THÔNG ĐIỆP REDEMPTORIS MISSIO
(SỨ VỤ ĐẤNG CỨU THẾ)
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
NGÀY 07 THÁNG 12 NĂM 1990
***
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
***
V
NHỮNG ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO
“Hoạt động truyền giáo của Giáo Hội không gì khác và không gì hơn là việc bộc lộ hay là việc tỏ hiện dự án của Thiên Chúa, cùng với việc làm hoàn tất dự án này trên thế giới cũng như trong lịch sử, một lịch sử Thiên Chúa đang minh nhiên hoàn thành lịch sử cứu độ bằng các việc truyền giáo” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 9; xem Chương II, 10-18). Vậy Giáo Hội sẽ dùng đường lối nào để đạt được mục đích này?
Hình Thức Đầu Tiên của Việc Truyền Giáo là Làm Chứng
42- Con người ngày nay tin tưởng vào các chứng nhân hơn là vào các thày dạy (xem ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 41: loc. cit., 31f), vào nghiệm cảm hơn là vào giảng thuyết, và vào cuộc sống cũng như hành động hơn là vào các lý thuyết. Chứng từ của đời sống Kitô hữu là thể thức đầu tiên không thể thay thế của việc truyền giáo: Chúa Kitô, Đấng chúng ta đang tiếp nối việc truyền giáo của Người, là một “chứng từ” (Rev 1:5, 3:14) tuyệt nhất, và là mẫu mực cho tất cả mọi chứng từ Kitô giáo. Chúa Thánh Thần đồng hành với Giáo Hội dọc suốt con đường Giáo Hội đi, và liên kết với Giáo Hội bằng chứng từ Ngài thực hiện để tỏ Chúa Kitô ra (x. Jn 15:26-27).
Thể thức đầu tiên của việc làm chứng là chính đời sống của nhà truyền giáo, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng giáo hội, là những gì tỏ ra cho thấy một lối sống mới. Nhà truyền giáo, người bất chấp mọi giới hạn và yếu kém của mình, sống một cuộc đời giản dị, lấy Chúa Kitô làm mô phạm, là dấu chỉ của Thiên Chúa và của các thực tại siêu việt. Thế nhưng, hết mọi người trong Giáo Hội, bằng việc cố gắng bắt chước Thày Chí Thánh, cũng đều có thể và phải thực hiện chứng từ đời sống này (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 28, 35, 38; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày nay Gaudium et Spes, đoạn 43; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 11-12); trong nhiều trường hợp, chứng từ loại này là một cách duy nhất khả dĩ để trở thành một nhà truyền giáo.
Chứng từ của phúc âm hết sức cần thiết cho thế giới này là chứng từ của việc quan tâm đến con người, cũng như đến đức bác ái đối với thành phần nghèo khó, thành phần yếu kém và những kẻ khổ đau. Tấm lòng hết sức quảng đại nấp sau thái độ ấy cũng như sau những hành động ấy hoàn toàn đi ngược lại với tính vị kỷ của con người. Nó gợi lên những thắc mắc xác đáng để dẫn con người đến cùng Thiên Chúa và Phúc Âm. Việc dấn thân cho hòa bình, cho công lý, cho nhân quyền, và cho việc cổ võ nhân bản cũng là một chứng từ cho Phúc Âm, khi chứng từ ấy là một mối quan tâm tới con người và nhắm đến việc phát triển con người toàn vẹn (xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Populorum Progressio – 26/3/1967 – đoạn 21, 42: AAS 59 –1967 – 267f, 278).
43- Kitô hữu và các cộng đồng Kitô hữu đóng góp rất nhiều vào cuộc sinh hoạt nơi đất nước khả kính của họ, và có thể trở thành dấu chỉ Phúc Âm, khi họ trung thành với quê hương, dân tộc và văn hóa đất nước của mình, mà vẫn luôn luôn giữ được tự do Chúa Kitô ban cho. Kitô giáo hướng về tình huynh đệ đại đồng, vì tất cả mọi người nam nữ đều là những người con của cùng một Cha và là anh chị em trong Chúa Kitô.
Giáo Hội được kêu gọi để làm chứng cho Chúa Kitô, bằng việc can đảm lên tiếng đối đầu với tình trạng băng hoại của quyền lực chính trị hay kinh tế; bằng cách không tìm kiếm vinh dự và giầu sang vật chất cho mình; bằng việc sử dụng các nguồn lợi của mình để phục vụ thành phần nghèo khổ nhất, và bằng việc bắt chước đời sống giản dị của Chúa Kitô. Giáo Hội và các nhà truyền giáo của Giáo Hội cũng phải thực hiện chứng từ khiêm nhượng, nhất là khiêm nhượng đối với bản thân mình – một đức khiêm nhượng giúp họ xét lại lương tâm cá nhân cũng như cộng đồng, để sửa đổi hành vi của mình nơi bất cứ điều gì trái với Phúc Âm và làm biến dạng dung nhan của Chúa Kitô.
Việc Loan Báo Tiên Khởi về Chúa Kitô Cứu Độ
44- Việc loan báo là ưu tiên mãi mãi của việc truyền giáo. Giáo Hội không thể trốn tránh lệnh truyền hiển nhiên của Chúa Kitô, hay để cho con người nam nữ không biết đến “Tin Mừng” về việc họ được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. “Việc truyền bá phúc âm hóa cũng sẽ luôn luôn chất chứa – như nền tảng, trọng tâm và đồng thời cũng là tột đỉnh cơ cấu của nó – một loan báo minh nhiên là, nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và của tình thương Thiên Chúa (x.Eph.2:8; Rm.1:16…)” (ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 27: loc. cit., 23). Tất cả mọi thể thức của hoạt động truyền giáo đều nhắm đến việc loan truyền này, một việc loan truyền bày tỏ và dẫn đến một mầu nhiệm được giữ kín qua các thời đại và được tỏ ra cho thấy nơi Chúa Kitô (x. Eph 3:3-9; Col 1:25-29), mầu nhiệm ở ngay cốt lõi của sứ mệnh truyền giáo và đời sống Giáo Hội, làm mấu chốt chi phối toàn thể việc truyền bá phúc âm hóa.
Trong thực tại phức tạp của việc truyền giáo, việc rao giảng tiên khởi đóng một vai trò trọng yếu và không thể thay thế được, vì nó đem con người “vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa, Đấng mời gọi họ dự phần cùng mối liên hệ riêng tư với chính Ngài trong Chúa Kitô” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 13), và mở đường cho họ trở về với Ngài. Đức tin được phát sinh từ việc rao giảng, và mọi cộng đồng giáo hội đều được bắt nguồn và sống động từ việc đáp ứng riêng tư của mỗi tín hữu đối với việc rao giảng này (xem ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 15: loc. cit., 13-15; Công Đồng Chung vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 13-14). Như toàn thể công cuộc cứu độ lấy Chúa Kitô làm tâm điểm thế nào, thì toàn thể hoạt động truyền giáo cũng nhắm đến việc loan truyền mầu nhiệm của Người như vậy.
Chủ đề cho việc loan truyền này là Chúa Kitô chịu đóng đanh, tử nạn và phục sinh: nhờ Người chúng ta hoàn toàn và thực sự được giải thoát khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết; và nhờ Người Thiên Chúa ban “sự sống mới” là sự sống thần linh và trường cửu. Đó là “Tin Mừng” làm thay đổi con người và lịch sử của con người, và là “Tin Mừng” tất cả mọi dân tộc có quyền được nghe biết. Việc loan truyền này phải được thực hiện trong mối tương quan với cuộc sống của con người cũng như của các dân tộc nghe biết. Việc loan truyền này phải được thực hiện bằng một thái độ yêu thương và trọng kính đối với những ai nghe biết, bằng một thứ ngôn từ thực tế và thích ứng với hoàn cảnh. Qua việc loan truyền này, Thần Linh hoạt động và thiết lập mối hiệp thông giữa nhà truyền giáo và thính giả của họ, một mối hiệp thông khả dĩ vì cả hai đều tham dự vào mối hiệp thông với Thiên Chúa là Cha qua Chúa Kitô (xem Thông Điệp Dominum et Vivificantem, đoạn 42, 64: loc. cit., 857-859, 892-894).
45- Bởi được liên kết với toàn thể cộng đồng giáo hội, việc loan truyền ấy không bao giờ là một tác động thuần cá nhân. Nhà truyền giáo hiện diện và thi hành công việc của mình theo lệnh truyền nhận được; cho dù có hoạt động một mình đi nữa, họ vẫn gắn liền bằng một mối giây liên kết chặt chẽ vô hình với hoạt động truyền bá phúc âm hóa của toàn thể Giáo Hội (xem ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 60: loc. cit., 50f). Không sớm thì muộn thính giả của họ cũng nhận ra nơi họ cộng đồng đã sai họ đi và đang nâng đỡ họ.
Việc loan truyền này được đức tin khơi động, một đức tin phát sinh lòng nhiệt thành và sốt mến nơi nhà truyền giáo. Như đã được đề cập, Sách Tông Vụ dùng chữ parrhesia để diễn tả thái độ này, một từ ngữ có nghĩa là nói lên một cách tỏ tường và can trường. Từ ngữ này cũng được thấy cả nơi Thánh Phaolô nữa: “Chúng tôi đã can đảm trong Thiên Chúa của mình để công bố cho anh em Phúc Âm của Thiên Chúa trước sự chống đối cả thể” (1Thes 2:2); “Hãy cầu nguyện… cho tôi nữa, để tôi được can đảm mở miệng ra loan truyền mầu nhiệm Phúc Âm mà tôi là khâm sai trong xiềng xích; để tôi có thể công bố mầu nhiệm Phúc Âm này một cách vững mạnh như tôi phải nói” (Eph 6:18-20).
Trong việc loan báo Chúa Kitô cho các người ngoài Kitô giáo, nhà truyền giáo phải xác tín rằng, nhờ hoạt động của Thần Linh, nơi con người cũng như các dân tộc đã có một niềm mong chờ, cho dù chỉ là một niềm mong chờ trong tiềm thức, được biết đến sự thật về Thiên Chúa, về con người và về cách thức chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo trong việc loan báo Chúa Kitô phát xuất từ niềm xác tín là họ đang đáp ứng niềm mong chờ ấy, bởi thế, họ không bị chán nản hay ngưng việc làm chứng nhân, cho dù họ được kêu gọi chứng tỏ đức tin của mình trong một môi trường thù hận hay lãnh đạm. Họ biết rằng Thần Linh của Cha đang nói qua họ (x. Mt 10:17-20; Lk 12:11-12), và họ có thể nói cùng với các Tông Đồ là: “Chúng tôi là những chứng nhân về những điều này, có cả Thánh Thần làm chứng nữa” (Acts 5:32). Họ biết rằng họ không loan truyền một sự thật của nhân loại mà là chính “lời Chúa”, lời có một quyền năng tự tại và nhiệm mầu của mình” (x. Rm 1:16).
Cuộc thử thách cao cả nhất là hiến sự sống mình, cho đến độ chấp nhận cái chết để làm chứng lòng mình tin tưởng nơi Chúa Giêsu Kitô. Trải suốt giòng lịch sử Kitô giáo, các vị tử đạo, hay là “các chứng nhân”, bao giờ cũng nhiều và không thể thiếu được trong việc truyền bá Phúc Âm. Trong thời đại của chúng ta đây, có nhiều Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân – thường là những vị anh hùng vô danh, thành phần hiến mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Họ là tin mừng và là chứng nhân đức tin tuyệt hạng.
Hoán Cải và Lãnh Nhận Phép Rửa
46- Việc loan truyền lời Chúa nhắm đến việc làm cho con người trở lại làm Kitô hữu, tức là làm cho con người hoàn toàn và chân thành gắn bó với Chúa Kitô và Phúc Âm của Người bằng đức tin. Việc trở lại là một tặng ân của Thiên Chúa, một công việc của Chúa Ba Ngôi. Chính Thần Linh là Đấng mở lòng con người ra để họ tin vào Chúa Kitô và “tuyên xưng Người” (x. 1Cor. 12:3); “Không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ” (Jn 6:44), Chúa Giêsu đã nói với những ai đến với Người bằng đức tin như thế.
Việc trở lại bằng đức tin đầu tiên là một việc trọn vẹn và sâu xa, và là một việc không làm giới hạn hay cản trở tặng ân của Thiên Chúa. Việc trở lại này cũng làm phát sinh một tiến trình năng động kéo dài cả đời, một tiến trình đòi phải liên tục từ bỏ “cuộc sống theo xác thịt” để “sống theo Thần Linh” (x. Rom 8:3-13). Việc trở lại tức là tự động chấp nhận vương quyền cứu độ của Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Theo gương Thánh Gioan Tẩy Giả, vị dọn đường cho Chúa Kitô bằng “việc rao giảng phép rửa thống hối để được ơn tha tội” (Mk 1:4), cũng như theo gương chính Chúa Kitô, Đấng “sau khi Gioan bị tống ngục… đã đến Galilêa rao giảng Phúc Âm Chúa mà nói: ‘Thời điểm đã trọn, vương quốc Thiên Chúa đã đến; hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm’” (Mk 1:14-15), Giáo Hội cũng kêu gọi tất cả mọi người hãy ăn năn trở lại.
Cho đến nay, lời các nhà truyền giáo kêu gọi những người ngoài Kitô giáo trở lại đã được tái xét hay không được nhắc đến nữa. Việc trở lại này được coi như là một tác động “mộ giáo”; người ta cho rằng chỉ cần giúp cho con người nên người hơn hay trung thành với đạo của họ là đủ rồi, tức là chỉ cần xây dựng những cộng đồng có khả năng hoạt động cho công lý, tự do, hòa bình và đoàn kết là đủ. Cái người ta bỏ qua không nói tới ở đây đó là mọi người có quyền nghe biết “Tin Mừng” của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Kitô đã tỏ mình và ban mình ra cho con người, để mỗi một người có thể sống trọn vẹn với ơn gọi xứng hợp của riêng mình. Thực tại cao cả này được diễn tả qua những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaritanô: “Nếu chị biết ơn Thiên Chúa ban”, cũng như qua ước vọng vô tri song tha thiết của chị phụ nữ này: “Xin ông hãy cho tôi thứ nước này để tôi không còn khát nữa” (Jn 4:20,15).
