Tác giả: Fr. Timothy Radcliffe, O.P.
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Hữu Nghị, O.P.
Tôi không hiểu chắc chắn lắm về ý nghĩa hạn từ “afectividad” trong ngôn ngữ Tây Ban Nha. Trong Anh ngữ, hạn từ “affectivity” không chỉ nhằm nói đến khả năng yêu thương của chúng ta, mà còn liên hệ đến cách thức chúng ta yêu thương, bởi lẽ chúng ta là những hữu thể có thân xác và giới tính, những chủ thể có cảm xúc và đam mê. Trong Kitô giáo, chúng ta nơi rất nhiều về tình yêu, nhưng đôi khi tình yêu này xem ta có vẻ hơi trừu tượng, chẳng thực tế là bao. Và tất nhiên chúng ta phải yêu thương như chúng ta là, với tư cách là những con người có giới tính, đầy ham muốn và những cảm xúc mãnh liệt, có nhu cầu được quan hệ mật thiết và được gần gũi nhau giữa người này với người kia.
Hẳn chúng ta phải là những kẻ chẳng ra làm sao cả nên khi nói về đề tài này mới thành ra lạ lẫm như vậy vì chưng Kitô giáo là tôn giáo mang tính xác phàm nhất hơn bất kỳ tôn giáo nào khác. Chúng ta thâm tín rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên những thân xác này, và Người đã thấy chúng thật tuyệt mỹ biết bao; Thiên Chúa đã đến trong xác phàm để cư ngụ giữa chúng ta, đã trở nên một người phàm như chúng ta; Đức Giêsu đã tặng ban cho chúng ta bí tích thân mình Ngài và Ngài đã hứa phục sinh thân xác chúng ta. Và như vậy, chúng ta phải cảm thấy thân thiết như trong chính ngôi nhà của mình khi sống trong bản tính xác phàm của chúng ta cùng với những đam mê của nó và cảm thấy tự nhiên thoải mái khi nói về sự yêu thương! Nhưng rất thường, khi Hội Thánh lên tiếng nói về yêu thương, người ta vẫn cứ luôn hoài nghi. Chúng ta hầu như chẳng có chút thế giá nào khi nói về tính dục! Thiên Chúa đã nhập thể trong Đức Giêsu Kitô, nhưng chúng ta, chúng ta vẫn còn cần phải học cho biết cách nhập thể chính mình vào trong thân xác chúng ta. Chúng ta phải hạ cánh xuống lại trên mặt đất này!
Một ngày kia, khi thánh Gioan Kim Khẩu đang thuyết giảng về đề tài tính dục,[1] ngài nhận thấy rằng, các khán giả đỏ mặt tía tai, điều đó khiến ngài đầy phẫn nộ: “Tại sao anh chị em lại đỏ mặt? Phải chăng điều ấy có gì không trong sáng? Anh chị em đang xử sự như những người lạc giáo đấy”. Nghĩ rằng phải phớt tỉnh ăng-lê về tính dục là một khiếm khuyết đối với sự thanh khiết đích thực, và chí ít theo thánh Tôma Aquinô,[2] đây là một khiếm khuyết về luân lý! Chính vì để sống một chút giống như những hữu thể có giới tính và đam mê này, chúng ta cần phải học cho biết yêu thương. Nếu khác đi chúng ta se chẳng có gì để nói về Thiên Chúa – Đấng là tình yêu.
Tôi xin phép được nói về Bữa Tiệc Ly và về tính đục. Điều này xem ra có vẻ khá kỳ cục đấy, nhưng xin quý vị hãy ngẫm nghĩ đôi chút. Những lời trọng tâm của Bữa Tiệc Ly là “Đây là mình Thầy, và Thầy hiến tặng cho anh em”. Thánh Thể, cũng như giới tính, được đặt trọng tâm trên việc hiến dâng thân xác. Quý vị đã bao giờ nhận thây rằng thư thứ nhất gửi tín hữu giáo đoàn Corinto xoay chung quanh hai chủ đề, tính dục và Thánh Thể? Và thánh Phaolô đã bàn đến điểm này, bởi vì ngài nhận thức rõ rằng, chúng ta phải hiểu điều này dưới ánh sáng của điều kia. Chung ta hiểu Thánh Thể dưới ánh sáng của tính dục và hiểu tính dục dưới ánh sáng của Thánh Thể.
Hiến dâng thân xác
Xã hội chúng ta khó lòng mà hiểu được sự dâng hiến này, bởi vì chúng ta có khuynh hướng nhìn nhận thân xác chúng ta như thể một đối tượng thuộc quyền sỏ hữu của chúng ta. Một hôm, tôi đã tận mắt nhìn thấy một cuốn sách bàn về thân thể con người có nhan đề: Con người: đủ mọi kiểu dáng, đủ mọi hình thức, đủ mọi chiều kích, đủ mọi mầu sắc. Bản chỉ dẫn cho người sử dụng (Éditions Haynes). Đây là bản chỉ dẫn thuộc phạm trù của những thứ mà người ta sẽ giới thiệu với quý vị khi quý vị mua một chiếc xe máy hay một cái máy giặt.[3] Nếu quý vị nghĩ về thân xác của mình theo quan điểm này, nghĩa là như thể một đối tượng quan trọng giữa những đối tượng khác thì, khi đó, những hành vi tính dục chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tôi có thể làm những gì tôi muốn đối với những thứ tôi đang sở hữu, miễn là điều đó không gây phương hại đến người nào. Tôi có thể sử dụng cái máy giặt của tôi để pha trộn những gam mầu cho nghệ thuật hội hoạ hay để nướng bánh ga-tô: cái máy giặt này là của tôi mà. Và như vậy tại sao tôi lại không thể làm những gì tôi muốn đối với thân xác của tôi cơ chứ? Như thế là chúng ta dang suy nghĩ một cách tự nhiên vì, kể từ thế kỷ XVII, người ta dã đi đến kết cục bằng việc tuyệt đối hóa quyền sở hữu. Là một con người chính là sở hữu.
Nhưng Bữa Tiệc Ly đưa chúng ta trở lại một truyền thống khác, vừa cổ kính hơn vừa giàu ý nghĩa hơn. Thân xác không chỉ là một tài sản quý giá mà tôi đang sở hữu. Thân xác là chính bản thân tôi. Đó là hữu thể của tôi, được đón nhận từ thân mẫu tôi và từ các bậc tiền bối của thân mẫu tôi, và, đi cho đến cùng, là từ Thiên Chúa. Đến nỗi khi Đức Giêsu nói “Đây là mình Thầy và Thầy hiến tặng cho anh em”, thì không phải là Người đã vứt bỏ đi một tài sản quý giá đâu: Người truyền lại một tặng ân là chính thân thể Người. Hữu thể của Người là một hồng ân Cha ban tặng và đây chính là cái mà Người truyền lại cho chúng ta.
Những tương giao tính dục phải nhắm đến mục đích là thực thi việc trao hiến chính mình này. Bản thân tôi đây, và tôi xin dâng hiến cho anh-em-bạn (à toi), tất cả những gì tôi là bây giờ và mãi mãi. Và như thế, Thánh Thể giúp chúng ta thấu hiểu những cá nhân mang giới tính là gì, điều này có ý nghĩa đối với chúng ta, và bản năng tính dục của chúng ta giúp chúng ta hiểu được Thánh Thể. Người ta thường coi luân lý tính dục Kitô giáo như thể một rào cản chống lại những phong tục cùng thời. Hội Thánh nói với chúng ta những điều chúng la không được phép làm! Thật vậy, nền tảng của luân lý tính dục Kitô giáo chính là học biết trao ban và đón nhận những quà tặng.
