng y Roy, chủ tịch Ủy Ban “Công Lý và Hòa Bình” và Hội đồng Giáo hoàng đặc trách về giáo dân, lặp lại cùng một nghĩa cử như các đức Giáo hoàng tiền nhiệm: đánh dấu cuộc kỷ niệm này trong một chuỗi liên tục và với tinh thần canh tân, qua một biểu lộ có ý nghĩa liên kết với những tiến bộ đương thời.

Tiến bộ xã hội

Vào năm 1971, hoàn cảnh kinh tế trên thế giới khá thuận lợi. Từ hai mươi lăm năm nay, những nước phát triển ghi nhận được một sự tăng triển liên tục và mức sống được nâng cao đáng kể. Hẳn là, các nước đang phát triển đang ở một mức chênh lệch khá lớn, đó là điều mà đức Phaolô VI muốn gây sự chú ý cấp thiết trong thông điệp về “Phát triển các dân tộc”. Những căng thẳng quốc tế dường như giảm bớt; cuộc chung sống hòa bình, có lẽ còn mong manh, vẫn chất chứa niềm hy vọng.

Quan tâm của đức Phaolô tập trung vào những vấn đề xã hội phải đảm lấy ngay từ bây giờ, nếu không “chúng sẽ trở nên quá trầm trọng đến nỗi không thể mong có được một giải pháp hòa bình” (9). Vậy đó là những vấn đề xã hội nào?

– Đô thị hóa

Hiện tượng chính yếu này lan rộng nhanh chóng nhất là trong các nước đang phát triển với mọi hậu quả xã hội do làn sóng bỏ xứ miền quê: đánh mất đi những tập quán nông nghiệp, đổ dồn về những thành phố lớn với nạn bần cùng hóa lan tràn; đó là sự mất thăng bằng giữa văn minh nông thôn và văn minh đô thị. Lần đầu tiên, một văn kiện tòa thánh đề cập tới đề tài xã hội với một tầm mức rộng rãi. Vận dụng nó như thế nào? Nó có ý nghĩa ra sao?

– Sự phát triển những phương tiện truyền thông xã hội

Một thay đổi lớn khác của thời đại chúng ta đã được khẳng định, đó là vai trò ngày càng lớn của truyền hình, truyền thanh và những phương tiện truyền thông đại chúng khác. Thông điệp và thông tin trở nên luôn sẵn có đến độ thừa thãi, làm thay đổi tâm trạng, kiến thức, văn hóa của con người. Chúng tạo nên những quyền lực mới quyền lực thứ tư càng mạnh mẽ hơn vì chúng làm cho đại đa số những ai tiếp nhận chúng trở nên thụ động. Phải thẩm định cả những điểm lợi lẫn điểm nguy (20).

– Chất vấn các khoa học nhân văn (38,39,40)

Các khoa học lấy con người làm đối tượng nghiên cứu khẳng định tính độc lập đối với triết học, trong sự đa dạng và chuyên môn riêng của mỗi ngành. Chúng đòi hỏi một quy chế khoa học, dựa vào những phương pháp chặt chẽ, những kết quả khách quan và tham vọng lý giải mạch lạc phổ quát của chúng. Chúng cũng còn nhằm định hướng những hành động biến đổi con người và xã hội. Phải có thái độ nào đối với chúng đây? Từ khước hay ngờ vực? Hoặc đón nhận rồi phân định? Giáo hội vạch ra những giới hạn; nhưng “bên trong những giới hạn này, các khoa học nhân văn đảm trách được một nhiệm vụ tích cực mà Giáo hội sẵn sàng công nhận.”

– Chất vấn các ý thức hệ

Những ý thức hệ xã hội, được xây dựng ở thế kỷ XIX, được áp đặt như một khuôn mẫu cho suy tư và hành động của thế kỷ XX. Người ta bắt đầu nhận thấy những lệch lạc của chúng so với những tiến bộ hiện thực; lệch lạc của chúng trong việc phân tích những hoàn cảnh đương thời và trong khả năng hành động nhằm thiết lập những hệ thống xã hội thích ứng, ngay cả khi chúng vẫn còn hấp dẫn nhiều tâm trí. Đây là thời điểm cần xem xét lại các ý thức hệ này và chất vấn mục tiêu tối hậu của chúng. Cần gỡ bỏ sự mập mờ của chúng, ngay cả đối với ý thức hệ về sự tiến bộ có mặt khắp nơi xuất hiện từ thế kỷ XIX (41). Vậy, sự phục hưng những chủ thuyết không tưởng, đang không ngừng lật đổ các chân trời triển vọng và ý thức hệ, có ý nghĩa gì? (37).

– Chất vấn về con người

Trước những biến chuyển hiện nay, rất sâu sắc và rất nhanh chóng, bước đi đầu tiên là phải chú ý tới những nạn nhân mới của những chuyển biến này (người nhập cư, người trẻ, người già). Nhưng nhất là mỗi ngày con người tự khám phá thấy mình mới mẻ, và họ tự hỏi về ý nghĩa của chính bản thân mình và của sự tồn sinh của cả loài người (7). Con người hoang mang về ý nghĩa và về lịch sử.

Chính trong bối cảnh tiến bộ, rộ lên và mang nhiều vấn nạn hơn là sự chắc chắn, mà đức Phaolô VI gởi Tông thư này đến đức hồng y Roy.

Bối cảnh của Giáo hội

Hẳn là để đánh dấu cuộc kỷ niệm 80 năm; nhưng còn hơn thế nữa tông thư “Bát Thập Niên” tiếp nối công việc của Công đồng Vatican II. Qua Hiến Chế mục vụ “Giáo hội trong thế giới ngày nay”, Công đồng cách nào đó đã đảm nhận, xác định chính thức, và còn mở rộng giáo huấn xã hội của các đức Giáo hoàng tiền nhiệm; Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” tạo nên một nền tảng khởi hành mới. Lại nữa, Đức Phaolô VI, khác với các văn kiện của Đức Piô XI (Kỷ niệm 40 năm) và của Đức Gioan XXIII (Kỷ niệm 70 năm), ở đầu bức tông thư, cho rằng không cần thiết phải làm một bản tóm lược diễn giải những lập trường có trước ngài; ngoài ra ý kiến đó cũng thấy nơi thông điệp “Phát triển các dân tộc” (1967), và nơi Đức Gioan-Phaolô II khi ngài nói về “lao động con người” (1981).

Tông thư “Bát Thập Niên” mang dấu vết của Công Đồng Vatican II không chỉ bằng việc tiếp tục triển khai các chủ đề  dù có nhiều chủ đề được đề cập tới một cách rất độc đáo – nhưng còn bởi hai khía cạnh khác. Một khía cạnh đặc thù: bức Thư gởi cho đức hồng y Roy là một “tông thư” trước hết gởi đến những cơ quan phát sinh từ Công đồng: Ủy Ban “Công Lý và Hòa Bình” và Hội đồng Giáo hoàng đặc trách về giáo dân, qua đó người ta muốn nói lên tầm quan trọng của chúng. Khía cạnh kia rộng lớn hơn nhiều và nảy sinh, không phải từ một quá trình chuyển tiếp, nhưng từ một cái nhìn của Giáo hội.

Giáo hội tụ tại Roma để họp Công Đồng Vatican II đã khám phá ra mình thật phong phú và hiệp nhất bởi cùng một đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh và do cùng một Thánh Thần làm sinh động, nhưng đa dạng theo nhiều lục địa, chủng tộc, văn hóa; đa dạng còn bởi những môi trường nơi Giáo hội hiện hữu hôm nay. Hơn nữa, tính tập đoàn của các Giám mục chung quanh đức Giáo hoàng và hiệp thông với ngài đã là một khẳng định nổi bật của Hiến Chế tín lý về Giáo hội. Toàn bộ các vấn đề này được phản ánh trong lời giới thiệu của đức Phaolô VI, điểm mở đầu độc đáo. Một đàng, ngài khẳng định: “Trước những hoàn cảnh khá đa dạng, chúng ta khó có một lời công bố duy nhất, như đưa ra một giải đáp có giá trị phổ quát. Điều đó không phải là tham vọng cũng không phải là sứ mạng của chúng ta “(4); tuy nhiên, lời mở đầu ấy không ngăn ngài ngỏ lời với hết mọi kitô hữu, với đầy đủ ý nghĩa của trách nhiệm ngài trong lãnh vực này, như ngài đã từng làm năm 1967 về “Phát triển các dân tộc”. Đàng khác, và chính vì thế mà ngài chuyển giao cho các cộng đoàn kitô hữu, trong sự hiệp thông với các đức Giám mục hữu trách, trách nhiệm nắm bắt lấy những vấn đề xã hội, suy tư về chúng dưới ánh sáng Tin Mừng và tư tưởng của Giáo hội, tìm kiếm những giải đáp thích hợp mà không quên chiều kích phổ quát của Giáo hội. Đó cũng là một việc tiếp tục triển khai Hiến Chế về Giáo hội: Giáo hội, chính là Dân Thiên Chúa được tổ chức thành những cộng đoàn kitô hữu, có khả năng đề ra những sáng kiến, có khả năng hiện diện và hành động trong những môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Đó là xúc tiến đường lối tản quyền trong thực hành với tinh thần phụ túc, mà vẫn duy trì tính hiệp nhất về nguyên tắc và cảm hứng. Tuy nhiên, khi xét thấy rằng những vấn đề quốc tế trở nên vượt trổi, quan điểm của đức Giáo hoàng vẫn rất cần thiết, bởi lẽ ngài nhận thức rõ hơn nhiều mặt khác nhau của nó.

Bối cảnh cuối cùng trực tiếp hơn: Tông thư của đức Phaolô VI đề ngày 14/5/1971, trong khi đó Thượng hội đồng Giám mục sẽ họp tại Roma vào tháng 10/1971 về chủ đề “Công bằng trên thế giới”. Đức Phaolô VI không muốn đi trước những nỗ lực làm việc này, cũng như không muốn cung cấp dữ kiện để thay cho các tài liệu chuẩn bị; ngài chỉ khích lệ chúng(6). Nhưng ngài vẫn giữ quyền tự do và sáng kiến phát biểu, bằng uy quyền riêng của mình. Hẳn là, do sự thận trọng hơn, ngài đã chọn hình thức của một Tông thư thay vì soạn thảo một thông điệp. Nhưng những nhà chú giải đã không lầm; dù cho hình thức có đặc thù và tương đối ngắn gọn, nó vẫn là một trong những văn kiện giáo hoàng quan trọng về vấn đề xã hội.

Khai sinh bản văn

Bức Tông thư trước hết phản ánh sự nhạy cảm của đức Phaolô liên quan tới những chuyến công du gần đây của ngài trên các lục địa khác nhau. Sự đổi mới trong việc đức Giáo hoàng di chuyển ngoài Roma đó sẽ được đức Gioan-Phaolô II lặp lại và mở rộng hơn. “Chúng tôi đã đến gần dân chúng và nghe những tiếng kêu than của họ, tiếng kêu trong khốn quẫn và đồng thời trong hy vọng” (2).

Tông thư có tham chiếu Công đồng Vatican II và những thông điệp mới đây: đó là điều rõ ràng. Nhưng cần ý thức đây là một thủ đắc dù cho việc áp dụng còn chậm trễ hơn cần phải tiếp tục theo đuổi. Một sắc thái mang tính cá nhân: đó là sự quan tâm đến tương lai: sự phân tích phải nối kết các yếu tố của tiến bộ dài hạn; cần phải dung nạp những thái độ thăm dò tương lai và chứng tỏ khả năng tưởng tượng sáng tạo. Chính Giáo hội cũng có bổn phận phải nhìn thấy trước những thay đổi hầu định hướng chúng tốt hơn. Tuy nhiên, Tông thư luôn yêu cầu dựa vào kinh nghiệm lịch sử của Giáo hội và sự thôi thúc của Tin Mừng, đó là hai nguồn mạch của sự canh tân.

Bản văn ít trích Kinh thánh  quả thật vì nó ngắn gọn cô đọng không mở rộng thành những triển khai lớn. Dầu vậy, cũng giống như cách thức của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”, nó có khá nhiều ghi chú về mặt linh đạo và thần học, nhưng cũng thận trọng, nhằm đưa ra một hướng đi hoàn toàn mới cho suy tư về xã hội; khẳng định vai trò của Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Phục Sinh, khi đề cập đến thuyết không tưởng, tự do, tiến bộ, dấn thân trong hành động…

Chắc chắn, đức Phaolô VI đã để ý đến những nghiên cứu khác đang tiến hành trong các trung tâm xã hội kitô giáo khác nhau có cả ở Pháp- liên quan đến tiến triển của các ý thức hệ, đến vị trí ngày càng lớn của chiều kích chính trị trong xã hội con người.