47- Được Thần Linh tác động, các Vị Tông Đồ đã mời gọi tất cả mọi người hoán cải đời sống của họ, trở lại và lãnh nhận phép rửa. Ngay sau biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Thánh Phêrô đã nói với đám đông dân chúng những lời đánh động: “Khi nghe thấy vậy, họ cảm thấu đến tận đáy lòng, nên nói với Thánh Phêrô cùng với các Vị Tông Đồ rằng: ‘Thưa Quí Huynh, chúng tôi cần phải làm sao đây?’ Thánh Phêrô nói với họ: ‘Anh em hãy ăn năn thống hối và mọi người trong anh em hãy lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được ơn tha thứ tội lỗi; rồi anh em sẽ được lãnh nhận tặng ân Thánh Thần’” (Acts 2:37-38). Chính ngày hôm đó có ba ngàn người được rửa tội. Lần khác, sau khi chữa lành cho một người què, Thánh Phêrô nói với đám đông dân chúng, bằng cách lập lại rằng: “Bởi thế anh em hãy ăn năn thống hối và trở lại để tội lỗi của anh em được tẩy xóa!” (Acts 3:19).
Việc trở lại cùng Chúa Kitô là một việc gắn liền với Phép Rửa, chẳng những vì tập truyền của Giáo Hội, mà còn vì ý của chính Chúa Kitô, Đấng đã sai các Tông Đồ đi tuyển mộ môn đệ ở tất cả mọi dân nước và rửa tội cho họ (x. Mt 28:19). Việc trở lại gắn liền với Phép Rửa còn vì chính nhu cầu cần phải lãnh nhận tràn đầy sự sống mới trong Chúa Kitô nữa. Như Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thật vậy, thật vậy, Tôi cho ông biết, ai không được sinh lại bởi nước và Thần Linh, người ấy không được vào Nước Thiên Chúa” (Jn 3:5). Đúng thế, trong Phép Rửa, chúng ta được tái sinh vào sự sống của con cái Thiên Chúa, được hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô và được xức dầu trong Chúa Thánh Thần. Phép Rửa không phải chỉ là một ấn tín của việc trở lại, một thứ dấu hiệu bề ngoài cho thấy việc trở lại và chứng tỏ việc trở lại. Trái lại, Phép Rửa là một Bí Tích biểu hiệu cho việc tái sinh bởi Thần Linh và làm cho việc tái sinh bởi Thần Linh hiệu thành, phép này thiết lập những mối liên hệ thật sự và không thể đứt đoạn với Chúa Ba Ngôi, phép này cũng làm cho chúng ta nên các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội.
Phải nói đến tất cả những điều này là vì không ít người, ngay cả đến những người đang hoạt động cho việc truyền giáo ad gentes, có một khuynh hướng muốn tách việc trở lại với Chúa Kitô và việc lãnh nhận Phép Rửa ra khỏi nhau, như thể Phép Rửa là một cái gì không cần. Thật vậy, ở một số nơi, những cứu xét về xã hội học liên quan tới Phép Rửa đã làm lu mờ đi ý nghĩa đích thực của Phép Rửa là một tác động của đức tin. Sự việc này xẩy ra là do các yếu tố khác nhau về lịch sử cũng như về văn hóa, những yếu tố phải được loại bỏ nếu còn tồn tại, để Bí Tích tái sinh thiêng liêng có thể được quan niệm đúng như bản chất của mình. Các cộng đoàn giáo hội địa phương phải chú trọng đến việc này. Cũng phải nhận rằng, có nhiều người tỏ lòng muốn chấp nhận Chúa Kitô và sứ điệp của Người song không muốn chấp nhận bằng việc lãnh nhận bí tích, là vì thành kiến hay vì những thiếu sót nơi Kitô hữu đã làm cho họ không thể hiểu được bản tính thực sự của Giáo Hội là mầu nhiệm của đức tin và đức mến (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 6-9). Tôi muốn khuyến khích những người như vậy hãy hoàn toàn mở lòng mình ra cho Chúa Kitô, và muôn nhắc nhở với họ là, nếu họ cảm thấy được lôi kéo đến cùng Chúa Kitô, thì chính Người là Đấng muốn Giáo Hội phải là “nơi” thực sự họ tìm được Người. Tôi cũng mời gọi tín hữu Kitô giáo, cá nhân cũng như cộng đồng, hãy thực sự làm chứng cho Chúa Kitô bằng sự sống mới họ đã lãnh nhận.
Chắc chắn người nào trở lại cũng đều là một quà tặng cho Giáo Hội và làm cho Giáo Hội thấy rằng mình phải có một trách nhiệm đàng hoàng đối với họ, không phải vì những người trở lại cần phải được sửa soạn dọn mình lãnh nhận Bí Tích qua thời gian dự tòng và học đạo, mà còn, nhất là trong trường hợp trở lại của người lớn, vì nơi những người trở lại này có một thứ nghị lực mới, một lòng nhiệt thành đối với đức tin và muốn sống Phúc Âm trong Giáo Hội. Một khi gia nhập cộng đồng giáo hội, họ sẽ hết sức thất vọng nếu họ chứng kiến thấy một sự sống thiếu sốt mến và chẳng có dấu hiệu gì là mới mẻ cả! Chúng ta không thể rao giảng việc ăn năn hoán cải, trừ phi chính chúng ta biết tái ăn năn hoán cải mỗi ngày.
Hình Thành Giáo Hội Địa Phương
48- Việc trở lại và Phép Rửa mở lối gia nhập vào một Giáo Hội đã có sẵn, hay đòi phải thiết lập những cộng đồng mới là những cộng đồng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Chúa. Đây là phần thuộc về dự án của Thiên Chúa, vì Ngài muốn “kêu gọi con người thông phần vào sự sống của Ngài, không phải chỉ theo cá nhân, không có liên hệ gì với nhau, mà còn làm cho họ thành một dân tộc bao gồm những đứa con của Ngài bị phân tán khắp nơi qui tụ lại với nhau nên một” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 2; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 9).
Việc truyền giáo ad gentes nhắm đến mục tiêu là thiết lập các cộng đồng Kitô giáo và phát triển các Giáo Hội cho đến mức hoàn toàn trưởng thành. Đó là mục đích chính yếu và ấn định của hoạt động truyền giáo, đến nỗi việc truyền giáo sẽ không hoàn thành cho đến khi tiến tới việc thiết lập một tân Giáo Hội riêng biệt, một Giáo Hội có thể sinh hoạt bình thường ở môi trường địa phương của mình. Sắc Lệnh Ad Gentes đã trình bày dài về vấn đề này (xem Chương III, 19-22), và vì Công Đồng Chung Vaticanô II chủ trương theo chiều hướng thần học chú trọng đến toàn thể mầu nhiệm Giáo Hội được thể hiện nơi mỗi Giáo Hội riêng, miễn là Giáo Hội riêng không tự mình cô lập song vẫn giữ mối hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, để rồi cũng trở thành một nhà truyền giáo. Ở đây chúng ta đang nói đến một tiến trình rộng lớn và dài dòng, khó lòng xác định được chính xác giai đoạn nào thực sự đáng được gọi là giai đoạn kết thúc hoạt động truyền giáo để tiến sang hoạt động mục vụ. Tuy nhiên, cũng cần phải làm sáng tỏ một số điểm chính.
49- Trước hết và trên hết, cần phải nỗ lực để thiết lập các cộng đồng Kitô giáo ở khắp nơi, các cộng đồng làm nên “dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới” (ibid., 15), và là những cộng đồng phát triển cho tới khi trở thành Các Giáo Hội. Mặc dù đã có một con số khá đông các địa phận, song vẫn còn nhiều miền rất rộng không có Giáo Hội địa phương, hay không đủ số tín hữu trong một lãnh thổ rộng lớn với một mật độ dân cư đông đảo. Còn nhiều điều phải làm trong việc gieo trồng và phát triển Giáo Hội. Giai đoạn hình thành giáo hội được gọi là plantatio Ecclesia này chưa đạt đến đích điểm của mình; thật vậy, đối với nhiều người thuộc giòng dõi nhân loại thì giai đoạn này thậm chí cũng chưa được bắt đầu nữa.
Trách nhiệm phải làm công việc này là của Giáo Hội hoàn vũ cũng như của các Giáo Hội riêng, của toàn thể Dân Chúa cũng như của tất cả mọi lực lượng truyền giáo trong Dân Chúa. Hết mọi Giáo Hội, ngay cả Giáo Hội được hình thành bởi những người mới trở lại đi nữa, tự bản chất của mình, đều là truyền giáo, và vừa được truyền bá phúc âm hóa cho vừa thực hiện truyền bá phúc âm hóa. Đức tin bao giờ cũng phải được tỏ ra cho thấy như là một tặng ân của Thiên Chúa sinh động trong cộng đồng (gia đình, giáo xứ, hội đoàn), và vươn tới người khác bằng chứng từ lời nói cũng như việc làm. Hoạt động truyền bá phúc âm hóa của cộng đồng Kitô hữu, trước tiên ở tại địa phương của mình, rồi tới các nơi khác trong phạm vi truyền giáo phổ quát của Giáo Hội. Chúa luôn luôn kêu gọi chúng ta ra khỏi bản thân mình để chia sẻ với người khác các sản vật chúng ta có, bắt đầu là đức tin, món quà tặng qúi nhất. Thành quả của các tổ chức, phong trào, giáo xứ và việc tông đồ của Giáo Hội đều được căn cứ vào chiều hướng thực hiện việc truyền giáo buộc phải làm này. Chỉ nhờ trở thành truyền giáo cộng đồng Kitô hữu mới có thể thắng vượt được những chia rẽ và căng thẳng nội tại, cũng như mới có thể tái khám phá thấy mối hiệp nhất và sức mạnh đức tin của mình.
Nhân viên truyền giáo được sai đến từ các Giáo Hội và các quốc gia khác phải hoạt động trong mối hiệp thông với quí vị trách nhiệm địa phương của mình để làm phát triển cộng đồng Kitô hữu. Nhân viên truyền giáo đặc biệt phải – theo qui định của các vị Giám Mục và hợp tác với những vị có trách nhiệm ở cấp độ địa phương – duy trì việc quảng bá đức tin cùng với việc làm cho Giáo Hội lan tới những môi trường ngoài Kitô giáo cũng như tới nơi những nhóm người không phải Kitô hữu, và làm phấn khởi ở Giáo Hội riêng cái cảm quan truyền giáo, để mối quan tâm mục vụ luôn luôn được gắn liền với mối quan tâm truyền giáo ad gentes. Có thế, hết mọi Giáo Hội mới cảm nghiệm được nơi mình nỗi bận tâm của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, Đấng hoàn toàn hiến mình phục vụ cho đàn chiên, song vẫn nghĩ tới “các chiên khác chưa thuộc về đàn này” (Jn 10:16).
50- Nỗi bận tâm này sẽ trở nên như động lực khích thích để tái tấu cuộc dấn thân hoạt động cho việc đại kết. Mối liên hệ giữa hoạt động đại kết và hoạt động truyền giáo làm phát sinh ra hai yếu tố gắn liền với nhau cần phải được cứu xét. Một đàng, chúng ta phải nhận thức rằng: “Tình trạng Kitô hữu chia rẽ nhau làm hư hại đến công cuộc thánh hảo của việc rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật và là một trở ngại cho nhiều người tiến đến với đức tin” (ibid. 6). Ở chỗ, Tin Mừng hòa giải do Kitô hữu lại là thành phần chia rẽ nhau rao giảng sẽ làm cho chứng từ của họ mất đi giá trị. Bởi thế, rất cần phải hoạt động cho việc hiệp nhất Kitô giáo, để hoạt động truyền giáo được sinh hoa kết trái hơn. Chúng ta cũng không được quên rằng, các nỗ lực hướng về tình trạng hiệp nhất này, tự chúng, chỉ là dấu hiệu cho việc hòa giải Thiên Chúa đang mang lại giữa chúng ta.
Đàng khác, cũng thực sự có một cái gì đó hiệp thông, mặc dù bất toàn, giữa tất cả những người lãnh nhận Phép Rửa trong Chúa Kitô. Bởi thế, Công Đồng đã ấn định một nguyên tắc là: “trong khi chờ đợi để nêu lên tất cả những gì có vẻ khác nhau và lầm lẫn, cũng như những gì có vẻ chống đối nhau không lành mạnh, người Công Giáo phải lấy tinh thần hiệp thông mà hợp tác với các anh chị em ly khai của mình, theo các qui định của Sắc Lệnh về Đại Kết: bằng một bản tuyên xưng chung đức tin của mình nơi Thiên Chúa và nơi Chúa Giêsu Kitô trước mặt các dân nước bao nhiêu có thể, cũng như bằng việc cộng tác với nhau trong các vấn đề về xã hội và kỹ thuật, về văn hóa và tôn giáo” (ibid. 6; xem Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, đoạn 3).
Việc Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau và các Cộng Đồng Giáo Hội khác nhau thực hiện hoạt động đại kết và chứng từ hòa hợp cho Chúa Giêsu Kitô đã mang lại hoa trái dồi dào. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, khi mà Kitô hữu và các giáo phái pha phôi Kitô giáo đang nỗ lực gieo rắc lầm lạc, thì họ lại càng phải cùng nhau hoạt động và làm chứng hơn nữa. Việc lan tràn những giáo phái này cho thấy mối đe dọa đối với Giáo Hội Công Giáo cũng như đối với tất cả mọi Cộng Đồng Giáo Hội đang cùng Giáo Hội Công Giáo đối thoại. Mối đe dọa này xẩy ra bất cứ ở đâu, thì theo chiều hướng của hoàn cảnh địa phương, việc các Kitô hữu cùng nhau phản ứng lại, tự nó, là một việc đại kết vậy.
“Các Giáo Hội Căn Bản” là Lực Lượng Truyền Bá Phúc Âm
51- Có một hiện tượng phát triển nhanh chóng nơi các Giáo Hội trẻ trung – một hiện tượng đôi khi được các vị Giám Mục và Hội Đồng Giám Mục của các vị cho là một ưu tiên mục vụ – đó là hiện tượng “các cộng đoàn giáo hội cơ bản” (cũng được gọi bằng các danh xưng khác nữa), những cộng đoàn đang chứng tỏ cho thấy là những trung tâm ích lợi cho việc đào tạo Kitô hữu cũng như việc dấn thân truyền giáo. Đây là những nhóm Kitô hữu, ở cấp độ gia đình hay trong một môi trường thu hẹp tương tự nào đó, họp nhau lại để nguyện cầu, đọc Thánh Kinh, học giáo lý và bàn luận về các vấn đề nhân bản cũng như giáo hội với ý hướng dấn thân hoạt động chung. Những cộng đoàn này là dấu sinh động trong Giáo Hội, là dụng cụ huấn luyện và truyền bá phúc âm hóa, cũng là một khởi điểm vững vàng cho một tân xã hội được xây dựng trên một “nền văn minh yêu thương”.
