Trích ĐGH Bênêdictô XVI, 36 Thánh Tiến Sĩ (Tp. HCM: Nxb Phương Đông, 2017), tr. 454-465.
Tính đến nay, đây là vị tiến sĩ trẻ tuổi nhất trong số 36 vị được tuyên phong tước hiệu này. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là một chuyên gia về “khoa học tình yêu.” Ngài nổi tiếng với tác phẩm “Truyện Một Tâm Hồn,” là những lời thưa chuyện thân tình của một nữ tu dòng kín với Chúa Giêsu. Đức Bênêđictô XVI dành buổi tiếp kiến chung ngày 16 tháng 04 năm 2011 để giới thiệu cuộc đời và tư tưởng của chị thánh.
*****
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, tôi xin chia sẻ về vị nữ tu bé nhỏ, chị thánh Têrêsa Lisieux, hay còn được gọi là Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Têrêsa Thánh Nhan. Chị thánh hoàn tất hành trình dương thế khi còn rất trẻ, chỉ mới hai mươi bốn tuổi. Tuy sống một cuộc đời giản dị và âm thầm vào những năm cuối thế kỷ XIX, nhưng sau khi Têrêsa qua đời, tác phẩm của chị mau chóng phổ biến. Têrêsa trở thành một trong những vị thánh được biết đến nhiều nhất và được yêu mến nhiều nhất. Chị “Têrêsa nhỏ” không bao giờ ngừng trợ giúp những tâm hồn đơn sơ, những con người bé mọn, những kẻ nghèo hèn, và những ai sầu khổ tìm đến cầu khẩn với ngài. Hơn nữa, chị còn soi sáng cho toàn thể Giáo Hội bằng một linh đạo sâu sắc, và chính nhờ linh đạo đó mà năm 1997, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong ngài lên hàng “Tiến Sĩ Hội Thánh,” thêm vào tước hiệu Bổn mạng các xứ Truyền giáo mà trước đó đức giáo hoàng Piô XI đã tặng ban cho chị vào năm 1939. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi đã mô tả thánh Têrêsa là một “chuyên gia về khoa học tình yêu.”[1]Têrêsa lý giải về bộ môn khoa học tình yêu này chủ yếu trong quyển “Truyện Về Cuộc Đời,” được xuất bản một năm sau khi thánh nhân qua đời, với tựa đề “Truyện Một Tâm Hồn.” Tác phẩm ấy lập tức được yêu mến và được dịch ra nhiều thứ tiếng, phổ biến trên toàn thế giới.
Tôi muốn mời gọi anh chị em tái khám phá tác phẩm nhỏ này của chị thánh, nhưng thực sự là một kho tàng lớn lao, là một bản chú giải Tin Mừng rất rõ ràng, đã được ngài sống tới mức hoàn trọn! Thực vậy, Truyện Một Tâm Hồn là câu truyện tình yêu phi thường, được thuật lại cách chân thực, mộc mạc, và mới mẻ, lôi cuốn biết bao độc giả. Thử hỏi thứ tình yêu đã tràn ngập toàn bộ cuộc đời Têrêsa từ thuở thơ ấu cho đến lúc qua đời là tình yêu gì? Anh chị em thân mến, Tình Yêu ấy có một Khuôn mặt, có một Danh xưng, chính là Giêsu. Têrêsa trò chuyện với Giêsu không ngơi nghỉ. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lại những bước đường quan trọng trong cuộc đời của Têrêsa, để có thể đi vào trọng tâm giáo huấn của ngài.
Têrêsa sinh ngày mồng 02 tháng Giêng năm 1873, ở Alenson, một thành phố thuộc miền Normandy, nước Pháp. Ngài là con gái út của ông Louis Martin và bà Zélie Martin. Hai ông bà là những bậc cha mẹ mẫu mực trong đời sống gia đình, được Giáo Hội tuyên phong lên hàng Chân phước vào ngày 19 tháng 10 năm 2008.[2] Các ngài có chín người con, bốn người con đã qua đời khi còn rất trẻ. Năm cô con gái còn lại, sau này cũng rời khỏi gia đình và trở thành các nữ tu. Năm lên bốn tuổi, Têrêsa đã đau khổ rất nhiều trước sự ra đi của thân mẫu.[3] Sau đó, thân phụ ngài đã đưa các con gái của mình đến thị trấn Lisieux, và nơi đây Têrêsa đã trải qua toàn bộ cuộc đời còn lại. Thế rồi, Têrêsa bị rối loạn cảm xúc nghiêm trọng, và đã được chữa lành bởi một hồng ân thiêng liêng, mà chính thánh nhân mô tả đó là “nụ cười của Đức Trinh Nữ Maria.”[4] Sau đó, Têrêsa được Rước lễ lần đầu, một kinh nghiệm sâu sắc, từ đây Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể trở nên tâm điểm cuộc đời ngài.
