Giáo lý về mầu nhiệm Hội Thánh
Bài 106. SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG VẪN MANG TÍNH CẤP THIẾT
Thông điệp của Đức Kitô là nguồn mạch chân lý cho mọi người, bất kể chủng tộc hay văn hóa. Vì vậy, Tin Mừng cần phải được loan báo cho mọi quốc gia.
1. Chúng ta hãy tiếp tục suy tư mà chúng ta đã bắt đầu trong bài giáo lý trước về những phản đối và nghi ngờ giá trị của hoạt động truyền giáo, và đặc biệt về mục tiêu truyền giáo.
Không thiếu những người muốn diễn giải hoạt động truyền giáo như một nỗ lực áp đặt niềm tin và lựa chọn của chính mình lên người khác, trái ngược với một tinh thần hiện đại đang tự hào tự do tuyệt đối trong tư tưởng và lương tâm cá nhân như một thành tích.
Theo quan điểm này, hoạt động truyền giáo phải nhường chỗ cho cuộc đối thoại liên tôn, bao gồm một cuộc trao đổi ý kiến và thông tin mà mỗi bên đưa ra “tín điều” của riêng mình và được làm giàu bằng suy nghĩ của người khác, không quan tâm đến việc tìm kiếm phần kết luận. Điều này đòi hỏi các Kitô hữu từ bỏ việc hướng dẫn những người ngoài Kitô giáo theo con đường Tin Mừng, không đề xuất hoặc khuyến khích cải đạo, và loại trừ triển vọng của bí tích Rửa tội. Do đó, cách thức cứu rỗi theo sau giáo dục và nền tảng tôn giáo của chính cá nhân sẽ được tôn trọng. (x. RM, 4)
Giáo Hội có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng
2. Nhưng một khái niệm như vậy dường như không phù hợp với sự ủy thác của Chúa Kitô cho các Tông đồ (x. Mt 28,19-20; Mc 16,15) được truyền lại cho Giáo Hội, và với Giáo Hội chân chính mà Công đồng Vaticanô II đã đề cập để thể hiện nhu cầu hoạt động truyền giáo rõ ràng. Vấn đề là một số sự thật nền tảng: Thiên Chúa mong muốn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đức Giêsu là “Đấng Trung Gian duy nhất”, Đấng “tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,5), vì “ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ” (Cv 4,12). “Vì thế, khi đã nhận biết Chúa Kitô nhờ lời Giáo Hội giảng dạy, mọi người phải thống hối và chịu phép Rửa Tội để được thuộc về Người và Giáo Hội là Thân Thể Người. Thật vậy, “khi minh nhiên công bố sự cần thiết của đức tin và của phép Thánh Tẩy. Chúa Kitô đã cùng lúc xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội mà mọi người phải bước vào qua khung cửa bí tích Thánh Tẩy” (AG, 7).
Công đồng nói đến những lời của Đức Giêsu về nhiệm vụ truyền giáo được giao cho các Tông đồ. Đồng thời, khi minh nhiên công bố sự cần thiết của đức tin và của bí tích Rửa tội (x. Mc 16,16; Ga 3,5), Chúa Kitô đã cùng lúc xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội mà mọi người phải bước vào và bền chí nếu muốn được ơn cứu độ (x. AG, 7). Sự cần thiết của đức tin, được đón nhận qua lời rao giảng của Giáo Hội, liên quan đến ơn cứu độ, không phải là sự suy diễn thần học mà là giáo lý được Chúa mặc khải. Tính cấp thiết của hoạt động truyền giáo thông qua việc rao giảng Tin Mừng và thực hiện phép Rửa bắt nguồn từ đó và bảo đảm việc gia nhập vào sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo huấn truyền thống của Giáo Hội làm sáng tỏ tính không nhất quán và hời hợt của thái độ tương đối và thỏa hiệp liên quan đến phương thế cứu độ trong một tôn giáo khác với đức tin vào Chúa Kitô.
3. Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta phải tin vào đường lối được ẩn giấu tồn tại trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho những người, không do lỗi của họ, không thể gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên, người ta không thể, nhân danh những cách này, làm chậm hoặc từ bỏ hoạt động truyền giáo. Về chủ đề này, Công đồng nhận xét: “Tuy dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối chỉ riêng Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa nhận được Tin Mừng đến với đức tin, vốn rất cần thiết để làm đẹp lòng Ngài (x. Dt 11,6), nhưng Giáo Hội có bổn phận, đồng thời cũng được Chúa trao quyền loan báo Tin Mừng, do đó, hoạt động truyền giáo hôm nay và mãi mãi vẫn luôn thật sự cấp bách và cần thiết” (AG, 7).
