Giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh
BÀI 57: LINH MỤC THÁNH HÓA QUA CÁC BÍ TÍCH
Hành động nhân danh Chúa Kitô, Linh mục quản lý các bí tích mang đến cuộc sống ân sủng mới nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Nhiệm vụ của các linh mục trong thừa tác vụ bí tích là chủ đề bài giáo lý của Đức Thánh Cha tại buổi tiếp kiến Chung vào Thứ Tư, 5 tháng Năm. Trong cuộc nói chuyện thứ 57 này trong loạt bài về mầu nhiệm Giáo Hội, Đức Giáo hoàng đã trở lại cuộc thảo luận về nhiệm vụ của linh mục mà ngài đã bắt đầu vào ngày 31 tháng 3. Đây là bản dịch bài diễn văn của Đức Thánh Cha, được viết bằng tiếng Ý.
1. Khi nói về sứ mạng truyền giáo của các linh mục, chúng ta đã thấy rằng trong các bí tích và qua các bí tích, một hướng dẫn có phương pháp và hiệu quả về Lời Chúa và mầu nhiệm cứu độ có thể được ban cho các tín hữu. Trong thực tế, sứ vụ truyền giáo của các linh mục về cơ bản liên quan đến chức vụ thánh hóa qua các bí tích (x. CCC 893). Thừa tác vụ của Lời không thể chỉ giới hạn ở hiệu quả tức thời, đúng đắn của Lời. Theo Công đồng, truyền giáo là điều đầu tiên trong những “nỗ lực tông đồ” mà mục tiêu của chúng là “các công lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người, nhờ đức tin và phép rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau qui tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần Hiến Tế và ăn tiệc của Chúa.” (Sacrosanctum Concilium 10). Và Thượng hội đồng năm 1971 tuyên bố: “Thừa tác vụ của Lời, nếu hiểu đúng, dẫn đến các bí tích và đời sống Kitô hữu, vì được thực hành trong cộng đoàn hữu hình của Giáo Hội và trên thế giới” (x. Ench. Vat., IV, 1179). Bất kỳ nỗ lực nào làm suy giảm tác vụ linh mục đối với việc rao giảng một mình hoặc giảng dạy sẽ hiểu sai khía cạnh thiết yếu của tác vụ này. Công đồng Trentô đã từ chối đề nghị làm cho chức linh mục chỉ đơn thuần là mục vụ rao giảng Tin Mừng (x. DS 1771). Thậm chí gần đây, một số người đã phỉ báng tác vụ của Lời cách không công bằng, nên Thượng hội đồng Giám mục l971 nhấn mạnh giao ước không thể phá vỡ giữa Lời và bí tích. Họ nói: “Các bí tích được cử hành cùng với việc loan báo Lời Chúa và do đó phát triển đức tin bằng cách củng cố bằng ân sủng. Các bí tích không thể được coi là có tầm quan trọng nhỏ, vì thông qua chúng, Lời mang đến hiệu quả đầy đủ hơn, cụ thể hiệp thông trong Mầu nhiệm của Chúa Kitô” (x. Ench. Vat., IV, 1180).
2. Về bản chất đơn nhất của sứ mạng truyền giáo và thừa tác vụ bí tích, Thượng hội đồng 1971 đã không ngần ngại nói rằng sự phân chia giữa truyền giáo và cử hành các bí tích “sẽ chia rẽ trái tim của Giáo hội đến điểm bất ổn đức tin” (x. Ench. Vat., IV, 1181). Tuy nhiên, Thượng hội đồng nhận ra rằng mỗi linh mục có thể có những cách khác nhau để áp dụng nguyên tắc hiệp nhất này một cách cụ thể, “để thực thi tác vụ linh mục trong thực tế cần phải có những hình thức khác nhau để đáp ứng tốt hơn những tình huống đặc biệt hoặc mới mẻ, trong đó Tin Mừng phải được loan báo” (Ench. Vat., IV, 1182). Một áp dụng khôn ngoan nguyên tắc hiệp nhất cũng phải tính đến các đặc sủng có nơi các linh mục. Nếu một số người có tài năng đặc biệt để rao giảng hoặc giảng dạy thì họ nên sử dụng nó vì lợi ích của Giáo Hội. Thật hữu ích khi nhắc lại ở đây trường hợp của thánh Phaolô, mặc dù tin chắc về sự cần thiết của bí tích Rửa Tội và thậm chí thỉnh thoảng quản lý bí tích này, ngài nghĩ rằng mình đã được sai đi rao giảng Tin Mừng và dành hết nỗ lực chủ yếu cho việc rao giảng (x. 1 Cr 1,14,17). Tuy nhiên, trong việc rao giảng chớ làm đánh mất nhiệm vụ thiết yếu là xây dựng cộng đoàn (x. 1Cr 3, 10), mà việc rao giảng này phải phục vụ. Điều này có nghĩa là ngày nay cũng vậy, trong suốt lịch sử của mục vụ, sự phân công lao động có thể nhấn mạnh đến việc rao giảng hoặc thờ phượng và các bí tích, theo khả năng của từng cá nhân và đánh giá tình hình. Tuy nhiên, người ta không bao giờ có thể nghi ngờ rằng đối với các linh mục giảng dạy và rao giảng, ngay cả ở mức độ học thuật và uyên bác nhất, luôn phải giữ mục đích phục vụ thừa tác vụ thánh hóa qua các Bí tích.
