TGH Gioan Phaolô II – BÀI 56: LINH MỤC THI HÀNH CHỨC VỤ RAO GIẢNG

0
836

Giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh

BÀI 56: LINH MỤC THI HÀNH CHỨC VỤ RAO GIẢNG

Linh mục không phải rao giảng lời của chính họ, nhưng là Lời của Thiên Chúa đã được ủy thác cho Giáo hội để tuyên bố Lời trong sự chính trực.

Tại buổi tiếp kiến chung vào Thứ Tư, 21 tháng Tư, Đức Thánh Cha đã trở lại cuộc thảo luận về chức tư tế mà ngài đã bắt đầu vào ngày 31 tháng Ba. Trong bài giáo lý hôm nay, bài thứ 56 trong loạt bài về mầu nhiệm Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng của linh mục. Đây là bản dịch bài diễn văn của Đức Thánh Cha bằng tiếng Ý.

1. Trong Giáo Hội, tất cả chúng ta được mời gọi loan báo Tin mừng về Chúa Giêsu Kitô, truyền đạt đầy đủ hơn bao giờ hết cho các tín hữu (x. Cl 3,16), và làm cho những người không tin được biết Tin Mừng (x. 1 Pr 3, 15). Không một Kitô hữu nào có thể được miễn trừ khỏi nhiệm vụ này xuất phát từ các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức và hoạt động dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, phải tuyên bố ngay rằng việc truyền giáo không chỉ dành cho một lớp người của Giáo Hội. Tuy nhiên, các giám mục là tác nhân chính và lãnh đạo toàn thể cộng đồng Kitô giáo, như chúng ta đã thấy khi thảo luận về họ. Trong công cuộc này, họ được các vị linh mục giúp đỡ, và ở một mức độ nhất định là các phó tế, theo các quy tắc và thực hành của Giáo Hội, cả trong thời sơ khai và trong thời “Tân Phúc âm hóa”.

2. Đối với các linh mục, có thể nói rằng việc loan báo Lời Chúa là nhiệm vụ đầu tiên được thực hiện (x. LG 28; CCC 1564), bởi vì nền tảng của đời sống Kitô hữu cá nhân và cộng đồng là đức tin, kết quả từ Lời của Thiên Chúa và được nuôi dưỡng trên Lời này. Công đồng Vatican II nhấn mạnh sứ mệnh truyền giáo này và liên hệ đến việc hình thành Dân Chúa và quyền của mọi người được đón nhận thông điệp Tin Mừng từ các linh mục. (x. PO 4). Nhu cầu rao giảng được thánh Phaolô nhấn mạnh, và thêm vào lệnh truyền của Chúa Kitô kinh nghiệm của chính mình như là một tông đồ. Trong công cuộc truyền giáo, được thực hiện ở nhiều vùng và bối cảnh, ngài lưu ý rằng mọi người không tin vì chưa ai tuyên bố Tin mừng cho họ. Mặc dù con đường cứu độ đã mở ra cho tất cả mọi người, ngài quan sát thấy rằng mọi người vẫn chưa thể tận dụng lợi thế của nó. Do đó, ngài cũng giải thích nhu cầu rao giảng vì mệnh lệnh của Chúa Kitô: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? 15 Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15). Các Tông đồ đã quan tâm đến việc truyền bá Lời Chúa một cách dồi dào cho những người đã trở thành tín hữu. Chính ngài nói với các tín hữu Thêxalonica: “Anh em biết : chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con ; chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (1 Tx 2,11- 12). Thánh Phaolô khẩn trương hô hào môn đệ Timôthê thực thi sứ vụ này: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu…tôi tha thiết khuyên anh : hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 1-2). “Các linh mục thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ Lời Chúa và giảng dạy” (1 Tim 5, 17).