“Hồng ân Giáng Sinh” năm 1886 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, đó là thời gian mà Têrêsa gọi là “cuộc hoán cải hoàn toàn.”[5] Thực ra, ngài đã hồi phục khỏi căn bệnh rối loạn cảm xúc thời thơ ấu và bắt đầu “trưởng thành như một người khổng lồ.” Năm 14 tuổi, Têrêsa đầy lòng tin tưởng và trở nên thân thiết hơn với Đức Giêsu Chịu Đóng Đinh. Ngài thổn thức về trường hợp tuyệt vọng của một tên trộm bị kết án tử hình, không biết ăn năn hối lỗi. Thánh nhân viết: “Bằng bất cứ giá nào, tôi muốn ngăn cho kẻ trộm này khỏi sa hỏa ngục,” ngài tin chắc rằng những lời cầu nguyện của mình sẽ làm cho anh ta chạm đến Máu Cứu Độ của Đức Giêsu. Đó chính là kinh nghiệm đầu tiên và nền tảng về tình mẫu tử thiêng liêng của ngài. Thánh nhân viết: “Tôi đặt niềm tin lớn lao vào Lòng Xót Thương Vô Tận của Đức Giêsu.” Hiệp cùng Đức Maria Rất Thánh, chị Têrêsa bé nhỏ đã yêu mến, tin tưởng, và cậy trông với “một tâm tình của người mẹ.”[6]
Vào tháng 11 năm 1887, Têrêsa đi hành hương đến Rôma cùng với thân phụ và chị Céline của mình.[7] Thời khắc hạnh phúc đối với ngài là được tiếp kiến đức giáo hoàng Lêô XIII, người mà thánh nhân khẩn xin cho phép mình gia nhập dòng Cát Minh ở Lisieux trong khi chỉ mới mười lăm tuổi. Một năm sau, ước mong của thánh nhân đã được chấp thuận. Ngài đã trở thành một nữ tu Cát Minh, “để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục.”[8]
Cùng thời điểm đó, cha của ngài bắt đầu trải qua một căn bệnh tinh thần trầm trọng và đau đớn. Điều đó khiến Têrêsa đau khổ rất nhiều, dẫn đến việc chiêm niệm về Dung nhan Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn của Người.[9] Vì thế, khi là một nữ tu, chị mang danh hiệu Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Têrêsa Thánh Nhan – diễn tả hành trình cuộc đời của ngài ở trong sự hiệp thông với các mầu nhiệm trọng tâm của Kitô giáo là Nhập Thể và Cứu Chuộc. Têrêsa tuyên khấn đúng vào dịp lễ kính Sinh Nhật Đức Maria, ngày 8 tháng 9 năm 1890, là một hôn lễ thiêng liêng đích thực đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng, được mô tả bằng biểu tượng bông hoa: “Đó là dịp lễ Sinh Nhật Đức Maria. Một ngày lễ tuyệt đẹp vì Têrêsa được trở thành Hiền Thê của Đức Giêsu. Đó chính là cuộc hạ sinh mới của một Trinh Nữ thánh thiện, đã trao tặng bông hoa nhỏ bé cho Hài Nhi Giêsu.”[10]
Đối với Têrêsa, là một nữ tu đồng nghĩa với việc trở nên Hiền thê của Đức Giêsu và là mẹ của các linh hồn.[11] Cũng trong ngày đó, thánh nhân đã viết một lời cầu nguyện diễn tả về toàn bộ định hướng cuộc đời ngài: thánh nhân cầu xin Chúa Giêsu ban cho mình ân huệ tình yêu vô biên của Người, và trên tất cả ngài cầu xin ơn cứu độ cho hết thảy mọi người: “Xin đừng để linh hồn nào hôm nay phải sa hỏa ngục.”[12]
Một biến cố hết sức quan trọng là việc Têrêsa trao hiến trọn vẹn cho Lòng Thương Xót, được thực hiện vào ngày Lễ kính Chúa Ba Ngôi năm 1895.[13] Đó là một sự trao hiến mà Têrêsa chia sẻ trực tiếp với người chị của ngài, lúc ấy đang làm Dì giáo Tập viện.