Khi tôi gặp phải tiếng sét ái tình
Bữa Tiệc Ly là một khoảnh khắc của khủng hoảng bất khả né tránh trong tình yêu của Đức Giêsu với các môn đệ của Người. Trên chặng đường rong ruổi của mình từ khi chào đời cho đến ngày phục sinh, thì đây là khoảnh khắc Ngài cần phải vượt qua. Đây là một thời điểm mà trong đó tất cả đều bùng nổ. Người đã bị một trong các bạn hữu của mình bán đứng; tảng đá, Phêrô, sắp sửa chối bỏ Người; và đa phần các môn đệ sẽ bỏ trốn. Như thường lệ, vẫn chính những người phụ nữ là luôn lặng lẽ ở lại với Ngài cho đến cùng! Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã không trốn tránh cuộc khủng hoảng này. Ngài dã dang rộng đôi tay đón nhận. Ngài đã ôm choàng lấy sự phản bội và cả sự chối bỏ tình yêu nữa, và Ngài đã biến đổi tất cả thành một khoảnh khắc dâng hiến. “Thầy dâng hiến chính mình Thầy cho anh em. Anh em sẽ trao nộp Thầy vào tay những người Rôma để họ giết Thầy đi. Anh em sẽ bỏ rơi Thầy cho đến chết. Nhưng Thầy sẽ biến đổi tất cả thành khoảnh khắc dâng hiến, bây giờ và mãi mãi”.
Tăng trưởng trong sự chín chắn và yêu thương đồng nghĩa với việc chúng ta buộc sẽ phải trải qua những cuộc khủng hoảng tương tự như thế, trong đó chúng ta sẽ có cảm tưởng là thế giới này đang hoàn toàn sụp đổ. Điều này diễn ra theo cách thức bi kịch đối với những ai bước vào tuổi mới lớn, và điều này có thể sẽ diễn ra trong suốt cuộc đời, ngay cả khi ta đã lập gia đình hoặc ta đã là tu sĩ hay linh mục. Thường thường một cuộc khủng hoảng như thế này sẽ bùng phát vào khoảng năm hay sáu năm sau khi cam kết sống trong bậc hôn nhân hay trong bậc tư tế. Chúng ta buộc lòng phải đối diện.
Đức Giêsu đã có thể thoát hiểm bằng lối cửa bí mật và trốn đi. Ngài đã có thể ruồng bỏ các môn đệ vì chẳng còn dính dáng gì với họ nữa. Nhưng không, Đức Giêsu đã đón nhận khoảnh khắc này trong đức tin. Và chúng ta sẽ chỉ có khả năng giúp đỡ các bạn trẻ thực hiện được điều này nếu chính bản thân chúng ta đã trải nghiệm những khoảnh khắc như thế, và dám can đảm đối diện với chúng. Bản thân tôi cũng đã từng kinh qua điều này rồi! Tôi vẫn còn nhớ rằng, vài năm sau khi được thụ phong linh mục, tôi đã gặp phải tiếng sét ái tình. Vì lần đầu tiên tôi gặp được một con người mà tôi muốn cưới làm vợ với niềm hạnh phúc ngập tràn và người ấy cũng muốn cưới tôi trong niềm hạnh phúc như thế. Đó là khoảnh khắc của lựa chọn. Tôi vốn đã tuyên khấn trọng thể với cả niềm vui. Tôi yêu thương các anh chị em Đaminh của tôi. Lòng yêu mến sứ vụ của Dòng vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Tuy nhiên, trong khi tuyên khấn, tôi đã có một nghi vấn hơi phù phiếm nổi lên trong đầu: “Cái gì trong chuyện này làm cho tôi ra vẻ chàng rể?”.
Vào khoảnh khắc của lựa chọn đó, tôi phải chấp nhận sự lựa chọn đã được quyết định khi mà tôi tuyên khấn trọng thể. Hay, chính xác hơn, tôi phải chấp nhận sự lựa chọn mà Thiên Chúa đã thực hiện cho tôi; đây chính là cuộc sống mà Người đã mời gọi tôi sống. Đó là những giờ phút đau đớn vô cùng, nhưng cũng là những khoảnh khắc của hạnh phúc ngút ngàn. Tôi đã hạnh phúc bởi vì tôi đã yêu thương con người này, và kể từ đó, chúng tôi vẫn luôn là những ngươi bạn tâm giao của nhau. Đó còn là khoảnh khắc của hạnh phúc, bởi vì tôi đã được giải phóng khỏi những ảo ảnh mà tôi đã có trong đầu vào giây phút tôi tuyên khấn trọng thể. Tôi đã từ từ đáp trở lại trên mặt đất. Tâm trí tôi phải nhập thể vào trong chính ngôi vị của tôi đúng như bản chất tôi đang là, trong cuộc sống mà Thiên Chúa đã chọn lựa cho tôi, trong xác thân này và trong máu huyết này. Cuộc khủng hoảng đó đã đặt đôi chân tôi trở lại trên mặt đất.
Với đa phần trong chúng ta, điều đó không chỉ diễn ra một lần mà thôi. Chúng ta có thể trải qua rất nhiều cuộc khủng hoảng tình cảm trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã từng kinh qua điều đó, và ai biết được điều gì sẽ còn xảy ra nữa đây? Nhưng chúng ta phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng đó, như Đức Giêsu đã từng đương đầu trong Bữa Tiệc Ly, với lòng can đảm và tín thác. Khi đó, chúng ta sẽ an nhiên hội nhập vào trong thế giới thực tại của nhục thể và máu huyết chúng ta.
Một tu sĩ Dòng Benedict người Ireland tên là Mark Patrick Hederman đã viết: “Tình yêu là sức mạnh duy nhất hội đủ sự mãnh liệt, buộc chúng ta phải rời bỏ nơi trú ẩn đầy tiện nghi thoải mái của thái độ cá nhân chủ nghĩa vốn đã được chúng ta bảo vệ rất tốt, đồng thời bước ra khỏi cái vỏ sò bất khả xuyên thấu được của thái độ tự mãn chúng ta, buộc chúng ta phải hội nhập chính mình vào khuôn mặt đã được khám phá trong vùng nguy hiểm, lò thử thách này chính là nơi con người cá nhân chủ nghĩa sẽ được thanh luyện và trở thành một ngôi vị”.[4] Và nếu quý vị không đồng tình với vị tu sĩ Dòng Benedict người Ireland này, thì quý vị hãy vững tin vào thánh Tôma Aquinô: “Ai yêu thương thì nhất thiết phải vượt qua cõi biên thùy đang giam hãm người ấy trong những giới hạn riêng tư của chính mình. Chính vì lẽ đó, người ta nói về tình yêu rằng, tình yêu khiến con tim tan chảy: cái gì tan chảy thì không còn bị hạn chế trong những giới hạn riêng của bản thân mình nữa, điều này hoàn toàn trái ngược với những gì là sự chai đá của con tim”.[5] Chỉ có tình yêu mới có khả năng làm nổ tung sự chai đá của con tim chúng ta và ban tặng cho chúng ta một quả tim bằng thịt.
Cơn cám dỗ về thứ lòng nhân ái viễn vọng (La tentation de la philantropie télescopique)
Mở lòng ra với tình yêu là vô cùng nguy hiểm. Ta sẽ có thể bị thương tổn vì điều này. Bữa Tiệc Ly là câu chuyện kể về sự bất trắc tất phải có vì yêu. Đức Giêsu đã phải chết: bởi vì Ngài đã yêu. Và đây là điều đặc biệt nguy hiểm đối với một linh mục hay một tu sĩ. Trong khi yêu người ta đánh thức dậy những đa mê và ước muốn cực kỳ sâu xa và xao xuyến; có thể người ta có thể bị nguy cơ đánh mất ơn gọi của mình hay đưa đến một đời sống lứa đôi. Ân sủng sẽ là điều luôn cần thiết nếu người ta muốn vượt qua những nguy cơ này. Nhưng không mở lòng ra với tình yêu lại còn nguy hiểm hơn gấp bội: đây là mối nguy hiểm chết người.
