Thân gửi Anh Em, Chị Em và Bạn Hữu,
Vậy là cộng đoàn sắp kỷ niệm một năm dời chỗ, cũng là dịp để chúng tôi nhìn lại, hồi tưởng lại 12 tháng qua. Chúng tôi nhớ lại những việc Chúa đã làm cho chúng tôi, và cách mà Người bảo bọc chúng tôi trong cái đêm 06-08-2014 ấy, cái đêm mà chúng tôi cùng với dân của Người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất, mất nhà mất cửa. Những hồi ức tràn về, thúc đẩy chúng tôi dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, hầu chúng tôi có thể được soi sáng mà hiểu ra thánh ý của Người trên cuộc sống của chúng tôi giữa cơn khủng hoảng này. Qua đó, chúng tôi cũng muốn chia sẻ với anh chị em những dự tính, những hy vọng và cả những nỗi hãi sợ của chúng tôi nữa. Nhân đây, chúng tôi cũng xin được tri ân anh chị em, những người đã đồng hành, giúp đỡ chúng tôi trong suốt chặng đường vừa qua, những người đã tiếp thêm sức mạnh, lòng can đảm để chúng tôi tiếp tục dấn bước.
Nhớ lại tháng tám vừa qua, chúng tôi chợt liên tưởng đến những lời thánh vịnh 124,2-3: “Nếu mà Chúa chẳng đỡ bênh ta, khi thiên hạ nhằm ta xông tới, hẳn là họ đã nuốt sống ta rồi”. Đó quả là một đêm đen mù mịt, chúng tôi ra đi mà chẳng biết phải mang theo hoặc để lại cái gì. Ngoài đường toàn là các Ki-tô hữu, họ bơ vơ, không biết đi đâu về đâu. Bóng ma hận thù ISIS phủ trùm lên mọi thứ, chúng tôi hầu như không tài nào hiểu được những điều đang diễn ra. Khi đến được Kurdistan, nơi nhiều người không nhà không cửa; chúng tôi thật đúng là một đoàn chiên không người chăn dắt. Sau vài ngày lưu lại Erbil, chúng tôi nghe tin các thành phố thuộc vùng đồng bằng Nineveh của chúng tôi đã bị ISIS chiếm, vậy là giấc mơ hồi hương đã hoá ra xa xăm vô định. Hoạ vô đơn chí, không chỉ ISIS khiến chúng tôi phải thiệt hại, phải thống khổ, mà cả những anh chị em láng giếng với chúng tôi, những người sống trong các làng lân cận vốn là bạn hữu với chúng tôi, những người chúng tôi đã phục vụ, những người chúng tôi đã dạy dỗ, chữa bệnh – thế mà giữa cơn quẫn bách và khốn cùng, họ đã bán đứng chúng tôi.
Chẳng dễ dàng chấp nhận một sự thực rằng, chúng tôi không có chốn dung thân, hầu như bị cả chính quyền Iraq lẫn chính quyền Kurk bỏ mặc, vì họ chẳng có phản ứng hay hành động nào đáng kể theo như chúng tôi mong chờ. Giáo hội đã nhận lấy phần trách nhiệm để lo cho chúng tôi, giáo hội cố gắng tụ hợp và trợ giúp những anh chị em bị mất cửa mất nhà đang tản mác khắp nơi trong vùng Kurdistan.
Vì là một cộng đoàn, và vì ý thức được mức độ nghiêm trọng của thảm trạng, nên chúng tôi tìm cách để giảm dịu bớt cơn khủng hoảng, và giúp đỡ người dân trong những nhu cầu cơ bản của họ. Chúng tôi khởi sự các dự án của mình với đôi bàn tay trắng, nhưng nhờ sự trợ giúp của các anh chị em Đa Minh, các bằng hữu, và các tổ chức khác nhau, chúng tôi đã có thể cung cấp cho các anh chị em mất cửa mất nhà thực phẩm và các vật dụng khác. Chúng tôi cung cấp chăn, mềm, nệm (cho 5.000 gia đình); sữa, khăn vệ sinh, đồ dùng nhà bếp, bột giặt, chăn nệm mùa hè (cho 10.000 gia đình); giày (cho 740 học sinh); 5.000 máy điều hoà không khí; 600 tủ lạnh và 400 máy giữ lạnh (water-cooler). Dù cung cấp các vật dụng nói trên cho các anh chị em mất cửa mất nhà nói chung, nhưng chúng tôi cũng tập trung, quan tâm đặc biệt tới những gia đình mất cửa mất nhà và đang phải ở nhà thuê; vì họ đã phải trả một chi phí đáng kể cho khoản thuê nhà, và nhiều gia đình trong số đó không có bất kỳ nguồn thu nhập nào.
Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến các trẻ em bị thiệt thòi do cuộc khủng hoảng. Chúng tôi mở hai vườn trẻ, nơi các em có thể được gửi miễn phí, chúng tôi cũng hợp tác với một vài tổ chức để khám chữa bệnh từ thiện cho những người mất cửa mất nhà. Chúng tôi mới vừa được cấp phép để mở một trường tiểu học, và trường này cũng miễn phí; chúng tôi cũng mới thuê được một khu đất sẽ được dùng để phục vụ các anh chị em mất cửa mất nhà. Mục đích của việc này, là bày tỏ cho các anh chị em mất cửa mất nhà thấy sự quan tâm, chăm sóc của giáo hội.
