TÂM LÝ HỌC VÀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC
Những định hướng cho việc sử dụng các chuyên môn về tâm lý học
trong việc tiếp nhận và đào tạo những ứng sinh linh mục
Vì sự trưởng thành trọn vẹn của các linh mục ngày mai
Trích Thời sự Thần học, số 83 (tháng 2/2019), trang 166-190.
—————-
Giới thiệu
Ngày 30-10-2008, Bộ Giáo dục Công giáo đã công bố văn kiện mang tựa đề “Những định hướng cho việc sử dụng các chuyên môn về tâm lý học trong việc tiếp nhận và trong việc đào tạo những ứng sinh Linh mục”.
Từ sau công đồng Vaticanô II, Tòa thánh đã nhiều lần đề cập đến việc sử dụng tâm lý học trong công cuộc đào tạo linh mục :
a) năm 1974, Bộ Giáo dục công giáo đã nói đến sự ích lợi của tâm lý học trong « Chỉ nam huấn luyện việc độc thân linh mục», nhằm áp dụng những gì ĐTC Phaolô VI đã bàn trong thông điệp «Sacerdotalis Caelibatus»;
b) năm 1975, trong một “ghi chú” của Phủ Quốc vụ khanh Tòa thánh nhấn mạnh đến sự bảo vệ đời sống riêng tư của cá nhân;
c) năm 1983 «Ratio Fundamentalis institutionis sacerdotalis» kể tâm-lý-học vào số những phương tiện đào tạo;
d) năm 1992, tông huấn «Pastores dabo vobis» của ĐTC Gioan Phaolo II nhắc đến sự hữu ích của tâm lý học trong việc giúp cho các ứng sinh đào sâu thêm sự trưởng thành nhân bản;
e) năm 1993, Bộ Giáo dục Công giáo trở lại vấn đề này trong “Chỉ nam về việc chuẩn bị các nhà đào tạo tại các chủng viện».
Vấn đề luôn mang tính cách thời sự. Một đàng, Giáo hội cần có những linh mục có khả năng, trong đó không thể nào thiếu sự trưởng thành nhân bản và tâm lý. Đàng khác, phải sử dụng các phương tiện nào để kiểm chứng sự trưởng thành này? Tại nhiều chủng viện Bắc Mỹ, các cuộc trắc nghiệm trở thành bắt buộc trong việc phân định ơn gọi; thế nhưng việc sử dụng các cuộc trắc nghiệm này có vi phạm đời sống riêng tư của các đương sự không? Câu hỏi được nêu lên tại phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo dục Công giáo năm 1995, mở đầu cho một cuộc nghiên cứu. Ba năm sau, một dự thảo được đệ trình nhưng đã nhận được nhiều chỉ trích. Vào những năm 2000-2002, bản dự thảo được gửi đến các cơ quan khác nhau để xin ý kiến. Năm 2002, một bản văn mới được trình lên phiên họp khoáng đại, và nhận được nhiều nhận xét. Năm 2005 một bản dự thảo mới lại được trình lên và lần này được đa số chấp thuận. Vào tháng 7 năm 2006, một chuyên viên được bộ cử ra để soạn thảo bản văn cuối cùng. Trong phiên họp khoáng đại vào tháng 1 năm 2008, bản văn được xem là đã chín muồi, với số phiếu như sau: 23 placet (đồng ý), 1 non placet (không đồng ý) 5 placet juxta modum (đồng ý nhưng cần chỉnh sửa). Sau khi duyệt lại lần cuối cùng, bản văn được đệ lên ĐTC vào ngày 13/6/2008, và ngài cho phép phát hành. Văn kiện được ký vào ngày 29/6/2008 do hồng y tổng trưởng, và giới thiệu với báo chí ngày 30/10 cùng năm.
Văn kiện tương đối ngắn, gồm 17 số, chia thành 6 mục:
I. Hội thánh và việc phân định ơn gọi. Giải thích vắn tắt bản tính của ơn gọi Kitô-hữu và vai trò của Hội thánh trong lãnh vực này. Văn kiện cũng phác họa vài đức tính cần thiết cho tác vụ linh mục cần được quan tâm trong việc đào tạo.
II. Sự cần thiết phải chuẩn bị các nhà đào tạo. Mục này trình bày vai trò của nhà đào tạo, và sự cần “đào tạo các nhà đào tạo”.
III. Sự đóng góp của Tâm lý học vào việc phân định ơn gọi. Mục này giải thích việc sử dụng các khoa học tâm lý và các chuyên viên trong việc phân định và đào tạo các ứng sinh làm linh mục.
IV. Việc đòi hỏi lượng định của các chuyên viên và việc tôn trọng quyền đời sống riêng tư. Trong việc thẩm định khả năng ứng sinh linh mục, các nhà chức trách của Giáo hội có thể nhờ đến các chuyên viên. Tuy nhiên, trong vấn đề này, cần tuân thủ vài điều kiện và thủ tục thuộc lãnh vực luân lý và giáo luật.
V. Tương quan giữa các nhà đào tạo với chuyên viên tâm lý học. Một điều khoản riêng được dành cho cha linh hướng.
VI. Những người đã bị thải hồi hoặc tự ý rời bỏ chủng viện hoặc trung tâm huấn luyện. Thủ tục phải tuân giữ nếu muốn thâu nhận những người ấy vào chủng viện hoặc trung tâm huân luyện khác, cách riêng nếu đương sự đã trải qua một cuộc tham vấn tâm lý. Quyền của đương sự trong việc thông báo kết quả cho các nhà hữu trách mới.
