Giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh
BÀI 110. GIÁO HỘI CHIA SẺ HY VỌNG CỦA GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI
Mặc dù về cơ bản hướng đến một tương lai cánh chung, Giáo hội chia sẻ trách nhiệm của con người trong việc xây dựng một xã hội định hướng tốt.
1. Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội đặt ra câu hỏi về mối quan hệ với thế giới. Vấn đề này đã được giải quyết bởi Công đồng Vatican II, đặc biệt là trong Hiến chế Gaudium et spes. Chúng tôi cũng đã đề cập đến một số khía cạnh của mối quan hệ này trong các bài giáo lý trước đây liên quan đến vai trò của giáo dân trong cuộc sống của Giáo hội. Bây giờ, khi kết thúc bài giáo lý dành riêng cho hoạt động truyền giáo của Giáo hội, chúng tôi muốn hệ thống một vài đường hướng, tốt hơn là minh họa khuôn khổ chung sứ mệnh của Giáo Hội, chính xác là liên quan đến thế giới nơi Giáo Hội hiện diện và truyền thông ân sủng thiêng liêng và sự cứu rỗi.
Trước hết, cần nhớ rằng Giáo hội “có mục đích cứu rỗi và cánh chung. Mục đích này chỉ có thể thành tựu trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến” (GS, số 40). Do đó, chúng ta không thể hy vọng năng lực của Giáo Hội thu hút chủ yếu hay duy nhất nhờ các nhu cầu và vấn đề của thực tại trần thế. Cũng không thể đánh giá đúng hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay, như trong những thế kỷ trước, bằng cách nhìn vào chỉ từ góc độ của kết thúc tạm thời hay sự thịnh vượng vật chất của xã hội. Định hướng về thế giới tương lai là điều cần thiết với Giáo hội. Giáo hội biết mình bị bao quanh bởi thế giới hữu hình, nhưng Giáo hội nhận ra cần phải quan tâm tới mối tương quan với Vương quốc vô hình và vĩnh cửu mà Giáo hội đã hiện diện cách mầu nhiệm (x. LG, 3), và diễn tả đầy đủ khao khát nồng cháy. Sự thật cơ bản này được thể hiện rất rõ trong châm ngôn truyền thống “Per visibilia ad invisibilia” (thông qua thực tế hữu hình đến vô hình).
Giáo hội biết mình là linh hồn của xã hội
2. Trên trần gian, Giáo hội hiện diện như gia đình của con cái Chúa “được thành lập và tổ chức như một cộng đồng xã hội trên trần gian” (LG, 8). Đây là lý do tại sao Giáo hội cảm thấy mình cần chia sẻ trong các sự kiện của con người trong tình liên đới với toàn nhân loại. Khi Công đồng nhắc lại, Giáo Hội “đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần thế với thế giới” (GS, 40). Điều này có nghĩa là Giáo hội kinh qua những thử thách và khó khăn của các thành viên trong các quốc gia, cá nhân gia đình khi Giáo hội chia sẻ trong hành trình gian khổ của nhân loại trên con đường lịch sử. Để đối phó với các mối quan hệ của Giáo hội với thế giới, Công đồng Vatican II khởi đầu đúng đắn với việc Giáo hội chia sẻ trong “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của những con người trong thời đại chúng ta (GS, 1). Đặc biệt ngày nay việc chia sẻ này đã trở nên đặc biệt mãnh liệt và sâu sắc vì kiến thức phổ quát mới về các điều kiện thực tế của thế giới.
3. Công đồng cũng tuyên bố rằng Giáo hội không giới hạn mình trong việc chia sẻ nhiều điều trong thời đại chúng ta cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nhưng nhằm biểu thị đặc điểm kinh nghiệm nhân loại. Thật vậy, Giáo hội biết rằng mình “như men và hồn của xã hội loài người, sẽ được đổi mới trong Chúa Kitô và biến thành gia đình của Thiên Chúa” (GS, 40). Được khích lệ bởi hơi thở của Chúa Thánh Thần, Giáo hội muốn ghi khắc một nỗ lực mới trong xã hội, để làm thành một cộng đồng tinh thần, và càng là một xã hội hữu hình trật tự và hạnh phúc nhất càng tốt. Như thánh Tôma Aquinô đã nói, một câu hỏi về việc dẫn dắt đàn ông “sống tốt”, sống “phù hợp với các đức tính”. Đây là bản chất tốt đẹp chung của trần gian mà mọi công dân nên hướng đến dưới sự hướng dẫn của Chính phủ, nhưng làm việc với cái nhìn về kết thúc cuối cùng, mà các Mục tử và toàn thể Giáo hội dẫn đường cho các cá nhân và dân tộc (xem De regimine Princum, x.1, 14, 15).
Hoàn toàn đúng dưới ánh sáng của “sự tốt tối cao” quy định tất cả sự tồn tại của loài người, ngay cả đối với “mục đích trung gian” (x. Sđd., Ch.15), Giáo hội “tin tưởng có thể đóng góp nhiều vào việc biến đổi gia đình và lịch sử loài người trở nên nhân đạo hơn” (GS, 40). Giáo hội tự đóng góp bằng việc thăng tiến phẩm giá của con người và những ràng buộc cá nhân và dân tộc cũng như bằng cách nhấn mạnh ý nghĩa tinh thần của công việc hàng ngày trong kế hoạch sáng tạo vĩ đại và sự phát triển tự do của con người.