Những cộng đoàn này phân nhỏ cộng đồng giáo xứ và làm nên cộng đồng giáo xứ, một cộng đồng mà họ vẫn gắn bó. Họ đi sâu vào những miền kém may mắn và quê mùa làng mạc, để trở nên men của đời sống Kitô giáo, của việc chăm sóc người nghèo và bị bỏ rơi, cũng như của việc dấn thân làm cho xã hội được biến đổi. Nơi những cộng đoàn giáo hội cơ bản này, cá nhân Kitô hữu cảm nghiệm được cộng đồng, nhờ đó, họ cảm thấy họ đang đóng một vai trò chủ động và được phấn khởi để thông công làm việc chung. Như thế, các cộng đoàn này trở nên một phương tiện truyền bá phúc âm hóa và là việc rao giảng tiên khởi cho Phúc Âm, cũng là nguồn của các thừa tác vụ mới. Ngoài ra, được thấm nhập tình yêu Kitô giáo, các cộng đoàn này còn chứng tỏ cho thấy họ có thể thắng vượt được những chia rẽ, giòng tộc và chủng tộc.
Hết mọi cộng đoàn, nếu thực sự là Kitô giáo, đều phải được thiết lập trên Chúa Kitô và sống trong Người, ở chỗ lắng nghe lời Chúa, tập trung việc cầu nguyện của mình vào Thánh Thể, sống hiệp thông với nhau bằng việc nên một lòng trí, cũng như chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu cần thiết của các phần tử (x. Acts 2:42-47). Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhắc nhở, hết mọi cộng đoàn này phải sống hiệp nhất với Giáo Hội riêng cũng như với Giáo Hội hoàn vũ, hoàn toàn hiệp thông với các Vị Chủ Chăn và Huấn Quyền của Giáo Hội, bằng quyết tâm hoạt động truyền giáo và không nhường bước cho khuynh hướng cô lập hóa hay những khai thác thuộc ý thức hệ (xem Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 58: loc. cit., 46-49). Cuộc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới năm 1985 lên tiếng như sau: “Vì Giáo Hội là hiệp thông, ‘các cộng đoàn cơ bản’ mới, nếu thực sự hiệp nhất với Giáo Hội, mới là thực sự thể hiện mối hiệp thông này và mới là phương tiện kiến tạo nên một mối hiệp thông sâu xa hơn. Có thế, những cộng đoàn cơ bản ấy mới là nguồn hy vọng dồi dào cho đời sống của Giáo Hội” (Final Report, II, C, 6).
VI
CÁC VỊ LÃNH ĐẠO VÀ NHÂN VIÊN CỦA VIỆC TÔNG ĐỒ TRUYỀN GIÁO
Không có các chứng nhân cũng không có chứng từ, cũng như không có các nhà truyền giáo cũng không có hoạt động truyền giáo vậy. Chúa Giêsu đã chọn và sai con người đi để làm chứng nhân và tông đồ cho Người, nhờ đó, họ được thông phần vào sứ vụ của Người và tiếp tục công cuộc cứu độ của Người: “Các con sẽ là chứng nhân của Thày ở Gialiêm, khắp Giuđêa và Samaria cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8).
Mười Hai Vị là những người đầu tiên hoạt động trong sứ vụ truyền giáo đại đồng của Giáo Hội. Các vị hợp thành một “chủ thể đoàn” của sứ vụ này, khi các vị được Chúa Giêsu tuyển chọn ở với Người và được Người sai đến “với chiên lạc nhà Yến-Duyên” (Mt 10:6). Tính cách hợp đoàn này cũng không che dấu được một số nhân vật nổi nang trong nhóm của các vị, như Thánh Giacôbê, Thánh Gioan và nhất là Thánh Phêrô, vị nổi nhất đúng như câu nói: “Phêrô và các Tông Đồ khác” (Acts 2:14, 37). Chính nhờ Thánh Phêrô mà chân trời sứ vụ đại đồng của Giáo Hội được trải rộng ra, và mở đường cho công cuộc truyền giáo ngoại hạng của Thánh Phaolô, vị được kêu gọi và sai đi đến với các dân nước theo ý muốn của Thiên Chúa” (x. Gal 1:15-16).
Trong việc lan rộng việc truyền giáo của Giáo Hội sơ khai, chúng ta thấy, cùng với các vị Tông Đồ, còn có những nhân vật thấp vai hơn, song những người chúng ta cũng không được coi thường. Đây là những cá nhân, nhóm người và cộng đồng. Điển hình là Giáo Hội địa phương ở Antiôkia, một cộng đồng mà, sau khi được truyền bá phúc âm hóa cho, đã trở nên một cộng đồng truyền bá phúc âm hóa, một cộng đồng sai các nhà truyền giáo đến các nơi khác (x. Acts 13:2-3). Giáo Hội sơ khai cảm nghiệm được sứ vụ truyền giáo của mình là một công việc làm cộng đồng, nhưng cũng công nhận ở nơi mình có cả “những vị thừa sai đặc biệt” hay “những nhà truyền giáo chuyên lo cho Dân Ngoại”, như Thánh Phaolô và Banabê.
62- Những gì được thực hiện ngay từ ban đầu của Kitô Giáo trong việc trải rộng sứ vụ truyền giáo đại đồng của mình vẫn còn hiệu lực và trở nên khẩn thiết vào lúc này đây. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo, vì lệnh truyền của Chúa Kitô không phải là một cái gì ngẫu nhiên hay bề ngoài, mà là những gì chạm đến chính con tim của Giáo Hội. Thế nên, Giáo Hội hoàn vũ và mỗi một Giáo Hội mới được sai đến với các dân nước. Chính vì “để cho lòng nhiệt thành truyền giáo này có thể nở hoa nơi dân tộc của mình”, mà việc các Giáo Hội trẻ rất cần phải “chia sẻ vào công việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội sớm bao nhiêu có thể. Họ phải tự sai các nhà truyền giáo đi loan truyền Phúc Âm khắp thế giới, cho dù họ có bị thiếu hụt giáo sĩ chăng nữa” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 20). Nhiều Giáo Hội riêng đã làm như thế, Tôi hết sức khuyến khích họ hãy tiếp tục công việc này.
Nơi mối liên hệ chính yếu này giữa Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng, chúng ta thấy thể hiện thực sự bản chất truyền giáo đích thật và trọn vẹn của Giáo Hội: “Trong một thế giới đang thu hẹp lại khoảng cách làm cho thế giới càng nhỏ hơn, thì các cộng đồng Giáo Hội càng phải liên kết với nhau, trao đổi các nguồn lực và nguồn lợi cần thiết, để trở thành một nhóm dấn thân thực hiện sứ vụ truyền giáo duy nhất chung trong việc loan truyền và sống Phúc Âm… Các Giáo Hội được gọi là trẻ trung cần phải lấy sức lực từ các Giáo Hội lâu đời hơn, và các Giáo Hội lâu đời hơn cần đến chứng từ và động lực của các Giáo Hội trẻ trung, để mỗi một Giáo Hội có thể rút ra được những gì là phong phú của nhau” (Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 35: loc. cit., 458)
Những Người Có Trách Nhiệm với Hoạt Động Truyền Giáo
63- Như Chúa Phục Sinh đã ra lệnh truyền giáo đại đồng cho Tông Đồ Đoàn dưới quyền lãnh đạo của Thánh Phêrô thế nào, thì nay trách nhiệm ấy cũng được ủy thác chính yếu cho Giám Mục Đoàn dưới quyền lãnh đạo của Vị Kế Thừa Thánh Phêrô như vậy (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38). Nhận thức được trách nhiệm này, Tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải nói về vấn đề ấy trong những cuộc gặp gỡ với các Giám Mục, liên quan đến việc tân truyền bá phúc âm hóa cũng như đến sứ vụ truyền giáo đại đồng. Tôi đã tông du khắp thế giới để “loan truyền Phúc Âm, để ‘làm cho anh em mình vững mạnh’ trong niềm tin, để an ủi Giáo Hội, để gặp gỡ dân chúng. Các cuộc tông du này là những cuộc hành trình đức tin… chúng cũng là những dịp để dạy giáo lý di động, những dịp loan truyền Phúc Âm bằng việc quảng bá Phúc Âm và Huấn Quyền tông truyền cho tất cả mọi nơi trên thế giới” (Bài Diễn Từ ngỏ với Các Vị Hồng Y và những người làm việc ở Tòa Thánh Rôma, ở Thành Vatican và ở Giáo Phận Rôma, ngày 28/6/1980, 10: Insegnamenti, III/1 – năm 1980 – 1887).
Các vị Giám Mục anh em của Tôi, cùng với Tôi, có trách nhiệm trực tiếp đối với việc truyền bá phúc âm hóa thế giới, với tư cách vừa là một phần tử của Giám Mục Đoàn, vừa là vị Chủ Chiên của Giáo Hội riêng. Về khía cạnh này, Công Đồng nói: “Trách nhiệm loan truyền Phúc Âm khắp thế giới là trách nhiệm thuộc về chủ chiên đoàn, về tất cả những ai Chúa Kitô đã truyền lệnh chung” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 23). Công Đồng còn nói rằng, các vị Giám Mục “đã được thánh hiến không phải chỉ để cho giáo phận riêng mà còn cho việc cứu độ của toàn thế giới nữa” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38). Trách nhiệm chung này cần phải có một số những việc làm thực tiễn. Bởi thế, “Cuộc Họp của các vị Giám Mục… trong số những quan tâm quan trọng chung chung khác, phải đặc biệt để ý đến hoạt động truyền giáo, một nhiệm vụ cao cả nhất và thánh hảo nhất của Giáo Hội” (ibid. 29). Trách nhiệm này cũng phải được phản ánh, ở những cấp độ khác nhau, nơi Các Hội Đồng Giám Mục cũng như nơi những cơ cấu của các hội đồng này ở tầm vóc quốc tế, đó là trách nhiệm phải tự mình đóng góp vào việc truyền giáo (xem ibid. 38).
Cả mỗi một vị Giám Mục cũng thế, với vai trò là Mục Tử của Giáo Hội riêng, các vị có một nhiệm vụ truyền giáo bao rộng. Các vị nhận lấy nhiệm vụ này “như một người quản trị và như trọng tâm của mối hiệp nhất nơi việc tông đồ thuộc giáo phận, để cổ võ hoạt động truyền giáo, để hướng dẫn và điều hợp công việc này… Các vị cũng cần phải biết rằng, hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn nơi những người đã trở lại, mà còn là một chia sẻ công bình, cả về nhân viên cũng như ngân quĩ, cho việc truyền bá phúc âm hóa các người ngoài Kitô giáo nữa” (ibid. 30).
64- Mỗi một Giáo Hội riêng phải tỏ ra quảng đại và mở lòng mình trước những nhu cầu của các Giáo Hội khác. Việc cộng tác giữa các Giáo Hội, trong một hỗ tương chính đáng làm cho họ sẵn sàng chia sẻ và nhận lãnh, là một nguồn mạch phong phú cho chung họ và chạm tới một số lãnh vực khác nhau của đời sống giáo hội. Điển hình về vấn đề này là lời tuyên ngôn của Các Giám Mục ở Puebla: “Cuối cùng đã đến thời giờ để Mỹ Châu Latinh… hướng tới ad gentes ở ngoài biên cương bờ cõi của mình. Chúng ta chắc chắn cần đến các nhà truyền giáo cho chính mình, thế nhưng, chúng ta phải lấy cái nghèo túng của mình mà cho đi” (Các Văn Thư của Hội Nghị Chung Lần Ba của Các Giám Mục Mỹ Châu Latinh, ở Puebla năm 1979: 2941 [368]).
Theo tinh thần này, Tôi kêu gọi các vị Giám Mục và các Hội Đồng Giám Mục hãy quảng đại để thực hiện việc áp dụng những khoản về các Qui Tắc được Thánh Bộ về Giáo Sĩ ban hành, liên quan đến việc cộng tác giữa các Giáo Hội riêng, nhất là liên quan đến việc phân phối giáo sĩ trên thế giới tốt đẹp hơn (xem Các Qui Tắc Postquan Apostoli ngày 25/3/1980: AAS 72 năm 1980, 343-364).
Sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội thì rộng lớn hơn là “việc hiệp thông giữa các Giáo Hội với nhau”; sứ mệnh này phải được nhắm đến chẳng những vấn đề trợ giúp vào việc tái truyền bá phúc âm hóa, mà còn và chính yếu vào cả hoạt động truyền giáo nữa. Tôi kêu gọi tất cả mọi Giáo Hội, mới cũng như cũ, hãy chia sẻ với nhau mối quan tâm của Tôi đây, bằng việc tìm cách thắng vượt những chướng ngại khác nhau và làm tăng thêm các ơn gọi truyền giáo.
Các Nhà Truyền Giáo và Dòng Tu Ad Gentes
65- Giờ đây, cũng như trong quá khứ, những người và những tổ chức được Sắc Lệnh Ad Gentes dành hẳn một chương đặc biệt nói đến, mang tựa đề “Các Nhà Truyền Giáo”, đang nắm giữ một vị thế hết sức quan trọng trong số những ai dấn thân vào việc tông đồ truyền giáo. Điều này cần phải cẩn thận suy xét, nhất là về phía các nhà truyền giáo, thành phần có thể tiến đến chỗ, bởi những đổi thay xẩy ra trong lãnh vực truyền giáo, không còn hiểu được ý nghĩa nơi ơn gọi của mình nữa, cũng như không còn biết chính xác những gì Giáo Hội mong đợi ở họ hiện nay nữa.
Sau đây là những lời căn bản của Công Đồng: “Mặc dù công việc quảng bá đức tin phải được thực hiện hết sức mình có thuộc về mỗi một người môn đệ của Chúa Kitô đi nữa, thì Chúa bao giờ cũng kêu gọi những ai Người muốn, trong số các môn đệ của Người, để họ được ở với Người và để Người có thể sai họ đi rao giảng cho các dân tộc. Theo đó, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng phân phát các tặng ân của mình tùy ý cho lợi ích của tất cả mọi người, Chúa Kitô khơi dậy ơn gọi truyền giáo nơi cõi lòng nhiều người, đồng thời Người cũng làm nổi lên trong Giáo Hội những Tu Hội đảm nhận nhiệm vụ truyền bá phúc âm hóa, một việc truyền bá là trách nhiệm của toàn thể Giáo Hội, như là một việc làm chuyên biệt của mình” (ibid. 23).
Bởi thế, điều được đề cập đến ở đây là một “ơn gọi đặc biệt”, theo mẫu ơn gọi của các vị Tông Đồ. Ơn gọi này được biểu lộ ra nơi việc hoàn toàn dấn thân cho việc truyền bá phúc âm hóa, một việc dấn thân bao gồm toàn thể bản thân và cuộc sống của nhà truyền giáo, đòi họ phải tự hiến mình đi đến hết nghị lực và thời giờ của họ. Những ai đã nhận được ơn gọi này, “do thẩm quyền hợp pháp sai đi, bằng đức tin và lòng tuân phục, đến với những ai xa cách Chúa Kitô, được dành riêng cho công việc họ được kêu gọi để làm như những thừa tác viên của Phúc Âm” (ibid). Các nhà truyền giáo phải luôn luôn suy nghĩ về việc đáp ứng cần có đối với ân huệ họ đã lãnh nhận, và tiếp tục cập nhật hóa việc học hỏi về tín lý cũng như tông đồ của mình.