Khi trình bày với báo chí, vị Tổng trưởng cho biết rằng văn kiện này không muốn đi vào những vấn đề lý thuyết liên quan đến tương quan giữa tâm lý học, thần học và tâm linh, cũng như không muốn đi vào những cuộc tranh luận giữa các trường phái tâm lý học, nhưng chỉ đưa ra một hướng dẫn cụ thể: trong những trường hợp nào, nên sử dụng các kiến thức tâm lý học vào việc phân định ơn gọi linh mục.
Để đưa ra câu trả lời, cần đặt trong toàn thể đạo lý của Hội thánh về ơn gọi. Ơn gọi là một hồng ân của Thiên Chúa được ban qua Hội thánh. Hội thánh có nhiệm vụ phân định ơn gọi, qua các vị hữu trách (Giám mục và các bề trên), với sự cộng tác của các nhà đào tạo. Ơn gọi linh mục bao hàm nhiều chiều kích: nhân bản, tâm linh, đạo lý, mục vụ. Chiều kích tâm linh là trung tâm, nhưng chiều kích nhân bản là nền tảng. Một sự thiếu quân bình trong chiều kích nhân bản có thể làm ngăn cản sự trưởng thành tình cảm, tâm linh. Lời khẳng định này dựa trên đạo lý của tông huấn Pastores dabo vobis. Đây là lý do của sự can thiệp của chuyên viên tâm lý học. Tâm lý học chú trọng đến chiều kích nhân bản, nhưng không được phép tách rời khỏi các chiều kích khác của ơn gọi linh mục.
Văn kiện đặt ra những điều kiện cho sự tham vấn tâm lý học. Sự tham vấn này chỉ mang tính cách “hỗ trợ” và “trong những hoàn cảnh đặc biệt”, chứ không thể coi như bắt buộc cho tất cả mọi ứng sinh trong tiến trình đào tạo (số 5). Các chuyên viên không được mời làm thành phần của ban đào tạo. Các chuyên viên, ngoài kiến thức chuyên môn, còn phải chấp nhận quan điểm nhân học của công giáo. Mặt khác, các nhà hữu trách trong việc đào tạo cần thi hành chức năng trong phạm vi thẩm quyền của mình (chẳng hạn cha linh hướng) của mình, chứ không thể khoán trắng cho các chuyên viên tâm lý học.
Văn kiện nhấn mạnh cách riêng đến quyền bảo vệ thanh danh và riêng tư của ứng viên: cần phải có sự đồng ý minh thị của họ thì mới có thể tiến hành cuộc trắc nghiệm. Kết quả của cuộc trắc nghiệm chỉ được phép sử dụng trong lãnh vực đào tạo, và không được phép thông tri cho người đệ tam nếu không có sự đồng ý của đương sự.
—————–
I. Hội Thánh và việc phân định ơn gọi
1. “Mọi ơn gọi Kitô hữu đều đến từ Thiên Chúa, đó là ơn huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi ấy không bao giờ được ban ở ngoài hoặc biệt lập khỏi Hội thánh, nhưng luôn luôn xuyên qua Hội thánh và nhờ Hội thánh (…) phản ánh rạng ngời và sống động của Mầu nhiệu Ba Ngôi chí thánh (1).
Hội thánh, “người sản sinh và giáo dục các ơn gọi” (2), có nhiệm vụ phân định ơn gọi và khả năng của các ứng sinh vào tác vụ linh mục. Thật vậy, “tiếng gọi bên trong của Thánh Linh cần được Giám mục nhìn nhận xem có phải là tiếng gọi chân thực hay không” (3).
Trong việc cổ võ sự phân định này và trong toàn thể việc đào luyện cho tác viên, Hội thánh được thúc đẩy bởi hai mối quan tâm: bảo đảm thiện ích của sứ mệnh của Hội thánh, và đồng thời thiện ích của các ứng sinh. Thật thế, cũng như mọi ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi tới chức linh mục, mang một chiều kích Hội thánh gắn liền với chiều kích Chúa Kitô: ơn gọi “không chỉ bắt nguồn “từ” Hội thánh và nhờ trung gian của Hội thánh, không chỉ được nhìn nhận và được hoàn thành “trong” Hội thánh, nhưng còn định hình – trong căn cốt nhằm phụng sự Thiên Chúa – như là phục vụ Hội thánh. Ơn gọi Kitô hữu, dưới hết mọi hình thức của nó, là một ân ban nhằm xây dựng Hội thánh, tăng triển Vương quốc Thiên Chúa trong thế giới” (4).
Bởi thế, thiện ích của Hội thánh và thiện ích của ứng sinh không đối kháng nhau, nhưng đồng quy với nhau. Những nhà người hữu trách về đào luyện có nhiệm vụ phải hài hòa hai thiện ích này, luôn xét chúng như là cùng gắn chặt năng động với nhau: đây là một khía cạnh thiết yếu của trách nhiệm lớn lao nhằm phục vụ Hội thánh và phục vụ con người (5).
2. Tác vụ linh mục, được hiểu và sống như là họa hình Đức Kitô Lang Quân, Mục Tử Nhân Lành, đòi hỏi những đức tính cũng như các nhân đức luân lý và nhân đức hướng Chúa, được nâng đỡ bởi sự quân bình về nhân bản và tâm lý, đặc biệt là về tình cảm, nhờ đó chủ thể mới có thể sẵn sàng dâng hiến bản thân cách thực sự tự do trong tương quan với các tín hữu trong nếp sống độc thân (6).