Mười năm sau “Hồng Ân Giáng Sinh,” năm 1896 là “Hồng Ân Phục Sinh,” khoảng thời gian này mở ra giai đoạn cuối cùng của cuộc đời Têrêsa, bằng những đau khổ đầu tiên trong sự kết hợp mật thiết với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Có thể nói, đó là cuộc khổ nạn nơi thân thể Têrêsa, một căn bệnh nặng mà ngài phải chống chọi, rất đớn đau và dẫn đến cái chết, nhưng đặc biệt hơn nữa là cuộc khổ nạn nơi tâm hồn, một cuộc thử thách đức tin (đêm tối đức tin).[14] Cũng như Đức Maria đã kiên vững đứng kề bên Thánh Giá Chúa, lúc đó Têrêsa đã sống bằng đức tin phi thường nhất, như một luồng ánh sáng trong chốn tăm tối đang xâm chiếm linh hồn ngài. Chị nữ tu Cát Minh nhận thấy rằng, mình đang trải qua cuộc thử thách lớn lao vì ơn cứu độ cho tất cả những người vô thần của thế giới hiện đại, những người mà thánh nhân gọi một cách thân thương là “những người anh chị em của tôi.”
Tiếp đó, Têrêsa đã sống tình huynh đệ một cách mãnh liệt hơn nữa:[15] với các chị em nữ tu trong cộng đoàn, với hai vị truyền giáo – những người anh em tinh thần, với các linh mục, với tất cả mọi người, đặc biệt với những ai đang ở nơi xa nhất. Ngài thực sự đã trở thành một “người chị em” cho mọi người. Lòng bác ái trìu mến và chan hoà là sự biểu lộ cụ thể của một niềm vui thẳm sâu, vốn là bí mật mà Têrêsa tỏ bày: “Ôi Giêsu, niềm vui của con là yêu mến Ngài.”[16] Giữa cơn thử thách lớn lao, Têrêsa đã hoàn trọn ơn gọi của ngài là “trở thành Tình yêu giữa lòng Giáo Hội,” bằng cách thực hiện những điều tầm thường nhất trong đời sống hằng ngày với một tình yêu phi thường, lớn lao.[17]
Têrêsa đã an nghỉ vào buổi tối ngày 30 tháng 9 năm 1897, đang khi ngắm nhìn Thánh Giá Chúa mà ngài nắm chặt trong tay và thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa của con, con yêu mến Ngài!” Những lời sau cùng này là chìa khoá để hiểu toàn bộ đạo lý và những lời chú giải Tin Mừng của thánh nhân; nơi Têrêsa, hành vi yêu mến biểu lộ trong giây phút cuối đời như là hơi thở liên tục của linh hồn và là nhịp đập không ngừng của con tim. Những lời thổ lộ đơn sơ, “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Ngài,” là trọng tâm toàn bộ các tác phẩm của Têrêsa. Hành vi yêu mến dành cho Đức Giêsu làm cho ngài được chìm ngập trong Chúa Ba Ngôi. Thánh nhân viết: “Lạy Chúa Giêsu, Ngài biết con yêu mến Ngài.Thánh Thần Tình Yêu dùng ngọn lửa đốt nóng tâm hồn con, để con yêu mến Ngài. Và chính khi yêu mến Ngài, con được Chúa Cha đoái thương nhìn đến.”[18]
Anh chị em thân mến, cùng với thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, mỗi ngày, chúng ta hãy lặp lại lời thân tình với Chúa rằng, “Lạy Chúa, chúng con muốn sống tình yêu mãnh liệt cho Ngài và cho tha nhân,” muốn học nơi các thánh lối sống yêu thương đích thực và trọn vẹn. Têrêsa là một trong những người bé mọn của Tin Mừng, chấp nhận để Thiên Chúa dẫn đưa vào sự thẳm sâu của các mầu nhiệm cao vời. Chị thánh là mẫu gương cho tất cả chúng ta, đặc biệt cho những người trong cộng đoàn Dân của Thiên Chúa đang đảm nhận sứ vụ là những thần học gia. Với thái độ khiêm tốn và lòng Tin-Cậy-Mến, Têrêsa không ngừng bước vào trọng tâm Kinh Thánh, vốn chứa đựng những mầu nhiệm về Chúa Kitô. Và sự hiểu biết về Kinh Thánh này, lại được nuôi dưỡng thêm bởi khoa học tình yêu, không hề đối chọi với tri thức hàn lâm của thời đại. Thực vậy, khoa học của các thánh, điều mà chính Têrêsa chia sẻ trong những trang cuối của quyển Truyện Một Tâm Hồn, là khoa học cao thượng nhất.