Như tôi đã trình bày, chúng tôi phải thừa nhận là, làm việc cùng và cho những anh chị em mất cửa mất nhà không phải lúc nào cũng là công việc dễ dàng. Có những thách đố thực sự gây áp lực cho sứ mệnh của chúng tôi. Số anh em chị chạy loạn, mất cửa mất nhà quá đông, đến nỗi, nhiều khi chúng tôi tự hỏi, chẳng biết công việc của mình làm có phải là vô lý, và vô ích hay không. Ngoài ra, chúng tôi không được dự trù cho những tình huống như thế, chúng tôi cũng không được trang bị những kỹ năng cần thiết để đối phó nữa. Và việc đau lòng nhất là trong một thời gian ngắn (3 tháng) chúng tôi bất ngờ bị mất 10 chị em (đa số đã hơn 70 tuổi).
Bất chấp những điều đó, công việc của chúng tôi vẫn được kiện cường nhờ Thiên Chúa, Đấng chúc lành cho những nỗ lực của chúng tôi dù cho những nỗ lực ấy vẫn còn rất khiêm tốn. Bận rộn với những dự án vừa kể, nhưng chúng tôi không sao lãng sứ mệnh rao giảng Lời Chúa cho những anh chị em đang gặp cảnh hoạn nạn của chúng tôi. Tính từ mùa đông, một số chị em chúng tôi đã, đang chuẩn bị cho 6 nhóm với 400 trẻ được Rước lễ lần đầu. Đợt Rước lễ lần đầu gần đây nhất là vào ngày 12 tháng Bảy vừa rồi. Các chị em cũng sẽ bắt đầu lớp mới khoảng 100 em chuẩn bị Rước lễ lần đầu từ các thành phố và làng mạc ở Erbil và Duhok. Ngoài ra, các chị em sẽ tiếp tục đến các trại dành cho người mất nhà mất cửa để thi hành sứ vụ: tổ chức các buổi nói chuyện, hình thành các nhóm bạn trẻ để cùng nhau thực hành các bài linh thao, để cầu nguyện chung, tổ chức các Thánh lễ (chúng tôi vẫn còn nhớ như in Thánh lễ đầu tiên, khi ấy có 2 chị em của chúng tôi tham dự, Thánh lễ được tổ chức trong trại, không có bàn thờ, do vậy người ta kê một chiếc bàn, và một chị em lấy áo dòng [scapular] của mình phủ lên thay cho khăn trải bàn thờ). Mục đích chính của những công việc chúng tôi làm, là chứng tỏ cho các anh chị em chạy loạn, các anh chị em mất cửa mất nhà thấy rằng, giáo hội địa phương không bỏ rơi, lãng quên họ.
Chúa thương, chúng tôi mới có một đợt tĩnh tâm năm do Cha Ifram Saqat, OP. chủ trì, ngài là vừa là học giả Kinh thánh vừa là một nhà tâm lý. Đợt tĩnh tâm này là cơ hội để chúng tôi kiểm thảo lại đời sống nội tâm bản thân, vừa là dịp để chúng tôi nhờ tha thứ và giao hoà, nhận ra những gì là tốt lành, nhân từ và nhiệt tâm nơi các chị em và nơi những người khác. Chúng tôi gồm có 68 chị em. Những ngày tĩnh tâm thật là những ngày ân phúc. Hy vọng, từng chị em chúng tôi đều cảm thấy ích lợi ít nhiều.
Giờ thì cũng giống như đồng bào, chúng tôi đã là những kẻ chạy loạn, không cửa không nhà, hàng ngày chúng tôi phải đối diện với đủ thứ cam go, thách đố. Không biết sự thể sẽ còn kéo dài bao lâu nữa. Lòng trĩu nặng ưu sầu, thảm não. Chờ đợi rồi thất vọng, đắn đo, suy nghĩ mà không hiểu được gì. Cái gì sẽ còn xảy ra nữa đây? Chẳng ai biết. Chúng tôi sẽ còn phải đi đến nơi nao? Ai cũng hứng chịu đủ thứ mất mát. Đúng vậy, đã tìm được chỗ trú thân, nhưng lòng thì hồi hộp, các liên hệ bị trục trặc, gián đoạn, thực tế thì đắng cay. Những người có điều kiện, ưu tú nhất đa số đã chọn ra đi, nhiều người khác cũng đang tìm cách ra khỏi đất nước, do bởi tình hình bất ổn. Hàng trăm người chạy loạn sống trong những căn phòng tù túng, hôi hám. Với sự trợ giúp của Missio và Hội tương trợ các dân tộc Đông phương (Oeuvre D’orient), chúng tôi đang hoạt động để cung cấp các khu nhà cho những người chạy loạn. Có một dãy nhà năm lầu đang được hoàn thiện; dự tính sẽ có 146 phòng ở lầu 2 và lầu 3. Chúng tôi cậy nhờ hoàn toàn vào các tấm lòng hảo tâm, những người muốn giúp các anh chị em đang chạy loạn, mất nhà mất cửa có một cuộc sống xứng với nhân phẩm, và giúp họ lấy lại niềm hy vọng.
Mong anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi cũng tri ân anh chị em, những người đã đồng hành với chúng tôi trong 12 tháng vừa qua.
Cám ơn anh chị em rất nhiều, xin Thiên Chúa chúc phúc cho anh chị em.
Sơ Maria Hanna, OP.
Bề trên tổng quyền
Hội dòng nữ Đa Minh miền thánh Catarina de Siena, Iraq.
(29-07-2015)
Nguồn: http://www.op.org/en/content/letter-dominican-sisters-iraq