Khi đề cập đến những chiều kích khác nhau của việc đào luyện linh mục – nhân bản, tâm linh, đạo lý, mục vụ – Tông huấn hậu-thượng-hội-đồng Pastores dabo vobis, trước khi đi vào chiều kích tâm linh, “yếu tố quan trọng nhất trong việc giáo dục linh mục” (7), đã nêu bật rằng chiều kích nhân bản là nền tảng của toàn thể việc đào luyện. Tông huấn liệt kê ra một chuỗi những nhân đức nhân bản và khả năng sống tương quan mà linh mục cần phải hội đủ ngõ hầu nhân cách của họ là “nhịp cầu chứ không là vật cản những người khác gặp Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu chuộc con người” (8). Những đức tính và khả năng ấy bao gồm sự quân bình tổng quát của nhân cách cũng như khả năng đảm đương trọng trách mục vụ, sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn con người cũng như cảm thức về công bằng và trung tín (9).
Một vài đức tính ấy đáng được đặc biệt quan tâm: cảm thức tích cực và ổn định về căn tính của mình là người nam và có khả năng tương quan cách trưởng thành với những người khác hoặc những nhóm khác; một cảm thức vững chắc về sự thuộc về, là nền tảng của sự hiệp thông trong tương lai với linh-mục-đoàn và của sự cộng tác có trách nhiệm với tác vụ của giám mục (10); sự tự do để ôm ấp những lý tưởng cao cả và sự nhất quán trong việc thực hiện chúng trong hành động hằng ngày; sự can đảm để quyết định và trung thành với những quyết định ấy; sự hiểu biết về bản thân, về những tài năng và giới hạn của mình trong sự liên kết hài hòa để có một cái nhìn tích cực về bản thân trước mặt Thiên Chúa; khả năng biết sửa mình; biết thưởng thức vẻ đẹp được hiểu như là “sự tỏa sáng của chân lý” và thủ thuật khám phá cái đẹp; sự tin tưởng bắt nguồn từ lòng kính trọng đối với người khác và dẫn tới thái độ cởi mở; khả năng của ứng sinh biết sống hài hòa phái tính của mình, theo nhãn quan Kitô giáo, cũng như xét đến nghĩa vụ của bậc độc thân (11).
Những tâm trạng đó phải được nhào nặn trong trong hành trình đào tạo linh mục tương lai, là người của Thiên Chúa và của Hội Thánh, được kêu gọi để xây dựng cộng đoàn Hội Thánh. Người linh mục, bởi vì say mê Đấng Vĩnh Hằng, cho nên có khuynh hướng trân trọng con người cách chính đáng và toàn diện, và luôn sống tình cảm của mình cách phong phú hơn trong sự dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa Nhất thể Tam vị và cho các anh em, đặc biệt những ai đau khổ.
Hẳn nhiên, đây là những mục tiêu chỉ có thể đạt nhờ sự đáp trả bền bỉ của ứng sinh đối với tác động của ơn thánh và thủ đắc nhờ một hành trình đào tạo tiệm tiến, lâu dài và không lúc nào cũng êm ả (12).
Ý thức được sự đan xen kỳ diệu và sâu sắc giữa những năng lực nhân bản và tâm linh trong ơn gọi, sự phân định ơn gọi kỹ lưỡng và có trách nhiệm thật là có ích cho ứng sinh, nhằm hoạch định những hành trình huấn luyện được cá-vị-hoá và khắc phục dần những thiếu sót nếu có trên bình diện tâm linh và nhân bản. Bổn phận của Hội thánh là cung cấp cho các ứng sinh một sự hội nhập hữu hiệu các chiều kích nhân bản và luân lý, dưới ánh sáng của chiều kích tâm linh, mà các chiều kích khác phải quy chiếu và bổ túc (13).
II. Chuẩn bị các nhà đào tạo
3. Mỗi nhà đào tạo cần phải hiểu rõ về con người, về các nhịp độ tăng trưởng của họ, về các tiềm năng và sự yếu đuối của họ cũng như cách thức người ấy sống mối tương quan với Thiên Chúa. Vì thế, ước mong rằng các giám mục, nhờ biết tận dụng những kinh nghiệm, những chương trình và những định chế đã từng trải, hãy dự liệu một sự chuẩn bị tương thích cho những người đào luyện về sư phạm ơn gọi, dựa theo những chỉ dẫn mà Bộ Giáo Dục Công Giáo đã ban hành (14).
Các nhà đào tạo cần được chuẩn bị thích đáng để thực hiện việc phân định, tuân theo đạo lý Hội Thánh về ơn gọi linh mục, trong việc quyết định cách an toàn hợp lý về việc tiếp nhận vào chủng viện hoặc vào trung tâm huấn luyện dành cho giáo sĩ dòng tu, hoặc về việc thải hồi ứng sinh thiếu khả năng, cũng như để đồng hành với ứng sinh trong việc thủ đắc các nhân đức luân lý và hướng Chúa cần thiết để sống sự dâng hiến trót cuộc đời làm “người phục vụ Hội thánh hiệp thông” trong sự nhất quán và tự do nội tâm (15).
4. Tài liệu Những định hướng sư phạm cho việc đào luyện đời sống độc thân linh mục, của Bộ Giáo Dục Công giáo, nhìn nhận rằng “những sai lầm trong sự phân định các ơn gọi không phải là hiếm, và khá nhiều khiếm khuyết tâm lý, ít nhiều mang tính bệnh lý, chỉ tỏ hiện sau khi chịu chức linh mục. Việc phân định đúng lúc sẽ giúp tránh được biết bao thảm kịch” (16).