Tông thư có đặc biệt phản ánh những mối bận tâm của các xã hội công nghiệp tiên tiến không? Nếu đọc qua quá nhanh có thể tưởng rằng thế. Tuy nhiên, đức Phaolô VI trong lúc nêu lên những vấn đề mới: đô thị hóa, việc làm, di cư, định chế về người phụ nữ… đã nhấn mạnh rằng chúng liên hệ một cách khẩn thiết hơn đến các nước đang phát triển; trong những chuyến công du, ngài đã đích thân nghiệm thấy chúng.

Tính sư phạm của Tông thư thể hiện qua bốn thái độ ăn khớp nhau: ý thức đúng lúc những vấn đề mới để nhìn thấy trước các giải đáp; cố gắng làm chủ được những biến chuyển; tìm kiếm những giải pháp và thử nghiệm chúng bằng cách tỏ hiện tính sáng tạo; và đặc biệt là nhận định. Từ ngữ này đặc trưng cho phần đóng góp và thái độ của các kitô hữu. Những phán quyết của Tông thư khá tế nhị và cởi mở, vì chúng có xét đến tiến triển của những hoàn cảnh và tư tưởng. Trái ngược với những gì người ta đã nói hay viết, đức Phaolô VI không giới thiệu một “con đường thứ ba” giữa chủ thuyết tư bản tự do và chủ thuyết Mác-xít; ngài mời gọi các kitô hữu hãy phân định để biết phát triển như thế nào trong những hoàn cảnh và chế độ mà họ dấn thân.

Ngoài đức hồng y Roy, là người nhận chính, bức Tông thư “Bát Thập Niên” ngỏ lời với mọi kitô hữu. Đức Phaolô VI nói một cách minh nhiên điều đó: “Chính với hết mọi kitô hữu mà Chúng tôi, một lần nữa và một cách cấp bách, gởi đến một lời kêu gọi hãy hành động”(48). Lời kêu gọi đặc biệt, nhưng không giới hạn, gởi đến các tổ chức kitô giáo. Ngài nhấn mạnh đồng thời đến tương quan thiết yếu giữa Lời nhận lãnh từ Thiên Chúa và hành động phải thực hiện nhằm phục vụ anh em, và đến tính đặc thù bất khả thay thế của sự hiện diện của người kitô hữu trong thế giới, một sự hiện diện mà không tự tách mình khỏi một “tương lai mà từ nay đã trở thành của chung”.

Dàn bài và những điểm chính yếu

Dàn bài thì đơn giản. Giữa phần dẫn nhập (mở đầu và nhận định) và lời kêu gọi hành động (kết luận), là ba phần khác: những vấn đề xã hội mới (những điểm đáng chú ý trình bày cách cô đọng và cụ thể); những khát vọng căn bản và các trào lưu tư tưởng (nhận định về các ý thức hệ đang trên đà tiến triển); Những kitô hữu đứng trước những vấn đề mới (xác định về những điều kiện dấn thân).

Vì là một bức Thư, bản văn không mang một tựa đề nói lên cái cốt lõi nội dung. Có nhiều tựa đề khác nhau đã được đề nghị, không có tính cách chính thức, theo từng cách đọc. CERAS về phần mình đã lấy tựa đề “Trách nhiệm chính trị của người kitô hữu” nhằm bình luận thời cuộc. Quả thực đó là một điểm lớn và độc đáo; lãnh vực kinh tế và lãnh vực xã hội gắn liền với lãnh vực chính trị, là chiều kích bao quát của xã hội (24 và 25); chính trị là lãnh vực của các quyền lực, mà đó cũng là một cách thức dấn thân phục vụ con người. “Chính trị là một cách thế đòi hỏi  nhưng không phải là cách thế duy nhất- để kitô hữu sống dấn thân nhằm phục vụ tha nhân”(46).

Một điểm chính yếu khác: phân tích các trào lưu ý thức hệ khác nhau hiện nay và những chuyển biến lịch sử của chúng, với những phê phán vững chắc và tinh tế về các chủ nghĩa xã hội khác nhau, về thuyết Mác xít và về thuyết tư bản tự do trong những hình thức hiện tại. Sự dấn thân của các kitô hữu trong hoạt động phục vụ tha nhân làm phát sinh những xác quyết sau: Giá trị của tư tưởng xã hội của Giáo hội là tư tưởng có tính khởi hứng và giáo dục, là nguồn mạch của sự phân định và phán đoán; nhưng Giáo hội không đề nghị một mô hình được tiền chế (42), mà để cho có sự đa dạng trong lựa chọn: “Cùng một đức tin kitô có thể dẫn đến những dấn thân khác biệt”, mỗi người phải kiểm nghiệm lấy tính chân thực (50).

Tông thư OA đã có tầm ảnh hưởng và phổ biến vượt rất xa người nhận chính thức, là Đức Hồng Y Roy, và hai uỷ ban (công lý và hòa bình, Hội đồng về giáo dân) mà tông thư nhằm khích lệ sự làm việc. Do tính cách lớn lao và mới mẻ của những chủ đề hướng tới tương lai, do những quyền tự do được gợi lên nơi những cộng đoàn kitô hữu, tông thư này đã trở thành một điểm tựa cho rất nhiều trường hợp dấn thân; đồng thời nó cũng đã trở thành điểm tham khảo cho các văn kiện quốc gia.

***

 TÔNG THƯ OCTOGESIMA ADVENIENS

(BÁT THẬP NIÊN)

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI

Gởi Đức Hồng Y Maurice Roy,

chủ tịch Hội đồng giáo hoàng đặc trách về “công lý và hòa bình”

nhân dịp 80 năm kỷ niệm Thông điệp Rerum Novarum.

 

Dẫn nhập

Kính thưa Đức Hồng Y,

1. Dịp kỷ niệm 80 năm việc ban hành thông điệp RN là thông điệp vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho hoạt động vì công bằng xã hội, đã thúc đẩy chúng tôi lấy lại và tiếp nối giáo huấn của các vị tiền nhiệm của chúng tôi, nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của một thế giới đang biến chuyển. Thật vậy, Giáo hội đồng hành với nhân loại và cùng chia sẻ số phận nhân loại giữa lòng lịch sử. Trong khi loan báo cho con người Tin mừng yêu thương của Thiên Chúa và ơn cứu độ trong Chúa Kitô, Giáo hội soi rọi ánh sáng của Tin mừng vào sinh hoạt của con người và nhờ đó giúp đỡ họ đáp trả ý định yêu thương của Thiên Chúa và thực hiện cách viên mãn những khát vọng của họ.

Lời kêu gọi phổ quát cho một nền công bình tốt hơn

2. Trong niềm tin tưởng, chúng tôi nhận thấy Thánh Thần của Chúa theo đuổi công trình của Ngài giữa lòng nhân loại và quy tụ khắp nơi những cộng đoàn kitô hữu ý thức trách nhiệm của họ trong xã hội. Trong tất cả các lục địa, giữa mọi dân tộc, quốc gia, nền văn hóa, ngay giữa hết thảy mọi hoàn cảnh sống, Chúa vẫn tiếp tục khơi dậy nhiều tông đồ đích thực của Tin mừng.

Chúng tôi đã có dịp được gặp gỡ những người đó, chiêm ngưỡng họ, khích lệ họ trong suốt những chuyến công du gần đây của chúng tôi. Chúng tôi đã đến gần dân chúng và đã nghe những tiếng kêu than của họ, tiếng kêu trong khốn quẫn và đồng thời trong hy vọng. Trong những hoàn cảnh ấy, chúng tôi thấy những vấn đề hệ trọng của thời đại chúng ta xuất hiện với một nét đặc sắc mới mẻ, như những đặc thù của từng miền, nhưng lại là những vấn đề chung của nhân loại đang tự vấn về tương lai của mình, về hướng đi và ý nghĩa của những biến chuyển đang xảy ra. Những chênh lệch hiển nhiên tồn tại trong phát triển kinh tế, văn hóa và chính trị của các quốc gia: bên cạnh những miền công nghiệp hóa mạnh mẽ, còn những miền khác vẫn đang còn trong giai đoạn nông nghiệp; bên cạnh những đất nước đang sống sung túc, nhiều nước khác còn đang đấu tranh chống nạn đói; bên cạnh các dân tộc có nền văn hóa cao, nhiều dân tộc khác còn đang luôn ra sức xóa nạn mù chữ. Khắp nơi đều trổi lên khát vọng một nền công bình tốt hơn nữa và dâng trào ước muốn một nền hòa bình đảm bảo hơn, trong sự tôn trọng lẫn nhau giữa người với người, giữa dân tộc với dân tộc.

Những hoàn cảnh khác nhau của các kitô hữu trong thế giới.

3. Hẳn là có nhiều hoàn cảnh rất khác nhau trong đó các kitô hữu đang dấn mình, dù muốn hay không tùy theo vùng, tùy theo hệ thống xã hội – chính trị, tùy theo nền văn hóa. Nơi này, họ rút vào im lặng, bị ngờ vực và có thể nói họ bị đẩy ra ngoài lề xã hội, bị vây bọc không tự do trong một hệ thống độc tài. Nơi kia, họ là thiểu số yếu ớt mà tiếng nói khó được nghe. Trong những quốc gia khác, chỗ đứng của Giáo hội được nhìn nhận, đôi khi một cách chính thức, thì chính Giáo hội lại phải chịu lụy những hậu quả của cuộc khủng hoảng làm đảo điên xã hội, và một số thành phần của Giáo hội bị cám dỗ chạy theo những giải pháp cực đoan và bạo lực mà họ tưởng có thể hy vọng đạt được một kết quả mang lại hạnh phúc hơn. Trong khi một số này, không ý thức về những bất công hiện tại, nỗ lực duy trì tình cảnh hiện có, một số khác để mình bị lôi cuốn theo các ý thức hệ cách mạng hứa hẹn với họ, một lời hứa ảo tưởng một thế giới dứt khoát tốt đẹp hơn.

4. Trước nhiều hoàn cảnh khác biệt như thế, rất khó cho chúng tôi công bố một lời lẽ duy nhất, cũng như đề nghị một giải pháp có giá trị phổ quát. Đó không phải là tham vọng mà cũng không là sứ mạng của chúng tôi. Chính các cộng đoàn kitô hữu phải phân tích một cách khách quan hoàn cảnh riêng của đất nước mình, làm nó sáng tỏ bằng ánh sáng của lời bất biến của Tin mừng, múc lấy những nguyên tắc suy tư, những chuẩn mực cho phán đoán và chỉ nam cho hành động nơi giáo huấn xã hội của Giáo hội như đã được soạn thảo trong dòng lịch sử và nhất là, trong kỷ nguyên công nghiệp này, tính từ mốc lịch sử của sứ điệp của đức Lêô XIII về “tình trạng của những người công nhân”, mà chúng ta vinh dự và hân hoan mừng kỷ niệm hôm nay. Chính các cộng đồng kitô hữu này phải biện phân, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, trong sự hiệp thông với các Giám mục hữu trách, trong đối thoại với những anh em kitô hữu khác và với mọi người thiện chí, để chọn lựa lập trường và cách dấn thân phù hợp nhằm thực hiện những biến đổi xã hội, chính trị và kinh tế nào tỏ ra hết sức cần thiết trong từng trường hợp. Trong cuộc tìm kiếm nhằm hoàn thiện những đổi thay đó, kitô hữu trước hết phải canh tân lòng tin tưởng của họ vào sức mạnh và sự độc đáo của những đòi hỏi Tin Mừng. Tin Mừng không bị lỗi thời do nó đã được loan báo, được viết, được sống trong một bối cảnh văn hóa – xã hội khác. Tính cách linh hứng của nó, được phong phú hóa bởi kinh nghiệm sống động của truyền thống kitô giáo qua các thế kỷ, vẫn luôn luôn mới mẻ giúp con người hoán cải và đời sống xã hội tiến bộ, nhưng không vì thế mà đi đến chỗ sử dụng Tin Mừng để hỗ trợ những lựa chọn đặc thù trong lãnh vực trần thế, trong khi lại bỏ quên sứ điệp phổ quát và vĩnh cửu của nó.

Sứ điệp đặc biệt của Giáo hội.

5. Giữa những nhiễu loạn và hoang mang của thời cuộc hiện nay, Giáo hội có một sứ điệp đặc biệt phải công bố, một điểm tựa để trao ban cho con người hầu giúp đỡ họ trong nỗ lực nắm giữ và định hướng tương lai của họ. Kể từ lúc thông điệp RN tố giác một cách mãnh liệt và cấp bách vụ bê bối về tình trạng thợ thuyền trong xã hội công nghiệp mới phát sinh, sự tiến triển lịch sử đã gây ý thức, như các thông điệp Tứ Thập niên,   và Mẫu sư   đã ghi nhận, về những chiều kích khác và những ứng dụng khác của công bằng xã hội. Công đồng mới đây, về phần mình, đã cố gắng nêu bật lên những điều đó, đặc biệt qua hiến chế GS, chính chúng tôi cũng đã tiếp nối những định hướng này qua thông điệp PP. Ngày nay, sự kiện quan trọng mà mỗi người phải ý thức là vấn đề xã hội đã trở nên có tính toàn cầu” . “Ý thức đã được đổi mới về những đòi hỏi của sứ điệp Tin Mừng khiến Giáo hội thấy mình có nghĩa vụ dấn thân phục vụ cho con người nhằm giúp họ nắm bắt hết mọi chiều kích của vấn đề hệ trọng này và nhằm thuyết phục họ về sự cấp bách phải có một hành động liên đới tại khúc quanh lịch sử này của nhân loại” .