3. Việc truyền giáo của các linh mục không chỉ là thi hành về Lời nhằm trả lời cho nhu cầu cá nhân để thể hiện bản thân và để truyền đạt tư tưởng của chính mình, cũng không phải cốt ở việc chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Yếu tố tâm lý này, có thể có vai trò giáo huấn – mục vụ, thì không phải là lý do cũng không phải là yếu tố chính trong việc rao giảng. Như nghị phụ của Thượng hội đồng năm 1971 nói: “Những kinh nghiệm của cuộc sống, cho dù là của đàn ông nói chung hay của các linh mục, cần phải được ghi nhớ và luôn được diễn giải dưới ánh sáng của Tin mừng, chứ không thể là duy nhất hay chuẩn mực chính yếu của rao giảng” (Ench. Vat., IV, 1186). Nhiệm vụ rao giảng được Giáo Hội ủy thác cho các linh mục như là một sự thông dự vào trung gian Chúa Kitô, được thực thi với tư cách của linh mục và theo các đòi hỏi của sự ủy thác. Linh mục, “trong mức độ thừa tác vụ của họ mà chia sẻ trong chức vụ của một Đấng trung gian là Chúa Kitô” (1 Tim 2,5) , và loan báo toàn bộ Lời Chúa” (Ench. Vat., IV, 186). Lối diễn đạt này không thể quên để chúng ta mang lại: đó là “Lời Chúa”, do đó không phải là “của chúng ta” và không thể điều khiển, thay đổi hoặc điều chỉnh theo ý muốn, mà phải được công bố toàn bộ. Vì “Lời Chúa” đã được giao phó cho các tông đồ và Giáo Hội, “Mỗi linh mục chia sẻ trách nhiệm đặc biệt là rao giảng toàn bộ Lời Chúa và giải thích theo đức tin của Giáo Hội,” như nghị phụ cũng nói vậy tại Thượng hội đồng năm 1971 (Ench. Vat., IV, 1183).

4. Việc loan báo Lời diễn ra trong mối liên hệ chặt chẽ với các bí tích, qua đó Chúa Kitô truyền đạt và phát triển đời sống ân sủng. Về vấn đề này cũng cần lưu ý rằng một phần tốt của việc rao giảng, đặc biệt là ngày nay, diễn ra trong việc cử hành các bí tích và nhất là trong Thánh lễ. Cũng cần lưu ý rằng việc loan báo đã xảy ra qua việc quản trị các bí tích, cả hai bởi vì sự phong phú về thần học và giáo lý của các bản văn và bài đọc phụng vụ ngày nay trình bày bằng tiếng địa phương và dễ hiểu đối với người dân, và vì trình tự sư phạm của nghi lễ. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì nữa, việc rao giảng phải đi trước, đi kèm và cổ võ việc quản lý của các bí tích thì liên quan đến sự chuẩn bị cần thiết để tiếp nhận bí tích và với hoa trái của bí tích trong đức tin và cuộc sống.

5. Công đồng nhắc lại rằng việc tuyên bố Lời Chúa có tác dụng tạo ra và nuôi dưỡng đức tin, và đóng góp cho sự phát triển của Giáo Hội. Công đồng nói: “chính lời cứu rỗi khơi động đức tin trong tâm hồn những người chưa tin và nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn những người đã tin, nhờ đức tin đó cộng đoàn tín hữu đã khởi sinh và phát triển” (PO 4). Nguyên tắc này phải luôn được ghi nhớ: mục đích loan truyền, củng cố và gia tăng đức tin vẫn phải là nền tảng cho mọi người rao giảng Tin Mừng, và do đó, đặc biệt đối với linh mục là thường được kêu gọi thực thi sứ vụ của Lời. Một bài giảng sẽ là một mớ các chủ đề tâm lý liên quan đến con người, hoặc đưa ra các vấn đề mà không giải quyết chúng, hoặc gây ra những nghi ngờ mà không chỉ ra nguồn ánh sáng Tin Mừng có thể soi sáng con đường cho cá nhân và xã hội, sẽ không đạt được mục đích thiết yếu mà Đấng Cứu Chuộc mong muốn. Thay vào đó, nó sẽ dẫn đến một nguồn gốc gây mất phương hướng cho dư luận và thiệt hại cho chính các tín hữu, người có quyền biết nội dung thực sự của Mạc Khải sẽ bị bỏ qua.

6. Hơn nữa, Công đồng đã chỉ ra bề rộng và nhiều hình thức mà việc loan báo Tin Mừng đích thực có thể thực hiện, theo giáo huấn của Giáo Hội và ủy thác cho các nhà giảng thuyết: “Do đó, các Linh Mục mắc nợ với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm 6 mà các ngài đã nhận được nơi Chúa. Vì thế, dù khi các ngài sống một đời sống tốt lành giữa các dân ngoại để làm cho họ tôn vinh Thiên Chúa, dù khi các ngài công khai giảng thuyết để loan truyền mầu nhiệm Chúa Kitô cho những người chưa tin, dù khi dạy giáo lý Kitô giáo hay giải thích giáo thuyết của Giáo Hội, dù khi chăm lo nghiên cứu những vấn đề thời đại dưới ánh sáng Chúa Kitô: trong mọi trường hợp, phận sự của các ngài không phải là giảng dạy sự thông biết của mình, nhưng là giảng dạy lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh” (PO 4). Sau đó, đây là những cách để dạy Lời Chúa theo Giáo Hội: chứng nhân đời sống của một người có thể giúp chúng ta khám phá sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa và mang lại sức mạnh thuyết phục đối với lời của người giảng thuyết; rao giảng một cách rõ ràng mầu nhiệm Chúa Kitô cho những người không tin; giáo lý và thứ tự, trình bày có hệ thống về  giáo lý của Giáo hội; áp dụng chân lý được mạc khải để đánh giá và giải quyết các trường hợp thực tế. Trong những điều kiện này, việc rao giảng cho thấy vẻ đẹp  và cũng thu hút những người muốn nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa ngày nay.