Điều này đòi hỏi rằng mỗi nhà đào tạo có được sự nhạy cảm và sự chuẩn bị tâm lý học cân xứng (17) để có khả năng, trong tầm mức có thể được, nắm bắt những động lực thực sự của ứng sinh, phân định được những ngăn trở trong sự hài hòa giữa sự trưởng thành nhân bản và sự trưởng thành Kitô hữu và những bệnh lý nếu có. Nhà đào tạo phải cân nhắc cách kỹ lưỡng và khôn ngoan về tiểu sử của ứng sinh. Tuy nhiên, riêng điều này riêng rẽ chưa phải là tiêu chuẩn quyết định và đầy đủ để xét định việc tiếp nhận hay thải hồi. Nhà đào tạo phải biết lượng định về con người cách toàn diện và trong sự tiệm tiến tăng trưởng – với những điểm mạnh và điểm yếu của nó –, cũng như về ý thức mà đương sự có về các vấn đề bản thân, và về khả năng mà họ kiểm soát hành vi của mình cách có trách nhiệm và tự do.
Vì lý do này, mỗi nhà đào tạo cần được chuẩn bị, kể cả nhờ các khoá học chuyên môn, để hiểu sâu hơn về con người và về những đòi hỏi của việc đào luyện cho tác vụ linh mục. Trong đường hướng ấy, nên có những cuộc gặp gỡ các chuyên viên trong các khoa tâm lý học để trao đổi và làm sáng tỏ một vài đề tài chuyên biệt.
III. Đóng góp của khoa tâm lý học cho việc phân định và việc đào tạo
5. Xét là hoa trái của một quà tặng đặc biệt của Thiên Chúa, ơn gọi làm linh mục và việc phân định nó vượt quá thẩm quyền chặt chẽ của khoa tâm lý học. Tuy nhiên, để có sự lượng định an toàn về tình trạng tâm lý của ứng sinh, về những khả năng nhân bản để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, và để hỗ trợ thêm nữa cho sự tăng trưởng nhân bản của người ấy, trong một vài trường hợp, việc nhờ đến các chuyên viên về các khoa học tâm lý có thể là hữu ích. Những chuyên viên này có thể cung cấp cho các nhà đào tạo không chỉ một ý kiến về sự chẩn đoán và sự chữa trị cho những rối loạn tâm lý nếu cần, mà còn đóng góp vào việc hỗ trợ sự phát triển những đức tính nhân bản và tương giao mà việc thi hành tác vụ đòi hỏi (18), bằng cách gợi ra những hành trình hữu ích cần tuân theo nhằm cho sự đáp trả ơn gọi được tự do hơn.
Việc đào tạo linh mục cũng phải lưu tâm đến những biểu hiện của sự lệch lạc đã ăn rễ trong thâm tâm con người (19) – mà một biểu hiện đặc biệt ở chỗ tương khắc giữa lý tưởng dâng hiến mà ứng sinh mong muốn một cách ý thức, và nếp sống thực tế của người ấy – cũng như những khó khăn riêng tư trong tiến trình tăng trưởng về các nhân đức nhân bản và tương giao. Sự trợ giúp của cha linh hướng và của cha giải tội là điều căn bản và không thể thiếu để có thể khắc phục những khó khăn ấy với ơn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, sự tăng trưởng của các đức tính nhân bản và tương giao này có thể bị ngăn cản do các vết thương đặc thù trong qúa khứ mà chưa được giải quyết.
Thực vậy, ngày nay những người xin vào chủng viện đều phản ảnh, hoặc ít hoặc nhiều, một thứ bực dọc phát sinh từ tâm thức của chủ nghĩa tiêu thụ, sự bất ổn trong các tương giao gia đình và xã hội, chủ thuyết tương đối về luân lý, những lối nhìn lệch lạc về giới tính, sự lựa chọn tạm bợ, sự phủ nhận các giá trị, phần lớn gây ra do các phương tiện truyền thông.
Trong hàng ngũ các ứng sinh, người ta có thể gặp thấy một vài người trải qua các kinh nghiệm đặc biệt – cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, trí thức, tình cảm –, đã để lại cách này hay cách khác những vết thương chưa được chữa lành và gây nên những rối loạn, mà chính ứng sinh mà không nhận ra tầm quan trọng và thường gán cho những nguyên nhân bên ngoài, và do đó, không có khả năng đương đầu những rối loạn đó cách tương xứng (20).
Dĩ nhiên là tất cả những điều đó ảnh hưởng trên khả năng tăng trưởng hành trình đào tạo linh mục.
Si casus ferat (21) – nghĩa là trong những trường hợp khác thường cho thấy những khó khăn đặc biệt – việc nại tới những chuyên viên trong các khoa tâm lý học, hoặc trước khi nhận vào chủng viện hoặc trong tiến trình đào luyện, có thể giúp cho ứng sinh trong việc vượt qua những vết thương ấy, để hướng tới một sự nội tâm hóa ngày càng vững vàng và sâu xa hơn lối sống của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành, Thủ lãnh và Lang Quân của Hội thánh (22).
Để có được sự lượng định chính xác về nhân cách của ứng sinh, chuyên viên có thể sử dụng sự phỏng vấn, làm trắc nghiệm, dĩ nhiên luôn phải được ứng sinh đồng ý trước, cách minh thị, hiểu biết và tự do (23).
Xét vì tính cách tế nhị của vấn đề, các nhà đào tạo cần phải tránh sử dụng các kỹ thuật chuyên môn của tâm lý học và tâm lý trị liệu.