Clive Staples Lewis phát biểu rằng: “Yêu là thực tại duy nhất làm cho trở nên dễ bị tổn thương. Hãy yêu bất cứ điều gì, và con tim các bạn sẽ bị xé nát vì điều ấy, và có thể bị vỡ tan nữa. Nếu các bạn muốn chắc chắn giữ cho con tim khỏi bị sứt mẻ, thì các bạn đừng dâng hiến con tim các bạn cho bất cứ người nào, thậm chí là ngay cả một con vật. Các bạn hãy bao bọc con tim thật kỹ lưỡng bằng những chuyện tầm phào và những đồ trang sức rẻ tiền; hãy tránh né tất cả mọi sự dấn thân; hãy cất giữ thật an toàn con tim các bạn trong một cái hòm hay trong một cái quan tài do thái độ vị kỷ của các bạn chế tạo ra. Nhưng, trong cái hòm kiên cố, tối tăm, bất động và kín mít này, con tim sẽ biến dạng. Nó sẽ không bị tan vỡ; nó sẽ trở nên sắt đá, bất khả xâm nhập vào được, bất khả đụng chạm đến được. Tùy sự lựa chọn của các bạn, khả năng duy nhất còn lại, khác hơn tấn bi kịch như vừa nói, hay ít ra là có nguy cơ thành bi kịch như thế, chính là lời kết án. Nơi duy nhất, bên ngoài thiên đàng, trong đó các bạn được bảo vệ khỏi tất cả mọi sự nguy hiểm và mọi nỗi thăng trầm của tình yêu, đó là hoả ngục”.[6]
Khi chúng ta cử hành Thánh Thể, chúng ta nên nhớ rằng, máu Đức Kitô đã đổ ra “vì anh em và vì tất cả mọi người”. Trong ý nghĩa sâu xa nhất, Mầu Nhiệm Tình Yêu đồng thời vừa mang tính cá nhân vừa mang tính phổ quát. Nếu tình yêu của chúng ta chỉ thực sự mang tính cá nhân, thì tình yêu này có nguy cơ bị giới hạn vào thái độ hướng nội và trở nên ngột ngạt. Nếu tình yêu này thực sự là một tình yêu mơ hồ và vô định đối với toàn thể nhân loại, thì nó có nguy cơ trở nên trống rỗng và hão huyền. Cơn cám đỗ của một cặp vợ chông có thể là muốn có một tình yêu thật mãnh liệt nhưng lại khép kín và loại trừ; thường thường, điều duy nhất khi đó có khả năng cứu cho cặp vợ chồng này khỏi bị đổ vỡ, đó là sự xuất hiện của người thứ ba, đứa con, người sẽ mở rộng tình yêu của họ. Cơn cám dỗ của những người sống độc thân có thể là một tình yêu thuần túy phổ quát, một tình yêu mặn nồng nhưng mơ hồ đối với nhân loại. Trong tác phẩm Bleak House (Ngôi nhà lạnh lẽo), tiểu thuyết gia Dickens [7] kể cho chúng ta biết lý do tại sao quý bà Jellyby lại là một người có một “lòng nhân ái viễn vọng, bởi vì bà đã không thể nhìn thấy bất cứ cái gì gần gụi hơn là lục địa Châu Phi”. Bà đã yêu mến cái Châu Phi chung chung, nhưng thậm chí không nhận ra cả sự hiện hữu của những người con của riêng bà.
Trong số chúng ta, những ai là tu sĩ không thể lẩn trốn trong một thứ nhân ái viễn vọng như thế. Việc tiến đến gần với Mầu Nhiệm Tình Yêu cũng muốn nói rằng, chúng ta đang yêu thương những con người, đôi khi bằng tình bạn, đôi khi bằng tình cảm quyến luyến sâu xa. Chúng ta phải học cho biết cách hội nhập các loại tình yêu này vào trong căn tính tu trì của chúng ta. Dường như ngày xưa người ta thường cảnh giác các tu sĩ hãy chống lại “những tình bạn đặc biệt”. Anh Gervase Mathew [8] đáng kính của chúng tôi đã luôn luôn nói rằng, anh còn e ngại “những mối hiềm khích đặc biệt” nhiều hơn gấp bội!
Bède Jarret là Bề trên Giám tỉnh Tỉnh Dòng Đaminh Anh quốc trong những năm 30. Cha đã viết một bức thư tuyệt vời gửi cho một đan sĩ trẻ tuổi Dòng Benedict tên là Hubert van Zeller, người mà sau chiến tranh đã trở nên nổi tiếng nhờ những tác phẩm viết về linh đạo. Vị đan sĩ trẻ này đã gặp phải tiếng sét ái tình với một người mà chúng ta chỉ biết được chữ cái đầu của tên người ấy là P. Đây là một thử thách khủng khiếp. Vị đan sĩ trẻ ấy đã lo sợ rằng, mối tình này sẽ đặt dấu chấm hết cho ơn gọi tu trì của anh; nhưng Cha Bède Jarret lại thấy đây mới chỉ là khởi đầu trong ơn gọi của anh. Về điểm này, tôi sẽ trích dẫn khá dài cho quý vị. Ta phải ngỡ ngàng không ít khi nhớ lại rằng, lá thư này đã được viết ra lúc Cha Bède Jarret đã được bảy mươi tuổi.
“Tôi thấy hạnh phúc (vì anh đã bị tiếng sét ái tình của P) bởi vì tôi nghĩ rằng, sự cám dỗ đã làm cho anh luôn bị phơi bày ra đó, nó thuộc về chủ thuyết thanh giáo (puritanisme), một sự hẹp hòi, một sự phi nhân nào đó. Khuynh hướng của anh đã luôn là sự khước từ tôn trọng vật chất. Anh có vẻ yêu Chúa (Giêsu), nhưng chắc anh không thực sự yêu mến công cuộc Nhập Thể. Thực vậy, anh có vẻ sợ hãi. Có lẽ anh nghĩ (ở đây tôi quy cho anh mọi loại thiếu sót mà không cần bằng chứng) rằng, nếu anh thôi chống trả, anh sẽ bị hủy diệt. Nơi anh đầy dẫy những ức chế. Những ức chế này suýt nữa đã giết chết anh, và suýt nữa thì làm tiêu ma nhân tính của anh. Anh có vẻ sợ hãi cuộc đời bởi vì anh mong muốn là một vị thánh, và bởi vì anh tưởng anh là một nghệ sĩ. Người nghệ sĩ trong anh có thể nhìn thấy vẻ đẹp ở khắp nơi; vị thánh của ước muốn lại bảo “Nhưng điều đó chính là điều nguy hiểm kinh khủng”; còn người tập sinh trong anh thì nói “Hãy nhắm tịt mắt lại”. Và Claude (tên thánh của Hubert van Zeller) suýt nữa đã bị nổ tan tành. Nếu P đã không bước vào cuộc đời anh, thì rất có thể anh đã bị nổ tan xác mất rồi. Tôi tin rằng P sẽ cứu cuộc đời anh. Tôi sẽ dâng một thánh lễ tạ ơn vì những gì P đã là, và đã làm, cho anh. Chắc là anh cần có P lâu dài đấy. Những kẻ đồng tính chẳng phải là giải pháp đâu. Cũng không phải là những lão ông Giám tỉnh bụng phệ này đâu nhé”.[9]
Tôi không muốn nói là tất cả chúng ta sẽ phải hối hả xông ngay ra cửa để tìm một ai đó mà yêu! Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những tình yêu và tình bằng hữu góp phần tạo nên nẻo đường để chúng ta lữ hành đến với Ngài, Đấng là tình yêu sung mãn. Chúng ta ở trong sự mong chờ ai đó mà Thiên Chúa gửi đến, khi nào, và như thế nào. Nhưng khi những điều đó xảy đến, chúng ta phải can đảm để ôm choàng lấy khoảnh khắc ấy, như Đức Giêsu đã thực hiện trong Bữa Tiệc Ly.