4. Công đồng giải thích các lý do cho sự “cấp bách và cần thiết” của hoạt động truyền giáo liên quan đến đời sống của Giáo Hội. “Nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể Chúa Kitô không ngừng liên kết và phối hợp mọi năng lực giúp cho toàn thân được tăng trưởng (x. Ep 4,11-16) ”. Để thực thi công cuộc truyền giáo, các chi thể của Giáo Hội “phải được đức ái thúc đẩy, nhờ đó họ yêu mến Thiên Chúa và ước ao chia sẻ cho mọi người các ơn phúc thiêng liêng đời này cũng như đời sau”. Thiên Chúa sẽ được muôn đời tôn vinh bởi vì qua hoạt động truyền giáo “con người ý thức đón nhận trọn vẹn công trình cứu chuộc đã được hoàn tất trong Chúa Kitô”. Do đó, kế hoạch của Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã vâng phục được thực hiện: “qui tụ toàn thể nhân loại thành đoàn Dân duy nhất của Thiên Chúa, kết thành thân thể duy nhất của Chúa Kitô, và xây nên đền thờ duy nhất của Chúa Thánh Thần” (AG, 7).
Truyền thống giáo phụ, được trích dẫn bởi Công đồng Vaticanô II, đã chú ý đến hoạt động truyền giáo thực sự hoàn tất kế hoạch của Đấng Tạo Hóa. Nó sẽ được thực hiện “khi toàn thể nhân loại, được tái sinh trong Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa, cùng đồng thanh cất tiếng: ‘lạy Cha chúng con’”. Nhưng đồng thời, việc truyền giáo “đáp ứng khát vọng sâu xa của toàn thể nhân loại” (AG, 7), chúng ta có thể nói là người ít nhiều có ý thức và gần như theo bản năng, tìm kiếm Thiên Chúa, tình huynh đệ, hòa bình, cuộc sống vĩnh cửu. Hoạt động truyền giáo nhắm chính xác vào tất cả điều này.
Giá trị Tin Mừng làm giàu cho nhân loại
5. Trong số những khát vọng cơ bản của con người mà hoạt động truyền giáo của Giáo Hội mang lại ánh sáng mạc khải của Chúa Kitô, chân lý đích thực về con người và thân phận của chính họ. Công đồng tuyên bố: “khi bày tỏ Chúa Kitô, Giáo Hội mạc khải cho con người giúp cho con người nhận biết chân lý đích thực về thân phận và ơn gọi toàn diện của họ, vì Người chính là nguyên lý và là mẫu mực của nhân loại được đổi mới, một nhân loại thấm nhuần tình yêu thương huynh đệ, thái độ chân thành và tinh thần hòa bình mà mọi người đều khao khát. Chúa Kitô và Giáo Hội, chứng nhân của Người qua việc rao giảng Tin Mừng, siêu vượt trên mọi dị biệt về dân tộc và quốc gia, vì thế, cả hai không thể coi là xa lạ đối với bất cứ ai hay tại bất cứ nơi nào” (AG, 8).
Những gì chúng ta đã nhiều lần chỉ ra phải được lặp lại ở đây: chân lý của Tin Mừng không được liên kết với một quốc gia hay nền văn hóa cụ thể nào; đó là chân lý của Chúa Kitô soi sáng mọi người bất kể truyền thống hay chủng tộc. Đây là lý do tại sao nó cần thiết phải được loan báo cho toàn thể nhân loại: “Việc rao giảng Tin Mừng đã tỏ cho mọi người biết Chúa Kitô là đường và là sự thật…” (AG, 8).
6. Chúng ta có thể tóm kết phần suy tư hôm nay qua việc khẳng định tính hợp lệ của các sứ vụ và hoạt động truyền giáo cho thời đại của chúng ta, như một cách thế tuyệt vời để thực hiện sứ vụ của Giáo Hội là rao giảng về Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Chuộc con người. Thật vậy, thông qua hoạt động truyền giáo, Giáo Hội mang quyền năng cứu độ của Chúa Kitô đến cho toàn bộ nhân loại, khi Giáo Hội chờ đợi cuộc quang lâm mới của Người trong sự cánh chung viên mãn của vương quốc Thiên Chúa cho thế gian. Về sứ vụ truyền giáo, những lời của thánh Phaolô, người đến Rôma với tư cách là một nhà truyền giáo, có thể được lặp lại ngày hôm nay: “Từ sáng đến chiều, ông dựa vào Luật Môsê và các ngôn sứ mà nói về Đức Giêsu, để cố thuyết phục họ” (Cv 28,23). Đoạn văn của sách Công vụ Tông đồ nhắc đến một cuộc gặp gỡ với anh em cộng đồng Do Thái tại Rôma. Nhân dịp đó, “nghe ông nói, người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin” (Cv 28,24). Tuy nhiên, vị tông đồ đã đưa ra quyết định tuyệt vời trong những lời cuối cùng: “Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gửi đến cho các dân ngoại; họ thì họ sẽ nghe!” (Cv 28,28).
Chúng ta có thể nói rằng vào ngày đó, trong ngôi nhà được thuê của thánh Phaolô, một giai đoạn mới bắt đầu trong sự phát triển của lịch sử Kitô giáo: một lịch sử của các đức tin, văn minh và các giá trị Tin Mừng, mang lại nhiều lợi ích cho nhân loại.