6. Vị giám đốc và các nhà đào tạo nên nhờ đến sự cộng tác của các chuyên viên trong các khoa tâm lý học, tuy nhiên những người này không thể làm thành viên của đội ngũ các nhà đào tạo. Các chuyên viên này cần đạt được trình độ chuyên môn trong lãnh vực ơn gọi và, cùng với tính chuyên nghiệp, phải có sự khôn ngoan của Thánh Linh.
Trong việc chọn lựa các chuyên viên để tham vấn về tâm lý, nhằm đảm bảo tốt đẹp sự hài hòa với việc đào tạo luân lý và tâm linh, tránh gây ra những sự lẫn lộn hoặc đối kháng tai hại, phải lưu ý sao để cho họ, không những là người nổi bật về sự trưởng thành vững chắc về nhân bản và tâm linh, mà còn phải chia sẻ quan điểm nhân học của Kitô giáo về nhân vị, về giới tính, về ơn gọi linh mục và sự độc thân, nhờ đó sự can thiệp của họ phải chú ý đến mầu nhiệm con người trong sự đối thoại cá nhân với Thiên Chúa, dựa theo như cái nhìn của Hội thánh.
Ở đâu không có sẵn các chuyên viên như thế, hãy tìm cách đào tạo họ (24).
Sự hỗ trợ của các khoa tâm lý cần được phối hợp với khung cảnh của việc đào tạo toàn diện của ứng sinh, nhờ vậy nó không làm cản trở, nhưng là bảo đảm cách riêng giá trị không thể thiếu được của việc đồng hành thiêng liêng, mà trọng trách là giữ cho ứng sinh luôn được hướng tới chân lý về tác vụ chức thánh, theo cái nhìn của Hội thánh. Bầu khí đức tin, kinh nguyện, suy niệm Lời Chúa, việc học hỏi thần học và đời sống cộng đoàn – là nền tảng để tăng trưởng lời đáp trả quảng đại đối với ơn gọi lãnh nhận từ Thiên Chúa – sẽ cho phép ứng sinh hiểu biết chính xác về ý nghĩa và việc sử dụng những hiểu biết tâm lý vào trong hành trình ơn gọi của mình.
7. Việc nhờ đến các chuyên viên tâm lý học ở cấp các Quốc gia cần phải được quy định bởi Rationes institutionis sacerdotalis liên hệ và ở mỗi chủng viện bởi các vị thường quyền hay bề trên cao cấp thẩm quyền, trung thành và nhất quán với các nguyên tắc và hướng dẫn của tài liệu này.
a) Sự phân định khởi đầu
9. Ngay từ lúc ứng sinh xin được tiếp nhận vào chủng viện, nhà đào tạo cần phải biết chính xác về nhân cách của đương sự, các khả năng, các khuynh hướng, khả năng, tiềm năng, và những vết thương nếu có, lượng định bản chất và mức độ của chúng.
Đừng nên quên khuynh hướng có thể có nơi một số ứng sinh thường giảm nhẹ hay phủ nhận những yếu đuối riêng của mình: họ không nói cho các nhà đào tạo biết về một số những khó khăn nặng nề của họ, vì sợ rằng không được hiểu và không được chấp nhận. Như thế họ vun đắp những kỳ vọng không thực tế về tương lai của mình. Trái lại, có những ứng sinh có khuynh hướng thổi phồng những khó khăn của mình, coi chúng như ngăn trở không thể vượt qua cho hành trình ơn gọi.
Sự phân định đúng lúc về những vấn đề có thể cản trở hành trình ơn gọi chắc hẳn sẽ giúp ích cho đương sự, cho các định chế về ơn gọi và cho Hội thánh. Một vài thí dụ về các vấn đề ấy có thể kể ra như sau: sự lệ thuộc tình cảm quá đáng, tính gây hấn thái quá, thiếu khả năng trung thành với những nhiệm vụ đảm nhận và thiết lập những tương quan cởi mở, tín nhiệm và cộng tác huynh đệ và với quyền bính, căn tính tính dục rối loạn và chưa định hình – không thể không giúp ích nhiều cho chính ứng sinh, cho các nơi chăm sóc ơn gọi và cho Hội thánh.
Trong giai đoạn phân định khởi đầu, sự hỗ trợ của các chuyên viên trong các khoa tâm lý có thể cần thiết trước hết thuộc cấp độ chẩn đoán, nếu nghi ngờ rằng có những rối loạn tâm lý. Nếu nhận thấy sự trị liệu là cần thiết, thì phải thực hiện trước khi nhận vào chủng viện hay trung tâm huấn luyện.
Sự hỗ trợ của các chuyên viên cũng có thể hữu ích cho các người đào tạo để thảo hoạch một hành trình đào tạo phù hợp cho cá nhân dựa trên các đòi hỏi riêng của ứng sinh.
Trong việc lượng định về khả năng sống đặc sủng đời độc thân cách vui tươi và trung thành, như là sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình theo hình ảnh Đức Kitô là Thủ lãnh và Mục tử của Hội thánh, phải lưu tâm rằng chưa đầy đủ nếu chỉ xét đến khả năng kiêng cữ việc hoạt động tình dục, nhưng cũng cần phải xét tới sự định hướng phái tính, theo như những chỉ dẫn của Bộ Giáo Dục Công giáo (25). Thật vậy, đức Khiết tịnh vì Nước Trời còn là cái gì cao hơn là không có những liên hệ tính dục.