Vậy, sống thanh khiết nghĩa là gì?
Khi thực hiện điều này, chúng ta sẽ phải học để làm những con người thanh khiết. Tất cả mọi người, những người độc thân, những người đã xây dựng gia đình, tu sĩ nam nữ, chúng ta hết thảy đều được mời gọi sống thanh khiết. Từ ngữ thanh khiết không phổ biến lắm trong thời đại chúng ta. Nó vang dội bên tai như gợi đến một thực hữu đoan trang thùy mị, lạnh lùng, xa vắng, nửa sống nửa chết, chẳng quan tâm đến điều gì hết. Herbert McCabe, O.P. đã viết rằng: “sự thanh khiết nào không phải là một biểu đạt của tình yêu thì chỉ là xác chết của sự thanh khiết đích thực”.[10] Xác chết của một con chó vẫn giống với con chó. Thậm chí người ta có thể nhầm lẫn và nghĩ rằng đó là một con chó đang ngủ yên. Nhưng đó không phải là một con chó, mà chỉ vốn là một con chó (trước kia nó là chó: un ex-chien). Cũng tương tự như thế, một người nào đó sống độc thân nhưng không biết yêu thương gì hết, thì vẫn có thể giống với một người thanh khiết, nhưng người ấy coi như đã chết rồi.
Như vậy thì, sống thanh khiết có nghĩa là gì? Trước hết sự thanh khiết không hệ tại ở việc triệt tiêu những ham muốn, ít ra là theo truyền thống của thánh Tôma Aquinô. Ham muốn và những đam mê hàm chứa nhiều chân lý sâu xa về những gì chúng ta đang là và những gì thực sự cần thiết đối với chúng ta. Bóp chết nghẹt những ham muốn và đam mê sẽ chỉ tổ giết chết chúng ta về đàng tinh thần mà thôi, hoặc một ngày nào đó, sẽ khiến cho chúng ta bị lệch lạc. Chúng ta phải giáo dục những ham muốn của bản thân chúng ta, mở rộng đôi mắt nhìn vào những đối tượng thực tế của chúng, giải phóng chúng khỏi những khoái lạc ti tiện. Chúng ta phải ham muốn càng ngày càng sâu xa hơn và càng ngày càng trong sáng hơn nữa.
Thánh Tôma đã viết một điều mà có lẽ chính ngài cũng dễ dàng rơi vào tình trạng khó giải thích. Ngài nói thế này: “sự thanh khiết cốt ở chỗ sống theo trật tự của lý trí”.[11] Điều này xem ra hơi lạnh lùng và hơi quá lý trí, như thể việc sống thanh khiết hoàn toàn nằm trong khả năng của tinh thần vậy. Nhưng, qua từ ngữ “ratio”, thánh Tôma muốn nói đến việc sống trong một thế giới thực tế “theo chân lý của những sự vật có thực”.[12] Điều đó muôn nói rằng, tôi phải sống trong thực tại của những gì mà tôi đang là và thực tế của những gì nơi những người mà tôi thương mến đang thực sự là. Đam mê và ham muốn có thể lôi cuốn chúng ta đến chỗ sống trong sự tưởng tượng, trong khi sự thanh khiết đưa chúng ta trở về lại với mặt đất này, và có khả năng nhìn thấy được sự vật như chúng đang là. Đối với một tu sĩ, hay đôi khi đối với những người sống độc thân, có thể nảy sinh cơn cám dỗ muốn ẩn mình trốn trong cái ảo tưởng nguy hiểm rằng, chúng ta là những thiên thần thanh khiết chẳng dính dáng gì đến tính dục cả. Điều này có vẻ giống như sự thanh khiết, nhưng đây lại là sự đồi bại và lệch lạc. Điều này khiến tôi nhớ lại câu chuyện của một người Anh Em của tôi khi đến dâng thánh lễ trong một tu viện của các nữ tu. Một chị nữ tu ra mở cửa, nhìn thấy anh và nói: “À, đúng là cha đây rồi! Con tin rằng đây là một người đàn ông”.
Người ta khó có thể tưởng tượng được một cuộc cử hành tình yêu nào lại tầm thường hơn là Bữa Tiệc Ly. Trong Bữa Tiệc Ly chẳng có chút gì là lãng mạn cả: Đức Giêsu đã nói không úp mở với các môn đệ của Người rằng, mọi sự sắp đến hồi kết thúc rồi, rằng một trong số các ông sẽ phản bội Người, rằng Phêrô sẽ chối bỏ Người, rằng những người khác sẽ bỏ trốn. Đây hoàn toàn không phải là một bữa ăn tối ấm cúng và dễ thương với những ánh nến lung linh sáng trong một trattoria (một quán ăn bình dân ở Italy). Đây thực sự là một kiểu duy thực tột cùng. Tình yêu tạ ơn đặt chúng ta trong tư thế phải đối diện thẳng thắn và không ngần ngại với những rắc rối của tình yêu, với những thất bại ê chề, cũng như với chiến thắng tối hậu của tình yêu.
Trong những loại ảo ảnh nào mà ước muốn có thể khiến chúng ta mắc bẫy? Tôi xin được phân biệt hai loại ảo ảnh:
– Loại ảo ảnh thứ nhất là cơn cám dỗ tin rằng, người khác là tất cả, tất cả những gì chúng ta đang tìm kiếm, tất cả những gì có khả năng đáp ứng cho những khát vọng của chúng ta. Đây là một sự ám ảnh.
– Loại ảo ảnh thứ hai là không có khả năng nhìn thấy được nhân tính nơi người khác, giản lược người khác xuống hàng phục vụ, nhằm thỏa mãn những xung động của chúng ta. Đây là một sự dâm dục.
Hai loại ảo ảnh này thực ra cũng không khác nhau, vì ngay từ đầu chúng đã giống nhau rồi. Ảo ảnh này là phán ảnh của ảo ảnh kia.
Ước muốn sự thân mật
Tôi giả thiết là tất cả chúng ta đều đã kinh qua những khoảnh khắc ám ảnh này, khi mà một ai đó trở nên đối tượng của toàn bộ những khát vọng nơi bản thân chúng ta, trở thành biểu tượng của tất cả những điều chúng ta đã chưa từng bao giờ ước muốn, trở thành lời đáp trả cho toàn bộ những nhu cầu của chúng ta. Nếu chúng ta không kết hiệp sâu xa với con người này, thì cuộc đời chúng ta có nguy cơ bị trống rỗng và mất đi toàn bộ ý nghĩa. Đối tượng tình yêu của chúng ta sẽ lấp đầy cái giếng sâu thẳm của những nhu cầu mà chúng ta khám phá được trong chính bản thân chúng ta. Suốt cả ngày, chúng ta cứ tâm tưởng đến những nhu cầu ấy. Như đại văn hào Shakespeare đã diễn đạt điều này quá tuyệt làm sao: “Và thế là ban ngày thì chân tay anh, ban đêm thì tâm trí anh, cho em, và cho anh, hầu như chẳng tìm thấy chút nghỉ ngơi thư thái nào”.[13]
Hoặc, để gọi là hiện đại hơn một chút, thì khuôn mặt của người được yêu phải giống như chương trình bảo vệ màn hình máy vi tính của chúng ta (l’économiseur d’écran). Vào khoảnh khắc khi mà ta ngừng suy nghĩ về một điều nào khác, thì cái đó lại xuất hiện. Điều đó như thể một sự tù đày, một tình trạng nô lệ, nhưng lại là một sự nô lệ mà chúng ta không mong muốn thoát ra khỏi. Chúng ta thần hóa người được chúng ta yêu và đặt người đó vào vị trí của Thiên Chúa. Hiển nhiên, những điều chúng ta tôn thờ đó chính là công trình sáng tạo của chúng ta cho chúng ta. Đó là một sự phóng chiếu. Có lẽ, tất cả mọi tình yêu đều phải trải qua giai đoạn ám ảnh kỳ cục này. Phương thuốc chữa trị duy nhất là sống cùng với con người đó ngày này sang ngày khác, và khám phá ra rằng, con người ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng chỉ là con đẻ của mình. Tình yêu bắt đầu ngay khi chúng ta được chữa lành khỏi ảo vọng này, và lúc đó, chúng ta diện đối diện với một ngôi vị thực sự, chứ không phải với một phóng chiếu từ những khát vọng của chúng ta. Như Octavio Paz [14] đã nói: “Tình yêu mặc khải thực tại cho khát vọng”.
