Tổng Quan Về Ba Thư Gioan

0
673


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

I. TÁC GIẢ VÀ NIÊN BIỂU BA THƯ GIOAN

1. Tác giả

Các thư Gio-an không cho biết rõ tên tác giả. Thư 1Ga cũng không cho biết chức vụ của tác giả. Trong lời tựa (1Ga 1,1-4), tác giả tự xưng ở ngôi thứ nhất, số nhiều: “Chúng tôi”. Giáo huấn và lời mời gọi trong 1Ga cho phép hiểu tác giả là một cá nhân hay tập thể đứng đầu cộng đoàn và có trách nhiệm điều chỉnh những sai lạc trong cộng đoàn Ki-tô hữu.

Thư 2Ga và 3Ga không cho biết tên của tác giả nhưng cho biết chức vụ. Tác giả là kỳ mục. Bối cảnh và nội dung của thư 2Ga và 3Ga khác nhau, nhưng về cấu trúc hai thư này đều có lời mở đầu và lời kết, nên có thể giả thuyết là thư 2Ga và 3Ga do một kỳ mục viết. Tuy nhiên, vì tình trạng bản văn không cho phép xác định ba thư Gio-an là do một người, hai người hay ba người viết. Về nội dung, 1Ga và 2Ga có liên hệ với nhau, và hai thư này có từ ngữ và ý tưởng liên hệ với Tin Mừng Gio-an. Còn thư 3Ga, tuy vẫn có xung đột nhưng không liên hệ nhiều đến 1Ga và 2Ga, có thể hiểu 3Ga được được viết sau 1Ga và 2Ga.

Truyền thống gán cho tông đồ Gio-an, con ông Dê-bê-đê là tác giả của Tin Mừng Gio-an và ba thư Gio-an. Tuy nhiên khi phân tích nội dung bản văn, có thể nói về các tác giả của Tin Mừng và Ba thư Gio-an như sau:

Đứng đầu trường phái Gio-an là “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, người môn đệ này đã viết lại lời chứng và để lại bút tích trong Tin Mừng Gio-an (Ga 19,35; 21,24). Nhóm biên soạn Tin Mừng Gio-an khẳng định: “Chính môn đệ này [người môn đệ Đức Giê-su yêu mến] là người làm chứng về những điều đó và người đã viết những điều này, và chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (Ga 21,24).

Nội dung Tin Mừng Gio-an hiện nay cho thấy Tin Mừng được biên soạn qua nhiều giai đoạn. Nên tác giả (hay nhóm tác giả) của Tin Mừng Gio-an thuộc nhóm các môn đệ của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Nhóm này được gọi là “trường phái Gio-an” (école Johannique) đã sưu tập tài liệu, biên soạn và xuất bản Tin Mừng thứ tư như chúng ta có hiện nay.

Đến giai đoạn ba thư, tác giả của các thư Gio-an cũng thuộc “trường phái Gio-an”, vì một số đề tài trong 1Ga và 2Ga lấy trong sách Tin Mừng. Ba thư được viết sau Tin Mừng vì những xung độ trong thư Gio-an có thể đã xảy ra sau khi Tin Mừng Gio-an được biên soạn.

2. Niên biểu

Có thể dựa vào bốn dấu hiệu sau đây để xác định niên biểu của ba thư Gio-an:

1. Nội dung ba thư Gio-an bàn về cách hiểu đúng đắn và lối giải thích sai lạc về vai trò của Đức Giê-su đã trình bày trong sách Tin Mừng.

2. Các thư 1Ga và 2Ga nhắc lại điều răn mới là điều răn yêu thương trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34; 15,12).

3. Ngôn từ trong các thư Gio-an có liên hệ với Tin Mừng Gio-an, đặc biệt trong lời tựa 1Ga 1,1-4.

4. Trong sách Tin Mừng Gio-an không có dấu hiệu xung đột và chia rẽ giữa nhóm các môn đệ về thiên tính và nhân tính của Đức Giê-su. Trong khi các thư Gio-an bàn về những vấn đề của cộng đoàn liên quan đến đề tài trên.