3. Trong mọi trường hợp, nhiệm vụ quan trọng của việc thánh hóa được giao phó cho các linh mục không thể được chất vấn. Họ có thể thực thi sứ vụ này trên tất cả trong tác vụ thờ phượng và các bí tích. Không nghi ngờ gì đó chính là công việc chủ yếu mà Chúa Kitô đã thực hiện, như Thượng hội đồng năm 1971 đã chỉ ra: “Ơn cứu độ được thực hiện qua các bí tích, không đến từ chúng ta mà từ Thiên Chúa; điều này thể hiện quyền tối thượng của hành động Chúa Kitô, một linh mục và Người trung gian, trong thân thể của mình, đó là Giáo HỘI” (x. Ench. Vat., IV, 1187; x. Post-Synodal Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis 12). Tuy nhiên, trong nhiệm cục cứu độ hiện nay, Chúa Kitô sử dụng chức linh mục để thánh hóa các tín hữu (x. PO 5). Hành động nhân danh Chúa Kitô, linh mục đạt được hành động bí tích hữu hiệu nhờ Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Chúa Kitô, nguyên tắc và nguồn gốc của sự thánh thiện của “cuộc sống mới”. Đời sống mới mà linh mục truyền bá, nuôi dưỡng, phục hồi và gia tăng thông qua các bí tích là đời sống của đức tin, hy vọng và tình yêu. Đức tin là món quà thiêng liêng cơ bản: “Điều này làm rõ tầm quan trọng lớn lao của sự chuẩn bị và khuynh hướng của đức tin đối với người lãnh nhận các bí tích; nó cũng cho thấy rõ sự cần thiết của một nhân chứng đức tin về phần tác vụ trong cả cuộc đời và đặc biệt là cách người đó coi trọng và cử hành các bí tích” (x. Ench. Vat., IV, 1188). Đức tin được Đức Kitô truyền đạt qua các bí tích không ngừng đi kèm với niềm “hy vọng sống động” (1 Pr 1,3), thấm nhập vào tâm hồn người tín hữu một sự năng động mạnh mẽ của đời sống tâm linh, một sự thúc đẩy hướng về “những gì là thượng giới” (Cl 3,1-2). Mặt khác, đức tin “hoạt động nhờ tình yêu” (Gal 5,6), tình yêu của lòng bác ái, xuất phát từ tâm hồn của Đấng Cứu Chuộc và chảy vào các Bí tích để lan truyền sự sống cho các Kitô hữu.
4. Thừa tác vụ bí tích của các linh mục vì vậy được ban với hoa trái thiêng liêng. Công đồng nhắc lại rõ điều này. Do đó, nhờ bí tích Rửa Tội, “con người thực sự được đưa vào Dân Chúa” (PO 5). Do đó, các linh mục không chỉ có trách nhiệm cử hành nghi thức một cách xứng đáng, mà còn đem đến một sự chuẩn bị tốt, bằng cách rèn luyện người trưởng thành trong đức tin, và liên quan đến trẻ em, bằng cách giáo dục gia đình cộng tác trong việc cử hành. Hơn nữa, “Theo tinh thần của Chúa Kitô, người mục tử phải thúc giục người dân xưng tội với tâm hồn thống hối trong bí tích Hòa Giải … lưu tâm đến lời nói của mình, ‘Hãy sám hối vì Nước Thiên Chúa đã đến gần’ (Mt 4,17)” (PO 5). Vì lý do này, các linh mục cũng phải đích thân sống với thái độ của những người nhìn nhận tội lỗi của chính họ và nhu cầu tha thứ của chính họ, trong sự hiệp thông khiêm nhường và ăn năn với người tín hữu. Do đó, họ có thể diễn tả hiệu quả hơn sự vĩ đại lòng nhân từ của Thiên Chúa và ban sự an ủi trên trời, cũng như sự tha thứ cho người chịu áp lực của gánh nặng tội lỗi. Trong bí tích Hôn Phối, linh mục hiện diện với tư cách là người chịu trách nhiệm cử hành, làm chứng cho đức tin và đón nhận sự đồng ý thay mặt cho Thiên Chúa, đại diện nhân danh thừa tác viên của Giáo Hội. Theo cách này, anh tham dự sâu xa và mạnh mẽ không chỉ trong nghi thức, mà còn ở chiều kích sâu xa nhất của bí tích. Cuối cùng, nhờ việc Xức dầu Bệnh nhân, các linh mục “xoa dịu người đau ốm” (PO 5). Đó là một nhiệm vụ được thánh Giacôbê tiên đoán, ngài đã dạy trong bức thư của mình: “Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa” (Gc 5,14). Sau khi biết rằng bí tích Xức Dầu mang ý nghĩa là “chữa lành” và mang lại sự tẩy rửa và sức mạnh tâm linh, người linh mục sẽ cảm thấy cần phải đảm bảo cho sự hiện diện của mình đem lại cho người bệnh lòng trắc ẩn hữu hiệu của Chúa Kitô và làm chứng cho lòng nhân từ của Chúa Giêsu đối với người bệnh là người mà linh mục đã dành phần lớn sứ mệnh của mình trong việc truyền giáo.
5. Cuộc thảo luận về những khuynh hướng cần thiết khi một người tiếp cận các bí tích, cử hành chúng với ý thức và tinh thần đức tin, sẽ được hoàn thành trong các bài giáo lý, nguyện xin Chúa, chúng ta sẽ dành cho các bí tích. Trong bài giáo lý tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về một khía cạnh khác của sứ vụ linh mục trong thừa tác viên bí tích: việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Bây giờ chúng ta hãy nói rằng đây là yếu tố quan trọng nhất đối với vai trò linh mục trong Giáo Hội, lý do chính yếu cho việc phong chức, mục đích mang lại ý nghĩa và niềm vui cho cuộc sống của người linh mục.