Vậy thì, chúng ta tìm kiếm cái gì trong toàn thể những điều này? Cái gì là nguyên cớ gây nên sự ám ảnh này? Tôi chỉ có thể phát biểu nhân danh cá nhân tôi mà thôi, nhưng khi đó tôi sẽ nói rằng, cái luôn luôn đứng đằng sau những xáo trộn cảm xúc nhất thời của tôi là một ước muốn sự thân mật. Đó là khát vọng được hoàn toàn trở nên một, khát vọng làm biến mất những biên thùy chia cách giữa tôi và một người khác, được đánh mất chính mình trong một người khác, để khai mở một sự hiệp thông tinh ròng và hoàn toàn; Đúng hơn là một đam mê tính dục. Tôi thiết nghĩ rằng, chính cái ước vọng sự thân mật này mới là điều mà đa phần con người đang tìm kiếm. Nếu chúng ta phải trải qua những cuộc khủng hoảng tình cảm, thì chúng ta cũng cần phải nhìn nhận nhu cầu thân mật này của chúng ta.
Xã hội chúng ta được xây dựng xung quanh huyền thoại kết hợp tính dục như thể sự đăng quang của toàn bộ ước muốn sự thân mật. Chính khoảnh khắc âu yếm và kết hợp thân xác trọn vẹn này đã tạo nên sự thân mật toàn diện và là sự hiệp thông tuyệt đối. Rất nhiều người lãng quên sự thân mật này, bởi vì họ không lập gia đình hay do đời sống hôn nhân của họ không hạnh phúc, hoặc bởi vì họ là những linh mục hay tu sĩ. Và chúng ta có thể cảm thấy mình bị tước đoạt một cách bất công trong những gì là nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta. Điều này xem ra có vẻ võ đoán! Tại sao Thiên Chúa lại có thể tước khỏi bản thân tôi khả năng thỏa mãn khát vọng thâm sâu này?
Tôi thiết nghĩ rằng, tất cả mọi người, dù đã lập gia đình hay sống độc thân, tu sĩ hay giáo dân, phải học để tập thích ứng với những giới hạn của sự thân mật mà mọi người buộc phải đối diện. Giấc mơ về mội cuộc hiệp thông toàn diện là huyền thoại vốn đã xui khiến một số tu sĩ khát khao lập gia đình, và một số người đã lập gia đình lại mong muốn xây dựng gia đình với một người khác nữa. Hẳn nhiên, sự thân mật chỉ hạnh phúc nếu chúng ta chấp nhận những giới hạn của nó. Chúng ta có thể phóng chiếu trên những cặp vợ chồng một sự thân mật tuyệt đẹp và toàn diện, nhưng trong thực tế đây lại là điều bất khả và chỉ là sự phóng chiếu những giấc mơ của chúng ta mà thôi. Rilke đã hiểu rằng, không thể có một sự thân mật đích thực nơi đôi vợ chồng nếu mỗi người không nhìn nhận rằng, nơi người khác, theo một cách nào đó, vẫn luôn đơn độc. Tất cả mọi người đều giữ kín một phần cô đơn nào đó xung quanh mình vốn không thể bị tiêu diệt. “Một cuộc hôn nhân hạnh phúc là một cuộc hôn nhân trong đó người này làm cho người kia trở thành kẻ canh gác nỗi cô đơn của mình, và dành cho người kia sự tin tưởng (…). Một khi người ta đã thấu hiểu và chấp nhận rằng, ngay cả giữa những người gần gũi nhất vẫn luôn tồn tại những khoảng cách vô biên, thì khi đó, người ta có thể sát cánh cùng nhau phát triển một cuộc sống diệu huyền, và nếu họ biết yêu mến khoảng cách giữa họ với nhau vốn đã cống hiến cho mỗi người khả năng để nhìn thấy người khác toàn diện hơn dựa trên một hậu trường rộng lớn và tuyệt vời”.[15]
Tiến đến gần trung tâm cuộc đời người khác
Không ai có thể đem đến cho chúng ta sự thỏa mãn toàn diện đối với những điều chúng ta đang khao khát. Điều này chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa. Rowan Williams, một người chồng và là Tổng Giám Mục Cantobéry, đã viết: “Một con người trở nên trưởng thành và trung tín khi mà người ấy ý thức được về căn bệnh vô phương chữa khỏi của những khát vọng trong bản thân mình: thế giới này là như thế đó, chẳng có cái gì ban tặng cho người nào đấy một căn tính mà lại không có thiếu sót và cần phải hoàn thành”.[16] Hoặc theo Jean Vanier: “Nỗi cô đơn nằm sâu trong hữu thể con người, bởi vì chẳng có điều gì trong cuộc đời này có khả năng thỏa mãn hoàn toàn những nhu cầu của trái tim con người”.[17]
Đối với những người đã lập gia đình, thì sự thân mật diệu huyền là điều khả dĩ nếu một khi người ta biết chấp nhận là kẻ canh gác nỗi cô đơn của người khác, như Rilke đã nói; và đối với chúng ta là những người không lập gia đình hay dấn thân vào đời sống độc thân, cũng có thể khai mở được một sự thân mật thâm sâu và diệu huyền với những người khác. Hạn từ “intimité” (thân mật) phát sinh từ hạn từ trong tiếng Latin là “intimare”, có nghĩa: “sống liên hệ mật thiết với những gì là thâm sâu nhất nơi một người khác”. Bởi vì tôi là một tu sĩ, lời khấn thanh khiết đã cống hiến cho tôi khả năng để trở nên thân mật một cách khó tin với những người khác. Bởi vì tôi chẳng có sổ nhật ký bí mật và tình yêu của tôi không phải là để tàn phá, cũng chẳng phải để chiếm hữu, nên tôi có thể tiến đến rất gần trung tâm cuộc sống của một số người.
