TGH Gioan Phaolô II – BÀI 53: NGƯỜI KẾ VỊ THÁNH PHÊRÔ DẠY KHÔNG SAI LẦM

0
1035

Giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh

BÀI 53: NGƯỜI KẾ VỊ THÁNH PHÊRÔ DẠY KHÔNG SAI LẦM

Huấn quyền đặc biệt của Đức Giáo Hoàng được thực thi khi ngài vượt qua cuộc thẩm vấn long trọng về các điểm giáo lý thuộc về kho tàng của đức tin

Huấn quyền đặc biệt của Đức Giáo Hoàng được thực thi khi ngài vượt qua cuộc thẩm vấn long trọng về các điểm giáo lý thuộc về kho tàng của đức tin. Ơn trợ giúp mà Thiên Chúa ban cho Đức Giáo là chủ đề bài giáo lý của Đức Thánh Cha trong buổi tiếp kiến Chung vào thứ Tư, 17 tháng Ba. Đây là bản dịch bài phát biểu bằng tiếng Ý của Đức Thánh Cha, bài thứ 53 trong loạt bài về mầu nhiệm của Giáo Hội.

1. Quyền giáo huấn của Giám mục Rôma, mà chúng tôi đã giải thích trong bài giáo lý trước, có liên quan đến và đánh dấu đỉnh cao của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng mà Chúa Giêsu giao phó cho các Tông đồ và những người kế vị. Chúng ta đọc trong hiến chế tín lý Lumen gentium của Công đồng Vaticanô II: “Rao giảng Tin Mừng là nhiệm vụ hàng đầu trong các nhiệm vụ chính yếu của các Giám mục. Thật vậy, các Giám mục là những người loan truyền đức tin để đem nhiều môn đệ mới về với Đức Kitô, là những thầy dạy đích thực, nghĩa là được ban quyền bính của Đức Kitô, để rao giảng cho đoàn dân đã được trao phó cho các ngài đức tin họ phải lãnh nhận và đem áp dụng vào cách sống, và để soi tỏ đức tin ấy dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, khi rút ra những cái mới cái cũ từ kho tàng mạc khải (x. Mt 13,52), các ngài làm cho đức tin trổ sinh hoa trái, và luôn tỉnh thức loại bỏ mọi lầm lạc đang đe dọa đoàn chiên mình (x. 2 Tm 4,1-14). Các Giám mục khi dạy dỗ trong sự thông hiệp với Giám mục Rôma, phải được mọi người kính trọng như những chứng nhân của chân lý thần linh và công giáo; phần các tín hữu phải tùng phục phán quyết của Giám mục về đức tin và phong hoá được công bố nhân danh Đức Kitô, cũng như phải gắn bó với ngài bằng thái độ tuân phục trong tinh thần đạo đức” (số 25).

Người kế vị của Phêrô được hưởng sự trợ giúp đặc biệt

Phận vụ giáo huấn của các Giám mục, do đó được gắn chặt với phận vụ của Đức Giáo Hoàng. Bởi thế, bản văn Công đồng tiếp tục phù hợp để nói: “Mọi người phải lấy ý chí và lý trí kính cẩn tuân phục một cách đặc biệt những giáo huấn chính thức của Giáo Hoàng Rôma, dù khi ngài không tuyên bố từ ‘ex cathedra’. Như vậy là kính trọng, nhận biết giáo huấn tối thượng và chân thành chấp nhận các phán quyết của ngài theo đúng tư tưởng và ý muốn ngài trình bày, đặc biệt biểu lộ qua tính chất các tài liệu, hoặc qua việc ngài nhiều lần đề nghị một đạo lý hay qua cách diễn tả của ngài” (sđd).