Nghĩa vụ này, điều mà chúng tôi rất ý thức, thúc đẩy chúng tôi hôm nay đưa ra một vài suy nghĩ và đề xướng được gợi ý bởi tầm mức lớn lao của những vấn đề đặt ra cho thế giới ngày hôm nay.

6. Vả lại, thượng hội đồng Giám mục sắp tới sẽ đích thân nghiên cứu sát gần hơn và đào sâu sứ mạng trước những vấn đề nghiêm trọng do sự công bình trong thế giới đặt ra ngày nay. Nhưng, thưa đức Hồng Y chủ tịch của uỷ ban “Công lý và hòa bình” và của hội đồng đặc trách về giáo dân, dịp kỷ niệm “thông điệp RN” này cho chúng tôi cơ hội tỏ bày những ưu tư và suy nghĩ của chúng tôi khi đứng trước vấn đề này cho ngài. Chúng tôi cũng muốn qua đây cổ võ các cơ quan này của tòa thánh trong hoạt động của Giáo hội nhằm phục vụ cho con người.

Tầm mức lớn lao của những biến chuyển hiện nay.

7. Làm như thế, dù không quên những vấn đề thường xuyên đã được đề cập đến bởi những vị tiền nhiệm của chúng tôi – mục đích của chúng tôi là lôi kéo sự chú ý đến một số vấn đề, mà do tính cấp bách, mức độ lớn lao và phức tạp của chúng, phải là những bận tâm chính yếu của các kitô hữu trong những năm tới, để cùng với những người khác họ cố gắng giải quyết những khó khăn mới đang lên án chính tương lai của con người. Phải đặt những vấn đề xã hội phát sinh từ nền kinh tế hiện đại – điều kiện nhân bản của việc sản xuất, công bằng trong việc trao đổi của cải và phân phối tài nguyên, ý nghĩa của những nhu cầu hưởng thụ gia tăng, chia sẻ trách nhiệm – trong một bối cảnh rộng lớn hơn của nền văn minh mới. Trong những biến chuyển hiện nay, rất sâu sắc và rất nhanh chóng, mỗi ngày con người tự khám phá ra mình mới mẻ và họ tự hỏi về ý nghĩa hiện hữu của chính mình và của sự tồn sinh cộng đồng. Họ do dự đón lấy những bài học của một quá khứ mà họ cho là đã trôi qua và quá khác biệt, dẫu thế họ vẫn cần được soi rọi vào tương lai mình – một tương lai mà họ nhận thấy bấp bênh hay thay đổi – bằng những chân lý trường tồn, vĩnh cửu hẳn là vượt trên họ, nhưng nếu như họ muốn họ có thể tự mình khám phá thấy những dấu vết của chúng.

NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI MỚI

Đô thị hóa

8. Một hiện tượng lớn thu hút sự chú ý của chúng ta: vấn đề đô thị hóa, trong những nước công nghiệp hóa cũng như trong những nước đang phát triển.

Sau nhiều thế kỷ đằng đẵng, văn minh nông nghiệp yếu dần đi. Vả chăng, người ta có quan tâm đủ đến việc quy hoạch lại và cải thiện đời sống người nông dân: đời sống ở trong hoàn cảnh kinh tế thấp kém và đôi khi cơ cực khiến họ phải ra đi sống chen chúc ở những vùng ngoại ô thành phố, nơi không có nhà cửa lẫn công ăn việc làm cho họ?

Sự bỏ quê ra đi thường xuyên này, sự phát triển công nghiệp, việc tăng vọt nhân khẩu liên tục, sự hấp dẫn của những trung tâm đô thị dẫn đến sự tập trung dân số cao độ đến nỗi khó có thể tưởng tượng được, vì rằng người ta nói đến những thành phố khổng lồ tập trung hàng mấy chục triệu dân. Chắc hẳn là có những thành phố mà kích thước của nó bảo đảm được một sự cân bằng về dân số tốt hơn. Những thành phố đó có khả năng cung ứng việc làm cho những người mà tiến bộ nông nghiệp đã biến họ thành kẻ rỗi rảnh, chúng tạo điều kiện cho việc sắp xếp lại toàn thể dân sự nhằm tránh tình trạng vô sản hóa (prolétarisation) và chen chúc (entasssements) của các đô thị lớn.

9. Sự bành trướng vô lường của những đô thị này đi kèm theo sau sự phát triển công nghiệp, nhưng không đồng hóa với nó. Dựa trên việc nghiên cứu công nghệ và biến đổi thiên nhiên, quá trình công nghiệp hóa luôn theo đuổi con đường của mình, chứng tỏ một sự sáng tạo không ngừng. Trong khi một số xí nghiệp khuếch trương và tập trung hóa, số khác thì chết đi hoặc chuyển dời, làm nảy sinh những vấn đề xã hội mới: nạn thất nghiệp vì nghề hay từng vùng, việc chuyển đổi sản xuất và sự di động của những người lao động phải thích ứng thường xuyên, sự chênh lệch những điều kiện trong các ngành công nghiệp khác nhau. Sự cạnh tranh tự do, sử dụng những phương tiện quảng cáo hiện đại, giới thiệu liên tục những sản phẩm mới và cố gắng lôi cuốn người tiêu thụ, đang khi những máy móc công nghiệp cũ kỹ, dù tình trạng còn tốt, trở thành vô dụng. Trong lúc nhiều tầng lớp rộng rãi dân chúng còn chưa thỏa mãn được những nhu cầu sơ đẳng của họ, người ta lại chế tạo ra những nhu cầu dư thừa. Thế nên ta có thể tự hỏi một cách ngay thẳng liệu con người, mặc mọi nỗ lực chinh phục, có đưa những kết quả việc làm của mình quay lại chống chính mình hay không. Sau khi đã nắm chắc được sức ảnh hưởng trên thiên nhiên , con người giờ đây có trở nên nô lệ cho những đồ vật mà họ sản xuất không?

Người kitô hữu trong đô thị

10. Sự bộc phát của một nền văn minh đô thị hóa, đi theo sau sự đi lên của nền văn minh công nghiệp, không phải là một thách thức cho đầu óc khôn ngoan của con người, cho năng lực tổ chức, cho trí tưởng tượng hướng đến tương lai của họ sao? Ở ngay giữa lòng xã hội công nghiệp, sự đô thị hóa làm đảo lộn các cách thức sống và những cơ cấu quen thuộc của cuộc sống: gia đình, xóm giềng, các khuôn khổ của chính cộng đoàn kitô hữu. Con người cảm nghiệm một sự cô đơn mới, không phải trước một thiên nhiên thù địch mà họ đã dùng hàng bao thế kỷ để chế ngự, nhưng trong đám đông vô danh đang bao quanh họ và ở đó họ cảm thấy mình là người xa lạ. Hẳn là một giai đoạn không thể đảo ngược trong quá trình phát triển của các xã hội con người, đô thị hóa đặt ra cho con người nhiều vấn đề khó khăn: làm thế nào để làm chủ được sự tăng trưởng của nó, điều hòa được tổ chức của nó, đưa sự linh hoạt của nó tới sự thành đạt có ích cho mọi người?

Trong sự tăng trưởng vô trật tự đó, quả thực đã nảy sinh những tầng lớp vô sản mới. Họ cư ngụ giữa lòng các thành phố mà những người giàu bỏ đi; họ cắm lều trong những vùng ngoại ô, như vành đai khốn cùng đang vây hãm, trong một thái độ phản kháng còn ngấm ngầm, lối sống xa hoa trơ trẽn của những thành phố hưởng thụ và phung phí. Thay vì giúp cho một cuộc gặp gỡ huynh đệ và tương trợ, thành phố lại làm gia tăng những mối kỳ thị và cả sự lãnh đạm; nó làm duyên cớ cho những hình thức bóc lột và thống trị mới, là nơi cho một số người lợi dụng những nhu cầu của người khác hòng rút tỉa những món lợi không thể chấp nhận được. Đàng sau những mặt nổi, ẩn tàng vô số những cảnh khốn cùng, thậm chí không được những láng giềng gần nhất biết đến; nhiều người khác chìm đắm trong một cuộc sống không còn phẩm giá con người: tình trạng tội phạm, tội ác, ma túy, dâm ô.

11. Thật ra chính những kẻ yếu thế nhất là nạn nhân của những điều kiện sống phi nhân, mất nhân phẩm đối với lương tâm và có hại cho định chế gia đình đó: sống chung đụng trong những chung cư bình dân không thể có được sự thân mật tối thiểu; những gia đình trẻ, mong chờ trong vô vọng được một chỗ ở đàng hoàng với giá phải chăng, dễ nản lòng và sự chung thủy của họ thậm chí có thể bị tổn thương, thanh thiếu niên trốn chạy khỏi gia đình của mình và tìm ở ngoài đường phố những bù trừ và những quan hệ bạn bè không kiểm soát được. Các nhà chức trách có nhiệm vụ nặng nề phải tìm cách kềm chế và định hướng được quá trình này.

Ở từng cấp đường phố, khu phố hay toàn thành phố, phải khẩn cấp tái lập môi trường xã hội nơi con người có thể triển nở được những nhu cầu của nhân cách. Cần phải xây dựng và phát triển những tụ điểm và từng trung tâm văn hóa ở cấp độ cộng đồng giáo xứ, trong những hình thức hiệp hội khác nhau này, những câu lạc bộ giải trí, những nơi hội họp, những cuộc gặp gỡ mang màu sắc tâm linh và cộng đoàn, nơi mỗi con người, thoát khỏi được nỗi cô độc, sẽ tạo lập lại những tương giao huynh đệ.

12. Việc xây dựng thành phố hôm nay, là môi trường sống của con người và của những cộng đồng nới rộng của họ, việc kiến tạo những cách thế mới mẻ để gần gũi và quan hệ với nhau, việc nhận thức một áp dụng độc đáo của công bằng xã hội, việc đảm trách một tương lai tập thể đầy khó khăn, đó là một bổn phận mà các kitô hữu phải tham gia. Đối với những con người sống chen chúc chung đụng trong những khu ổ chuột khó chịu ở thành phố đó, phải làm sao mang lại cho họ một sứ điệp của hy vọng, bằng một tình huynh đệ sống động và một sự công bằng cụ thể. Ước mong sao những người kitô hữu, ý thức được trách nhiệm mới mẻ này, đừng đánh mất trái tim giữa đô thị bao la lãnh đạm, nhưng luôn nhớ đến ngôn sứ Giona, đi dọc suốt thành Ninivê rộng lớn để loan báo Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa, được nâng đỡ trong sự yếu kém của mình bởi sức mạnh duy nhất của Lời Thiên Chúa Toàn năng.

Trong Kinh thánh, đô thị thường là nơi chốn của tội lỗi và của lòng kiêu ngạo, lòng kiêu ngạo của một con người cảm thấy mình đủ khả năng xây dựng một cuộc sống không cần Thiên Chúa và thậm chí tự khẳng định mình mạnh mẽ đủ để chống đối Ngài. Tuy nhiên, đó cũng là Giêrusalem, Thành thánh, là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, là lời hứa cho hình ảnh của thành phố được hứa từ trên cao.

Giới trẻ

13. Cuộc sống đô thị và biến chuyển công nghiệp đặt ra cách sống động những vấn đề mà cho đến nay vẫn chưa được nhận thức đúng. Chẳng hạn như, trong thế giới đang hình thành đâu là chỗ đứng của người phụ nữ và của người trẻ?

Ở khắp nơi đều thấy có những khó khăn trong cuộc đối thoại giữa người trẻ, mang nhiều khát vọng, mang đổi mới nhưng cũng bất an đối với tương lai, và các thế hệ người lớn. Có ai lại không thấy nơi đó một nguồn phát sinh những xung đột trầm trọng, những gẫy vỡ và từ nhiệm, ngay cả ở giữa lòng gia đình, và một vấn đề được đặt ra về những cách thức hành quyền, về giáo dục quyền tự do, về sự truyền đạt các giá trị và tín ngưỡng chạm đến gốc rễ sâu xa nhất của xã hội?

Vị trí của người phụ nữ

Cũng thế, trong nhiều nước, một quy chế về người phụ nữ nhằm chấm dứt sự kỳ thị thực thụ và thiết lập những mối tương quan bình đẳng về quyền lợi và sự tôn trọng phẩm giá của họ là đối tượng của những nghiên cứu, đôi khi là đối tượng của những yêu sách gay gắt. Chúng ta không nói về thứ bình đẳng sai lạc phủ nhận những khác biệt mà chính Tạo Hóa thiết lập ra; thứ bình đẳng mâu thuẫn với vai trò đặc thù, mà cũng rất chính yếu của người phụ nữ ở giữa tổ ấm gia đình, cũng như ở giữa lòng xã hội. Ngược lại lập pháp phải được phát huy theo chiều hướng bảo vệ ơn gọi riêng của họ, đồng thời công nhận sự độc lập của họ như những nhân vị, công nhận quyền bình đẳng về quyền được tham dự vào đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội.