Những nhận xét trên cho phép hiểu hai thư 1Ga và 2Ga có thể được biên soạn ít lâu sau khi xuất bản sách Tin Mừng. Thư 3Ga nói đến sinh hoạt cộng đoàn với những bất đồng giữa các vị có trách nhiệm trong cộng đoàn, nên có thể được viết sau 2Ga.

Có thể đưa ra niên biểu các bản văn Gio-an như sau:

Tin Mừng Gio-an: 90 – 95 CE (Christian Era).

Ba thư Gio-an:    95 – 100 CE, theo thứ tự: 1Ga, 2Ga, 3Ga.

II. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG BA THƯ GIOAN

1. Thư thứ nhất Gioan

a) Cấu trúc

Ngoài lời tựa (prologue) và lời kết (épilogue), thư thứ nhất Gio-an có thể cấu trúc thành ba phần song song:

A, B, C, // A’, B’, C’, // –, B’’, C’’ (khuyết yếu tố A’’).

b) Nội dung

Trong 3 thư Gio-an, thư thứ nhất Gio-an dài hơn cả, gồm 5 chương (thư thứ hai Gio-an: 13 câu và thư thứ ba Gio-an: 15 câu). Trong thư 1Ga, tác giả kêu gọi cộng đoàn sống hiệp thông với tác giả. Bởi vì có những kẻ tách ra khỏi cộng đoàn, gieo rắc giáo lý sai lạc, và lôi cuốn Ki-tô hữu đi vào con đường đó. Tác giả đưa ra những lập luận cho thấy đạo lý sai lầm của nhóm ly khai mà tác giả gọi là phản Ki-tô và ngôn sứ giả. Tác giả mời gọi cộng đoàn đề phòng lạc thuyết, nắm vững đạo lý chính thống và sống điều răn yêu thương đã được Đức Giê-su trao ban trong Tin Mừng Gio-an.

2. Thư thứ hai Gioan

a) Cấu trúc

Thư thứ hai Gio-an có 13 câu và cấu trúc như sau:

1-3:     Lời chào

4-6:     Điều răn yêu mến

7-11:   Những kẻ phản Ki-tô

12-13: Lời kết thúc

b) Nội dung

Bối cảnh 2Ga khá giống 1Ga, tác giả là một kỳ mục viết thư cho người đứng đầu cộng đoàn Ki-tô hữu. Trước là để mời gọi đứng vững trong sự thật và sống điều răn yêu thương mà Đức Giê-su đã ban cho cộng đoàn các môn đệ (Ga 13,34; 15,12). Thứ đến tác giả nói đến nhóm phản Ki-tô và dặn dò cộng đoàn phải đề phòng và tránh xa những giáo lý sai lạc của nhóm này.

3. Thư thứ ba Gioan

a) Cấu trúc

Thư thứ ba Gio-an có 15 câu và cấu trúc như sau:

1-2:     Lời chào

3-8:     Ca tụng ông Gai-ô

9-11:   Hành vi của ông Đi-ốt-rê-phét

12:      Làm chứng cho ông Đê-mết-ri-ô

13-15: Lời kết thúc

b) Nội dung

Thư 3Ga không nhắc đến nhóm phản Ki-tô, tác giả thư là một kỳ mục, thư gửi cho ông Gai-ô. Tác giả ca ngợi ông Gai-ô và than phiền về người đứng đầu cộng đoàn ông Gai-ô là ông Đi-ốt-rê-phét. Cuối thư tác giả làm chứng cho ông Đê-mết-ri-ô.

III. BỐI CẢNH THƯ THỨ NHẤT GIOAN

Thư thứ nhất Gio-an được viết trong bối cảnh đặc biệt, khác với bối cảnh của Tin Mừng thứ tư. Nội dung thư 1Ga cho thấy khủng hoảng trầm trọng đã xảy ra ngay giữa cộng đoàn người tin. Tác giả cho biết nguyên nhân gây khủng hoảng, qua đó mời gọi cộng đoàn nắm vững đạo lý và sống hiệp thông với nhau.

1. Tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn

Sự chia rẽ, xung đột và căng thẳng đã xảy ra, khi một nhóm trong cộng đoàn hiểu sai vai trò của Đức Ki-tô. Tác giả thư thứ nhất Gio-an tố cáo nhóm này ở 1Ga 2,22: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là người chối bỏ và cho rằng Đức Giê-su không phải là Đấng Ki-tô? Người ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối bỏ Cha và Con” (1Ga 2,22).

Nhóm sai lạc này đã từng là thành viên của cộng đoàn, nhưng họ không thuộc về cộng đoàn nữa. Tác giả viết ở 1Ga 2,19: “Chúng [những kẻ phản Ki-tô] xuất thân từ nơi chúng ta, nhưng chúng không thuộc về chúng ta; vì nếu chúng thuộc về chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng để tỏ hiện ra là không phải tất cả thuộc về chúng ta.”

Trong bối cảnh này, tác giả nói với các thành viên còn ở lại trong cộng đoàn ở 1Ga 2,18-19: “18 Hỡi các con thơ bé, đây là giờ cuối cùng, như anh em đã nghe là tên phản Ki-tô sẽ đến, và giờ đây nhiều tên phản Ki-tô đã xuất hiện. Do đó, chúng ta biết rằng đây là giờ cuối cùng. 19 Chúng xuất thân từ nơi chúng ta, nhưng chúng không thuộc về chúng ta; vì nếu chúng thuộc về chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng để tỏ hiện ra là không phải tất cả thuộc về chúng ta.”

Những lời trên của tác giả cho thấy cộng đoàn đang bị chia rẽ. Có một nhóm đã tách rời khỏi cộng đoàn và trở thành “phản Ki-tô”, “ngôn sứ giả” (1Ga 4,1.4.5) và là “kẻ dối trá” (1Ga 2,22). Đây là khủng hoảng thần học và Ki-tô học. Câu hỏi đặt ra là sai lạc ở chỗ nào?

2. Thiên tính và nhân tính của Đức Giê-su

Có thể cho rằng nguyên nhân gây chia rẽ trong 1Ga là cách hiểu khác nhau về vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su. Tác giả viết ở 1Ga 4,2-3: “2 Trong điều này, anh em biết thần khí của Thiên Chúa: Mọi thần khí tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác là bởi Thiên Chúa. 3 Mọi thần khí nào phân chia (luei) Đức Giê-su thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Ki-tô (antikhristou) mà anh em đã nghe là nó đang tới và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.”

Động từ “luô” (phân chia) trong câu 4,3a có hai dị bản (variante): Dị bản thứ nhất dùng động từ: “homologeô” (tuyên xưng, confesser): “không tuyên xưng Đức Giê-su.” Dị bản thứ hai dùng động từ “luô” (huỷ bỏ, phân chia, séparer, diviser): “phân chia Đức Giê-su.” Một số bản dịch chọn dị bản “mê homologei” (không tuyên xưng) vì dị bản này có trong nhiều thủ bản quan trọng (xem các dị bản trong phần chú thích của NTG 27ème édition). Còn dị bản “luei ton Iêsoun” (phân chia Đức Giê-su) chỉ xuất hiện trong các thủ bản (manuscrits) La Tinh và nơi một số Giáo phụ (xem chú thích của NTG 27ème édition). Bản dịch BJ (Bible de Jérusalem) chọn dị bản “homologeô” (tuyên xưng). Bản dịch TOB (Traduction œcuménique de la Bible) chọn dị bản “luô” (phân chia). Các tác giả R. E. Brown (The Epistles of John, (AB 30), New York (NY), Doubleday, 1982, p. 485-511) và J. Painter (1, 2, and 3 John, (SPS 18), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 2002, p. 253-264) chọn dị bản “luô”. Cùng với các tác giả trên, chúng tôi chọn dị bản “luô” (phân chia).