2. Thẩm quyền tối cao này của Huấn quyền Giáo Hoàng đã được lưu truyền vào thời của các tông đồ, thậm chí trong việc thực thi thông thường xuất phát từ thực tại thể chế rằng Giám mục Rôma là Người kế vị của thánh Phêrô trong sứ mệnh giảng dạy, củng cố anh em của mình, bảo đảm lời rao giảng của Giáo Hội phù hợp với “kho tàng đức tin” của các Tông đồ và với giáo huấn của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thẩm quyền này cũng xuất phát từ niềm xác tín, được phát triển trong truyền thống Kitô giáo rằng Giám mục Rôma cũng là người thừa kế của thánh Phêrô trong đặc sủng sự trợ giúp đặc biệt mà Chúa Giêsu đã hứa với thánh Phêrô khi Chúa Giêsu nói: “Thầy đã cầu nguyện cho anh” (Lc 22,32). Điều này biểu thị ơn trợ giúp không ngừng của Chúa Thánh Thần trong toàn bộ thi hành sứ vụ giảng dạy, nhằm giải thích chân lý được mạc khải và những tầm quan trọng của nó trong đời sống nhân loại. Vì lý do này, Công đồng Vatican II tuyên bố rằng tất cả các giáo huấn của Giáo Hoàng cần được lắng nghe và chấp nhận, ngay cả khi nó không được tuyên bố từ ex cathedra nhưng được đề nghị trong sự thi hành thông thường quyền giáo huấn của ngài với định hướng rõ ràng là tuyên bố, nhắc nhở, xác nhận giáo lý đức tin. Đó là kết quả của thực tại thể chế và sự kế thừa tinh thần hoàn thành các chiều kích của sự kế vị thánh Phêrô.

3. Như bạn đã biết, có những trường hợp huấn quyền của Giáo Hoàng được thi hành một cách long trọng các điểm giáo lý đặc biệt thuộc về kho tàng của Mạc khải hoặc được liên kết chặt chẽ với Mạc khải. Đây là trường hợp với các tuyên bố tín điều từ ‘ex cathedra’, chẳng hạn như tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, được Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố vào năm 1854, và tín điều Đức Maria được đưa lên trời, được Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố vào năm 1950. Như chúng ta biết, những tuyên bố tín điều này đã cung cấp cho tất cả Người Công giáo với sự chắc chắn trong việc khẳng định những chân lý và loại trừ mọi nghi ngờ trong vấn đề này. Nguyên nhân cho các tuyên bố từ ex cathedra hầu như luôn luôn đưa ra chứng nhận này đối với các chân lý được cho là thuộc về “kho tàng đức tin” và để loại trừ mọi nghi ngờ, hoặc thậm chí lên án sai lầm về tính chính thống và ý nghĩa của chúng. Do đó, đây là sự tập trung lớn nhất và cũng rõ ràng nhất của sứ vụ giáo lý mà Chúa Giêsu trao cho các Tông đồ và, trong con người của họ, trên những người kế vị.

4. Quyền giáo huấn đưa ra tầm quan trong và vĩ đại đại đặc biệt dành cho đức tin mà truyền thống Kitô giáo đã thừa nhận nơi người kế vị thánh Phêrô, thực thi với tư cách cá nhân hay trong hiệp thông với các giám mục được nhóm họp trong Công đồng, một đặc sủng từ Chúa Thánh Thần thường được gọi là “không thể sai lầm”.

Cả công đồng Vatican I và II đều dạy về ơn bất khả ngộ của Giáo Hoàng

Đây là những gì Công đồng Vatican I đã nói: “Khi Giáo hoàng Rôma lên tiếng từ ex cathedra, nghĩa là trong khi thực thi chức vụ của mình với tư cách là mục tử và là thầy dạy của tất cả các Kitô hữu, ngài xác định quyền tông đồ tối cao của mình rằng một đạo lý về đức tin và luân thường đạo lý được toàn thể Giáo Hội giữ vững, thông qua sự trợ giúp thần linh đã hứa với ngài nơi con người của thánh Phêrô, ngài hưởng ơn bất khả ngộ mà Chúa Cứu Thế muốn ban cho Giáo Hội trong việc xác định một đạo lý đức tin và luân thường đạo lý: do đó, những tuyên bố tín điều của Đức Giáo Hoàng là không thể sửa đổi mỗi per se, và không phải vì sự chấp thuận của Giáo Hội” (DS 3074).