Người lao động

14. Giáo hội đã long trọng tái khẳng định ở Công đồng cuối cùng vừa qua: “Nhân vị chính là và phải là nguyên lý, chủ thể và cứu cánh của mọi định chế”.  Mọi người ai cũng có quyền lao động, quyền có thể phát triển các phẩm chất và nhân cách của mình qua việc thực hành nghề nghiệp mình, quyền được trả công xứng đáng sao cho con người có đủ khả năng “xây dựng cho mình và gia đình một đời sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần , quyền được trợ giúp khi có nhu cầu cần kíp, khi bệnh hoạn hoặc già yếu.

Nếu như, vì để bảo vệ các quyền này, các xã hội dân chủ chấp nhận nguyên tắc của quyền về nghiệp đoàn, nhưng lại không luôn cởi mở cho việc thi hành quyền này. Người ta chấp nhận vai trò quan trọng của các nghiệp đoàn: chúng nhằm mục tiêu đại diện cho nhiều giới người lao động, công nhận sự hợp tác hợp pháp của chúng vào việc phát triển kinh tế của xã hội, triển khai ý nghĩa của những trách nhiệm của chúng, nhằm thực hiện công ích. Tuy nhiên, hoạt động của các nghiệp đoàn không phải là không gặp khó khăn: cám dỗ có thể xuất hiện, chỗ này chỗ kia, khi chúng lợi dụng quyền lực mình có nhằm áp đặt, nhất là đình công – một quyền hẳn là vẫn còn được công nhận như phương thế cuối cùng để tự vệ, những điều kiện quá nặng nề đối với toàn thể nền kinh tế hoặc đoàn thể xã hội hay nhằm sao cho đạt được những yêu sách trực tiếp thuộc lãnh vực chính trị. Đặc biệt khi có liên hệ đến những dịch vụ công cộng, thiết yếu cho đời sống thường ngày của toàn thể một cộng đồng, người ta phải biết định ra ranh giới cuối cùng mà nếu vượt qua thì sẽ phát sinh hậu quả tai hại không thể chấp nhận được.

Những nạn nhân của biến chuyển thời cuộc

15. Một cách vắn tắt, có nhiều tiến bộ đã được thực hiện nhằm đưa đến, ngay trong các quan hệ nhân bản, tình trạng công bằng hơn và tham gia nhiều hơn vào các trách nhiệm. Tuy nhiên, trong lãnh vực rộng lớn này, vẫn còn nhiều điều phải làm. Vì thế, phải tích cực đeo đuổi việc suy tư, nghiên cứu và thử nghiệm, nếu không thì sẽ vẫn ở lại trong tình trạng chậm đáp ứng những khát vọng hợp pháp của người lao động, những khát vọng dần dà được khẳng định hơn nữa theo đà phát triển nơi người lao động về mặt: đào tạo ý thức về phẩm giá, và sức mạnh của các tổ chức của họ. Tính ích kỷ và óc thống trị là những cám dỗ thường tồn của con người. Vì thế, cần thiết phải biết luôn biện phân tinh tế hơn nữa hầu nắm được từ gốc rễ những hoàn cảnh bất công vừa phát sinh và thiết lập dần dà một nền công bình ngày càng ít bất toàn hơn. Trong cuộc biến chuyển công nghiệp, cuộc biến chuyển đòi hỏi một sự thích nghi nhanh chóng và thường xuyên, những người bị tổn hại sẽ ngày càng đông và càng bị bất lợi trong việc làm cho mọi người nghe được tiếng nói của họ. Đối với những “người nghèo” mới này – những người khuyết tật và không thích nghi được, những người già cả, những kẻ sống bên lề xã hội, thuộc mọi nguồn gốc khác nhau – Giáo hội cần chú ý để nhận ra họ, giúp đỡ, bảo vệ chỗ đứng và phẩm giá của họ trong một xã hội đang chai cứng lại bởi sự cạnh tranh và mong ước sự thành đạt.

Những kỳ thị

16. Trong số những nạn nhân của tình trạng bất công – tiếc rằng đây không phải là hiện tượng mới mẻ gì, – phải kể đến những người là đối tượng của những sự kỳ thị, theo luật pháp hoặc theo sự kiện thực tế, vì lý do chủng tộc, nguồn gốc, màu da, văn hóa, phái tính hay tôn giáo của họ.

Sự kỳ thị chủng tộc, ngày nay, mang một nét thời sự kịch liệt hơn do sự căng thẳng mà nó tạo ra trong nội bộ một số nước cũng như trên chính bình diện quốc tế. Thật hợp lý khi con người coi là không thể biện minh được khuynh hướng muốn duy trì hoặc tạo ra một pháp luật hay những thái độ ứng xử được gợi ra một cách hệ thống từ những thành kiến chủng tộc: mọi phần tử của nhân loại chia sẻ cùng một bản tính và do đó có cùng phẩm giá đồng thời có cùng quyền lợi và nghĩa vụ căn bản như nhau, cũng như có cùng một định mệnh siêu nhiên. Ở trong cùng một xứ sở chung, tất cả mọi người phải được bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong những phương thế tiếp cận cuộc sống kinh tế, văn hóa, dân sự hay xã hội, và được hưởng cách công bằng trong phân phối của cải quốc gia.

Quyền được di trú

17. Chúng tôi cũng nghĩ đến tình cảnh bấp bênh của một số lớn những người lao động nhập cư, mà tình trạng ngoại kiều khiến họ càng gặp thêm khó khăn, trong việc đưa ra bất cứ yêu sách xã hội nào cho dù họ có phần đóng góp thực sự vào nền kinh tế của đất nước tiếp nhận. Người ta phải cấp bách biết vượt qua một thái độ quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi đối với họ, để thiết lập một quy chế công nhận quyền được di trú, tạo thuận lợi cho những người đó được hội nhập, giúp đỡ họ thăng tiến nghề nghiệp và có chỗ ở xứng đáng, và nếu được, đủ cho cả gia đình họ đoàn tụ.

Gắn liền với tình cảnh này chính là những đoàn dân, để tìm việc làm, để chạy trốn một họa tai hoặc khí hậu khắc nghiệt, họ phải đành rời bỏ quê cha đất tổ của họ và sống mất gốc ở giữa những người khác (xa lạ).

Bổn phận của mọi người – và nhất là của người kitô hữu  – là phải hành động mạnh mẽ để kiến tạo một tình huynh đệ phổ quát, là nền tảng thiết yếu cho một nền công bình đích thực và là điều kiện cho một nền hòa bình lâu dài: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là cha mọi người, nếu chúng ta từ chối xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Quan hệ giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa”  (1Ga 4,8).

Tạo ra công ăn việc làm

18. Với sự gia tăng dân số, đặc biệt trong các quốc gia non trẻ, số người không tìm được việc làm và buộc phải sống trong cảnh cùng khổ hoặc sống nhờ sẽ ngày càng gia tăng trong những năm sắp tới, nếu như sự thức tỉnh lương tâm không đi đôi với một phong trào tỏ tình liên đới chung bằng một chính sách hữu hiệu cho đầu tư, tổ chức sản xuất và thương mại hóa, cũng như đào tạo. Chúng ta biết những cơ quan đầu não quốc tế đang tập trung chú ý đến những vấn đề này và chúng ta nóng lòng mong đợi các thành viên của những cơ quan ấy không lần lữa đưa ra những hành động phù hợp với tuyên ngôn của họ.

Chúng ta lo ngại thấy rằng trong lãnh vực này có một thứ chủ thuyết định mệnh nào đó đang xâm nhập ý thức nhiều nhà hữu trách. Tâm trạng này đôi khi dẫn đến những giải pháp theo kiểu học thuyết Malthus được tuyên truyền, ca tụng tích cực cổ võ ngừa thai và phá thai. Trong hoàn cảnh gay gắt đó, ngược lại, phải khẳng định rằng gia đình, nếu không có thì không xã hội nào có thể tồn tại, có quyền được giúp đỡ để có những điều kiện phát triển cách lành mạnh. “Chắc chắn, như đã nói trong thông điệp PP, các nhà cầm quyền, trong giới hạn của khả năng của họ, có thể can thiệp, bằng cách phát huy mạng lưới thông tin tích hợp và đưa ra những biện pháp thích nghi, miễn sao chúng phù hợp với những đòi hỏi của luật luân lý và tôn trọng quyền tự do chính đáng của các đôi vợ chồng. Không có quyền kết hôn và sinh sản, là một quyền không thể tước bỏ, thì sẽ không còn phẩm giá con người”.

19. Chưa bao giờ ở bất cứ thời đại nào, có một lời kêu gọi đến khả năng vận dụng óc sáng tạo xã hội rõ ràng như thế. Con người phải dành nhiều tâm lực phát minh và vốn liếng quan trọng như vốn liếng đã dành để đầu tư cho quân sự hoặc cho những hiệu năng kỹ thuật. Nếu con người để mình bị chìm ngập bởi những lo toan khác mà không thấy trước kịp thời tính cấp bách của những vấn đề xã hội mới, chúng sẽ trở nên quá trầm trọng đến nỗi không thể có được một giải pháp hòa bình nào.

Những phương tiện truyền thông xã hội

20. Trong số những biến chuyển lớn của thời đại chúng ta, chúng tôi không thể quên nhấn mạnh vai trò ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông xã hội cũng như ảnh hưởng của chúng trên việc làm biến đổi tâm thức, tri thức, những cơ cấu tổ chức và chính xã hội. Chắc chắn chúng có những mặt tích cực: nhờ chúng, thông tin trên toàn thế giới đến được chúng ta hầu như tức thì, tạo nên một sự liên lạc vượt không gian và những yếu tố hiệp nhất mọi người; việc đào tạo và văn hóa có thể được lan rộng ra hơn nữa. Tuy nhiên, từ chỗ đó, những phương tiện truyền thông xã hội này, qua chính hoạt động của mình, được coi như là một thứ quyền lực mới. Do vậy làm sao lại không đặt vấn đề về những người thực sự nắm quyền lực này, về những mục tiêu mà họ đeo đuổi và những phương tiện mà họ sử dụng, và sau hết về sự ảnh hưởng của những hoạt động đó, đối với sự thực thi những quyền tự do cá nhân trong lãnh vực chính trị và ý thức hệ cũng như trong đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa? Những người nắm giữ quyền lực này có một trách nhiệm luân lý nặng nề đối với sự thật của những thông tin mà họ phải phổ biến, đối với những nhu cầu và những phản ứng mà họ làm phát sinh, đối với những giá trị nà họ đề nghị. Hơn thế nữa, với truyền hình, bắt đầu có một phương cách hiểu biết độc đáo và một nền văn minh mới: nền văn minh của hình ảnh.

Một cách tự nhiên, các nhà cầm quyền không thể không biết ảnh hưởng gia tăng của các phương tiện truyền thông xã hội cũng như những thuận lợi hoặc nguy cơ do việc sử dụng chúng mang lại cho sự phát triển và tiến bộ đích thực của xã hội dân sự.

Do đó việc của họ là phải thực thi chức năng phục vụ cho công ích một cách tích cực, bằng cách cổ võ cho những sáng kiến xây dựng và làm chỗ dựa cho các cá nhân và tập thể hoạt động nhằm bảo vệ những giá trị nền tảng của nhân vị và cộng đồng con người. Đàng khác, họ cố gắng tránh, bằng những biện pháp hợp thời, không để lan truyền những gì tự bản chất làm hại tới gia sản chung gồm những giá trị làm nền tảng cho tiến bộ đích thực của xã hội.

Môi trường

21. Trong khi tầm nhìn của con người thay đổi bắt đầu từ những hình ảnh mà người ta chọn lựa cho họ, thì một sự biến đổi khác xuất hiện, là hậu quả, cũng bi thảm và bất ngờ, của sinh hoạt con người. Con người bất ngờ ý thức điều đó: do khai thác thiên nhiên một cách thiếu suy nghĩ, nguy cơ xảy đến là thiên nhiên bị hủy hoại và đến lượt con người trở thành nạn nhân của sự hủy hoại đó. Không chỉ môi trường vật chất trở thành một mối đe dọa thường xuyên: ô nhiễm và rác rưởi, những căn bệnh mới, sức mạnh hủy diệt tuyệt đối; nhưng chính con người cũng không còn làm chủ được khung cảnh sống như thế, nó tạo ra cho ngày mai một môi trường mà có lẽ họ sẽ không chịu đựng nổi. Đó là vấn đề xã hội lớn quan hệ đến toàn thể gia đình nhân loại.