Cái bẫy được đặt đối lập với sự ám ảnh không hệ tại ở chỗ đặt người khác thay vào vị trí của Thiên Chúa, nhưng là biến người khác trở thành một đối tượng thuần túy, một điều gì đó có khả năng thỏa mãn những nhu cầu tính dục. Dục vọng bịt mắt chúng ta không cho nhìn thấy người khác với tư cách là một ngôi vị, nhìn thấy sự mỏng giòn cũng như những phẩm tính của họ. Thánh Tôma, khi viết về đức thanh khiết, đã nói rằng: khi con sư tử nó nhìn thấy một con nai cái, là nó nhìn thấy một bữa ăn, và rằng dục vọng đã biến chúng ta trở thành những kẻ săn bắt, những động vật săn mồi nhìn thấy những gì chúng có thể ngấu nghiến. Còn ở đây, sự thanh khiết cốt ở chỗ sống trong thế giới thực hữu. Sự thanh khiết mở mắt chúng ta và giúp chúng ta nhận ra rằng, cái đang ở trước mặt chúng ta hiện hữu, vâng, đúng như vậy, một thân thể mỹ miều, nhưng thân thể này lại là một con người. Thân thể này không phải là một đối tượng, nhưng là một chủ thể. Tôi xin trích dẫn Hederman thêm một lần nữa: “Lời khấn thanh khiết ngăn cản những bước chân của kẻ săn mồi không cho phép thực hiện điều mà chúng muốn tiến hành theo lẽ tự nhiên: đặt bẫy săn những người khác và như thế là đang tiến gần tới chỗ trở thành một động vật săn mồi”.[18] Điều vô cùng khủng khiếp trong những câu chuyện về lạm dụng tình dục thường là đã có một sự chuẩn bị được tính toán khéo léo.
Người ta có thể tin rằng, dục vọng là một đam mê tính dục không thể làm chủ được, một nỗi khao khát tính dục phóng túng. Nhưng thánh Augustin, người đã trải nghiệm sâu xa trong vấn đề này lại cho rằng, dục vọng là nỗi khát khao muốn được thống trị tha nhân hơn là khát khao khoái lạc tình dục. Dục vọng liên quan đến “libido thống trị” (libido dominandi), nỗi khát khao muốn được thống trị đã biến chúng ta trở thành Thiên Chúa. Dục vọng liên quan đến quyền lực nhiều hơn là liên quan đến tính dục. Như Sébastien Moore [19] đã viết điều này: “Dục vọng không phải là một đam mê tính dục thoát ra khỏi sự kiểm soát của ý chí, nhưng là một đam mê tính dục nhằm chiếm một chỗ đứng trong ý chí của Thiên Chúa (…). Trách nhiệm của chúng ta không phải là bắt đam mê tính dục phải tuân phục ý chí, nhưng là phục hồi nguyên vẹn cho đam mê tính dục bản tính khao khát đích thực của nó, là tìm thấy cội nguồn và cứu cánh trong Thiên Chúa, và sự giải thoát được thực hiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong đời sống, lời giáo huấn, cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”.
Mối nguy hiểm của việc biến chính mình thành một vị Thiên Chúa
Để vượt qua dục vọng này, bước đầu tiên không phải là triệt tiêu hết mọi khao khát, nhưng là phục hồi, giải phóng, và tái khám phá rằng, những điều mà khao khát này nhắm đến không phải là một đối tượng nhưng là một con người. Có quá nhiều vụ tai tiếng đáng buồn về tội lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên do các linh mục hay tu sĩ không có đủ khả năng để đảm nhận những mối tương quan trưởng thành với những đối tác bình đẳng với mình! Họ chỉ có thể tìm kiếm những mối tương quan ở nơi đâu mà họ có quyền lực và thế giá. Họ phải làm như thế, vì họ không muốn bản thân mình có thể bị tổn thương. Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”. Ngài đã tự hiến chính mình. Thay vì bắt các môn đệ phải phục tùng mình, Đức Giêsu đã tự hiến tế vì họ để thực hiện những điều họ mong muốn, và chúng ta biết rõ đâu là những điều họ sắp thực hiện; Đây là sự tổn thương ghê gớm của một tình yêu đến cùng.
Dục vọng và ám ảnh có thể xem ra khá khác nhau, và tất nhiên cái này là phản ánh chính xác của cái kia. Trong ám ảnh, người ta biến người khác trở thành một vị Thiên Chúa, còn trong dục vọng, người ta biến chính mình trở thành Thiên Chúa. Trong trường hợp này, người ta tỏ ra mình hoàn toàn bất lực, và trong trường hợp kia người ta khát khao quyền tuyệt đối. Rowan Williams viết rằng: “Tình yêu là sự do dự giữa thái độ vị kỷ và tinh thần quên mình”.[20] Tình yêu mang đến cho chúng ta một cảm thức mãnh liệt về chính bản thân chúng ta, nhưng đồng thời tình yêu cũng khiến cho chúng ta không còn ý thức nữa. Dục vọng có thể xuất hiện khi mà thái độ vị kỷ thắng thế, và ám ảnh xuất hiện khi tinh thần quên mình đánh mất toàn bộ ý nghĩa căn tính của mình.
Như thế, sống thanh khiết cốt ở chỗ sống trong thế giới thực hữu, có nghĩa là nhìn người khác (nam hay nữ) như họ đang là, và chính bản thân mình như mình đang là. Họ chẳng phải là những vị thần vị thánh, và cũng chẳng phải là một khối thịt thuấn túy. Chúng ta, cả hai đều là con cái Thiên Chúa. Chúng ta có một lịch sử. Chúng ta đã thực hiện những lời khấn, lời hứa. Người khác cũng đã thực hiện những cam kết, có thể với tư cách là một đối tác hay một phối ngẫu. Chúng ta, những linh mục hay tu sĩ, chúng ta đã hiến mình cho Hội Dòng của chúng ta và cho Giáo phận của chúng ta. Chính trong tư cách là những người đã đảm nhận và được liên kết qua những cam kết khác nhau, nên chúng ta có thể phải học để biết yêu thương với một con tim cởi mở và một đôi mắt luôn biết nhìn xa trông rộng.
Thực hiện được điều này rất khó bởi vì chúng ta đang sống trong thế giới của internet. Đây là một thế giới của thực tại ảo, trong đó người ta có thể sống trong những thế giới tưởng tượng như thể chúng đang hiện hữu thực vậy. Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa vốn rất khó phân biệt giữa cái tưởng tượng với cái có thực. Tất cả đều khả dĩ trong cái thế giới ảo này. Chính vì vậy, sự thanh khiết trở nên khó khăn: sự thanh khiết là một nỗ lực không ngừng để nhìn thấy thực tại.
Như vậy, làm thế nào chúng ta có thể hạ cánh xuống lại trên mặt đất này? Tôi xin được nêu bật ba giai đoạn. Chúng ta cần phải học để biết mở rộng đôi mắt và để nhìn thấy khuôn mặt của những anh chị em đang hiện hữu trước mắt chúng ta. Liệu đã có bao nhiêu lần chúng ta thực sự chú ý đến khuôn mặt của những người khác đích thị như họ đang là? Brian Pierce, tu sĩ Đaminh người Mỹ, đang viết một cuốn sách nhằm so sánh tư tưởng của Tôn sư Eckharl, một nhà thần bí Đaminh thế kỷ XVI, với tư tưởng của Thích Nhất Hạnh, một phật tử (un Bouddhiste) thế kỷ XX. Đối với cả hai vị, điểm khởi đầu của đời sống chiêm niệm chính là giây phút hiện tại, đây là điều các anh em Phật tử gọi là “ý thức”. Chỉ có giây phút hiện tại mới là thực hữu. Chính trong giây phút này đây mà tôi đang sống, và do đó chính trong giây phút này đây tôi có thể hội ngộ với Thiên Chúa. Tôi cần phải đạt được sự thanh thản để thôi không còn âu lo về quá khứ và tương lai nữa. Hiện tại là khoảnh khắc mà trong đó cái vĩnh cửu bắt đầu lên ngôi. Eckhart hỏi: “Ngày hôm nay, nó là cái gì vậy?”. Và ông trả lời: “Vĩnh cửu”.