Đạo lý này một lần nữa được đưa ra, được xác nhận và giải thích thêm do Công đồng Vatican II tuyên bố: “Giám Mục Roma, vị thủ lãnh của Giám Mục Ðoàn hưởng ơn bất khả ngộ đó do nhiệm vụ của Ngài khi với tư cách là mục tử và tiến sĩ tối cao của mọi Kitô hữu, ngài củng cố anh em mình vững mạnh trong đức tin (x. Lc 22,32). Các ngài tuyên bố giáo thuyết về đức tin và phong hóa bằng một phán quyết chung thẩm. Vì thế, các phán quyết của ngài tự nó, chứ không do sự chấp thuận của Giáo Hội, phải được coi là không thể sửa đổi, vì đó là những phán quyết được công bố dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, mà Chúa đã hứa ban cho ngài qua thánh Phêrô nên không cần ai khác chấp thuận và không nại tới phán đoán nào khác. Khi đó Giáo Hoàng Roma không phán quyết với tư cách cá nhân, nhưng trình bày và bảo vệ giáo thuyết đức tin công giáo với tư cách là thầy dạy tối cao của toàn thể Giáo Hội; nơi ngài đặc biệt có ơn bất khả ngộ của chính Giáo Hội, ngài bảo vệ và phát triển toàn đạo lý đức tin Công giáo” (Lumen gentium, n. 25).

5. Cần lưu ý rằng Công đồng Vatican II cũng kêu gọi mọi người lưu ý đến Huấn quyền của các giám mục trong việc kết hợp với Giám mục Rôma, nhằm nhấn mạnh rằng các giám mục cũng hưởng sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần khi họ xác định một điểm đức tin trong mối liên kết với Người kế vị thánh Phêrô: “Tuy từng Giám mục riêng rẽ không được hưởng đặc ân bất khả ngộ, … nhưng khi vị Giám mục Rôma hoặc Giám mục đoàn cùng với ngài định tín một giáo lý, các ngài tuyên bố điều ấy hợp với chính mạc khải mà mọi người buộc phải tuân giữ và qui phục, được truyền lại trọn vẹn hoặc dưới hình thức văn bản hoặc theo truyền khẩu nhờ sự kế vị hợp pháp của các Giám mục và nhất là nhờ sự quan tâm cảnh giác của chính vị Giám mục Rôma, nhờ Thần Khí sự thật soi sáng, mạc khải ấy được giữ gìn cách cẩn trọng và trình bày cách trung thành” (Lumen gentium, số 25)

Các giám mục giảng dạy không sai lầm trong sự hiệp nhất với  Đức Giáo Hoàng

Công đồng cũng nói: “Tuy mỗi Giám Mục riêng rẽ không có đặc quyền bất khả ngộ, nhưng dù tản mác khắp thế giới, nếu thông hiệp với nhau và với đấng kế vị thánh Phêrô, các ngài cùng đồng ý dạy cách chính thức những điều thuộc đức tin và phong hóa là tuyệt đối buộc phải giữ, thì lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo thuyết của Chúa Kitô. Ðiều đó còn rõ ràng hơn, khi hợp nhau trong Công Ðồng Chung, các ngài là những tiến sĩ và thẩm phán về đức tin và phong hóa cho toàn thể Giáo Hội. Phải tuân theo các định tín của các ngài với một lòng vâng phục và với tinh thần đức tin. Chúa Cứu Thế đã muốn Giáo Hội Người bất khả ngộ khi xác định giáo thuyết về đức tin và phong hóa; ơn bất khả ngộ đó có phạm vi rộng rãi tùy theo kho tàng Mạc Khải” (Lumen gentium, số 25).

6. Trong các bản văn công đồng, có sự mã hóa khi bản văn thuộc về nhận thức mà các Tông đồ đã có khi họ nhóm họp tại Giêrusalem: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15,28). Nhận thức này đã xác nhận lời hứa của Chúa Giêsu sẽ gửi Thánh Thần chân lý đến với các Tông đồ và Giáo hội một khi Chúa Giêsu đã trở về với Chúa Cha sau hiến tế trên thập giá: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14,26). Lời hứa đó được thực hiện tại Lễ Hiện Xuống và các Tông đồ tiếp tục cảm nhận trong chính cuộc sống. Giáo Hội đã thừa kế nhận thức và kí ức từ các Tông đồ..

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here