Người kitô hữu phải quay về với chính những nhận thức mới này để rồi, cùng với những người khác, đảm trách một vận mệnh mà từ này đã trở thành của chung.

Những khát vọng căn bản và các trào lưu tư tưởng

22. Đang khi tiến bộ khoa học và kỹ thuật tiếp tục làm đảo lộn những khung cảnh sống của con người, những cách thức để hiểu biết, lao động, hưởng thụ và quan hệ luôn luôn tỏ lộ, trong những bối cảnh mới, một khát vọng kép ngày càng mãnh liệt hơn trong quá trình thông tin và giáo dục của con người phát triển: đó là khát vọng về công bằng, khát vọng được tham gia; hai hình thức của phẩm giá con người và của quyền tự do con người.

Những ưu điểm và giới hạn của những công nhận pháp lý

23. Để ghi khắc khát vọng kép này vào trong những sự kiện và cơ cấu, người ta đã thực hiện được nhiều bước tiến trong việc tuyên bố về quyền con người cũng như trong việc tìm kiếm những hiệp ước quốc tế nhằm áp dụng những quyền này.  Tuy nhiên, những sự kỳ thị – về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, chính trị… vẫn luôn nảy sinh. Thực ra, nhân quyền vẫn còn rất thường bị coi thường, nếu không muốn nói bị nhạo báng, hoặc sự tôn trọng nhân quyền chỉ ở mức hình thức. Trong nhiều trường hợp, pháp luật đi chậm hơn hoàn cảnh thực tế. Nó tuy cần thiết nhưng không đủ để xây dựng những mối quan hệ đích thực công bằng và bình đẳng. Tin Mừng, khi dạy chúng ta về đức ái, cũng dạy ta biết tôn trọng một cách đặc biệt những người nghèo và tình cảnh đặc thù của họ trong xã hội: những người được ưu đãi nhất phải từ chối một số quyền lợi nào đó của mình, để dành của cải của họ một cách rộng rãi hơn để phục vụ những người khác. Thật ra, nếu như bên kia những quy tắc pháp lý mà thiếu một tinh thần sâu sắc biết tôn trọng và phục vụ tha nhân, thì ngay cả quyền bình đẳng trước pháp luật có thể sẽ chỉ là cái cớ che đậy những kỳ thị hiển nhiên, những sự bóc lột tiếp tục, một thái độ khinh người trong thực tế. Nếu không có một nền giáo dục đổi mới hướng đến tinh thần liên đới, thì sự khẳng định quá độ quyền bình đẳng có thể làm phát sinh một thứ chủ nghĩa cá nhân mà mỗi người sẽ đòi hỏi quyền lợi của mình mà không ý thức trách nhiệm đến công ích.

Trong lãnh vực này, ai mà lại không thấy phần đóng góp quan trọng của tư tưởng kitô giáo, có thể làm thỏa mãn những khát vọng được yêu thương của con người? “Tình yêu con người, là giá trị đầu tiên của trật tự trần thế”, bảo đảm những điều kiện cho nền hòa bình, xã hội cũng như quốc tế, bằng cách xác định tình huynh đệ phổ quát của chúng ta.

Xã hội chính trị

24. Niềm khát vọng hai mặt hướng về sự bình đẳng và sự tham gia tìm cách phát triển một kiểu xã hội dân chủ. Có nhiều mô hình khác nhau được đề nghị, một số được thử nghiệm; không một mô hình nào thỏa mãn được một cách hoàn toàn và việc tìm kiếm vẫn mở ra cho các các khuynh hướng ý thức hệ và các khuynh hướng thực hành kitô hữu có bổn phận tham gia vào cuộc tìm kiếm này và vào việc tổ chức cũng như vào cuộc sống xã hội chính trị. Là một hữu thể xã hội, con người xây dựng vận mệnh của mình trong một chuỗi cộng đoàn đặc thù hướng đến, như để thực hiện chính mình và như một điều kiện thiết yếu cho sự phát triển mình, một cộng đoàn rộng lớn hơn, có tính chất phổ quát, đó là xã hội chính trị. Mọi hoạt động riêng biệt phải được đặt lại trong cộng đoàn mở rộng này và qua đó, mang chiều kích của công ích.

Do đó, việc giáo dục đời sống trong xã hội là điều kiện quan trọng: ngoài việc thông tin về các quyền của mỗi người, còn phải nhắc đến tính chất quan hệ hỗ tương cần thiết của những quyền đó: nhìn nhận những bổn phận đối với người khác; ý nghĩa và sự thực hành bổn phận chính chúng bị điều kiện hóa bởi sự làm chủ bản thân, bởi sự nhận lấy trách nhiệm và những hạn chế đặt ra cho việc thi hành quyền tự do của cá nhân cũng như tập thể.

25. Hành động chính trị có cần phải lưu ý rằng trước hết điều quan trọng là hành động chứ không phải là ý thức hệ phải dựa trên một dự án của xã hội, một dự án liên kết chặt chẽ với các phương tiện cụ thể của nó và với những gì nó gợi ý, được nuôi dưỡng bởi một quan niệm toàn diện về ơn gọi con người và những biểu hiện xã hội khác nhau của nó. Cả nhà nước lẫn các đảng phải chính trị chỉ nhằm lợi ích cục bộ, không được tìm cách áp đặt một ý thức hệ nào, qua những phương tiện nhằm đạt đến một nền độc tài về mặt tư tưởng, là thứ độc tài sâu xa nhất. Chính các đoàn thể văn hóa và tôn giáo – trên cơ sở quyền tự do gia nhập – có nghĩa vụ, một cách vô vị lợi và bằng những phương thế riêng, phát triển trong toàn xã hội những xác tín tối hậu về bản chất, nguồn gốc và cứu cánh của con người và xã hội.

Trong lãnh vực này, ta nên nhắc lại nguyên tắc đã được Công đồng Vatican II tuyên bố: “Chân lý chỉ áp đặt bằng chính sức mạnh của chân lý, sức mạnh ấy ăn sâu vào tâm hồn một cách vừa êm dịu vừa mãnh liệt.”

Các ý thức hệ và quyền tự do con người

26. Vì thế, người kitô hữu muốn sống đức tin trong một hoạt động chính trị được quan niệm như một sự phục vụ, nếu không muốn tự mâu thuẫn, thì không thể tham gia vào những hệ tư tưởng đối kháng với đức tin tự căn hoặc trên những điểm cốt yếu cũng như với quan niệm của họ về con người, như: ý thức hệ Macxit, chủ nghĩa duy vật vô thần, biện chứng pháp về bạo lực của nó, cách thức nó thủ tiêu quyền tự do cá nhân trong tập thể, đồng thời chối bỏ tính siêu việt nơi con người và lịch sử, cá nhân và tập thể; ý thức hệ tư bản tự do, đề cao quyền tự do cá nhân bằng nhiều cách như: xóa bỏ mọi giới hạn, thúc giục con người chỉ lo tìm kiếm lợi nhuận và quyền lực, và coi những liên đới xã hội như là hệ quả ít nhiều mang tính tự động của sáng kiến cá nhân chứ không phải như là một mục tiêu và là một tiêu chuẩn chính yếu đánh giá việc tổ chức xã hội.

27. Có cần thiết phải nhấn mạnh đến sự mập mờ khả dĩ của tất cả các ý thức hệ xã hội? Có lúc chúng kể hành động chính trị hay xã hội chỉ đơn thuần là sự áp dụng một ý tưởng trừu tượng, thuần túy lý thuyết; có lúc biến tư tưởng thành một khí cụ thuần túy phục vụ cho hành động như phương thế đơn thuần của một chiến lược. Trong cả hai trường hợp, phải chăng đều có nguy cơ con người bị tha hóa? Đức tin kitô giáo nằm ở trên và đôi khi đối nghịch với các ý thức hệ trong mức độ đức tin nhìn nhận Thiên Chúa, là Đấng siêu việt và tạo hóa, Đấng đòi hỏi con người cư xử như hữu thể tự do và có trách nhiệm xuyên qua mọi mức độ của tạo thành.

28. Một nguy hiểm nữa, đó là khi tham gia hoàn toàn vào một ý thức hệ không đặt nền tảng trên một học thuyết đích thực và có hệ thống mà núp bóng dưới đó xem đó như là lời giải thích cuối cùng và đầy đủ cho mọi sự và như thế tự dựng lên một ngẫu tượng mới, một thứ thần tượng mà người ta chấp nhận, đôi khi không ý thức, tính cách độc tài và cưỡng bức. Và người ta nghĩ đã tìm thấy ở đó một sự biện minh cho hành động thậm chí mang tính bạo lực của mình, một sự đáp ứng cho lòng ước muốn phục vụ quảng đại của mình; Lòng ước muốn vẫn còn đó, nhưng đã bị hòa tan trong một ý thức hệ – cả khi ý thức hệ đề nghị một con đường để giải phóng con người – cuối cùng rồi cũng biến họ thành nô lệ cho nó.

29. Nếu như người ta đã có thể nói rằng ngày nay các ý thức hệ đang thụt lùi, thì có lẽ đây là lúc thuận tiện để con người cởi mở trước sự siêu việt cụ thể của kitô giáo. Cũng có thể có xu hướng nghiêng về một thứ chủ nghĩa tân thực chứng: Kỹ thuật được toàn cầu hóa như một hình thức thống trị sinh hoạt con người, như một thể thức hiện hữu tràn ngập khắp nơi, thậm chí như một ngôn ngữ, nhưng vấn đề ý nghĩa của nó lại không được thực sự đặt ra.

Các trào lưu lịch sử

30. Nhưng bên ngoài chủ nghĩa thực chứng này, một chủ nghĩa giản lược con người thành chỉ còn một chiều kích – dẫu cho chiều kích đó ngày nay là quan trọng – và như thế đã làm tổn thương con người, người kitô hữu, trong hành động của mình, gặp thấy những trào lưu lịch sử cụ thể, xuất thân từ những ý thức hệ nhưng đàng khác lại khác với những ý thức hệ đó. Đấng tiền nhiệm khả kính của tôi, đức Gioan 23, trong thông điệp PT, đã cho thấy rằng có thể có sự phân biệt đó: “Chúng ta không thể đồng hóa những triết thuyết sai lầm về bản chất, nguồn gốc và cứu cánh của thế giới và con người, với những trào lưu lịch sử đặt nền tảng trên một mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa hay chính trị, cả khi chúng xuất thân từ những triết thuyết này và vẫn còn lấy nguồn hứng từ đó. Một học thuyết, một khi đã được ấn định và công thức hóa, không còn thay đổi nữa, trong khi đó các trào lưu nhắm đối tượng là những điều kiện cụ thể và thay đổi của cuộc sống lại không bị ảnh ưởng rộng rãi bởi tiến bộ. Vả chăng, trong mức độ mà các trào lưu này hòa hợp với những nguyên lý đúng đắn của lý trí và đáp ứng những khát vọng chính đáng của con người, ai có thể từ chối không công nhận nơi chúng những nhân tố tích cực và đáng khen?”

Sự hấp dẫn của những trào lưu xã hội chủ nghĩa

31. Ngày nay nhiều kitô hữu bị thu hút bởi trào lưu xã hội chủ nghĩa và những chuyển biến khác nhau của chúng. Họ cố nhận ra ở nơi đó có một số khát vọng mà họ đang mang trong chính mình nhân danh đức tin của họ. Họ cảm thấy được đưa vào trong trào lưu lịch sử này và muốn ra tay hành động. Ngoài ra, tùy theo từng lục địa và văn hóa, trào lưu lịch sử này mang những hình thức khác nhau dưới cùng một từ ngữ, cả khi nó đã và vẫn còn, trong nhiều trường hợp được gợi hứng bởi những ý thức hệ không tương hợp với đức tin. Cần có biện phân thận trọng. Những kitô hữu bị hấp dẫn bởi chủ nghĩa xã hội rất thường có khuynh hường lý tưởng hóa nó bằng những từ ngữ rất tổng quát: ước muốn công bằng, liên đới và bình đẳng. Họ không thừa nhận các cưỡng chế của các phong trào lịch sử xã hội này, chúng vẫn còn bị ảnh hưởng bởi những ý thức nguyên thủy. Giữa các mức độ diễn tả khác nhau của chủ nghĩa xã hội – một khát vọng quảng đại và một sự tìm kiếm một xã hội công bằng hơn, những trào lưu lịch sử có một tổ chức và một mục tiêu chính trị, một ý thức hệ có tham vọng đưa ra một quan điểm toàn diện và tự trị về con người, – ta cần thiết lập những sự phân biệt hầu sẽ hướng dẫn cho những chọn lựa cụ thể. Tuy nhiên, không nên để những phân biệt này hướng đến việc xem những mức độ đó như hoàn toàn tách biệt và độc lập nhau. Cần phải nhận ra mối quan hệ giữa các mức độ tùy theo hoàn cảnh và sự sáng suốt này sẽ giúp cho các kitô hữu xem xét mức độ dấn thân khả dĩ trên con đường này và đồng thời bảo toàn các giá trị, đặc biệt về tự do, trách nhiệm và cởi mở tinh thần, bảo đảm cho sự triển nở toàn của con người.