66- Các Tu Hội Truyền Giáo, bằng việc rút kinh nghiệm và việc sáng tạo của mình song vẫn trung thành với đặc sủng của vị sáng lập, phải lợi dụng tất cả mọi phương tiện cần thiết để bảo đảm cho các dự sinh truyền giáo của mình được trang bị đầy đủ và được canh tân sinh lực về tinh thần, về luân lý cũng như về thể lý của họ (ibid. 23, 27). Họ phải cảm nhận được rằng, họ là một phần thiết yếu của cộng đồng giáo hội, và phải thực hiện công việc của mình trong mối hiệp thông với cộng đồng này. Thật vậy, “hết mọi Tu Hội có là vì Giáo Hội và phải làm cho Giáo Hội nên phong phú bằng những đặc tính chuyên biệt, theo tinh thần đặc thù và sứ vụ chuyên biệt của mình”; các vị Giám Mục chính là người trông coi việc họ trung thành với đặc sủng của Hội Dòng họ (xem Thánh Bộ về Dòng Tu và Thánh Bộ về Giám Mục, Các Hướng Dẫn về Các Mối Liên Hệ giữa Giám Mục và Tu Hội trong Giáo Hội Mutuae Relationes, ngày 14/5/1978, 14b: AAS 70 năm 1978, 482; cf. n. 28: loc. cit., 490).
Nói chung, các Tu Hội Truyền Giáo được hình thành trong Giáo Hội bắt nguồn ở các xứ sở Kitô giáo lâu đời, rồi theo giòng lịch sử, họ đã trở thành phương tiện cho Thánh Bộ Propaganda Fide sử dụng để quảng bá đức tin và thành lập các Giáo Hội mới. Ngày nay, những Tu Hội này mỗi ngày một nhận thêm nhiều các dự sinh từ các Giáo Hội trẻ do họ thiết lập, trong khi các Tu Hội Truyền Giáo mới đã mọc lên nơi các xứ sở trước kia chỉ là nơi tiếp nhận các nhà truyền giáo thì nay lại là chỗ gửi các nhà truyền giáo đi. Đây là một chiều hướng đáng ca ngợi cho thấy hiệu lực liên tục và cần thiết nơi ơn gọi truyền giáo chuyên biệt của các Tu Hội này. Các Tu Hội ấy vẫn “hoàn toàn cần thiết” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 27), chẳng những cho hoạt động truyền giáo ad gentes theo truyền thống của họ, mà còn cho việc khơi động lên lòng sốt mến truyền giáo nơi các Giáo Hội thuộc những xứ sở Kitô giáo lâu đời cũng như nơi các Giáo Hội trẻ.
Ơn gọi chuyên biệt của các nhà “trọn đời” truyền giáo này vẫn còn nguyên hiệu lực của nó: nó là mẫu dấn thân truyền giáo của Giáo Hội, một việc dấn thân truyền giáo cần thực sự và hoàn toàn ban tặng bản thân mình, cần những nỗ lực mới mẻ và vững mạnh. Vì thế, các nhà truyền giáo nam nữ, thành phần hiến cả đời mình vào việc làm chứng cho Chúa Phục Sinh nơi các dân nước, không được để cho mình cảm thấy lung lạc bởi bị ngờ vực, hiểu lầm, loại trừ hay bách hại. Họ phải phục hồi ân sủng thuộc đặc sủng chuyên biệt của mình và phải can đảm dấn bước, bằng việc lưu tâm tìm kiếm – theo tinh thần đức tin, tuân phục và hiệp thông với các vị Chủ Chăn – thành phần hèn kém nhất và những nơi khó khăn nhất.
Các Linh Mục Giáo Phận với Việc Truyền Giáo Hoàn Vũ
67- Là cộng sự viện của Giám Mục, các linh mục, bởi Bí Tích Truyền Chức Thánh, được kêu gọi để thông phần vào mối quan tâm về sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội: “Tặng ân thiêng liêng các linh mục đã nhận được khi chịu chức, không phải cho việc truyền giáo nhỏ hẹp và giới hạn, mà là cho sứ vụ cứu độ đại đồng và gồm tóm hết mọi sự ‘cho đến tận thế’. Vì hết mọi thừa tác vụ tư tế đều thông phần vào mục tiêu đại đồng của sứ mệnh truyền giáo do Chúa Kitô ủy thác cho các vị Tông Đồ” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời Sống của Linh Mục Presbyterorum Ordinis, đoạn 10; xem Sắc Lệnh về Hoạt Đồng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 39). Bởi lý do này, việc đào luyện các tuyển sinh cho chức linh mục phải nhắm đến việc hiến cho họ “một tinh thần Công Giáo thực sự, nhờ đó, họ sẽ biết làm siêu vượt các giới hạn thuộc giáo phận của họ, xứ sở hay nghi thức, và cộng tác giúp đỡ toàn thể Giáo Hội, sửa soạn cho việc rao giảng Phúc Âm khắp mọi nơi” (Công Đồng Chung vaticanô II, Sắc Lệnh về Việc Đào Luyện Linh Mục Optatem Totius, 20). Tất cả mọi linh mục phải có trí khôn và tâm hồn của các nhà truyền giáo – mở lòng ra trước các nhu cầu của Giáo Hội cũng như của thế giới, chú ý đến những người xa xôi nhất, nhất là với các nhóm người ngoài Kitô Giáo trong miền của mình. Họ phải mang trong lòng mình, trong lời cầu nguyện, nhất là ở Hy Tế Thánh Thể, mối quan tâm của toàn thể Giáo Hội đối với tất cả nhân loại.
Đặc biệt ở những miền Kitô hữu chỉ là một thiểu số thì các linh mục cần phải đầy nhiệt tình và dấn thân truyền giáo hơn nữa. Chúa ủy thác cho họ chẳng những việc mục vụ chăm sóc cộng đồng Kitô hữu, mà còn và trên hết việc truyền bá phúc âm hóa cho đồng bào của họ là thành phần không thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Các linh mục sẽ “không ngừng làm cho mình lúc nào cũng sẵn sàng đối với Chúa Thánh Thần cũng như đối với vị Giám Mục để được sai đi rao giảng Phúc Âm ở ngoài biên cương đất nước của họ. Điều này chẳng những đòi hỏi họ phải trưởng thành trong ơn gọi của họ, mà còn đòi họ phải đặc biệt sẵn sàng tách lìa quê hương, văn hóa và gia đình của mình, cũng như đòi họ phải có một khả năng đặc biệt để thích nghi với những văn hóa khác, tỏ ra hiểu biết và tôn trọng những nền văn hóa ấy” (Bài Diễn Từ ngỏ với Hội Nghị của Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa cho Các dân Tộc, ngày 14/4/1989, 4: AAS 81 năm 1989, 1140)
68- Trong Bức Thông Điệp Fidei Donum, Đức Giáo Hoàng Piô XII, bằng việc nhìn xa trông rộng, đã khuyến khích các Giám Mục hãy cống hiến một số linh mục của mình để tạm thời phục vụ tại các Giáo Hội Phi Châu, cũng như đã ban phép cho các dự án hiện hành nhắm đến mục tiêu này. Hai mươi lăm năm sau, Tôi đã vạch ra cho thấy cái mới mẻ đáng chú ý của Bức Thông Điệp này, một bức thông điệp “khỏa lấp khía cạnh về lãnh thổ nơi việc linh mục phục vụ để hướng nó về toàn thể Giáo Hội” (Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 1982: Insegnamenti V/2 năm 1982, 1879). Ngày nay kinh nghiệm này đã cho thấy nó hiệu nghiệm và thành quả biết bao. Thật vậy, các linh mục của Thông Điệp Fidei Donum là dấu hiệu đặc thù của mối liên kết hiệp thông nơi các Giáo Hội. Họ đã đóng góp một cách sáng giá vào việc phát triển nơi những cộng đồng giáo hội thiếu thốn, trong khi rút lấy từ các cộng đồng này một đức tin tươi mới và linh hoạt. Dĩ nhiên, việc phục vụ truyền giáo của linh mục thuộc địa phận phải hợp với một số tiêu chuẩn và điều kiện nào đó. Các linh mục thừa sai phải được chọn lựa từ những tuyển sinh xứng hợp nhất, và phải được sửa soạn thích hợp cho công việc đặc biệt đang chờ đợi họ (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 38; Thánh Bộ về Giáo Sĩ, Các Qui Tắc Postquam Apostoli, 24-25: loc. cit., 361). Bằng một thái độ cởi mở và huynh đệ, họ phải trở nên một phần nơi khung cảnh mới của Giáo Hội tiếp nhận họ, và nên một hàng giáo sĩ với các linh mục địa phương, dưới quyền của vị Giám Mục (Thánh Bộ về Giáo Sĩ, Các Qui Tắc Postquam Apostoli, 29: loc. cit., 362f; Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 20). Tôi hy vọng là tinh thần phục vụ sẽ được tăng hơn nơi các linh mục thuộc những Giáo Hội thiết lập lâu đời, và sẽ được bảo tồn nơi các linh mục thuộc những Giáo Hội thành lập muộn hơn.
Thành Quả Truyền Giáo của Đời Sống Tận Hiến
69- Từ kho tàng Thần Linh khôn lường và đa diện đã phát sinh ra những ơn gọi của các Tu Hội Tận Hiến có những phần tử, “bởi việc hiến thân phụng sự Giáo Hội do bằng thánh hiến bản thân mình, có phận sự phải đóng một vai trò đặc biệt nơi hoạt động truyền giáo, một cách xứng hợp với Tu Hội của mình” (CIC, c 783). Lịch sử đã chứng tỏ cho thấy các Gia Đình Dòng Tu, từ các cơ cấu đan viện cổ xưa, tới các Dòng Tu thời trung cổ, cho đến các Hội Dòng cận đại hơn, phục vụ Giáo Hội một cách ngoại hạng, bằng việc quảng bá đức tin và thành lập các Giáo Hội.
(a) Theo tiếng vang vọng của Công Đồng, Tôi mời gọi các Tu Hội Chiêm Niệm hãy thiết lập cộng đoàn của mình nơi các Giáo Hội trẻ, để “rạng ngời minh chứng cho những người ngoài Kitô giáo thấy được phẩm tính uy nghi cao cả và tình yêu của Thiên Chúa, cũng như thấy được mối hiệp nhất trong Chúa Kitô” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 40). Việc hiện diện này làm ích cho khắp thế giới ngoài Kitô giáo, nhất là ở những miền có các truyền thống tôn giáo coi trọng đời sống chiêm niệm theo chiều hướng khổ chế nhiệm nhặt cũng như theo chiều hướng tìm kiếm Đấng Tối Cao.
(b) Đối với các Tu Hội Hoạt Động, Tôi đề nghị họ hãy lợi dụng rất nhiều cơ hội để làm việc bác ái, để loan truyền Phúc Âm, để thực hiện việc giáo dục Kitô giáo, thực hiện những nỗ lực về văn hóa Kitô giáo và thực hiện tình đoàn kết Kitô giáo với người nghèo khổ và những người bị kỳ thị, bỏ rơi và đàn áp. Dù có triệt để theo đuổi mục đích truyền giáo hay không, những Tu Hội này cũng phải tự hỏi mình phải làm thế nào để tỏ ra và có thể nới rộng hoạt động của họ cho việc phát triển Vương Quốc của Thiên Chúa. Trong những thời gian gần đây, nhiều Tu Hội đã đáp ứng lời yêu cầu này, lời yêu cầu Tôi hy vọng sẽ được để ý tới hơn nữa và được áp dụng hơn nữa, để việc phục vụ càng ngày càng chuyên chính. Giáo Hội cần phải làm sáng tỏ các giá trị cao cả của Phúc Âm mà Giáo Hội là người nắm giữ. Không ai làm chứng một cách công hiệu hơn cho những giá trị Phúc Âm này, cho bằng những người tuyên khấn sống đời tận hiến giữ mình trinh khiết, khó nghèo và tuân phục, hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa và luôn luôn sẵn sàng phục vụ con người cũng như xã hội theo gương Chúa Kitô (xem ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 69: loc. cit., 58f).
70- Tôi cũng gửi lời cảm ơn đặc biệt đến các Chị Dòng truyền giáo, những người biến cuộc sống đồng trinh của mình vì Nước Trời thành vai trò làm mẹ thiêng liêng dồi dào sinh lực và hoa trái. Chính việc truyền giáo ad gentes đã hiến cho họ một mục tiêu rộng lớn để “hy hiến thân mình bằng một lòng yêu thương trọn vẹn không phân chia” (Tông Thư Mulieris Dignitatem ngày 15/8/1988, đoạn 20: AAS 80 năm 1988, 1703). Gương mẫu và hoạt động của giới nữ, thành phần, qua việc giữ mình đồng trinh, tận hiến mình cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhất là chính người nghèo khổ, là một dấu hiệu phúc âm không thể thiếu được nơi những dân tộc và những nền văn hóa mà nữ giới vẫn còn xa vời trên con đường tiến đến tình trạng tiến bộ nhân bản và giải phóng con người. Tôi hy vọng là nhiều nữ Kitô hữu trẻ sẽ được lôi kéo đến việc hiến thân mình cho Chúa Kitô, rồi sẽ lấy được sức mạnh và niềm vui nơi việc thánh hiến của mình để làm chứng cho Người nơi các dân tộc chưa nhận biết Người.
Tất Cả Mọi Giáo Dân là Thừa Sai theo Phép Rửa
71- Các vị Giáo Hoàng mới đây đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vai trò giáo dân trong hoạt động truyền giáo (xem Đức Piô XII, Thông Điệp Evangelii Praecones: loc. cit., 510ff; Thông Điệp Fidei Donum: loc. cit., 228ff; ĐTC Gioan XXIII, Thông Điệp Princeps Pastorum: loc. cit., 855ff; ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 70-73: loc. cit., 59-63). Trong Tông Huấn Christifideles Laici, Tôi đã nói rõ ràng về việc Giáo Hội “vĩnh viễn truyền giáo để mang Phúc Âm đến cho nhiều người – cả hằng triệu triệu người nam nữ – thành phần chưa biết Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc của nhân loại” (đoạn 35: loc. cit., 457), cũng như nói về trách nhiệm của người tín hữu giáo dân liên quan đến vấn đề này. Việc truyền giáo ad gentes là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa. Nếu nền tảng của một Giáo Hội mới cần phải có Thánh Thể, và bởi đó cũng cần đến thừa tác vụ linh mục, thì hoạt động truyền giáo, một hoạt động được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau, là một công việc của tất cả mọi tín hữu Kitô giáo.