“Tất cả các vị thánh đều hiểu biết sâu sắc và có lẽ, theo một cách đặc biệt, các ngài lấp đầy vũ trụ bằng ánh sáng rực rỡ của những đạo lý Tin Mừng. Chẳng phải thánh Phaolô, thánh Augustinô, thánh Gioan Thánh Giá, thánh Đa Minh, thánh Phanxicô, thánh Tôma Aquinô, và rất nhiều các bạn hữu khác của Thiên Chúa, đã kín múc từ đời sống cầu nguyện một khoa học tuyệt vời vốn hoàn toàn cuốn hút những khối óc vĩ đại nhất đó sao?”[19]
Từ nền tảng Tin Mừng, Têrêsa hiểu rằng bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu của một Thiên Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để nâng chúng ta lên. Trong lá thư cuối, dựa vào một hình ảnh đặc sắc diễn tả Chúa Giêsu Hài Đồng trong Thánh Thể, Têrêsa đã viết những lời đơn sơ này: “Tôi không thể sợ hãi một Thiên Chúa, Đấng đã làm cho chính mình trở nên thấp hèn vì tôi!… Tôi yêu mến Người! Thật vậy, Người không là gì cả ngoài Tình Yêu và Lòng Xót Thương!”[20]
Nơi Tin Mừng, Têrêsa khám phá ra một điều vượt trên tất cả, đó là Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu, và thánh nhân đã nói về Lòng Xót Thương đó như sau: “Chúa Giêsu vẫn hằng trao ban Lòng Xót Thương Vô Biên của Người cho con, và chính ở Lòng Xót Thương Vô Biên không thể diễn tả này, con đã nghiệm thấy mọi phẩm tính khác của Thiên Chúa. Nơi Lòng Thương Xót, tất cả xuất hiện cho con một cách tỏ tường cùng với Tình Yêu. Dường như đối với con, Công lý của Người, hơn mọi thứ còn lại, được bao phủ bởi Tình Yêu.”[21]
Têrêsa bày tỏ chính mình qua những dòng sau cùng trong quyển Truyện Một Tâm Hồn: “Chỉ cần mở các sách Tin Mừng, ngay lập tức con hít lấy hương thơm cuộc đời của Đức Giêsu, và từ đó con biết con đường nào để đi; con không chạy trước nhất nhưng chạy sau cùng … Con cảm thấy rằng ngay khi tất cả mọi tội lỗi của con người … có thể phạm đè nặng trên lương tâm con, con vẫn gieo mình vào vòng tay của Giêsu, Đấng cứu độ con, với con tim tan nát vì hối hận, bởi lẽ con biết rằng Người yêu thương đứa con hoang đàng biết bao khi nó quay trở về với Người.”[22]
Do đó, điểm sau cùng tôi muốn nói về cuộc đời của Têrêsa là “Tín Thác và Yêu mến,” hai từ ngữ này như những ngọn đèn chỉ dẫn, đã soi chiếu toàn bộ hành trình nên thánh của chị nữ tu bé nhỏ, nay cũng có thể hướng dẫn những người khác bước theo con đường bé nhỏ “Tín Thác và Yêu Mến” như tâm tình của một trẻ thơ.[23]
Tín thác, như thái độ của một trẻ thơ, trao phó bản thân cho Thiên Chúa, mà vẫn không tách rời thái độ cương quyết, mạnh mẽ, triệt để của một Tình Yêu đích thực. Niềm tín thác này là thái độ dâng hiến trọn vẹn mãi mãi, như chị thánh đã nói trong lúc suy gẫm về cuộc đời Mẹ Maria: “Tình yêu thì trao ban tất cả, và trao ban chính mình.”[24] Như vậy, chị Têrêsa đã chỉ cho chúng ta tất cả những gì thiết yếu của đời sống Kitô hữu, là phải hoàn trọn những ơn thiêng đã đón hưởng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, qua việc tận hiến cho lòng mến Chúa Cha, để sống như Đức Kitô, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, và cũng hết lòng yêu thương mọi người như Đức Kitô đã yêu.
——————-
[1]Novo Millennio Ineunte, 42.
[2]Ngày 18 tháng 10 năm 2015, đức thánh cha Phanxicô tuyên phong hiển thánh cho song thân của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Hai vị là đôi vợ chồng đầu tiên được phong thánh, đồng thời, nhắc nhớ ơn gọi và sứ mạng của các gia đình trong Giáo Hội cũng như trong thế giới hiện đại.
[3]Ms A 13r.
[4]Ibid., 29v-30v.
[5]Ibid., 44v-45r.
[6] Pr 6/ior.
[7]Ibid., 55v-67.
[8]Ibid., 69v.
[9]Ibid., 71rc.
[10]Ibid., 77r.
[11] Ms B, 2v.
[12] Pr 2.
[13] Ms A, 83v-84r; Pr 6.
[14] Ms C, 4v-7v.
[15] 8r-33v.
[16] P 45/7.
[17] Ms B, 3v.
[18] P 17/2.
[19] Ms C 36r.
[20] LT 266.
[21] Ms A, 84r.
[22] Ms C, 36v-37r.
[23] Ms C, 2v-3r; LT 226.
[24] Maria, lý do con mến yêu Mẹ, P54/22.