Dưới viễn tượng của những mục đích vừa chỉ ra, sự tham vấn tâm lý có thể là hữu ích trong một vài trường hợp.
b) Sự đào tạo kế tiếp
9. Trong thời kỳ đào tạo, việc nhờ đến các chuyên viên tâm lý học, ngoài việc đáp ứng cho những đòi hỏi phát sinh do những khủng hoảng có thể xảy ra, cũng có thể ích lợi để giúp cho ứng sinh trong hành trình chiếm hữu các nhân đức nhân bản và luân lý; có thể cung ứng cho ứng sinh một sự hiểu biết sâu xa hơn về chính nhân cách của mình và góp phần giúp khắc phục, hoặc giảm thiểu, những kháng cự tâm lý đối với đường lối đào tạo đề ra.
Một sự làm chủ bản thân, không chỉ làm chủ các yếu đuối của mình mà ngay cả những sức lực nhân bản và tâm linh của mình (26), sẽ giúp cho ứng sinh có thể dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa với sự ý thức và tự do, trong tinh thần trách nhiệm đối với chính mình và đối với Hội thánh.
Tuy nhiên, đừng nên coi nhẹ sự kiện là việc đạt tới sự trưởng thành Kitô hữu và ơn gọi không thể nào thiếu những khó khăn và căng thẳng, và đòi hỏi kỷ luật nội tâm, tinh thần hy sinh, chấp nhận vất và và thập giá (27), và tín thác vào sự trợ giúp không thể thiếu của ân sủng (28); điều này cũng được xác nhận bởi những hiểu biết tâm lý học được soi dẫn nhờ các dữ kiện của khoa nhân học về ơn gọi Kitô giáo, và do đó của ân sủng.
10. Hành trình đào tạo cần được ngưng lại trong trường hợp ứng sinh, dù có nỗ lực bản thân, sự hỗ trợ của hoặc nhà tâm lý hoặc tâm lý trị liệu, vẫn tiếp tục tỏ ra không có khả năng đối diện một cách thiết thực, cho dù theo một cách thức tiệm tiến của mọi sự tăng trưởng nhân bản, những sự thiếu trưởng thành nghiêm trọng (sự lệ thuộc tình cảm rất mạnh, sự thiếu tự do trong các mối tương quan, tính tình cứng cỏi thái quá, sự nghiêm khắc quá độ về tính tình, sự thiếu trung thực, căn cước phái tính không rõ rệt, khuynh hướng đồng tính đã ăn rễ mạnh, vân vân).
Biện pháp này cũng được áp dụng cho trường hợp nhận thấy rõ ràng đương sự khó khăn sống khiết tịnh trong đời độc thân, khi coi đó như nghĩa vụ nặng nề gây tổn hại cho sự quân bình về tình cảm và tương quan.
IV. Sự đòi hỏi những điều tra chuyên biệt và việc tôn trọng sự riêng tư của ứng sinh
11. Việc chọn lọc những người được coi là phù hợp với tác vụ mục tử là thẩm quyền của Hội thánh, và Hội thánh có là quyền lợi và bổn phận phải xác minh việc hội đủ những đức tinh nơi những người được nhận vào tác vụ thánh (29).
Giáo luật điều 1051§1 dự liệu sự duyệt xét về những đức tính cần thiết để được lãnh chức thánh, trong đó có việc điều tra về tình trạng sức khoẻ thể lý và tâm lý của ứng sinh (30).
Điều 1052 ấn định rằng, để có thể tiến hành phong chức, giám mục phải có sự chắc chắn luân lý về khả năng của ứng sinh, “được chứng minh bằng những luận chứng tích cực” (§1) và, trong trường hợp nghi ngờ có căn cớ, thì không được tiến hành việc phong chức (xem §3).
Từ đây phát sinh quyền của Hội thánh để minh xác, kể cả với việc nại tới việc khoa y học và tâm lý học, về khả năng của các linh mục tương lai. Thực vậy, giám mục hoặc bề trên có thẩm quyền không chỉ có bổn phận phải điều tra về khả năng của ứng sinh, mà còn phải nhận ra khả năng ấy. Ứng sinh vào chức linh mục không thể áp đặt những điều kiện cá nhân của mình, nhưng phải chấp nhận với lòng khiêm tốn và biết ơn những qui tắc và điều kiện mà Hội thánh đã đặt ra do trách nhiệm của mình (31). Bởi thế, trong trường hợp nghi ngờ về khả năng, đôi khi việc nhận vào chủng viện hoặc trung tâm huấn luyện đòi hỏi một sự lượng giá tâm lý về nhân cách.
12. Quyền lợi và nghĩa vụ của cơ sở đào tạo được thu thập những hiểu biết cần thiết để có một phán quyết khôn ngoan chắc chắn về khả năng của ứng sinh không được vi phạm quyền lợi về danh thơm tiếng tốt mà con người được hưởng, quyền bảo vệ sự riêng tư, như quy định của khoản 220 của bộ Giáo luật. Điều này có nghĩa là chỉ có thể tiến hành việc tham vấn tâm lý với sự đồng ý trước, minh thị, hiểu biết và tự do của ứng sinh.
Các nhà đào tạo hãy bảo đảm bầu khí tín nhiệm, sao cho ứng sinh có thể mở lòng và tham gia cách xác tín vào công việc phân định và đồng hành, qua sự “hợp tác bản thân cách tin tưởng và thân tình” (32). Ứng sinh được yêu cầu có sự cởi mở chân thành và tín nhiệm với các nhà đào tạo của mình. Chỉ khi thành thực làm cho các nhà đào tạo hiểu biết bản thân mình, ứng sinh mới có thể được trợ giúp trong hành trình thiêng liêng mà chính mình đang tìm kiếm khi gia nhập chủng viện.