Ngay từ những thuở ban đầu của Kitô giáo, rõ ràng là giáo dân – với tư cách cá nhân, gia đình hay toàn thể cộng đồng – đã chia sẻ vào việc quảng bá đức tin. Đức Giáo Hoàng Piô XII nhắc lại sự kiện này trong Thông Điệp đầu tiên về các việc truyền giáo của ngài (xem Evangelii Praecones: loc. cit., 510-514), trong đó ngài đã nêu lên một số trường hợp nơi những việc truyền giáo của giáo dân. Trong những thời tân tiến hiện nay, việc tham gia chủ động này của các nhà truyền giáo giáo dân nam nữ không hề thiếu. Chúng ta làm sao quên được vai trò quan trọng do nữ giới nắm giữ, đó là vai trò làm việc của họ trong gia đình, nơi học đường, nơi sinh hoạt chính trị, xã hội và văn hóa, nhất là nơi việc họ dạy tín lý Kitô giáo? Thật vậy, chúng ta cần phải công nhận – và cần phải tôn vinh – rằng có một số Giáo Hội đã được bắt nguồn từ hoạt động của các nhà truyền giáo giáo dân nam nữ.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã xác nhận truyền thống này, qua việc nói đến đặc tính truyền giáo của toàn thể Dân Chúa, nhất là nói đến việc tông đồ giáo dân (xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 17, 33ff), khi nhấn mạnh tới việc đóng góp đặc biệt cho hoạt động truyền giáo mà họ được kêu gọi thực hiện (xem Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 35-36, 41). Nhu cầu đối với tất cả mọi tín hữu trong việc thông phần vào trách nhiệm này không phải chỉ là vấn đề làm cho việc tông đồ tăng thêm hiệu năng; nó còn là một quyền lợi và là một nhiệm vụ bởi phẩm vị thánh tẩy của họ, nhờ đó “tín hữu, về phần mình, tham dự vào sứ vụ tam diện của Chúa Kitô trong vai trò làm Tư Tế, Ngôn Xứ và Vương Đế” (Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 14: loc. cit., 410). Bởi thế, “họ bị bó buộc bởi nhiệm vụ chung và họ có quyền, theo tư cách cá nhân hay đoàn thể, cố gắng để làm cho sứ điệp thần linh được tất cả mọi dân tộc trên thế giới nhận biết và chấp nhận. Phận sự bó buộc này lại càng cần ở những hoàn cảnh mà dân chúng chỉ có thể nghe thấy Phúc Âm và nhận biết Chúa Kitô qua một mình họ mà thôi” (CIC, c. 225; xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Việc Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, 6, 13). Ngoài ra, vì tính cách trần thế của mình, họ được đặc biệt kêu gọi “để tìm kiếm Vương Quốc của Thiên Chúa bằng việc dấn thân vào các việc làm trần thế và qui các việc này về với ý muốn của Thiên Chúa” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31; xem CIC, c. 225, 2).
72- Lãnh vực mà người giáo dân hiện diện và chủ động như là những nhà truyền giáo thì rất rộng rãi. “Lãnh vực riêng của họ… là một thế giới rộng lớn và phức tạp về chính trị, xã hội và kinh tế… “ (ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 70: loc. cit., 60), ở cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế. Trong Giáo Hội, đó là những loại dịch vụ, phận vụï, tác vụ và đường lối truyền bá đời sống Kitô giáo. Tôi muốn nói đến việc phát triển nhanh chóng những “phong trào giáo hội” đầy những năng động truyền giáo, như là một phát triển mới mẻ xuất hiện tại nhiều Giáo Hội vào những thời gian gần đây. Khi những phong trào này khiêm nhượng tìm cách tham gia vào sinh hoạt của Giáo Hội địa phương và được vị Giám Mục cùng các linh mục trong giáo phận đón nhận vào giáo phận cũng như vào cơ cấu của giáo xứ, chúng là tiêu biểu cho tặng ân thực sự của Thiên Chúa, cho cả việc tân truyền bá phúc âm hóa cũng như cho hoạt động truyền giáo xứng danh của mình. Bởi thế, Tôi kêu gọi là những phong trào này phải được quảng bá, và phải được sử dụng trong việc làm phát sinh một nghị lực tươi mới, nhất là nơi giới trẻ, cho đời sống Kitô hữu, cũng như cho việc truyền bá phúc âm hóa, theo cái nhìn đa diện về những đường lối mà Kitô hữu có thể bắt tay hành động và biểu lộ mình ra.
Trong lãnh vực hoạt động truyền giáo,việc tông đồ giáo dân có những hình thức khác nhau cần phải được tôn trọng vì bản chất và mục đích của chúng. Các hội đoàn truyền giáo giáo dân, các hiệp hội Kitô hữu thiện nguyện quốc tế, các phong trào, nhóm hội và tổ chức thân hữu thuộc giáo hội đủ loại khác nhau – tất cả mọi tổ chức này cần phải được đóng góp vào việc truyền giáo ad gentes, với tư cách là những cộng hoạt viên với Giáo Hội địa phương. Nhờ đó, việc phát triển của người tín hữu trưởng thành và có trách nhiệm mới được bảo tồn, người tín hữu đang được các Giáo Hội trẻ công nhận là “một yếu tố thiết yếu và không thể phủ nhận trong việc plantatio Ecclesiae” (Tông Huấn Christifideles Laici, 35: loc. cit., 458).
Công Việc của Giáo Lý Viên và các Thừa Tác Vụ khác nhau
73- Trong số thành phần giáo dân trở nên những nhà truyền bá phúc âm hóa, thì các giáo lý viên chiếm một địa vị cao quí. Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội nói về họ như là “đạo binh giáo lý viên, cả nam lẫn nữ, đáng ca ngợi, thành phần góp phần rất nhiều vào công việc truyền giáo nơi các dân nước. Được thấm nhiễm tinh thần tông đồ, họ thực hiện việc đóng góp chuyên biệt và hết sức cần thiết cho công cuộc quảng bá đức tin cũng như cho Giáo Hội, bằng những nỗ lực hết mình của họ” (đoạn 17). Chính vì lý do đó, các Giáo Hội được thiết lập lâu đời, dấn thân cho việc tân truyền bá phúc âm hóa, đã tăng phát con số những giáo lý viên cùng đẩy mạnh hoạt động giáo lý. Thế nhưng, “chữ ‘giáo lý viên’ trước hết thuộc về những giáo lý viên ở miền đất truyền giáo… Những Giáo Hội đang nở hoa hôm nay đây đã không được dựng xây lên nếu không có mặt họ” (Tông Huấn Catechesi Tradendae, 66: loc. cit., 1331).
Cho dù có nới rộng các việc đóng góp của người giáo dân, cả ở trong lẫn ngoài Giáo Hội đi nữa, thì vẫn luôn luôn cần đến thừa tác vụ giáo lý viên, một thừa tác vụ có những đặc tính riêng của mình. Giáo lý viên là những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp và là những nhà truyền bá phúc âm hóa không thể thay thế được, thành phần, như Tôi vẫn thường phát biểu và cảm nghiệm thấy qua các cuộc hành trình truyền giáo của mình, cho thấy sức mạnh căn bản của các cộng đồng Kitô hữu, nhất là nơi các Giáo Hội trẻ. Giáo Luật mới đã công nhận những việc làm, phẩm chất và điều kiện các giáo lý viên (xem c. 785, 1).
Tuy nhiên, cũng không được quên rằng, công viêïc của các giáo lý viên đang càng ngày càng trở nên khó khăn và khẩn thiết hơn, bởi những đổi thay về giáo hội cũng như về xã hội. Những gì Công Đồng gợi ý vẫn còn hiệu lực cho tới ngày nay, đó là gợi ý huấn luyện cẩn thận về tín lý và sư phạm, gợi ý tiếp tục canh tân về tinh thần và về việc tông đồ, cũng như gợi ý cần phải cung cấp cho giáo lý viên “một tiêu chuẩn sống và an sinh xã hội xứng hợp” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 17). Còn một vấn đề quan trọng nữa, đó là việc nỗ lực thiết lập và nâng đỡ những trường dạy cho các giáo lý viên, được Hội Đồng Giám Mục chuẩn nhận và cấp bằng được sau này chính thức công nhận (xem Hội Nghị Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc năm 1969, về các giáo lý viên và các “Hướng Dẫn” liên hệ ban hành 4/1970: Bibliographia Missionaria 34 năm 1970, 197-212 và S.C. de Propaganda Fide Memoria Rerum, III/2 năm 1976, 821-831).
74- Ngoài các giáo lý viên ra, cũng cần phải đề cập tới những đường lối khác trong việc phục vụ Giáo Hội và sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội; tức là nói đến các nhân viên khác của Giáo Hội, như những người điều khiển cầu nguyện, thánh ca và phụng vụ; những người làm đầu các cộng đồng giáo hội cơ bản và các nhóm học hỏi Thánh Kinh; những người lo các việc bác ái; những quản trị viên điều hành các nguồn lợi của Giáo Hội; những lãnh đạo viên trong các hình thức tông đồ khác; các thày cô dạy về tôn giáo ở các trường học. Tất cả mọi phần tử giáo dân phải hiến một phần thời giờ của mình cho Giáo Hội, bằng việc sống đức tin của mình một cách chân chính.
Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa cho Các Dân Nước và Các Cơ Cấu lo Việc Hoạt Động Truyền Giáo
75- Các người điều hành và các nhân viên hoạt động mục vụ truyền giáo phải cảm nhận được việc hiệp nhất của họ trong mối hiệp thông làm nên đặc tính của Nhiệm Thể Giáo Hội. Chúa Kitô đã cầu nguyện cho điều này ở Bữa Tiệc Ly rằng: “Như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, để họ cũng được ở trong chúng ta, cho thế giới tin rằng Cha đã sai Con” (Jn 17:21). Hoa trái của hoạt động truyền giáo chỉ được tìm thấy nơi mối hiệp thông này thôi.
Thế nhưng, vì Giáo Hội cũng là chính mối hiệp thông, một hiệp thông hữu hình và có tổ chức, nên sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội cũng cần phải được thống nhất theo hình thức và cơ cấu giữa những trách nhiệm và phận vụ dự phần khác nhau, đến nỗi, tất cả mọi phần tử “có thể cống hiến sức lực của mình cho việc xây dựng Giáo Hội một cách hòa hợp” (Công Đồng Chung Vaticanô II, (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 28).
Thánh Bộ phụ trách hoạt động truyền giáo có trách nhiệm “hướng dẫn và điều hợp khắp thế giới việc truyền bá phúc âm hóa các dân tộc cũng như việc hợp tác truyền giáo, liên quan tương xứng với thẩm quyền của Thánh Bộ về Các Giáo Hội Đông Phương” (Tông Hiến Pastor Bonus, ngày 28/6/1988, 85: AAS 80 năm 1988, 881; xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 29). Bởi thế, công việc của Thánh Bộ phụ trách hoạt động truyền giáo là “tuyển mộ các nhà truyền giáo và phân phối họ tùy theo nhu cầu cần hơn ở các vùng khác nhau…, phác họa một chương trình hoạt động ngăn nắp, ban hành các qui tắc và chỉ dẫn cùng với các nguyên tắc hợp với công việc truyền bá phúc âm hóa, và nâng đỡ những giai đoạn đầu trong việc làm của họ” (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 29; xem ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Hiến Pastor Bonus, 86: loc. cit., 882). Tôi muốn xác nhận những chỉ dẫn khôn ngoan này. Để tái khai mào cho việc truyền giáo ad gentes, cần phải có một trung tâm quảng bá, hướng dẫn và điều hợp, tức là, cần phải có Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc. Tôi xin mời Các Hội Đồng Giám Mục cùng các cơ cấu khác nhau của những hội đồng này, các vị Bề Trên Tổng Quyền của các Dòng Tu, Hội Dòng và Tu Hội, cũng như các tổ chức giáo dân tham gia hoạt động truyền giáo, hãy trung thành cộng tác với Phân Bộ này, một Phân Bộ có thẩm quyền cần thiết trong việc phác họa và hướng dẫn cùng phối hợp hoạt động truyền giáo khắp thế giới.
Thánh Bộ này, một Thánh Bộ có một lịch sử dài rất nổi nang, được kêu gọi để đóng một vai trò trọng yếu liên quan đến việc tìm hiểu và phác họa các chương trình hoạt động mà Giáo Hội cần có để nhất định hướng tới sứ mệnh truyền giáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Để đạt được mục đích ấy, Thánh Bộ này phải giữ liên hệ chặt chẽ với các Phân Bộ khác của Tòa Thánh, với các Giáo Hội địa phương cũng như các lực lượng truyền giáo khác. Theo giáo hội học về việc hiệp thông liên quan đến vấn đề toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, cũng như đến vấn đề không thể thiếu được các ơn gọi và các tổ chức chuyên biệt khác nhau lo hoạt động truyền giáo ad gentes, thì vai trò hướng dẫn và điều hợp của Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc rất là quan trọng, để làm sao có thể kết hợp nỗ lực trong việc đối phó với những vấn đề khó khăn ai cũng quan tâm tới, tùy theo thẩm quyền xứng hợp riêng của mỗi chức phận và cơ cấu.
76- Các Hội Đồng Giám Mục và các nhóm khác nhau của các hội đồng này rất cần phải hướng dẫn và điều hợp hoạt động truyền giáo theo cấp quốc gia và cấp miền. Công Đồng xin họ “hãy bàn luận với nhau trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng và những rắc rối khẩn trương, tuy nhiên, vẫn phải để ý tới những cái khác nhau ở địa phương” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 31), và hãy cứu xét đến vấn đề phức tạp trong việc hội nhập văn hóa. Thật vậy, hoạt động rộng lớn và điều hòa đang được diễn tiến ở lãnh vực này đã mang lại kết quả trông thấy. Đây là một hoạt động phải được tăng tiến và điều hợp khá hơn nữa với hoạt động của các phần vụ khác của cùng một Hội Đồng Giám Mục, để mối quan tâm truyền giáo không để cho một phân bộ hay cơ chế duy nhất nào phụ trách, mà là được tất cả cùng nhau chia sẻ.
Các phân bộ và tổ chức tham gia vào hoạt động truyền giáo phải kết hợp sức lực và sáng kiến mỗi khi có cơ hội. Hội Đồng Các Bề Trên Tổng Quyền phải có cùng một quan tâm theo phạm vi của mình, mà vẫn giữ liên hệ với các Hội Đồng Giám Mục, theo những chỉ dẫn và qui tắc được qui định (xem ibid. 33), cũng như bàn hỏi với các ủy ban khác nhau. Nên có cả các cuôïc họp và các hình thức cộng tác khác giữa những tổ chức truyền giáo với nhau, cả trong vấn đề huấn luyện lẫn học hỏi (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 29; xem ĐTC Phaolô VI, Tông Thư Motu Prorio Ecclesiae Santae, III, 22: loc. cit., 787).