Tiến hóa lịch sử của thuyết Macxit

32. Có những kitô hữu tự hỏi khi thuyết Macxit có những chuyển biến theo dòng lịch sử, có được phép thực hiện hành động tiếp cận cụ thể không? Quả thật ta nhận thấy một sự bùng nổ nào đó của thuyết Macxit, là thuyết cho đến nay đã được trình bày như một ý thức hệ thống nhất, khoa học lý giải được toàn thể về con người và thế giới trong quá trình phát triển của nó, và là thuyết vô thần. Ở bên ngoài sự đối đầu ý thức hệ chính thức tách rời các nhà bảo vệ chủ nghĩa Mác Lê khác nhau trong đường lối giải thích tư tưởng của những nhà sáng lập, và những đối lập công khai giữa các hệ thống chính trị dựa trên tư tưởng đó ngày nay, một số người nêu lên những phân biệt về các mức độ khác nhau trong việc thể hiện thuyết Macxit.

33. Đối với những người này, thuyết Macxit chủ yếu vẫn là một thực hành chủ động của công cuộc đấu tranh giai cấp. Kinh nghiệm về những tương quan mãnh liệt luôn hiện thực và không ngừng nảy sinh nhằm thống trị và bóc lột giữa người với người, họ giản lược thuyết Macxit chỉ còn là cuộc đấu tranh, đôi khi không có dự định nào khác, cuộc đấu tranh phải theo đuổi và thậm chí được khơi lên thường xuyên. Đối với những người khác, trước hết, nó là sự hành xử tập thể một quyền lực chính trị và kinh tế dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất, đảng này muốn mình và chỉ một mình là biểu hiệu và là bảo đảm của lợi ích mọi người, tước bỏ nơi cá nhân và tập thể khác mọi khả năng sáng kiến và lựa chọn. Ở một mức độ thứ ba, thuyết Macxit – dù có nắm quyền lực hay không – liên hệ tới một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa đặt nền tảng trên thuyết duy vật lịch sử và chối bỏ mọi sự siêu việt. Sau cùng, nó còn xuất hiện dưới một hình thức nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn đối với con người hiện đại: như một hoạt động khoa học, như một phương pháp chặt chẽ để khảo sát thực tại xã hội và chính trị, như dây liên kết hợp lý và đã trải qua thực nghiệm lịch sử giữa tri thức lý thuyết và sự thực hành biến đổi cách mạng. Dù cho kiểu phân tích này coi trọng một số mặt nào đó của thực tại và coi nhẹ những mặt khác, và giải thích chúng theo ý thức hệ, tuy vậy nó cũng tạo ra cho một số người, với một dụng cụ làm việc, một xác tín trước khi hành động, với tham vọng đọc ra được, bằng một cách thức “khoa học”, những động lực của tiến hóa xã hội.

34. Nếu như xuyên qua thuyết Macxit, như nó đã được sống cách cụ thể, mà người ta có thể phân biệt được những mặt khác nhau này và những vấn đề chúng đặt ra cho người kitô hữu suy nghĩ và hành động, thì cũng sẽ là ảo tưởng và nguy hiểm nếu từ đó mà quên đi dây liên kết chúng từ trong cội rễ thâm sâu, nếu chấp nhận những yếu tố của phân tích Macxit mà không nhận ra tương quan của chúng với ý thức hệ, nếu đi vào thực hành đấu tranh giai cấp và cách giải thích Macxit của nó mà lại không nhận thấy kiểu xã hội độc tài và hung bạo mà quá trình này đang hướng tới.

Ý thức hệ tư bản tự do

35. Mặt khác, người ta đang chứng kiến một cuộc đổi mới ý thức hệ tư bản tự do. Trào lưu này tự khẳng định mình, hoặc nhân danh tính hiệu quả kinh tế, hoặc để bảo vệ cá nhân chống lại những ảnh hưởng ngày càng lan tràn của các tổ chức, hoặc để chống lại các khuynh hướng độc tài về quyền lực chính trị. Và, chắc chắn là sáng kiến cá nhân phải được duy trì và phát huy. Nhưng phải chăng các kitô hữu đang dấn thân trên con đường này đến lượt họ có khuynh hướng lý tưởng hóa chủ nghĩa tư bản tự do, như một tiếng kêu đòi quyền tự do? Họ muốn một mô hình mới phù hợp hơn với điều kiện hiện nay, nhưng lại dễ dàng quên rằng, trong chính cội rễ của nó, chủ nghĩa tự do triết học là một khẳng định sai lầm về sự độc lập của cá nhân, trong hành động, động cơ, sự thực hành quyền tự do của nó. Nói thế có nghĩa là, đối với ý thức hệ tự do ta cũng phải có sự biện phân thận trọng.

Sự biện phân kitô

36. Trong khi đổi mới cách tiếp cận với những ý thức hệ khác nhau, ở những nguồn mạch đức tin của mình và ở trong giáo huấn của Giáo hội, kitô hữu sẽ múc những nguyên tắc và tiêu chuẩn hợp thời để tránh không để mình bị cuốn hút và rồi khép kín lại trong một hệ thống mà những hạn chế và sự độc tài của nó có nguy cơ tỏ ra hiện thực đối với họ một khi đã quá trễ, nếu như họ không nhìn chúng từ trong gốc rễ của chúng. Kitô hữu, vượt qua mọi hệ thống mà không từ bỏ dấn thân cụ thể phục vụ anh em mình, sẽ khẳng định, ngay giữa những chọn lựa của mình, những đóng góp đặc thù của kitô giáo nhằm biến đổi tích cực cho một xã hội.

Sự phục hưng của những không tưởng (Renaissance des utopies)

37. Ngày nay, những nhược điểm của các ý thức hệ được thấy rõ hơn qua các hệ thống cụ thể mà chúng cố thể hiện mình. Chủ nghĩa xã hội quan liêu, chủ nghĩa tư bản thống trị bằng kỹ thuật, dân chủ độc tài tất cả đều gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề lớn lao là làm sao con người có thể chung sống với nhau trong công bằng và bình đẳng. Làm thế nào họ có thể thực sự thoát khỏi chủ nghĩa duy vật, duy kỷ hoặc sự ràng buộc luôn song hành với họ như là định mệnh? một sự tranh cãi nổi lên đây đó khắp nơi, là dấu hiệu của một bất ổn sâu sắc đến từ đâu đang khi người ta chứng kiến sự phục hưng của cái gọi là “không tưởng” (les utopies), có tham vọng, hơn cả các ý thức hệ, giải quyết các vấn đề chính trị của các xã hội hiện đại? Quả là nguy hiểm nếu ta hiểu nó không đúng, nại đến không tưởng này (l”utopie) thường như là một cái cớ thuận tiện cho những ai muốn tránh né những việc bổn phận cụ thể để ẩn mình trong một thế giới tưởng tượng. Sống trong một tương lai giả định là một cớ vắng mặt dễ dãi hầu xua đẩy những trách nhiệm tức thời. Tuy nhiên cần phải hiểu nó cho đúng, hình thức phê phán xã hội hiện hữu này luôn khơi gợi sự tưởng tượng hướng về tương lai, vừa để nhận thức trong hiện tại cái khả thể không được biết tới được khắc tại đó, vừa để hướng tới một tương lai mới như thế nó nâng đỡ động lực xã hội bằng cách tạo niềm tin tưởng vào các sức mạnh sáng tạo của trí tuệ và tâm hồn con người, và, nếu như nó không chối bỏ bất kỳ sự tiến bộ nào, nó cũng có thể gặp gỡ tiếng gọi kitô giáo. Thánh Thần của Chúa, Đấng tác động con người đã được đổi mới trong Đức Kitô, không ngừng đẩy sang chân trời (là nơi trí thông minh của con người tìm được sự yên ổn) và những giới hạn (là nơi hành động của con người sẵn sàng khép kín lại) một sức mạnh cư ngụ nơi con người kêu gọi họ vượt trên mọi hệ thống và mọi ý thức hệ. Giữa lòng thế giới vẫn có mầu nhiệm con người, khám phá mình là con cái Thiên Chúa giữa dòng một quá trình lịch sử và tâm lý. Quá trình trong đó những ràng buộc và tự do, sức nặng của tội lỗi và hơi thở của Thánh Thần đấu tranh nhau và xen lẫn.

Sự năng động của đức tin kitô giáo chiến thắng những tính toán hẹp hòi của lòng ích kỷ. Được linh hoạt bởi sức mạnh của Thánh Thần Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ con người, được đức Cậy nâng đỡ, kitô hữu dấn thân xây dựng một thành đô nhân loại, hòa bình, công chính và huynh đệ, là một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.  Quả thật “sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới”.

Chất vấn các khoa học nhân văn

38. Trong một thế giới bị thống trị bởi biến chuyển khoa học và kỹ thuật như thế, biến chuyển có nguy cơ dẫn đến một thứ chủ nghĩa thực chứng mới, một nỗi hoài nghi khác nẩy sinh, nó cốt yếu hơn. Sau khi đã ra sức chế ngự thiên nhiên một cách hữu lý, giờ đây con người thấy chính mình bị nhốt kín trong chính lý tính của mình, đến lượt mình con người trở nên đối tượng cho khoa học. Các “khoa học nhân văn ngày nay có một bước tiến bộ đáng kể. Một đàng, chúng khảo hạch các quyết định khó khăn và triệt để các kiến thức được con người chấp nhận cho đến nay, bởi đối với chúng những kiến thức này có vẻ hoặc là quá thường nghiệm hoặc quá là lý thuyết. Đàng khác, sự bó buộc về phương pháp luận cũng như tính tiên thiên (a priori) thuộc hệ ý thức rất thường xuyên đưa chúng đến chỗ cô lập, qua những hoàn cảnh khác nhau, một số mặt của con người, và tuy thế lại cho chúng một lời giải thích với tham vọng là một lời giải thích phổ quát, hoặc ít là một sự suy diễn hướng tới tổng thể khởi đi từ một quan điểm thuần lượng tính hay hiện tượng luận. Sự giản lược “khoa học” này để lộ ra một tham vọng nguy hiểm. Coi trọng một khía cạnh nào đó trong khi phân tích là bóp méo con người và dưới những biểu hiện của một quá trình khoa học, làm cho không thể hiểu được con người trong tổng thể của nó.

39. Không được ít lưu tâm đến hành động mà các “khoa học nhân văn” có thể gợi ra, trong khi soạn thảo những mô hình xã hội mà người ta muốn đem áp dụng sau đó như những kiểu mẫu cư xử đã qua thử nghiệm “khoa học”. Như thế con người có thể trở thành đối tượng của những thao túng, chúng định hướng những ước muốn và nhu cầu của con người, thay đổi thái độ ứng xử của họ và thậm chí thay đổi cả hệ thống giá trị của họ. Đó chắc chắn là một mối nguy trầm trọng cho các xã hội tương lai và cho chính con người. Bởi lẽ nếu mọi người đều thỏa thuận cùng xây dựng một xã hội mới phục vụ cho con người, thì còn phải biết đó là con người nào.

40. Sự ngờ vực của các khoa học nhân văn đụng chạm tới những kitô hữu hơn những người khác, nhưng họ không chịu thua. Bởi lẽ, như chính chúng tôi đã viết trong thông điệp PP, chính nơi đó Giáo hội đóng góp cách đặc biệt cho các nền văn minh: “Hiệp thông vào những khát vọng tốt lành của con người và đau khổ thấy họ không được thỏa mãn, Giáo hội ước mong giúp đỡ họ triển nở cách sung mãn, và đây là lý do tại sao Giáo hội đề nghị với con người điều mà Giáo hội thực sự có, một cái nhìn toàn diện về con người và nhân loại”.  vậy Giáo hội có phải tranh cãi với các khoa học nhân văn về cách tiến hành của chúng và tố cáo tham vọng của chúng? Cũng như đối với các khoa học tự nhiên, Giáo hội tin tưởng sự nghiên cứu này và mời gọi các kitô hữu hãy có mặt tích cực ở đó . Được khuấy động bởi cùng một đòi hỏi khoa học và ước muốn biết con người hơn nữa, nhưng đồng thời lại được đức tin soi sáng, những kitô hữu đang miệt mài với các khoa học nhân văn sẽ khai mở một cuộc đối thoại, hứa hẹn nhiều kết quả giữa Giáo hội và lãnh vực của những khám phá mới mẻ này. Hẳn là, mỗi ngành “khoa học”, trong tính cách đặc thù của nó, chỉ có thể nắm được một khía cạnh riêng biệt nhưng đúng đắn, của con người; Tính toàn diện và ý nghĩa thì vượt quá tầm của nó. Nhưng bên trong những giới hạn này, các khoa học nhân văn bảo đảm một nhiệm vụ tích cực mà Giáo hội sẵn sàng công nhận. Chúng thậm chí có thể mở rộng những viễn ảnh của tự do con người một cách rộng rãi hơn những cương tỏa đã biết cho phép nhìn thấy. Chúng cũng có thể giúp đỡ nền luân lý xã hội kitô giáo, nền luân lý hẳn là sẽ thấy phạm vi của mình hạn chế khi muốn đề nghị một số mô hình xã hội nào đó, trong khi nhiệm vụ phê bình và vượt lên của luân lý đó sẽ được củng cố bằng cách chứng tỏ tính chất tương đối của những lối xử thế và những giá trị mà xã hội nào đó đưa ra những giá trị dứt khoát và gắn liền với bản tính con người. Là điều kiện vừa cần thiết vừa không đủ cho một sự khám phá hơn nữa về con người, các khoa học này là một thứ ngôn ngữ ngày càng phức tạp, nhưng mở rộng, hơn là thỏa mãn được mầu nhiệm của tâm hồn con người, và không mang lại giải đáp đầy đủ và dứt khoát cho ước muốn từ nơi sâu thẳm nhất của con người.