Nghệ thuật sống một mình
Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu thấu hiểu và ôm choàng lấy giây phút hiện tại. Thay vì lo lắng về những việc Judas Iscariot đã làm, hay việc quân lính sắp đến gần, Đức Giêsu đã sống giây phút hiện tại, Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em”. Mỗi lần cử hành Thánh Thể là một lần dìm chúng ta vào trong cái hiện tại vĩnh cửu này. Chính trong khoảnh khắc này, tôi có thể hiện diện với một người khác, thanh thản và lặng lẽ trong sự hiện diện của người ấy. Tôi quá bận rộn, cứ tất tả chạy ngược chạy xuôi, cứ mải suy nghĩ đến những gì sẽ xảy ra sau đó, đến độ tôi không còn khả năng để nhìn thấy khuôn mặt đang đối diện với tôi, nhìn thấy vẻ đẹp cũng như những vết thương lòng, nhìn thấy niềm vui và những khổ đau của khuôn mặt ấy nữa. Như thế, sự thanh khiết sẽ giúp cho đôi mắt tôi được rộng mở!
Kế đến tôi có thể học nghệ thuật sống một mình. Tôi không thể sống hạnh phúc với những người khác trừ khi tôi có khả năng để sống một mình. Nỗi cô đơn khiến tôi khiếp sợ, vì vậy khi tôi ôm ấp những người khác vào lòng không phải bởi vì tôi vui thú cùng với họ, nhưng như thể một giải pháp cho vấn đề của tôi. Tôi coi những người khác như một phương tiện để lấp đầy sự trống rỗng và nỗi cô đơn khủng khiếp của tôi. Như thế, tôi không thể hoan lạc cùng với họ vì sự thiện hảo riêng của họ. Và như vậy, khi ta hiện diện với một người khác, thì đây phải là một cuộc hiện diện thực sự, và khi ta sống một mình, thì vấn đề quan trọng là phải học để biết yêu mến sự cô đơn. Nếu khác đi, thì khi ta hiện diện với một người khác, ta sẽ bám chặt lấy người ấy cho đến khi làm cho người ấy chết ngạt!
Cuối cùng, tất cả mọi xã hội đều sống với câu chuyện của mình. Xã hội chúng ta có những câu chuyện truyền thống riêng của nó. Đó thường là những câu chuyện lãng mạn: một chàng trai gặp một thiếu nữ (hay đôi khi một chàng trai gặp một chàng trai), nếu cả hai phải lòng nhau và sống hạnh phúc dài lâu. Đó là một câu chuyện đẹp, thường xảy ra. Nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng, trong cuộc tình đó, chỉ có một phiên bản khả thể duy nhất như thế mà thôi, thì chúng ta đang sống với những khả thể rất giới hạn. Trí tưởng tượng của chúng ta cần phải được nuôi dưỡng bằng những phiên bản khác nữa, vì những câu chuyện này có khả năng nói cho chúng ta biết các cách thế sống và yêu thương. Khi đứng trước những người trẻ, chúng ta cần phải biểu lộ những cách thế vô cùng đa dạng để ta có thể gặp gỡ tình yêu của họ và trao tặng cho tình yêu đó một ý nghĩa. Chính vì lẽ ấy, cuộc đời các vị thánh thật quan trọng vô cùng. Cuộc đời của các vị cho chúng ta thấy rằng, có biết bao là cách sống anh hùng, dù là người lập gia đình hay sống độc thân, dù là tu sĩ hay giáo dân. Một bản tự truyện đã đánh động tôi rất nhiều: bản tự truyện The Long Road to Freedom của Nelson Mandela. Đây là một con người đã dành toàn bộ cuộc đời mình vì công lý và làm cho chủ nghĩa apartheid sụp đổ, và điều này càng có ý nghĩa khi mà ông không được sống đời sống hôn nhân mà ông đã rất khao khát, và vẫn còn khao khát trong suốt những năm tháng bị cầm tù. Như thế, bước chân đầu tiên tiến đến sự thanh khiết đó là đặt chân xuống bước đi trên mặt đất này. Tôi sẽ nhanh chóng đề cập đến hai bước khác.
Chia sẻ tình yêu của chúng ta
Giai đoạn thứ hai, rất sơ lược, cốt ở chỗ mở rộng tình yêu của chúng ta, đến nỗi tình yêu không còn ở lì trong cái thế giới nhỏ bé riêng tư mà tình yêu tìm thấy nơi ẩn náu trong đó. Tình yêu của Đức Giêsu đã được mặc khải khi Ngài cầm lấy bánh và bẻ ra, ngõ hầu chính bản thân Ngài có thể được chia sẻ. Khi chúng ta khám phá ra tình yêu, chúng ta không nên giữ kín tình yêu ấy trong cái tủ nhỏ bé riêng tư trong hốc tường để khoái lạc một mình, như thể một chai Whisky được cất giấu vụng trộm để uống mảnh, cần phải mở rộng tình yêu này với những người khác, chia sẻ tình yêu với họ và làm cho họ được lợi từ tình yêu này. Chúng ta phải chia sẻ tình yêu của chúng ta với các bằng hữu của chúng ta, và các bằng hữu của chúng ta với những người mà chúng ta thương mến. Như vậy, một tình yêu riêng tư sẽ trở nên phổ quát.
Vượt trên tất cả, trong mọi thứ tình yêu, chúng ta đều có thể mở ra một không gian cho Thiên Chúa để Ngài cư ngụ tại đó. Chính Mầu Nhiệm Tình Yêu là Thiên Chúa có thể sống trong mọi tình yêu riêng tư. Khi chúng ta yêu thương sâu xa một ai đó, thì Thiên Chúa đã hiện diện nếu, ít ra, chúng ta biết nhìn ra Ngài trong tình yêu này. Đúng hơn, hãy coi những tình yêu của chúng ta như thể đang tranh đua với Thiên Chúa, chúng ta cần ý thức rằng, tình yêu của chúng ta phải dành cho Thiên Chúa một khoảng không gian để Ngài có thể cắm lều cư ngụ tại đây. Như Bède Jarrett đã nói điều này với Hubert van Zeller: “Nếu anh cứ nghĩ rằng một điều duy nhất phải làm là sống thu mình trong cái vỏ sò của chính mình, anh sẽ chẳng bao giờ thấy được Thiên Chúa đáng yêu như thế nào đâu. Anh phải yêu thương P và tìm kiếm Thiên Chúa trong P (..). Hãy đánh giá cao tình bạn của anh, hãy trả giá cho tình bạn ấy bằng nỗi đau khổ của anh, anh hãy nhớ đến tình bạn ấy trong thánh lễ của anh, và nên luôn có một người thứ ba. Phần mở đầu tác phẩm Tình bạn thiêng liêng của Aered de Rievaulx [21] viết như sau: ‘Chúng ta đây, anh và em, và anh hy vọng rằng giữa hai chúng ta, Đức Kitô là người thứ ba’. Thật tuyệt vời phải không? Nếu anh chạy trốn tình yêu, thì anh sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được Thiên Chúa đáng yêu dường nào; nhưng nếu anh không để cho Thiên Chúa bước vào trong cuộc tình này và dâng tặng Người tình yêu ấy, thì anh cũng không thể nào hiểu biết được mầu nhiệm của tình yêu này. Nếu chúng ta tách tình yêu của chúng ta ra khỏi Thiên Chúa, cũng như ra khỏi những người khác, thì cả hai sẽ đầy tràn nỗi cay đắng và sẽ trở thành không lành mạnh. Đây chính là ý nghĩa của việc ‘sống đời lứa đôi’”.