VII
VIỆC CỘNG TÁC TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
Vì là phần thể của Giáo hội theo Phép Rửa mà tất cả mọi Kitô hữu đều chia sẻ trách nhiệm vào hoạt động truyền giáo. “Việc cộng tác truyền giáo” là lời diễn tả được dùng để nói lên việc các cộng đồng và Kitô hữu chia sẻ với nhau nơi quyền lợi và nhiệm vụ truyền giáo này.
Việc cộng tác truyền giáo được bắt nguồn và sống động, trước hết, nơi mối hiệp nhất riêng tư với Chúa Kitô. Chỉ khi nào chúng ta được nên một với Người, như cành nho dính liền với cây nho (x. Jn 15:5), chúng ta mới có thể sinh hoa trái tốt tươi. Bằng đời sống thánh thiện, hết mọi Kitô hữu có thể trở nên phần sai trái nơi việc truyền giáo của Giáo Hội. Công Đồng Chung Vaticanô II đã mời gọi tất cả mọi người hãy thực hiện “việc canh tân nội tâm sâu xa, để nhờ nhận thức sống động được trách nhiệm riêng của mình trong việc quảng bá Phúc Âm, họ có thể góp phần của mình vào việc truyền giáo nơi các dân nước” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 35; xem CIC, c-c. 211, 781).
Chia sẻ thực hiện sứ vụ truyền giáo đại đồng, bởi thế, không bị giới hạn vào một số những hoạt động chuyên biệt, nhưng là một dấu hiệu trưởng thành trong đức tin cũng như trong đời sống Kitô hữu sinh hoa kết trái. Như thế, các tín hữu nói riêng mới vươn đức ái của mình ra cho thấy mối quan tâm đối với cả những kẻ ở xa cũng như ở gần. Họ cầu nguyện cho các việc truyền giáo và cho các ơn gọi truyền giáo. Họ giúp các nhà truyền giáo và lấy làm phấn khởi làm theo các công việc của các vị ấy. Khi các nhà truyền giáo trở lại, họ tiếp đón các vị bằng một niềm vui giống như niềm vui của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, khi các cộng đồng này nghe các Tông Đồ thuật lại những sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm qua việc các Tông Đồ giảng dạy (x. Acts 14:27).
Cầu Nguyện và Hy Sinh cho Các Nhà Thừa Sai
78- Trong số những hình thức chia sẻ này, đầu tiên là việc cộng tác về phần thiêng liêng qua lời cầu nguyện, qua hy sinh và qua chứng từ của đời sống Kitô hữu. Việc cầu nguyện phải kèm theo cuộc hành trình của các nhà truyền giáo, để việc loan truyền Lời Chúa được tác hiệu theo ơn Chúa. Trong các Bức Thư của mình, Thánh Phaolô thường xin tín hữu cầu nguyện cho ngài, để ngài có thể loan truyền Phúc Âm một cách tin tưởng và vững vàng. Cầu nguyện cần phải được đi kèm với hy sinh. Giá trị cứu chuộc của đau khổ, vì yêu mến chấp nhận và dâng lên cho Thiên Chúa, bắt nguồn từ hiến tế của chính Chúa Kitô, Đấng kêu gọi các phần thể thuộc Nhiệm Thể của Người thông phần vào các khổ đau của Người, để hoàn tất những đau khổ ấy nơi xác thịt của họ (x. Col 1:24). Việc hy sinh của các nhà truyền giáo phải được chia sẻ và kèm theo bằng các hy sinh của tất cả mọi tín hữu. Do đó, Tôi hết sức muốn những ai lo việc mục vụ chăm sóc bệnh nhân hãy dạy cho họ biết về hiệu năng của đau khổ, và khuyến khích họ hãy hiến dâng những đau khổ của họ lên Thiên Chúa để cầu cho các nhà truyền giáo. Bằng việc hiến dâng như vậy, chính bệnh nhân trở nên những nhà truyền giáo, như các phong trào do họ lập nên, hay được lập nên cho thành phần của họ, nhấn mạnh. Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – thời điểm mở màn cho việc truyền giáo của Giáo Hội – nơi một số cộng đồng, được cử hành như là một “Ngày Chịu Đựng Khổ Đau để cầu cho Các Việc Truyền Giáo”.
“Này con đây, Lạy Chúa! Con sẵn sàng! Xin hãy sai con!”
79- Việc cộng tác truyền giáo được nói lên, trước hết, bằng việc cổ võ các ơn gọi truyền giáo. Dù có công nhận tính cách hiệu năng của các đường lối khác nhau để tham gia vào hoạt động truyền giáo, cũng cần phải tái xác nhận rằng, việc hoàn toàn dấn thân trọn đời cho công cuộc của các ngành truyền giáo là việc đứng hàng đầu, nhất là dấn thân trong các Tu Hội và Hội Dòng truyền giáo. Việc cổ võ các ơn gọi như vậy là tâm điểm của việc cộng tác truyền giáo. Việc rao giảng Phúc Âm đòi phải có các nhà rao giảng; mùa màng cần thợ gặt. Việc truyền giáo được thực hiện, trước hết, bởi những con người nam nữ tận hiến đời mình cho công cuộc của Phúc Âm, và là những con người sẵn sàng mang ơn cứu độ ra đi đến khắp nơi trên thế giới.
Tôi muốn nhắc lại để kêu gọi việc quan tâm đến các ơn gọi truyền giáo. Nhận thức được trách nhiệm chung của Kitô hữu trong việc góp phần vào hoạt động truyền giáo, cũng như vào việc phát triển các dân tộc nghèo khổ hơn mình, chúng ta cần phải thắc mắc hỏi mình rằng, ở một vài xứ sở, trong khi việc đóng góp về tiền bạc tăng lên, thì các ơn gọi truyền giáo, những ơn gọi này mới là mức đo lường thực sự của việc tự hy hiến bản thân cho anh chị em của mình, lại đang có nguy cơ mất đi. Các ơn gọi làm linh mục và sống đời tận hiến là một dấu hiệu chắc chắn nói lên sức sống của một Giáo Hội.
80- Khi nghĩ đến vần đề hệ trọng này, Tôi hết lòng tin tưởng và tha thiết kêu gọi các gia đình và giới trẻ. Các gia đình, nhất là các cha mẹ, cần ý thức rằng, họ phải “hiến dâng phần đóng góp đặc biệt cho lợi ích truyền giáo của Giáo Hội, bằng việc nuôi dưỡng các ơn kêu gọi truyền giáo nơi con cái nam nữ của họ” (Tông Huấn Familiaris Consortio, 54: loc. cit., 147).
Đời sống nguyện cầu thiết tha, cảm thức đích thực trong việc phục vụ tha nhân của mình, và việc tham gia nhiệt thành vào các hoạt động trong Giáo Hội, cống hiến các gia đình những điều kiện thuận lợi gieo mầm ơn gọi nơi giới trẻ. Khi cha mẹ sẵn sàng để cho một trong những đứa con của mình ra đi truyền giáo, khi họ xin ơn này nơi Chúa, Ngài sẽ ban cho họ vui mừng vào ngày có đứa con trai hay con gái của họ nghe thấy Chúa gọi theo Ngài.
Tôi xin chính giới trẻ hãy lắng nghe lời Chúa Kitô khi Người nói với họ những gì Người đã từng nói với Simon Phêrô và Anrê ở bờ hồ: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những tay đánh cá người” (Mt 4:19). Chớ gì họ can đảm đáp lại như tiên tri Isaia đã làm: “Này con đây, lạy Chúa! Con sẵn sàng rồi! Xin hãy sai con đi!” (x. Is 6:8). Họ sẽ có một cuộc sống tuyệt vời trước mắt, và họ sẽ nếm được niềm vui đích thực trong việc loan truyền “Tin Mừng” cho anh chị em là những người họ sẽ dẫn đi trên con đường cứu độ.
“Cho đi hơn nhận lãnh” (Acts 20:35)
81- Các nhu cầu về vật chất và tài chính cho những việc truyền giáo thì nhiều: không phải ở tại việc thiết lập một Giáo Hội với cơ cấu tối thiểu (nguyện đường, trường sở cho các giáo lý viên và chủng sinh, nhà cửa), mà còn để hỗ trợ cho các việc bác ái, giáo dục và tiến bộ của con người – một lãnh vực hoạt động rộng lớn, nhất là nơi các xứ nghèo. Giáo Hội truyền giáo cho đi những gì Giáo Hội nhận được, và phân phối cho kẻ nghèo các của cải vật chất do các con cái nam nữ giầu có về vật chất của Giáo Hội cúng cho Giáo Hội. Ở đây, Tôi muốn cám ơn tất cả những ai đã hy sinh và đóng góp vào công cuộc của những việc truyền giáo. Các hy sinh và chia sẻ của họ không thể nào thiếu được trong việc xây dựng Giáo Hội cũng như trong việc tỏ lòng yêu thương.
Trong vấn đề trợ giúp về vật chất, cần phải để ý tới tinh thần làm việc dâng cúng. Đối với vấn đề này, chúng ta phải xét lại lối sống của mình: các việc truyền giáo chẳng những xin đóng góp mà còn xin chia sẻ vào công việc giảng dạy và bác ái đối với kẻ nghèo nữa. Tất cả những gì chúng ta nhận được nơi Thiên Chúa – chính sự sống cũng như của cải vật chất – không thuộc về chúng ta mà được ban cho chúng ta để chúng ta sử dụng. Lòng quảng đại cho đi bao giờ cũng phải được đức tin hướng dẫn và tác động: bấy giờ chúng ta mới thực sự có phúc khi cho đi hơn là nhận lãnh.
Ngày Truyền Giáo Thế Giới, một ngày muốn đề cao nhận thức về các việc truyền giáo, cũng như để quyên tiền cho các việc truyền giáo, là một ngày quan trọng trong đời sống Giáo Hội, vì nó dạy cách cho đi, như một lễ vật dâng lên Thiên Chúa, trong việc cử hành Thánh Thể và cho tất cả mọi việc truyền giáo trên thế giới.
Những Hình Thức Mới trong Việc Cộng Tác Truyền Giáo
82- Ngày nay, việc cộng tác truyền giáo bao gồm những hình thức mới, chẳng những dưới hình thức trợ giúp về kinh tế, mà còn dưới hình thức trực tiếp tham gia nữa. Những hoàn cảnh mới liên quan tới hiện tượng di chuyển đòi Kitô hữu phải có một tinh thần hoạt động truyền giáo đích thực.
Trào lưu du lịch khắp thế giới nay đã trở nên một hiện tượng ào ạt. Hiện tượng này là một phát triển tốt, nếu các người đi du lịch giữ được thái độ tôn trọng đối với vấn đề trao đổi để thăng tiến về văn hóa và ước muốn làm như vậy, bằng việc tìm cách tiếp xúc với nhau, chứ không phải để phô trương và phung phí. Phần Kitô hữu, họ cần nhận thức được, trước hết, phận sự buộc họ phải luôn luôn làm chứng cho đức tin và tình yêu Chúa Kitô. Kiến thức trực tiếp về cuộc sống truyền giáo cũng như về các cộng đồng Kitô giáo mới cũng có thể là một kinh nghiệm thăng tiến bản thân và có thể làm cho đức tin của mình thêm vững mạnh. Đến thăm các địa sở truyền giáo là việc nên làm, nhất là đối với thành phần giới trẻ đến đó để phục vụ cũng như để lấy thêm kinh nghiệm dồi dào hơn cho đời sống Kitô hữu.
Hiện nay, vì các lý do công ăn việc làm, đã mang nhiều Kitô hữu từ các cộng đồng trẻ đến những vùng Kitô giáo chưa được biết tới, có những lúc còn bị cấm cản hay bắt bớ nữa. Cũng thế, đối với trường hợp của những phần tử tín hữu thuộc các xứ Kitô giáo lâu đời đến làm việc một thời gian ở những đất nước ngoài Kitô giáo. Những trường hợp này thật sự là một cơ hội sống đức tin và làm chứng đức tin. Trong những thế kỷ đầu, Kitô giáo phát triển là vì Kitô hữu, khi di chuyển hay định cư ở những vùng Chúa Kitô chưa được loan báo, đã can đảm làm chứng cho đức tin của mình và đã thành lập các cộng đoàn đầu tiên ở đó.
Đông hơn nữa là những người công dân ở các xứ truyền giáo, và những tín đồ thuộc các tôn giáo ngoài Kitô giáo, đến định cư ở các nước khác để học hành hay làm việc, hoặc bị buộc phải làm như thế vì tình trạng chính trị hay kinh tế tại đất nước của họ. Việc hiện diện của những người anh chị em này tại các xứ sở theo Kitô giáo lâu đời là một thách đố cho các cộng đồng giáo hội, và là một kích thích cho việc tiếp đãi, đối thoại, phục vụ, chia sẻ, minh chứng và trực tiếp loan báo. Nơi những xứ sở Kitô giáo, các cộng đồng và các nhóm về văn hóa cũng đang hình thành những gì cần cho việc truyền giáo ad gentes, và các Giáo Hội địa phương, được hợp tác của những người di dân đến từ các xứ sở của họ, cũng như của những nhà truyền giáo hồi hương, phải hết sức đáp ứng đối với các trường hợp này.
Việc cộng tác truyền giáo cũng có thể bao gồm cả các nhà lãnh đạo về chính trị, kinh tế, văn hóa và phóng sự, cũng như những chuyên gia của các cơ chế quốc tế khác nhau nữa. Trong thế giới tân tiến hiện nay, vấn đề phân định các ranh giới về địa dư hay văn hóa càng trở nên khó khăn hơn. Tình trạng liên thuộc giữa con người với nhau đang tăng lên, và sự kiện này trở thành một kích thích cho chứng từ Kitô giáo cũng như cho việc truyền bá phúc âm hóa.
Cổ Động và Huấn Luyện Truyền Giáo trong Thành Phần Dân Chúa
83– Việc huấn luyện truyền giáo là công việc của Giáo Hội địa phương, được tiếp tay bởi các nhà truyền giáo và Tu Hội của họ, cũng như được tiếp tay bởi người đến từ các Giáo Hội trẻ. Công việc này không được coi như là một việc nổi nang bề ngoài mà là việc chính đối với đời sống Kitô hữu. Thậm chí đối với cả việc “tân truyền bá phúc âm hóa” nơi các xứ Kitô giáo thì đề tài về những việc truyền giáo cũng cho thấy là rất hữu ích: chứng từ của các nhà truyền giáo vẫn là một lời kêu gọi đối với cả thành phần tín hữu không hành đạo lẫn thành phần không tin đạo, chứng từ này truyền đạt các giá trị Kitô giáo. Bởi thế, các Giáo Hội riêng phải làm cho vấn đề phát động những việc truyền giáo thành yếu tố chính trong hoạt động mục vụ thông thường ở các giáo xứ, hội đoàn và nhóm hội, nhất là ở các nhóm giới trẻ.