Tính mập mờ của sự tiến bộ

41. Biết rõ con người hơn sẽ giúp ta phê bình và khai sáng tốt hơn một khái niệm căn bản ở tầng nền của các xã hội hiện đại, vừa như là động cơ, vừa như là kích thước và như là mục đích: sự tiến bộ. Kể từ thế kỷ 19, những xã hội Tây phương và nhiều xã hội khác liên hệ đã đặt hy vọng vào một sự tiến bộ không ngừng được đổi mới vô hạn. Đối với họ sự tiến bộ này dường như là nỗ lực giải phóng con người khỏi những bó buộc của thiên nhiên và những ràng buộc xã hội; những cái từ trước đến nay là điều kiện và thước đo tự do con người. Được lan truyền qua những phương tiện thông tin hiện đại và nhờ sự thúc đẩy của nhu cầu hiểu biết và hưởng thụ rộng lớn hơn, sự tiến bộ trở thành một ý thức hệ có mặt ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, ngày nay nổi lên một hoài nghi về giá trị và về sự kết thúc của nó. Cuộc tìm kiếm khắc nghiệt sự tiến bộ đó, cuộc tiến bộ thoắt biến mỗi khi người ta tưởng rằng đã chinh phục được nó, có ý nghĩa gì? Sự tiến bộ không được chế ngự vẫn còn làm ta chưa thỏa. Hẳn là người ta đã tố giác đúng đắn những giới hạn và cả những tác hại của sự tăng trưởng kinh tế chỉ quan tâm đến số lượng, và người ta mong cũng sẽ đạt được những mục tiêu về phương diện phẩm chất. Phẩm chất và sự thật của những tương quan con người, mức độ tham gia và gánh trách nhiệm không kém ý nghĩa và quan trọng đối với sự hình thành xã hội hơn số lượng và sự đa dạng của những của cải được sản xuất và tiêu thụ. Vượt lên trên cái cám dỗ muốn đo lường mọi sự theo tiêu chuẩn hiệu năng và trao đổi, theo tương quan sức mạnh và lợi nhuận, con người ngày nay muốn thay thế dần dần những tiêu chuẩn dựa vào số lượng bằng cường độ truyền thông, chuyển thông sự hiểu biết và văn hóa, sự phục vụ lẫn nhau, chung nhau bàn tính vì một nhiệm vụ chung. Phải chăng sự tiến bộ đích thực là tiến bộ trong sự phát triển ý thức luân lý, là ý thức sẽ dẫn đưa con người đến chỗ đảm nhận lấy tình liên đới mở rộng và cởi mở tâm hồn với tha nhân và với Chúa? Đối với một kitô hữu, sự tiến bộ tất yếu phải gặp gỡ thực tại cánh chung là mầu nhiệm sự chết: Sự chết của Đức Kitô và sự sống lại của Người, sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, giúp con người định vị sự tự do sáng tạo và nhận thức của mình, trong mọi tiến bộ chân thực, trong niềm hy vọng duy nhất không làm thất vọng.

NGƯỜI KITÔ HỮU ĐỨNG TRƯỚC NHŨNG VẤN ĐỀ MỚI

Tính năng động của giáo huấn về xã hội của Giáo hội

42. Đứng trước nhiều vấn đề mới như thế, Giáo hội nỗ lực suy nghĩ để trả lời, trong lãnh vực riêng của mình, cho mong đợi của con người. Nếu như ngày nay những vấn đề tỏ ra độc đáo bởi tầm mức lớn lao và cấp bách của chúng, con người có thiếu trang bị để mà giải quyết chúng không? Với tất cả tính năng động của mình, giáo huấn về xã hội của Giáo hội đồng hành với con người trong cuộc tìm kiếm của họ. Nếu giáo huấn không can thiệp nhằm chính thức hóa một cơ cấu có sẵn hoặc đưa ra một mô hình tiền chế, thì Giáo hội cũng không giới hạn mình trong việc chỉ nhắc nhớ đôi ba nguyên tắc tổng quát nhưng triển khai giáo huấn bằng một suy tư liên hệ tới những tình thế thay đổi của thế giới này, dưới sự thúc đẩy của Tin Mừng như một nguồn mạch canh tân, từ khi mà sứ điệp của Tin Mừng được đón nhận trong toàn thể và trong những đòi hỏi của nó. Giáo huấn cũng được triển khai với sự nhạy cảm riêng của Giáo hội, một Giáo hội nổi bật bởi ý muốn vô tư muốn phục vụ và quan tâm đến những người nghèo hèn nhất. Sau cùng, giáo huấn cũng múc từ vốn kinh nghiệm phong phú tích lũy qua nhiều thế kỷ, vốn đó cho phép Giáo hội đảm nhận, giữa bao mối bận tâm thường xuyên liên tục, một cuộc canh tân mạnh dạn và sáng tạo mà hoàn cảnh hiện tại của thế giới đòi hỏi.

Cho một nền công bình lớn lao hơn

43. Cần phải thiết lập một sự công bằng hơn nữa trong việc phân phối của cải, trong nội bộ các cộng đoàn quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế. Trong những trao đổi quốc tế, phải vượt qua những tương quan quyền lực để đạt đến những thỏa thuận sau khi bàn bạc chung nhằm đến lợi ích cho mọi người. Thật vậy, những tương quan dựa trên quyền lực đã chưa bao giờ thiết lập được sự công bằng bền vững và đích thực, ngay cả khi, vào một số thời kỳ, sự hóan chuyển các vị trí thường có thể giúp tìm thấy những điều kiện dễ dàng hơn để đối thoại. Vả lại việc sử dụng quyền lực sẽ gây nên tình thế phía đối nghịch cũng đối phó lại bằng quyền lực, từ đó một bầu khí đấu tranh nổ ra tạo nên những tình trạng bạo lực và lạm dụng tối đa.  Nhưng, như chúng tôi đã luôn khẳng định, nghĩa vụ quan trọng nhất của mọi nền công bình là làm sao cho phép mỗi đất nước phát huy được đường lối phát triển của riêng mình, trong bối cảnh của sự hợp tác loại trừ mọi não trạng muốn thống trị, về kinh tế cũng như chính trị. Chắc hẳn là các vấn đề được nêu lên hết sức phức tạp trong tình thế phụ thuộc lẫn nhau chằng chịt như hiện nay; còn phải có can đảm xem xét lại các mối tương quan giữa các quốc gia, đặc biệt là sự phân phối sản phẩm trên thế giới, cơ cấu trao đổi, kiểm soát lợi nhuận, hệ thống tiền tệ – không quên những hoạt động tỏ tình liên đới về mặt nhân đạo – đặt vấn đề về các mô hình tăng trưởng của các nước giàu, thay đổi não trạng để cởi mở cho việc ưu tiên đối với nghĩa vụ quốc tế, đổi mới các tổ chức quốc tế để đạt hiệu quả cao hơn.

44. Dưới sự thúc đẩy của các hệ thống sản xuất mới, biên giới các quốc gia vỡ tung và người ta thấy xuất hiện những quyền lực kinh tế mới, những công ty đa quốc gia, mà nhờ sự tập trung và uyển chuyển về các phương tiện chúng có thể điều hành những chiến lược độc lập mà đa số là độc lập đối với những quyền lực chính trị quốc gia, và do đó thiếu sự kiểm soát theo quan điểm công ích. Bằng cách mở rộng hoạt động, những tổ chức tư nhân này có thể tiến tới một hình thức lạm dụng mới về thống trị kinh tế trên lãnh vực xã hội, văn hóa và thậm chí chính trị. Sự tập trung quá mức các phương tiện và quyền lực, mà đức Piô XI đã từng tố cáo trong dịp kỷ niệm 40 thông điệp RN, mang một bộ mặt cụ thể mới.

Biến đổi tâm hồn và cơ cấu

45. Ngày nay, con người khát khao được giải phóng khỏi nhu cầu và sự lệ thuộc. Nhưng sự giải phóng này khởi đầu bằng sự tự do nội tâm mà họ phải tìm lại trước của cải và quyền lực của họ; họ chỉ đạt được điều đó bằng một tình yêu siêu việt đối với con người, và bởi đó bằng một thái độ sẵn sàng phục vụ thực sự. Nếu không, như người ta thấy quá rõ những ý thức hệ cách mạng nhất cuối cùng rồi cũng chỉ đi tới chỗ đổi chủ mà thôi: đến lượt họ nắm quyền lực, những ông chủ mới lại tạo ra quanh mình những đặc ân, hạn chế các quyền tự do và thiết lập nên những hình thức bất công khác.

Vì thế, từ chỗ đó mà những người tự hỏi về chính mô hình xã hội. Tham vọng của nhiều quốc gia, trong cuộc cạnh tranh làm họ trở thành đối thủ của nhau và lôi kéo họ theo, là làm sao đạt được sức mạnh về kỹ thuật, kinh tế, quân sự; tham vọng đó đối kháng với việc đặt các cơ cấu cho đúng, trong đó nhịp độ tiến triển sẽ được điều chỉnh phù hợp với một nền công bình lớn hơn nữa, thay vì nhấn mạnh tới những chênh lệch và sống trong một bầu khí ngờ vực và đấu tranh không ngừng làm hại đến nền hòa bình.

Ý nghĩa kitô giáo của hoạt động chính trị

46. Phải chăng chính ở chỗ này xuất hiện mỗi giới hạn căn bản của kinh tế? Hoạt động kinh tế, rất cần thiết, nếu nhằm phục vụ con người, có thể “là nguồn mạch của tình huynh đệ và là dấu chỉ của sự quan phòng” ; nó là cơ hội cho những trao đổi cụ thể giữa con người với nhau, cho quyền con người công nhận, cho những phục vụ được thành hiện thực, cho phẩm giá được khẳng định trong lao động. Thường là mảnh đất cho sự đối đấu và thống trị, nó có thể mở ra những cuộc đối thoại và khơi dậy sự hợp tác. Tuy nhiên, nó có nguy cơ hút hết cách thái quá sức lực và tự do . Đó là lý do cho sự cần thiết phải vượt qua kinh tế để đi tới chính trị. Hẳn là, dưới thuật ngữ “chính trị” có thể có nhiều lẫn lộn và cần phải được làm sáng tỏ – nhưng mỗi người cảm thấy rằng, trong các lãnh vực xã hội và kinh tế – ở bình diện quốc gia cũng như quốc tế, – quyết định cuối cùng dành cho quyền lực chính trị.

Quyền lực chính trị, là mối liên kết tự nhiên và cần thiết để bảo đảm cho sự cố kết của cơ cấu xã hội, phải có mục đích thực hiện công ích. Nó tác động, trong sự tôn trọng những quyền tự do hợp pháp của các cá nhân, gia đình và tập thể phụ túc, để tạo nên một cách hiệu quả và vì lợi ích của mọi người, những điều kiện được thỉnh cầu nhằm đạt tới điều thiện hảo đích thực và đầy đủ cho con người, bao gồm cả cùng đích thiêng liêng của họ. Quyền lực chính trị hoạt động trong những giới hạn về thẩm quyền của nó, những giới hạn có thể khác nhau tùy từng nước và từng dân tộc. Nó luôn can thiệp với thái độ bận tâm đến sự công bằng và hiến thân cho công ích, là khả năng tối hậu của nó. Tuy vậy, nó không tước khỏi các cá nhân và tổ chức trung gian môi trường hoạt động của họ và trách nhiệm riêng của họ, trách nhiệm đưa họ đến chỗ góp phần thực thi công ích này. Quả thật, “nội dung của mọi sự can thiệp về xã hội là giúp đỡ các thành phần của cơ cấu xã hội, chứ không phải tiêu diệt họ cũng không nuốt chửng họ” .