4. Công đồng tuyên bố rõ ràng rằng Giáo hội là một trợ giúp tuyệt vời cho con người. Khởi đầu, Giáo hội mạc khải cho mỗi người về chân lý của sự tồn tại và định mệnh của họ. Sau đó, Giáo hội chỉ cho mỗi người thấy Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất có thể đáp ứng được các ước vọng sâu xa nhất của lòng người, “Đối với thế giới và những gì thế giới đem lại có thể không bao làm thỏa lòng” (GS, 41). Hơn nữa, Giáo hội bảo vệ mọi người, nhờ vào Tin Mừng được giao phó, với lời tuyên bố về “các quyền cơ bản của con người và gia đình” (GS, 42) và với những tác động có lợi trong xã hội, do đó Giáo hội sẽ tôn trọng các quyền này và bắt đầu thay đổi tất cả những hoàn cảnh mà họ đã bị xâm phạm tỏ tường.
Cuối cùng, Giáo hội làm sáng tỏ và cũng tuyên bố các quyền của gia đình, liên kết không thể phủ nhận với những người cá nhân và được con người yêu cầu như vậy. Ngoài việc bảo vệ phẩm giá của con người trong mọi giai đoạn của cuộc đời, Giáo hội không bao giờ ngừng nhấn mạnh giá trị của gia đình, mà mọi người đàn ông và phụ nữ đều thuộc về bản chất. Trên thực tế, có một mối tương quan sâu sắc tồn tại giữa quyền của người đó và của gia đình: không thể bảo vệ cá nhân cách hiệu quả nếu không có sự tham khảo rõ ràng về bối cảnh gia đình của họ.
Mặc dù Giáo hội có sứ mệnh không thuộc “trật tự chính trị, kinh tế hay xã hội” mà là “một tôn giáo” (GS, 42). Giáo Hội cũng thực hiện một hoạt động có lợi cho xã hội. Hoạt động này được thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Giáo hội tổ chức kế hoạch phục vụ tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo và thúc đẩy “xã hội hóa lành mạnh, và hợp tác kinh tế và dân sự” (GS, 42). Giáo hội cố gắng thuyết phục đàn ông vượt qua bất đồng giữa các chủng tộc và các quốc gia để khuyến khích sự hiệp nhất ở cấp độ quốc tế và thế giới, trong khả năng có thể ủng hộ và duy trì các tổ chức quen thuộc với mục đích đem lại lợi ích chung.
Món quà lớn nhất là sự sống thần linh trong Chúa Kitô
Giáo hội hướng dẫn và khuyến khích hoạt động của con người (x. GS, 43) và thúc đẩy các Kitô hữu cống hiến năng lực của họ trong mọi lĩnh vực vì lợi ích của xã hội. Giáo hội khuyên họ hãy noi gương Chúa Kitô, công dân của Nazareth, để tuân giữ giới luật tình yêu với người lân cận, hoàn thành lời khuyên của Đức Giêsu là làm cho tài năng phát triển (x. Mt 25,14-30). Giáo hội cũng khuyến khích mọi người đóng góp sức riêng cho những nỗ lực khoa học và kỹ thuật của xã hội loài người; được tham gia vào hoàn cảnh của chính họ với tư cách là giáo dân trong các hoạt động tạm thời (x. GS, 42), vì sự tiến bộ của văn hóa, thúc đẩy công lý và hòa bình thực sự.
5. Trong mối tương quan với thế giới, Giáo hội không chỉ cung cấp mà còn nhận được sự trợ giúp và đóng góp từ các cá nhân, các nhóm và các đoàn thể. Công đồng công nhận điều này một cách cởi mở: “Cũng như thế giới cần phải nhìn nhận Giáo Hội như một thực thể xã hội lịch sử và như men của lịch sử, Giáo Hội cũng biết mình đã nhận được rất nhiều nơi lịch sử và sự tiến hóa của nhân loại” (GS, 44).
Do đó, một “liên lạc và trao đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc” (Sđd.) diễn ra. Giáo hội truyền giáo, đặc biệt là trong nhiệm vụ rao giảng Tin mừng luôn sử dụng ngôn ngữ, khái niệm và văn hóa của các dân tộc khác nhau; và từ những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội đã tìm thấy sự khôn ngoan của các nhà triết học, những “semina Verbi” là một sự chuẩn bị đúng đắn và phù hợp cho việc loan báo Tin Mừng rõ ràng. Nhận thức rõ rằng Giáo hội nhận được rất nhiều từ thế giới, vì thế Giáo hội tuyên bố lòng biết ơn của mình, nhưng không mất đi nhận thức về ơn gọi truyền giáo và khả năng ban cho nhân loại món quà lớn nhất và cao nhất thế giới có thể nhận được: cuộc sống thiêng liêng trong Chúa Kitô, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt đến với Chúa Cha. Đây là bản chất của tinh thần truyền giáo mà Giáo hội đi ra thế giới và tìm cách gần gũi với thế giới trong mối hiệp thông của đời sống.