Giai đoạn thứ ba, có lẽ là giai đoạn khó khăn nhất, đó là tình yêu của chúng ta phải đem lại tự do cho con người. Tất cả mọi thứ tình yêu, cho dù là tình yêu của những người đã lập gia đình hay tình yêu của những người sống độc thân, phải là một tình yêu mang tính giải phóng. Tình yêu của người chồng và của người vợ phải mở ra những không gian tự do rộng lớn, và đối với chúng ta là những linh mục hay tu sĩ, thì điều này lại còn đúng hơn nữa. Chúng ta phải yêu thương mọi người đến độ họ được tự do để yêu thương những người khác hơn chúng ta. Thánh Augustin gọi vị Giám mục là người bạn của chàng rể, “amicus sponsi”. Trong Anh ngữ, trong một hôn lễ, chúng ta vẫn thường nói đến “best man” (người phù rể). Người “đàn ông nổi bật nhất” này không cố gắng lôi kéo tình yêu của cô dâu, và thậm chí cũng chẳng phải để lôi kéo tình yêu của các cô phù dâu! Chàng phù rể này lôi hướng về một người khác.
Ngày kia, một tu sĩ Đaminh người Pháp đã so sánh Thiên Chúa với một quý ông (gentleman) người Anh vô cùng nhã nhặn, đến nỗi ông tuyệt nhiên không bao giờ mong muốn áp đặt lên những người mình thương yêu. Ông ngoảnh mặt đi không nhìn vào chỗ cánh cửa hé mở để bảo đảm rằng, tất cả những biểu hiện tình cảm yêu thương của họ sẽ diễn tiến thật tốt đẹp, rồi sau đó, ngay cả khi ông rất muốn ở lại đây, ông đã biến mất để lại họ chỉ hai người với nhau thôi. C. S. Lewis diễn tả điều này cách khác: “Một trong những đặc quyền của Thiên Chúa là luôn luôn ít được yêu hơn là yêu”.[22] Thiên Chúa luôn luôn là Đấng yêu thương hơn là được yêu thương; Đó cũng có thể là ơn gọi của chúng ta. Như Auden đã viết điều này: “Nếu không thể có một tình cảm bình đẳng, thì tôi xin được là người tình tuyệt vời nhất”.[23]
Điều đó giả thiết là phải làm như thế nào đó để không chiếm lấy trung tâm đời sống của những người khác và không biến họ trở thành những người lệ thuộc chúng ta. Chúng ta phải không ngừng nỗ lực cống hiến cho họ những nâng đỡ và trợ lực khác, ngõ hầu chúng ta ngày càng trở nên ít quan trọng hơn đối với họ. Điều này muốn nói rằng, có thể có một vấn nạn luôn được đặt ra: liệu tình yêu của tôi có làm cho người tôi yêu trở nên mạnh mẽ hơn, độc lập hơn, hay nó lại làm cho người này trở nên yếu nhược hơn, lệ thuộc tôi nhiều hơn?
Thôi, đủ rồi! Tôi phải dừng lại thôi, tất nhiên là sau một suy tư cuối cùng. Học để biết yêu thương là một tiến trình đầy nguy hiểm. Chúng ta chẳng biết được tiến trình này có thể đưa chúng ta đi đến đâu. Chúng ta sắp khám phá một sự đảo lộn toàn bộ cuộc đời của chúng ta. Khi điều đó xảy ra, chắc rằng đôi khi chúng ta bị tổn thương đấy. Có một con tim bằng đá thì dễ hơn nhiều so với có một con tim bằng thịt, nhưng trong trường hợp này, chúng ta sẽ chết toi! Một khi đã chết, thì chúng ta không thể nào nói về Thiên Chúa hằng sống được. Nhưng phải sống cái chết và sự phục sinh này như thế nào đây?
Mỗi lần cử hành Thánh Thể, chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để thứ tha tội lỗi. Điều đó không muốn nói là Ngài phải làm nguôi cơn giận lôi đình của Thiên Chúa; thậm chí điều đó cũng không muốn nói rằng, nếu chúng ta phạm phải lỗi lầm thì đi xưng thú và được tha thứ là đủ rồi đâu. Quả là có muốn nói đến điều đó, nhưng còn hơn thế nữa. Điều muốn nói là, trong tất cả mọi cuộc vật lộn của chúng ta nhằm trở thành những con người sống động và biết yêu thương, thì Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Ân sủng của Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những giờ phút thất bại và bối rối, để nâng đỡ và vực chúng ta đứng dậy. Chẳng khác nào như, ngày Chúa Nhật Phục Sinh, Thiên Chúa đã biến đổi ngày thứ Sáu Tuần Thánh trở thành một ngày chúc phúc. Chúng ta có thể tin tưởng rằng, tất cả mọi nỗ lực yêu thương của chúng ta sẽ đơm bông kết trái. Như thế chẳng còn lý do để chúng ta sợ hãi! Chúng ta có thể gieo mình vào cuộc mạo hiểm hướng đến cái chưa biết với niềm tín thác và can đảm.
– Bản văn gốc bằng tiếng Anh. Bản dịch tiếng Pháp này do Michel Taillé thực hiện cho D.C. (ghi chú của tòa soạn thêm vào, không phải của chính tác giả).
[1] Gioan Kim Khẩu, Bài giảng thứ 12 về Thư gởi tín hữu Colossians.
[2] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II-II, q.142, a.1.
[3] Haynes là một nhà xuất bản chuyên trong lãnh vực sản xuất các bản chỉ dẫn sử dụng cho tất cả mọi nhãn hiệu ô-tô (ghi chú của tòa soạn thêm vào, không phải của chính tác giả).
[4] Mark Patrick Hederman, Manikon Eros. Crazy Love (Dublin, 2000), pp. 66.
[5] Commentaire des sentences III, 251, l, 4m.
[6] Clive Staples Lewis, The Four Loves (Londres, 1960), tr. 111. Clive Staples Lewis là một nhà tư tưởng và minh giáo người Anh (1898-1963).
[7] Charles Dickens là một tiểu thuyết gia người Anh (1812-1870). Bản dịch Pháp ngữ tác phẩm Bleak House do Sylvère Monod thực hiện, nhà xuất bản Apre-Vent (ghi chú của tòa soạn thêm vào, không phải của chính tác giả).
[8] Authony Gervase Mathew (1905-1976), tu sĩ Đaminh, Giáo sư Sử Học tại Đại học Oxford trong thập niên 40, và là nhà khảo cổ học lại Kenya (ghi chú của tòa soạn thêm vào, không phải của chính tác giả).
[9] Thư của Bède Jarrett (Downside Abbey 1989), pp. 180.
[10] Law, Love and Language, pp. 22.
[11] St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II-II, q.151, a.1.
[12] Josef Pieper, The Four Cardinal Virtues – Bốn nhân đức trụ (Notre Dame University 1966), pp. 156.
[13] Sonnet XXVII.
[14] Octavio Paz là thi sĩ Mexico (1914-1998). Octavio Paz đạt giải thưởng Nobel Văn Chương năm 1990.
[15] Rainer Maria Rilke là thi sĩ người Đức (1875-1926).
[16] Rowan Williams, Lost Icons, pp. 153.
[17] Jean Vanier, Đón nhận nhân tính của chúng ta, Presses de la Renaissance, 1999.
[18] Mark Patrick Hederman, Manikon Eros. Crazy Love (Dublin, 2000), pp. 96.
[19] Sébastian Moore là một tu sĩ Dòng Benedict người Anh. Mark Patrick Hederman, Manikon Eros. Crazy Love (Dublin, 2000), pp. 105.
[20] Rowan Williams, Lost icons, pp. 156.
[21] Aelred là Viện phụ Dòng Sixto tại Rievaulx, thuộc miền bắc nước Anh (1109-1167). Tác giả của nhiều tác phẩm viết về linh đạo (ghi chú của tòa soạn thêm vào, không phải của chính tác giả).
[22] Clive Staples Lewis, The Four Loves (Londres, 1960), tr. 184.
[23] Wystan Hugh Auden, Collected Shoter Poems (London, 1966), tr. 282. Wystan Hugh Auden là thi sĩ thần bí người Anh; khi trưởng thành đã trở lại Anh giáo (1907-1973).