Khi nhắm đến mục đích này, cần phải quảng bá chi tiết qua các việc phát hành cũng như qua các phương tiện trợ thính thị về truyền giáo. Những phương tiện này đóng một vai trò quan trọng, trong việc phổ biến sinh hoạt của Giáo Hội hoàn vũ, cũng như trong việc chia sẻ những kinh nghiệm của các nhà truyền giáo và của các Giáo Hội địa phương họ hoạt động. Nơi những Giáo Hội mới mẻ vẫn chưa có phương tiện in ấn, hay các phương tiện khác trong tay, thì các Tu Hội Truyền Giáo cần phải giúp nhân lực và vật lực cho những công việc làm này.
Một việc huấn luyện như thế được ủy thác cho các vị linh mục và cộng sự viên của họ, cho các nhà giáo dục và giáo sư, cũng như cho các nhà thần học, nhất là những người dạy trong các chủng viện và các trung tâm dành cho giáo dân. Việc huấn luyện về thần học không thể và không được bỏ qua việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội, việc đại kết, việc học hỏi các tôn giáo lớn khác và khoa truyền giáo. Tôi đề nghị là những môn học như vậy phải được dạy đặc biệt trong các chủng viện cũng như trong các nhà huấn luyện cho Tu Sĩ nam nữ, những môn học cần có một số linh mục hay học viên chuyên môn về các ngành truyền giáo học khác nhau.
Các hoạt động nhắm đến vấn đề phát động chú trọng đến những việc truyền giáo bao giờ cũng phải được hướng về các mục tiêu đặc biệt này; tức là mục tiêu thông báo và huấn luyện Dân Chúa trong việc tham phần vào sứ vụ truyền giáo đại đồng của Giáo Hội, mục tiêu cổ võ các ơn gọi ad gentes và mục tiêu khuyến khích cộng tác vào việc truyền bá phúc âm hóa. Thật là không đúng khi trình bày một hình ảnh thiếu hụt về hoạt động truyền giáo, như thể nó chỉ hoàn toàn nhắm vào việc giúp đỡ kẻ nghèo, vào việc góp phần giải phóng kẻ bị đàn áp, vào việc đề cao phát triển hay bảo vệ quyền lợi của con người. Giáo Hội truyền giáo nhất định bao gồm cả những công việc hàng đầu này, thế nhưng, công việc chính yếu của Giáo Hội nằm ở chỗ khác, ở chỗ thành phần nghèo khổ đói khát Thiên Chúa, chứ không phải đói khát bánh ăn và tự do vậy thôi. Hoạt động truyền giáo trước hết phải làm chứng cho và loan truyền ơn cứu độ trong Chúa Kitô, cùng với việc thiết lập các Giáo Hội địa phương là nơi sau này trở thành phương tiện giải phóng đúng nghĩa.
Trách Nhiệm Chính của Các Hội Truyền Giáo thuộc Tòa Thánh
84- Vai trò dẫn đầu trong việc phát động này là của Các Hội Truyền Giáo thuộc Tòa Thánh, như Tôi thường cho thấy trong các Sứ Điệp Tôi gửi cho Ngày Truyền Giáo Thế Giới. Bốn Hội này – Hội Truyền Bá Đức Tin, Hội Thánh Phêrô Tông Đồ, Hội Trẻ Em Thánh và Hội Hợp Đoàn Thừa Sai – có cùng một mục đích trong việc nuôi dưỡng tinh thần truyền giáo hoàn vũ nơi Dân Chúa. Hội Hợp Đoàn Thừa sai có mục đích trực tiếp và đặc biệt phát động ý thức truyền giáo và huấn luyện các linh mục và tu sĩ nam nữ trở nên thành phần cung cấp kiến thức và huấn luyện ở tại các cộng đồng Kitô hữu. Ngoài ra, Hội Hợp Đoàn Thừa Sai còn tìm cách cổ động các Hội khác, như “linh hồn” của các hội ấy (xem ĐTC Phaolô VI, Graves et Increscentes, ngày 5/9/1966: AAS 58 năm 1966, 750-756). “Đây phải là khẩu hiệu của chúng ta: Tất cả mọi Giáo Hội phải hiệp nhất cho việc hoán cải toàn thể thế giới” (P. Manna, Le nostre “Chiese” e la Propagazione del Vangelo, Trento la Ducenta, 1952, p. 35).
Vì hưởng đặc ân của Giáo Hoàng và Giám Mục Đoàn, những Hội này, cả ở trong phạm vi của các Giáo Hội địa phương, cũng thực sự “đứng đầu… vì các hội ấy là phương tiện giúp người Công Giáo, ngay từ hồi còn nhỏ, được thấm nhiễm tinh thần truyền giáo đại đồng và truyền giáo chân truyền; các hội ấy cũng là phương tiện bảo đảm cho việc lạc quyên tốt đẹp vì lợi ích của tất cả những việc truyền giáo theo nhu cầu của mỗi một việc” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 38). Mục đích khác nữa của các Hội Truyền Giáo là cổ động các ơn gọi trọn đời ad gentes, cả ở các Giáo Hội cũ lẫn Giáo Hội mới. Tôi tha thiết muốn thấy việc các Hội Truyền Giáo này càng ngày càng cổ động phát triển theo chiều hướng ấy.
Về phương diện hoạt động của mình, những Hội này lệ thuộc vào phạm vi hoàn cầu của Thánh Bộ Phụ Trách Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc; ở cấp độ địa phương, các hội ấy tùy thuộc vào Hội Đồng Các Giám Mục cũng như tùy thuộc vào Giám Mục của từng Giáo Hội, trong việc hợp tác với các trung tâm cổ động đang hoạt động. Các hội ấy mang đến cho thế giới Công Giáo tinh thần đại đồng và tinh thần phục vụ đối với việc truyền giáo của Giáo Hội, mà không có tinh thần này cũng không có việc cộng tác thật sự.
Chẳng Những Cho Việc Truyền Giáo mà còn Nhận từ Việc này nữa
85- Việc hợp tác trong hoạt động truyền giáo không có nghĩa là cho đi mà không nhận lãnh. Tất cả mọi Giáo Hội riêng, cả mới lẫn cũ, đều được kêu gọi để cho đi và nhận lãnh theo tương quan của việc truyền giáo đại đồng, không Giáo Hội nào được khép mình lại trước những nhu cầu của các Giáo Hội khác. Công Đồng viết: “Bởi… tính chất công giáo, các phần riêng mang các tặng ân của mình đến cho các phần khác và cho toàn thể Giáo Hội, để làm cho toàn khối và từng phần riêng lớn lên hơn nữa, qua việc tất cả truyền thông cho nhau, cũng như qua việc liên kết nỗ lực hướng đến mối hiệp nhất toàn vẹn… Giữa những phần khác nhau trong Giáo Hội có những liên hệ hiệp thông sâu xa liên quan đến những kho tàng thiêng liêng, đến các nhân viên tông đồ và đến việc trợ giúp về vật chất” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 13).
Tôi kêu gọi tất cả mọi Giáo Hội, Giám Mục, linh mục, tu sĩ và các phần tử giáo dân, hãy hướng về tính cách đại đồng của Giáo Hội, và hãy tránh hết mọi hình thức khuynh hướng thiển cận chỉ biết lấy mình hay độc quyền, hoặc những cảm giác tự mãn. Các Giáo Hôïi địa phương, mặc dầu được ăn sâu vào dân tộc và văn hóa riêng của mình, cũng phải luôn luôn giữ được cảm thức sống động về tính cách đại đồng của đức tin, về việc cho đi và nhận lãnh các tặng ân thiêng liêng, về các kinh nghiệm của hoạt động mục vụ trong việc truyền bá phúc âm hóa và việc loan báo lúc ban đầu, cũng như về nhân lực cho việc tông đồ và các nguồn lợi vật chất.
Khuynh hướng muốn trở nên biệt lập có thể là một khuynh hướng mãnh liệt. Các Giáo Hội cũ, liên quan đến việc tân truyền bá phúc âm hóa, có thể nghĩ rằng việc truyền giáo của mình hiện nay ở tại phần đất của mình, do đó, các Giáo Hội này có thể bị nhụt đi nhuệ khí đối với thế giới ngoài Kitô giáo, bất đắc dĩ để cho các ơn gọi đến với các Tu Hội truyền giáo, các Hội Dòng Tu Sĩ hay các Giáo Hội riêng khác. Thế nhưng, chính nhờ việc cho đi một cách quảng đại những gì chúng ta có mà chúng ta sẽ nhận được. Những Giáo Hội trẻ, có nhiều nơi được chúc phúc bởi có dồi dào ơn gọi, đã ở trong vị thế sai các linh mục và Tu Sĩ nam nữ tới các Giáo Hội lâu đời hơn.
Ngoài ra, các Giáo Hội trẻ cũng đang quan tâm đến căn tính riêng của mình, đến việc hội nhập văn hóa, cũng như đến việc tự do phát triển thoải mái mà không bị ảnh hưởng bởi ngoại bang, để rồi cuối cùng họ có thể đóng cửa không có các nhà truyền giáo tới nữa. Với những Giáo Hội này, Tôi xin nói là: Đừng tự cô lập lấy mình; hãy sẵn sàng tiếp nhận các nhà truyền giáo, cùng sự nâng đỡ của các Giáo Hội khác, và cũng làm như vậy cho các Giáo Hội khắp nơi. Chính vì các vấn đề liên quan đến Giáo Hội của mình mới cần tới việc liên tục liên hệ với các anh chị em mình trong đức tin. Bằng mọi phương tiện hợp pháp, hãy tìm cách bảo đảm cho bằng được việc nhận thức về niềm tự do mình có quyền hưởng, khi nhớ rằng các môn đệ của Chúa Kitô phải “vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta” (Acts 5:29).
Thiên Chúa đang Sửa Soạn một Mùa Xuân Mới cho Phúc Âm
86- Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta bị dội lại bởi nhiều yếu tố tiêu cực có thể làm cho chúng ta bi quan. Thế nhưng, cảm giác này không chính đáng: chúng ta tin vào Thiên Chúa là Cha và là Chúa của chúng ta, vào lòng tốt và tình thương của Ngài. Trong lúc Ngàn Năm thứ ba của ơn cứu chuộc gần đến, Thiên Chúa đang sửa soạn một mùa xuân rất tươi đẹp cho Kitô giáo, và chúng ta đã thấy được các dấu hiệu le lói của nó. Thật vậy, cả nơi thế giới ngoài Kitô giáo lẫn nơi thế giới Kitô giáo lâu đời, con người đang dần dần tiến gần tới những lý tưởng và giá trị Phúc Âm hơn, một đà phát triển Giáo Hội đang tìm cách phấn khích. Thật vậy, ngày nay, các dân tộc có một cảm nhận chung về những giá trị sau đây: việc loại trừ bạo lực và chiến tranh; việc tôn trọng con người và các quyền lợi của con người; niềm mong ước được tự do, công chính và tình yêu huynh đệ; việc thắng vượt các hình thức khác nhau về chủng tộc và dân tộc; việc công nhận phẩm vị và vai trò của nữ giới.
Niềm hy vọng của Kitô giáo nâng đỡ chúng ta trong việc chúng ta hoàn toàn dấn thân cho công cuộc truyền bá phúc âm hóa, cũng như cho việc truyền giáo đại đồng, và khiến chúng ta nguyện cầu như Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Chúng con nguyên Nước Cha trị đến. Chúng con nguyện ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6:10).
Còn thật nhiều người đang đợi chờ Chúa Kitô, đó là những nhóm người và những khối văn hóa chưa biết đến Phúc Âm, hay những người hầu như chưa biết đến có Giáo Hội, nhiều đến nỗi cần phải liên kết tất cả nguồn lợi của Giáo Hội lại. Vào thời điểm sửa soạn cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm năm 2000, toàn thể Giáo Hội lại càng dấn thân cho một mùa vọng truyền giáo mới. Chúng ta phải tăng thêm lòng nhiệt thành tông đồ của chúng ta để truyền sang cho các người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin, và toàn thể Dân Chúa phải được giáo huấn theo lý tưởng cao cả này.
Chúng ta không thể bằng lòng khi thấy cả triệu triệu anh chị em của mình, cũng như chúng ta, được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô, mà lại sống chẳng biết gì về tình yêu của Thiên Chúa cả. Bởi vì, đối với mỗi một tín hữu, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, công việc truyền giáo vẫn phải là một việc làm trên hết, vì công việc này liên quan đến định mệnh đời đời của con người, cũng là công việc hợp với dự án nhiệm mầu và nhân hậu của Thiên Chúa.
VIII
LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO
Hoạt động truyền giáo đòi phải có một linh đạo đặc biệt, một linh đạo áp dụng riêng cho tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi để trở thành những nhà truyền giáo.
Được Thần Linh Dẫn Dắt
Linh đạo này trước hết được thể hiện nơi một đời sống hoàn toàn dễ dạy đối với Thần Linh. Thần Linh sẽ uốn nắn đời sống được chúng ta phó thác cho Ngài, để nhờ đó chúng ta càng ngày càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Kitô mà lại không phản chiếu hình ảnh của Người, một hình ảnh được làm cho sống động trong chúng ta, nhờ ân sủng và quyền năng của Thần Linh. Như thế, tấm lòng dễ dạy này làm cho chúng ta nhận được các ơn mạnh bạo và khôn ngoan là những yếu tố thiết yếu cho linh đạo truyền giáo.
Điển hình cho linh đạo này là gương của các vị Tông Đồ trong đời sống công khai của Chúa Kitô. Mặc dù các vị yêu mến Người và quảng đại đáp lại lời Người kêu gọi, các vị vẫn tỏ ra cho thấy các vị không thể nào hiểu được những lời của Người và tỏ ra lưỡng lự theo Người trên con đường khổ đau và hèn hạ. Thần Linh đã biến đổi các vị thành những chứng nhân can trường của Chúa Kitô, cũng như thành những con người khôn ngoan loan truyền lời của Chúa Kitô. Chính Thần Linh là Đấng đã hướng dẫn các vị qua khó khăn thử thách và theo những đường lối mới của việc truyền giáo.