Thật quan trọng và thường mang tính quyết định để thắng vượt những hiểu lầm, đó là bầu khí giáo dục giữa học viên và nhà đào tạo – với đặc trưng là sự cởi mở và trong sáng – cũng như các động lực và cách thức mà các nhà đào tạo sẽ trình bày cho ứng sinh khi gợi ý họ làm sự tham vấn tâm lý.
Phải tránh ấn tượng rằng sự gợi ý tham vấn này có nghĩa là mở đầu cho sự thải hồi tất nhiên khỏi chủng viện hay trung tâm huấn luyện.
Ứng sinh có thể tự do nhờ tới hoặc một chuyên viên, được lựa chọn trong số những chuyên viên mà các nhà đào tạo đề nghị, hoặc một chuyên viên mà chính ứng sinh lựa chọn và được các nhà đào tạo chấp thuận.
Tùy theo mức độ có thể được, luôn phải bảo đảm cho các ứng sinh một sự chọn lựa tự do giữa các chuyên viên đáp ứng được các đòi hỏi đã nêu ra (33).
Khi nào ứng sinh, đứng trước yêu cầu có lý do về phía các nhà đào tạo, từ chối thực hiện cuộc tham vấn tâm lý, các nhà đào tạo sẽ không được áp đặt bằng bất cứ cách nào và tiếp tục việc phân định cách khôn ngoan dựa vào những gì họ nắm giữ, tuy vẫn lưu tâm đến điều Giáo luật 1052§1 đã trích dẫn trên đây.
V. Tương quan giữa những người hữu trách việc đào tạo với chuyên viên
a) Các người hữu trách ở toà ngoài
13. Trong tinh thần tín nhiệm hỗ tương và cộng tác với việc đào luyện của mình, ứng sinh có thể được mời bày tỏ sự thuận tình của mình bằng văn bản để cho chuyên viên tâm lý học, tuy vẫn giữ bí mật nghề nghiệp của mình, có thể thông đạt kết quả cuộc tham vấn cho các người đào tạo mà ứng sinh đã cho biết. Những người này sử dụng các thông tin, như đã được thu thập, để nghiên cứu một toàn cảnh về nhân cách của ứng sinh và rút ra những chỉ dẫn phù hợp hướng đến chặng kế tiếp của hành trình đào luyện hay để được nhận chức thánh.
Bởi đó, để bảo vệ sự riêng tư và tiếng tốt của ứng sinh trong hiện tại cũng như tương lai, phải hết sức quan tâm đặc biệt để những bá cáo của chuyên viên chỉ được dành độc nhất cho những người hữu trách trong việc đào tạo mà thôi, với lời cấm chỉ rõ ràng và ràng buộc là không được phép sử dụng ngoài việc phân định ơn gọi và đào luyện ứng sinh.
b) Đặc trưng của việc linh hướng
14. Cha linh hướng giữ một nhiệm vụ không nhỏ trong việc phân định ơn gọi, tuy dù chỉ trong phạm vi của lương tâm.
Tuy vẫn xác tín rằng việc linh hướng không thể nào được biến đổi hoặc thay thế bởi những hình thức phân tích hay hỗ trợ tâm lý, và xác tín rằng đời sống tâm linh tự nó giúp cho sự tăng trưởng các nhân đức nhân bản, nếu không gặp những rào cản mang tính cách tâm lý (34), nhưng cha linh hướng có thể thấy cần đề nghị (song không bao giờ được áp đặt) sự tham vấn tâm lý, để làm sáng tỏ những nghi vấn không thể giải quyết được, để nhờ vậy có thể tiến hành cách chắc chắn hơn trong việc phân định và đồng hành thiêng liêng (35).
Trong trường hợp việc tham vấn tâm lý được cha linh hướng yêu cầu, ước mong rằng ứng sinh, ngoài việc bá cáo cho chính cha linh hướng các kết quả của việc tham vấn, cũng thông tri cho nhà đào tạo ở toà ngoài, đặc biệt là khi chính cha linh hướng đã khuyến khích làm điều ấy.
Nếu cha linh hướng cho rằng chính mình nên có các thông tin trực tiếp từ người tham vấn, thì hãy tiến hành theo điều đã vạch ra ở số 13 dành cho các nhà đào tạo ở toà ngoài.
Dựa theo các kết qủa của việc tham vấn tâm lý, cha linh hướng sẽ rút ra những chỉ dẫn thích đáng cho việc phân định thuộc thẩm quyền của mình và đưa ra những lời khuyên cho ứng sinh, kể cả việc nên tiếp tục hành trình đào tạo hay không.
c) Sự trợ giúp của chuyên viên cho ứng sinh và cho các nhà đào tạo
15. Chuyên viên – trong mức độ được yêu cầu – sẽ giúp cho ứng sinh đạt tới một hiểu biết về bản thân, về những tiềm năng và những lỗ hổng của mình. Họ cũng sẽ giúp ứng sinh trong việc đối chiếu những lý tưởng ơn gọi với nhân cách riêng của mình, từ đó kích động cho một sự gắn bó cá nhân, tự do và ý thức về việc đào tạo chính mình. Nhiệm vụ của chuyên viên là cung ứng cho ứng sinh những chỉ dẫn thích đáng về những khó khăn mà đương sự đang trải qua và những hệ lụy của chúng đối với cuộc sống và đối với tác vụ linh mục tương lai.