7. Yêu cầu loan báo trung thực và đầy đủ này không đi trái với nguyên tắc thích nghi rao giảng, điều được Công đồng đặc biệt nhấn mạnh (x. PO 4). Rõ ràng, linh mục trên hết phải tự hỏi mình, với tinh thần trách nhiệm và đánh giá thực tế, liệu những gì mình nói trong bài giảng người nghe có hiểu hay không và liệu nó có ảnh hưởng đến cách suy nghĩ và cách sống của họ hay không. Linh mục cũng nên cố gắng nắm bắt những lời rao giảng của riêng mình, những nhu cầu khác nhau của người nghe và những lý do khác nhau mà họ tụ họp lại và tìm kiếm sự giúp đỡ của linh mục. Rõ ràng linh mục nên biết và nhận ra tài năng của mình và sử dụng chúng để tạo lợi thế tốt, không thể hiện (đơn giản là điều này sẽ phá hủy uy tín của linh mục với người nghe), nhưng tốt hơn là mang Lời Chúa đến tâm trí và tâm hồn con người. Tuy nhiên, hơn cả những tài năng thiên bẩm nhà giảng thuyết phải cầu xin cho những đặc sủng siêu nhiên mà lịch sử của Giáo hội và lịch sử về tài hùng biện thần thánh mà rất nhiều nhà giảng thuyết thánh thiện trình bày. Linh mục sẽ cảm thấy bắt buộc phải xin Chúa Thánh Thần ban cho cách nói hiệu quả, hành động và đối thoại phù hợp với khán giả của mình. Tất cả điều này cũng đúng cho tất cả những người thực thi chức vụ của Lời bằng cách viết, xuất bản, và bằng phát thanh và truyền hình. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông này cũng đòi hỏi người giảng thuyết, thuyết trình viên, nhà văn, nhà giải trí tôn giáo và đặc biệt là linh mục nhờ vào và cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí và tâm hồn.

8. Theo chỉ thị của Công đồng, Lời Chúa cần được loan báo trong tất cả các lĩnh vực và mọi cấp độ trong xã hội, cũng tính đến những người không tin – điều này có nghĩa là những người vô thần thực sự hoặc thường là trường hợp bất khả tri, dửng dưng hoặc không chú ý. Để thu hút họ, cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp hơn. Ở đây một lần nữa người ta chỉ cần chỉ ra vấn đề nghiêm trọng và phải được giải quyết với lòng nhiệt thành thông minh và một thái độ bình tĩnh. Có thể hữu ích cho Linh mục khi nhớ những lời khôn ngoan của Thượng hội đồng năm 1971 nói: “Bởi việc rao giảng Tin Mừng, thừa tác viên của Lời cần chuẩn bị những cách thức của Chúa với sự kiên nhẫn và đức tin to lớn, tuân thủ các điều kiện khác nhau của các cá nhân và cuộc sống của người dân” (Ench. Vat., IV, 1184). Cần luôn cầu xin ân sủng của Chúa và của Thánh Thần, vị quản gia thần thiêng, anh sẽ được cảm nhận mạnh mẽ hơn nữa trong tất cả các trường hợp (ít nhất là thực tế) vô thần, thuyết bất khả tri, vô tri và thờ ơ tôn giáo, đôi khi là thành kiến thù địch và thậm chí là hận thù, điều đó cho thấy linh mục làm sao thích hợp khi dùng cách thức của con người để mở rộng các tâm hồn đến với Thiên Chúa. Sau đó, hơn bao giờ hết, anh sẽ trải nghiệm “huyền nhiệm của hai bàn tay trắng”, như đã được gọi. Nhưng vì lý do này, anh sẽ nhớ rằng thánh Phaolô, gần như bị đóng đinh bởi những kinh nghiệm tương tự, luôn tìm thấy sự can đảm mới trong “quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” hiện diện trong Chúa Kitô (x. 1Cr 1, 18-29), và thánh nhân nhắc nhở người Côrintô: “Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa”(1 Cr 2,3-5). Có lẽ đây là viaticum- của ăn đàng quan trọng cho nhà giảng thuyết ngày nay.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here