Ngày nay, cũng như trong quá khứ, việc truyền giáo vẫn gặp khó khăn thử thách và phức tạp, đòi phải có lòng can đảm và ánh sáng của Thần Linh. Chúng ta thường cảm nghiệm thấy tình trạng thảm thương của cộng đồng Kitô giáo tiên khởi, một cộng đồng đã chứng kiến thấy những lực lượng không chịu tin tưởng và hận thù “hợp nhau chống lại Chúa và Đấng Xức Dầu của Ngài” (Acts 4:26). Giờ đây, cũng như hồi ấy, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng mạnh dạn rao giảng Phúc Âm; chúng ta phải chú ý tới những đường lối nhiệm mầu của Thần Linh và để cho Ngài dẫn dắt mình vào tất cả sự thật (x. Jn 16:13).
Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, “Đấng được sai đi”
88- Một đặc tính thiết yếu của linh đạo truyền giáo là sống hiệp thông thân mật với Chúa Kitô. Chúng ta không thể hiểu biết và thi hành việc truyền giáo được, trừ phi chúng ta đối chiếu nó với Chúa Kitô là Đấng đã được sai đi truyền bá phúc âm hóa. Thánh Phaolô đã diễn tả thái độ của Chúa Kitô như sau: “Tác hành của anh em phải giống như của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc dù mang danh phận là Thiên Chúa song cũng không cho mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã hủy mình ra hư không, mặc lấy thân phận tôi đòi, sinh ra giống như con người. Và trong hình dạng làm người, Người đã tự hạ và đã vâng lời cho đến chết, cho dù có phải chết trên Thập Giá” (Phil 2:5-8).
Như thế, Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc được cho thấy như là một việc hoàn toàn tự hư không hóa bản thân mình, nhờ đó Chúa Kitô có thể sống trọn vẹn thân phận con người, trong việc chấp nhận làm theo tất cả dự án của Cha. Cuộc tự hủy bản thân mình ra hư không này là một cuộc tự hủy bản thân mình chan hòa những yêu thương và nói lên lòng yêu thương. Việc truyền giáo đi theo cùng một đường lối như vậy, và là việc truyền giáo dẫn đến chân Thập Giá.
Nhà truyền giáo cần phải “từ bỏ chính mình và mọi sự cho đến bấy giờ họ cho là của mình, để làm cho mình nên mọi sự cho mọi người” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 24). Họ làm điều này bằng một đức khó nghèo khiến họ thanh thoát sống cho Phúc Âm, bằng việc thắng vượt lòng dính bén với con người cũng như sự vật bao quanh họ, để họ có thể trở nên anh chị em cho những ai họ được sai tới và nhờ đó họ mang Chúa Kitô Cứu Thế đến cho những người đó. Đó là mục tiêu của linh đạo truyền giáo: “Đối với người yếu đuối tôi trở nên người yếu đuối…; tôi trở nên mọi sự cho mọi người để bằng mọi cách có thể cứu được một số nào đó. Tôi làm tất cả những điều này là vì Phúc Âm…” (1Cor 9:22-23).
Chính vì được “sai” mà nhà truyền giáo nghiệm thấy sự hiện diện an ủi của Chúa Kitô, Đấng ở với họ mọi giây phút trong cuộc sống – “Đừng sợ… vì Ta ở với con” (Acts 18:9-10) – và là Đấng chờ đợi họ nơi cõi lòng của mọi người.
Yêu Mến Giáo Hội và Nhân Loại như Chúa Kitô
89- Linh đạo truyền giáo cũng được đánh dấu bằng đức ái tông đồ, đức ái của Chúa Kitô, Đấng đã đến “để tụ họp con cái Thiên Chúa bị phân tán khắp nơi về một mối” (Jn 11:52), đức ái của Vị Mục Tử Nhân Lành biết chiên của mình, tìm kiếm chúng và hiến mạng sống mình cho chúng (x. Jn 10). Những ai có tinh thần truyền giáo cảm thấy tình yêu khát khao các linh hồn của Chúa Kitô và tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội.
Nhà truyền giáo bị thôi thúc bởi “lòng nhiệt thành đối với các linh hồn”, một lòng nhiệt thành do đức ái của Chúa Kitô thúc đẩy, dưới hình thức quan tâm, dịu dàng, thương cảm, cởi mở, sẵn sàng và chú trọng tới các vấn đề của con người. Tình yêu của Chúa Kitô rất sâu xa: Ngài là Đấng “biết những gì nơi con người” (Jn 2:25), đã yêu thương mọi người bằng việc hiến cho họ ơn cứu chuộc và chịu đựng khổ đau khi bị ruồng bỏ.
Nhà truyền giáo là một con người của đức ái. Để loan truyền cho tất cả mọi anh chị em của mình là những người anh chị em ấy được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương, nhà truyền giáo phải chứng tỏ tình yêu đối với tất cả mọi người, bằng việc hiến cuộc sống mình cho tha nhân. Nhà truyền giáo là “anh chị em của hết mọi người”, khi mang nơi bản thân mình tinh thần của Giáo Hội, tấm lòng cởi mở và nỗi quan tâm của Giáo Hội đối với tất cả mọi dân tộc và mọi người, nhất là đối với những anh chị em thấp kém và nghèo hèn nhất. Sống như vậy, nhà truyền giáo mới thắng vượt được những trở ngại và phân rẽ về chủng tộc, giai cấp hay ý thức hệ. Nhà truyền giáo là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa trên thế giới này – một tình yêu không phân biệt hay thiên vị.
Sau hết, như Chúa Kitô, nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội: “Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mạng sống mình cho Giáo Hội” (Eph 5:25). Tình yêu thương này, cho đến độ hiến mạng sống mình, là đích điểm họ nhắm đến. Chỉ có tình yêu sâu xa đối với Giáo Hội mới có thể bảo trì lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo mà thôi. Cái thôi thúc hằng ngày của nhà truyền giáo, như Thánh Phaolô nói, đó là “mối quan tâm lo cho tất cả mọi Giáo Hội” (2Cor 11:28). Đối với hết mọi nhà truyền giáo, “lòng trung thành với Chúa Kitô không thể nào tách lìa khỏi lòng trung thành với Giáo Hội” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời Sống của Các Linh Mục Presbyterorum Ordinis, 14).
Nhà Thừa Sai Đích Thực là Một Vị Thánh
90- Ơn gọi hoạt động truyền giáo, tự bản chất của mình, là một ơn gọi phát xuất từ ơn gọi nên thánh. Một nhà truyền giáo thực sự như vậy chỉ khi nào họ dấn thân sống theo con đường thánh thiện: “Thánh Thiện phải được gọi là một tiên quyết căn bản và là một điều kiện không thể thay thế đối với mọi người trong việc hoàn tất sứ mệnh cứu độ trong Giáo Hội” (Tông Huấn Christifideles Laici, 17: loc. cit., 419).
Ơn gọi phổ quát nên thánh gắn liền với ơn gọi phổ quát truyền giáo. Mọi phần tử tín hữu đều được kêu gọi nên thánh và truyền giáo. Đây là điều Công Đồng hết sức tha thiết ước mong, một Công Đồng hy vọng có thể “soi sáng cho tất cả mọi dân nước bằng ánh quang của Chúa Kitô, một ánh quang phát tỏa trên khuôn mặt của Giáo Hội, bằng việc rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 1). Linh đạo truyền giáo của Giáo Hội là một cuộc hành trình tiến đến sự thánh thiện.
Việc canh tân động lực cho việc truyền giáo ad gentes đòi phải có những nhà truyền giáo thánh đức. Việc cập nhật hóa những kỹ thuật mục vụ, tổ chức và điều hành các nguồn lực của giáo hội, hay nghiên cứu sâu xa vào nền tảng thánh kinh và thần học về đức tin, cũng chưa đủ. Điều cần là lòng phấn khởi cho “việc hăng say nên thánh” mới mẻ nơi các nhà truyền giáo, cũng như nơi khắp các cộng đồng Kitô giáo, đặc biệt nơi những ai làm việc gần gũi nhất với các nhà truyền giáo (xem Bài Diễn Từ ở Cuộc Họp CELAM, tại Port-au-Prince, ngày 9/3/1983: AAS 75 năm 1983, 771-779; Bài Giảng Khai Mạc cho “Novena of Years” do CELAM phat động, Santo Domingo, ngày 12/10/1984: Insegnamenti VII/2 năm 1984, 885-897).
Anh Chị Em thân mến: chúng ta hãy nhớ đến lòng nhiệt thành truyền giáo của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi. Bất chấp phương tiện di chuyển và truyền thông hạn hẹp vào những thời ấy, việc loan truyền Phúc Âm vẫn nhanh chóng tiến đến tận cùng trái đất. Đó là tôn giáo của một Con Người chết trên thập giá, của “một viên đá vấp phạm cho người Do Thái và ngu xuẩn cho Dân Ngoại” (1Cor 1:23)! Bên dưới cái năng động truyền giáo này chính là đời sống thánh thiện của các Kitô hữu và các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi vậy.
91- Thế nên, Tôi muốn ngỏ lời với những phần tử mới được rửa tội nơi các cộng đồng trẻ cũng như nơi các Giáo Hội trẻ. Hôm nay, các con là niềm hy vọng của Giáo Hội hai ngàn tuổi của chúng ta đây: là con người trẻ trung về đức tin, các con phải như những Kitô hữu tiên khởi, chiếu tỏa nhiệt tình và lòng can đảm, trong việc quảng đại hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Tóm lại, các con phải dấn thân trên con đường thánh thiện. Chỉ có thế các con mới là dấu chứng của Thiên Chúa trên thế giới này, và mới làm sống lại nơi quê hương xứ sở của các con truyền sử của Giáo Hội sơ khai. Các con cũng mới là men tinh thần truyền giáo cho các Giáo Hội lâu đời.
Về phần mình, các nhà truyền giáo phải phản chiếu tặng ân được mời gọi của mình nơi nhiệm vụ nên thánh cần phải có nơi họ, phải lập lại trong tâm trí mỗi ngày, và cố gắng cập nhật hóa việc huấn luyện về tín lý cũng như về mục vụ. Nhà truyền giáo phải là một “nhà chiêm niệm trong hoạt động”. Họ tìm thấy những giải đáp cho các vấn đề theo ánh sáng của lời Chúa, cũng như trong lời cầu nguyện chung riêng. Việc Tôi tiếp xúc với các vị đại biểu của các truyền thống linh đạo ngoài Kitô giáo, nhất là những vị ở Á Châu, đã làm cho Tôi tin tưởng theo chiều hướng là, tương lai của việc truyền giáo phần lớn lệ thuộc vào việc chiêm niệm. Nhà truyền giáo nếu không phải là một người chiêm niệm thì họ không thể nào loan truyền Chúa Kitô một cách khả tín được. Họ là chứng nhân cho cảm nghiệm về Thiên Chúa, và họ phải nói được như các vị Tông Đồ: “những gì chúng tôi trông thấy… liên quan đến lời sự sống, … thì chúng tôi cũng đem loan truyền cho anh em” (1Jn 1:1-3).
Nhà truyền giáo là một người của các Phúc Đức. Trước khi sai 12 Vị đi truyền bá phúc âm hóa, Chúa Giêsu, trong “bài nói về truyền giáo” (x. Mt 10), đã dạy cho các vị biết những đường lối hoạt động truyền giáo: đó là nghèo khó, khiêm nhu, chấp nhận khổ đau và bách hại, mong ước công lý và hòa bình, đức ái – tức là, các Phúc Đức được thực hành trong đời sống tông đồ (x. Mt 5: 1-12). Khi sống các Phúc Đức, nhà truyền giáo cảm thấy và chứng tỏ cho thấy một cách cụ thể rằng, Vương Quốc của Thiên Chúa đã trị đến, và họ đã chấp nhận Vương Quốc này. Đặc tính của hết mọi cuộc sống truyền giáo chân chính đó là niềm vui nội tâm do đức tin mà có. Trong một thế giới bị quằn quại và dập dụi bởi quá nhiều rối ren, một thế giới có xu hướng bi quan, thì con người loan truyền “Tin Mừng” phải là một con người tìm được niềm hy vọng thực sự nơi Chúa Kitô.
Kết Luận
92- Ngày hôm nay, Giáo Hội được một cơ hội, như chưa bao giờ có trước đây, dùng chứng từ và lời rao giảng của mình để mang Phúc Âm đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi quốc gia. Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới, một rạng đông sẽ trở thành một ngày sống rạng ngời mang lại cả một mùa màng phì nhiêu, nếu tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các nhà truyền giáo và các Giáo Hội trẻ, quảng đại và thánh thiện đáp ứng những mời gọi và thách đố trong thời đại của chúng ta đây.
Như các vị Tông Đồ sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên, Giáo Hội cũng phải hợp nhau lại trên căn Thượng Lầu “cùng với Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu” (Acts 1:14), để cầu xin Thần Linh, cũng như để lấy sức lực và lòng can đảm trong việc thực thi mệnh lệnh truyền giáo. Cả chúng ta nữa, như các vị Tông Đồ, chúng ta cần phải được Thần Linh biến đổi và hướng dẫn.
Vào thời điểm sát cận Ngàn Năm thứ ba, toàn thể Giáo Hội được mời gọi sống tha thiết với mầu nhiệm của Chúa Kitô hơn nữa, bằng việc cộng tác với một lòng tri ân cảm mến vào công cuộc cứu độ. Giáo Hội làm việc này cùng với Mẹ Maria và theo gương Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội và là mô phạm của Giáo Hội: Mẹ Maria là mô phạm của một thứ tình yêu mẫu tử làm cho tất cả mọi người hứng khởi cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội trong việc tái sinh nhân loại. Thế nên, “được kiên cường bởi việc Chúa Kitô hiện diện, Giáo Hội hành trình qua thời gian, tiến về tột đỉnh của các thời đại, để nghênh đón Chúa đến. Thế nhưng, trong cuộc hành trình này… Giáo Hội tiến bước theo con đường được vạch vẽ dấu chân của Trinh Nữ Maria” (Thông Điệp Redemptoris Mater, ngày 25/3/1987, 2: AAS 79 năm 1987, 362f).
Tôi ký thác Giáo Hội, nhất là những ai đang dấn thân thực hiện mệnh lệnh truyền giáo trong thế giới hôm nay cho “vai trò trung gian của Đức Maria là vai trò hoàn toàn hướng về Chúa Kitô và hướng đến việc tỏ hiện quyền năng cứu độ của Người” (ibid. 22: loc. cit., 390). Như Chúa Kitô đã sai các Tông Đồ của Người đi nhân danh Cha và Con và Thánh Thần thế nào, để lập lại lệnh truyền này, Tôi cũng ban cho tất cả các con Phép Lành Tòa Thánh của Tôi, nhân danh Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Amen.
Ban hành tại Rôma, Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 7/12/1990, Kỷ Niệm 25 Năm Sắc Lệnh Công Đồng Ad Gentes, năm thứ 13 của Giáo Triều Tôi.
Gioan Phaolô II