Lý do là dị bản “luô” (phân chia, chia rẽ) phù hợp với bối cảnh thư thứ nhất Gio-an. Theo đó, những kẻ phản Ki-tô đã phân chia, tách biệt nhân tính và thiên tính của Đức Ki-tô. Nên 1Ga 4,3 muốn nói rằng những kẻ phản Ki-tô đã tách rời “Đức Giê-su lịch sử” khỏi “Đức Ki-tô của lòng tin”, như thế là sai lạc, không đúng với mặc khải của Thiên Chúa như tác giả khẳng định ở 1Ga 4,2b: “Mọi thần khí tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác là bởi Thiên Chúa.”

Kiểu nói: “Đến trong thân xác” vừa gợi đến mầu nhiệm nhập thể, vừa ám chỉ sứ vụ công khai và sự chết của Đức Giê-su trong thân phận làm người. Như thế, theo tác giả thư thứ nhất Gio-an, nhân tính của Đức Giê-su không thể tách rời khỏi thiên tính của Người. Những kẻ phản Ki-tô đã sai lạc vì họ không tuyên xưng “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã đến trong thân xác” (1Ga 4,2). Họ đã phân chia Đức Giê-su (1Ga 4,3) và tách rời “Đức Giê-su” (nhân tính) và “Đức Ki-tô” (thiên tính). Những kẻ phản Ki-tô đã hiểu sai giáo huấn và đạo lý chính thống của cộng đoàn. Từ đó dẫn đến những lệch lạc về đạo đức và luân lý.

3. Mời gọi hiệp thông

Phần trên cho thấy đã xảy ra khủng hoảng trầm trọng và chia rẽ trong cộng đoàn thư thứ nhất Gio-an. Vì thế, nhiều lần tác giả mời gọi các thành viên trong cộng đoàn hiệp thông (koinônia) với nhau (1Ga 1,3a.3b.6.7). Tác giả kêu gọi ở 1Ga 1,3: “Điều chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha và với Con của Người, Đức Giê-su Ki-tô.”

Tác giả thư thứ nhất Gio-an còn kêu gọi tuân giữ điều răn yêu thương. Điều răn này không phải là điều răn mới, bởi vì đã có ngay từ khởi đầu. Khi cộng đoàn đầu tiên được thành lập, Đức Giê-su đã ban điều răn yêu thương cho cộng đoàn các môn đệ ở Ga 13,34; 15,12.

IV. KẾT LUẬN

Tìm hiểu Ba thư Gio-an là bước vào thế giới của bản văn và rút ra từ đó những điều thiết thực cho độc giả này nay. Bản văn không nói rõ ai là tác giả của các thư Gio-an, nên điều này không quan trọng. Điều quan trọng là chú ý tìm hiểu bản văn để hiểu thông điệp gửi tới cho độc giả qua lá thư. Chẳng hạn hoàn cảnh khó khăn và những lời mời gọi trong thư 1Ga gợi đến hoàn cảnh cộng đoàn mà độc giả đang sống. Qua bản văn độc giả biết được cách hiểu đúng đắn về Đức Giê-su và tránh rơi vào con đường sai lạc. Đồng thời độc giả biết phải làm gì để giữ vững niềm tin và xây dựng cộng đoàn. Theo tác giả thư 1Ga, cộng đoàn được xây dựng dựa trên “sự hiệp thông” và “thực hành điều răn yêu thương”. Nhờ đó có thể thẩm định và phân biệt “thần khí sự thật” và “thần khí sai lầm”, “ngôn sứ thật” và “ngôn sứ giả”. Về phía độc giả, chúng ta học hỏi được gì qua các thư Gio-an? Làm gì để trách hiểu sai về Đức Giê-su? Và dựa vào đâu để xây dựng công đoàn?