Theo ơn gọi riêng của mình, quyền lực chính trị phải biết tách mình ra khỏi những tư lợi đặc thù để chu toàn những trách nhiệm của mình đối với lợi ích của tất cả mọi người, bằng cách vượt qua cả các biên giới quốc gia. Có thái độ nghiêm túc đối với chính trị trên mức độ khác nhau của nó – cấp địa phương miền, quốc gia và quốc tế – đó là khẳng định nghĩa vụ của con người, của mọi người, phải nhận thức thực tế cụ thể và giá trị của sự tự do lựa chọn, đã được trao ban cho họ, đường lối cùng nhau thực thi lợi ích của thành phố, của quốc gia, của nhân loại. Chính trị là một phương thức rất đòi hỏi – nhưng không duy nhất – để sống đời dấn thân kitô hữu nhằm phục vụ tha nhân. Hẳn là không giải quyết hết mọi vấn đề, chính trị cố gắng mang lại những giải pháp cho những quan hệ giữa người với người. Lãnh vực rộng lớn và bao quát của nó không phải là độc tôn. Một thái độ phổ biến muốn biến chính trị thành tuyệt đối sẽ là một mối nguy nghiêm trọng. Hoàn toàn thừa nhận tính độc lập của thực tại chính trị, các kitô hữu được khuyến khích đi vào hoạt động chính trị sẽ nỗ lực tìm cách liên kết những chọn lựa của mình với Tin mừng và, giữa lòng xã hội đa nguyên hợp pháp, nỗ lực làm chứng, cách cá nhân và tập thể, cho đức tin nghiêm túc của mình bằng cách phục vụ hữu hiệu và vô vị lợi con người.

Chia sẻ các trách nhiệm

47. Việc chuyển qua chiều kích chính trị cũng biểu lộ một yêu cầu hiện nay của con người: những trách nhiệm và quyết định cần phải được chia sẻ rộng rãi hơn nữa. Khát vọng hợp pháp đó càng được bày tỏ khi trình độ văn hoá lên cao, khi cảm thức về tự do gia tăng và khi con người nhận thức được rõ hơn làm sao mà, trong một thế giới hướng mở về một tương lai bấp bênh, những chọn lựa của ngày hôm nay đã chi phối đến cuộc sống ngày mai. Trong thông điệp MM , Đức Gioan 23 đã nhấn mạnh rất nhiều rằng đảm nhận trách nhiệm là một đòi hỏi căn bản của bản tính con người, là một thực hành cụ thể quyền tự do của họ, là một con đường cho họ phát triển, và ngài cũng đã chỉ cách thế để sự tham dự vào trách nhiệm đó phải được bảo đảm trong đời sống kinh tế và nhất là trong xí nghiệp . Ngày nay lãnh vực có rộng lớn hơn nó mở rộng ra trên phạm vi xã hội và chính trị, nơi đó người ta phải xây dựng và tăng cường việc chia sẻ cách hợp lý trong những trách nhiệm và quyết định. Hẳn là những chọn lựa được đưa ra cho việc quyết định ngày càng phức tạp; những cân nhắc phải được xét đến thì vô số, phải thấy trước những hệ quả có thể xảy ra, thậm chí các khoa học mới phải nỗ lực làm sáng tỏ quyền tự do trong những thời điểm quan trọng. Tuy vậy, dù cho đôi khi những giới hạn bắt buộc phải có, những trở ngại đó không được làm chậm đi việc phổ biến rộng hơn cho sự tham gia vào cuộc chuẩn bị cho quyết định, cũng như vào chính những lựa chọn và việc áp dụng chúng. Để làm đối trọng cho trào lưu kỹ thuật trị (technocratie) đang lớn dần, phải nghĩ ra những hình thức dân chủ hiện đại, không những chỉ trao cho con người khả năng được thông tin và phát biểu, nhưng còn dẫn con người vào gánh vác trách nhiệm chung. Như thế các tập thể con người dần dần biến đổi thành những cộng đoàn của sự chia sẻ và sự sống. Như thế quyền tự do rất thường được khẳng định như một thứ yêu sách đòi tự trị đối kháng với tự do của người khác, được triển nở trong thực tại nhân bản sâu sắc nhất: Dấn thân và ra sức để xây dựng tình liên đới tích cực và cụ thể. Nhưng, đối với kitô hữu, chính trong khi từ bỏ mình trong Chúa, là Đấng giải phóng mình, mà con người tìm thấy một tự do đích thực, được đổi mới trong cái chết và phục sinh của Chúa Kitô.

LỜI KÊU GỌI HÀNH ĐỘNG

Cần thiết phải dấn thân hoạt động

48. Trong lãnh vực xã hội, Giáo hội đã luôn luôn muốn bảo đảm được một nhiệm vụ kép: soi sáng các tâm hồn để giúp họ khám phá chân lý và phân định con đường phải theo giữa muôn vàn học thuyết khác nhau đang thúc bách họ; hành động và phổ biến những năng lực của Tin mừng, với mối ưu tư thực sự muốn phục vụ và mang lại hiệu quả. Phải chăng chính vì muốn trung thành với ý muốn đó mà Giáo hội đã sai phái trong sứ mạng tông đồ, giữa những người lao động, các linh mục chia sẻ trọn vẹn đời sống công nhân, giữa môi trường đó các ngài muốn làm chứng cho mối ưu tư và việc nghiên cứu của Giáo hội.

Một lần nữa và một cách cấp bách chúng tôi gởi đến hết thảy mọi kitô hữu lời kêu gọi hãy hành động. Trong thông điệp PP, chúng tôi đã nhắc lại rằng mọi người hãy bắt tay hành động: “Người giáo dân phải đảm nhận như phận vụ của riêng mình công cuộc canh tân trên bình diện trần thế; nếu vai trò của giáo quyền là giáo huấn và giải thích một cách đích thực các nguyên tắc luân lý phải theo trong lãnh vực này, thì phần của họ, nhờ bởi những sáng kiến tự do của họ và không thụ động chờ đợi lệnh truyền và chỉ dẫn, là đưa tinh thần kitô giáo vào trong cách suy nghĩ cũng như những tập tục, luật lệ cũng như cơ cấu của những cộng đồng họ đang sống” . Ước gì mỗi người hãy tự kiểm thảo để nhìn lại những gì mình đã làm cho đến hôm nay và những gì còn phải làm. Không thể cho là đủ nếu chỉ nhắc lại các nguyên tắc, khẳng định những chủ tâm, nhấn mạnh đến những bất công đáng phẫn nộ và thốt ra lời tố cáo mang tính ngôn sứ: Những lời ấy chỉ có trọng lượng thực sự khi chúng có đi kèm theo đối với mỗi người một ý thức mãnh liệt hơn về chính trách nhiệm của mình và một hành động hữu hiệu. Rất là dễ đổ trách nhiệm cho người khác về những bất công, nếu như người ta không thấy được chính mình cũng có phần trách nhiệm đó và đồng thời trước tiên cần phải hoán cải chính mình như thế nào. Sự khiêm tốn nền tảng này sẽ cất bỏ khỏi hành động mọi sự cứng nhắc và mọi kiểu bè phái; nó cũng tránh được nỗi chán nản khi đối diện với một nhiệm vụ xem ra quá sức. Niềm hy vọng kitô giáo đến với kitô hữu trước hết từ chỗ họ biết rằng Chúa cùng hành động với chúng ta trong thế giới, tiếp tục trong thân mình của Người là Giáo hội – và qua Giáo hội trong toàn thể nhân loại – công trình cứu chuộc đã thực hiện trên thập giá và đã chiến thắng hiển hách vào buổi sáng ngày phục sinh.  Niềm hy vọng đó cũng phát xuất từ chỗ kitô hữu biết rằng những người khác đang làm việc để thực hiện những hoạt động tập trung xây dựng công lý và hòa bình; bởi lẽ giữa một vẻ bề ngoài dửng dưng, trong tâm hồn của mỗi người đều có một ước muốn sống huynh đệ và một khát khao nền công lý và hòa bình: điều cần được triển nở.

49. Như thế, trong những hoàn cảnh, phận vụ, tổ chức đa dạng như vậy, mỗi người phải xác định trách nhiệm của mình và phân định, trong lương tâm, đâu là những hoạt động mình được mời gọi tham dự. Lẫn vào trong những trào lưu khác nhau, bên cạnh những khát vọng hợp pháp, có lẻn vào những xu hướng mập mờ hơn, kitô hữu phải cảnh giác lựa chọn và tránh dấn mình vào sự hợp tác vô điều kiện và nghịch với những nguyên tắc của nhân bản thuyết đích thực, cả khi nhân danh tình liên đới thực sự gây cảm kích. Quả thực, nếu họ muốn giữ một vai trò đặc biệt như một kitô hữu sống thuận theo đức tin của mình – vai trò mà chính những người không tin chờ đợi nơi họ – họ phải chú tâm, ngay giữa lúc đang tích cực dấn thân, làm sáng tỏ những động lực của mình, phải tỉnh thức vượt qua những mục tiêu được theo đuổi trong một nhãn giới thấu tình đạt lý hơn, làm tránh được mối nguy hiểm của chủ nghĩa đặc thù ích kỷ và của chủ nghĩa độc tài áp bức.

Tính đa nguyên trong các lập trường

50. Trong những hoàn cảnh cụ thể và liên hệ đến tình liên đới mà mỗi người sống, phải công nhận là có rất nhiều chọn lựa khả dĩ và hợp pháp khác nhau. Cùng một đức tin kitô có thể dẫn đến những dấn thân khác nhau . Giáo hội mời gọi mọi kitô hữu lãnh lấy một nhiệm vụ kép vừa làm sinh động, vừa đổi mới hầu làm cho những cơ cấu được tiến bộ để chúng thích ứng với những nhu cầu đích thực hiện tại. Đối với các kitô hữu thoạt tiên có vẻ như đối nghịch nhau do có những chọn lựa khác nhau, Giáo hội yêu cầu họ cố gắng hiểu nhau về quan điểm và động cơ của người kia; một sự kiểm điểm trung thực những cách thế của người kia và sự ngay thẳng của cách thế xử sự sẽ gợi ra nơi mỗi người một thái độ bác ái sâu sắc hơn, thái độ đó, dù vẫn hoàn toàn nhận biết sự khác biệt, vẫn tin tưởng hơn vào những khả năng đồng quy và hiệp nhất. “Những gì nối kết các tín hữu thật ra còn mạnh hơn những gì chia rẽ họ” .

Quả thực, nhiều người, được chen vào trong những cơ cấu và những điều kiện sống hiện đại, bị giới hạn do những tập quán tư duy của họ, bởi những chức vụ của họ, khi không phải do việc bảo vệ quyền lợi vật chất. Nhiều người khác cảm nhận rất sâu sắc những sự liên đới, của giai cấp và nền văn hóa, đến nỗi họ đến chia sẻ toàn vẹn mọi phán đoán và lựa chọn của môi trường của họ . Mỗi người sẽ phải tự mình cảm nghiệm trong tâm hồn và làm nổi bật lên sự tự do đích thực theo Chúa Kitô này, một sự tự do cởi mở ra với hoàn vũ ngay cả giữa những điều kiện rất đặc thù.

51. Cũng chính nơi đây mà các tổ chức kitô giáo dưới các hình thức khác nhau, có trách nhiệm hành động tập thể. Không thay thế các thiết chế xã hội dân sự, các tổ chức này theo cách thế của chúng và bằng cách vượt qua nét đặc thù của mình phải tỏ bày những đòi hỏi cụ thể của đức tin kitô giáo trong sự biến đổi xã hội cách đúng đắn và cần thiết .

Ngày nay hơn bao giờ hết Lời Thiên Chúa chỉ có thể được loan báo và lắng nghe khi có kèm theo chứng từ của sự thúc đẩy của Chúa Thánh thần, hoạt động trong công việc của kitô hữu nhằm phục vụ anh em mình, đến mức liều cuộc sống và tương lai của họ.

52. Kính thưa Đức Hồng Y, trong khi gởi đến ngài những suy tư này, hẳn là chúng tôi ý thức mình đã không đề cập đến tất cả mọi vấn đề xã hội đặt ra hôm nay cho con người của đức tin và cho những người thiện chí. Những tuyên bố gần đây của chúng tôi – được bổ túc bởi thông điệp của ngài nhân dịp khởi đầu thập kỷ thứ hai của phát triển – liên quan đặc biệt đến nghĩa vụ của toàn thể các quốc gia trong vấn đề trọng đại là sự phát triển cách trọn vẹn và liên đới của con người – chúng vẫn còn nằm trong tâm trí. Chúng tôi gởi đến ngài tuyên ngôn này với ý định cung cấp cho hội đồng về giáo dân và Ủy ban giáo hoàng về “Công lý và hòa bình” những yếu tố mới, đồng thời như một sự khích lệ để các ngài theo đuổi phận vụ của mình là “thức tỉnh Dân Thiên Chúa để họ hiểu biết đầy đủ vai trò của mình trong thời buổi hiện nay” và “thăng tiến việc tông đồ trên bình diện quốc tế” .

Kính thưa Đức Hồng Y, chính trong những tâm tình đó mà chúng tôi ban cho quý ngài phép lành tòa thánh.

 

Từ Vatican, ngày 14 tháng 5 năm 1971

+ PHAOLÔ VI

Giáo Hoàng