Sau khi đã thực hiện cuộc kiểm tra, và dựa trên những chỉ dẫn mà các nhà đào tạo cung cấp, chuyên viên cần được đồng ý bằng văn bản của ứng sinh để trình bày cho các nhà đào tạo ý kiến của mình nhằm hiểu rõ loại nhân cách và những vấn đề mà ứng sinh đang đối diện hay phải đối diện.
Chuyên viên cũng sẽ chỉ ra, theo như sự lương định và trong thẩm quyền của mình, những dự đoán về khả năng tăng trưởng nhân cách của ứng sinh. Hơn nữa, nếu cần, chuyên viên còn gợi ý những hình thức hoặc những lộ trình hỗ trợ tâm lý.
VI. Những người đã bị thải hồi hay những người tự ý rời bỏ chủng viện hay cơ sở huấn luyện
16. Theo quy định của Hội thánh, không được phép thâu nhận vào chủng viện hoặc cơ sở huấn luyện những người đã ra, và hơn thế nữa những người đã bị thải hồi từ các chủng viện hay các cơ sở huấn luyện khác mà không thu thập những thông tin cần thiết từ giám mục liên hệ hay từ bề trên cao cấp, nhất là liên quan đến những lý do thải hồi hay xuất tu (36).
Các nhà đào tạo trước đây có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin chính xác cho những nhà đào tạo mới.
Nên lưu ý rằng nhiều khi các ứng sinh đã tự ý rời bỏ cơ sở huấn luyện để khỏi phải cưỡng bách thải hồi.
Trong trường hợp chuyển sang một chủng viện hay một trung tâm huấn luyện khác, ứng sinh phải thông tri cho các nhà đào tạo mới về sự tham vấn tâm lý đã thực hiện trước đây. Các nhà đào tạo mới chỉ có thể lấy thông tin từ chuyên viên đã thực hiện cuộc tham vấn khi được ứng sinh tự do đồng ý bằng văn bản.
Trong trường hợp xét thấy có thể tiếp nhận vào chủng viện một ứng sinh mà, sau khi bị thải hồi, đã trải qua một cuộc chữa trị tâm lý, thì cần phải xác minh hết sức chính xác có thể được về tình trạng tâm lý của họ, bằng cách thu thập thông tin từ chuyên viên đã đồng hành, với sự tự do đồng ý bằng văn bản của đương sự.
Trong trường hợp một ứng sinh xin chuyển sang một chủng viện hoặc trung tâm huấn luyện khác sau khi đã nhờ tới một chuyên viên tâm lý, mà không muốn cho các nhà đào tạo mới được sử dụng kết quả cuộc giám định, thì cần lưu ý rằng khả năng của ứng sinh cần được chứng nghiệm bằng những luận chứng tích cực, theo qui định của điều 1052 bộ Giáo luật đã trưng dẫn, và do đó phải loại bỏ mọi nghi ngờ hữu lý.
Kết luận
17. Tất cả những ai, do danh nghĩa khác nhau, có liên quan đến việc đào tạo, hãy cống hiến sự cộng tác xác tín của mình, trong sự tôn trọng thẩm quyền chuyên biệt của mỗi người, sao cho việc phân định và đồng hành ơn gọi của các ứng sinh được thích hợp để “chỉ đưa lên hàng linh mục những người được kêu gọi và sau khi đã được đào luyện thích đáng, nghĩa là với sự đáp trả ý thức và tự do gắn bó và dấn thân trọn vẹn toàn thân cho Đức Giêsu Kitô, Đấng kêu gọi đến sống thân mật với Người và chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Người (37).
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong cuộc tiếp kiến ngày 13 tháng 6 năm 2008 dành cho hồng y tổng trưởng, đã phê chuẩn tài liệu này và đã ban phép phát hành.
Roma, 29 tháng 6 năm 2008, lễ trọng kính hai thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ.
Hồng y Zenon Grocholewski
Tổng trưởng Bộ Giáo Dục Công Giáo
+ Jean-Louis Bruguès
Tổng thư ký
——————-
Chú thích
1) ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng-hội-đồng Pastores dabo vobis (25/3/1992), số 35b-c.
2) Như trên, số 35d.
3) Như trên, số 65d.
4) Như trên, số 35e.
5) X. Như trên, số 66-67.
6) Các đức tính này được mô tả tỉ mỉ trong Pastores dabo vobis, số 43-44; x. Bộ Giáo luật, đ. 1029 và 1041, 1.
7) Xét vì, “đối với mỗi linh mục (…) nó là trái tim liên kết và làm sinh động bản tính và hoạt động của linh mục”: Pastores dabo vobis, số 45c.
8) Pastores dabo vobis, số 43.
9) X. Như trên. Xem thêm: Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục Optatam totius (28/10/1965), số 11; Sắc lệnh về tác vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis (7/12/1965), số 3; Bộ Giáo dục công giáo, Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (19/3/1985), số 51.
10) X. Pastores dabo vobis, số 17.
11) ĐTC Phaolô VI, trong thông điệp Sacerdotalis cælibatus (24/6/1967) đã đề cập minh thị khả năng cần thiết này nơi ứng sinh linh mục ở các số 63-64. Ngài kết luận ở số 64: “Thực vậy, một cuộc đời dấn thân bên trong và bên ngoài cách toàn diện và tinh tế, như cuộc đời của linh mục độc thân, loại trừ những con người thiếu quân bình tâm sinh lý và luân lý, và được phép suy đoán rằng ơn thánh sẽ bù đắp tự nhiên trong việc này”. Xem thêm Pastores dabo vobis, số 44.
Trong tiến trình tăng trưởng, sự trưởng thành tình cảm giữa một tầm quan trọng, một vai trò trong sự tăng trưởng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt ngày nay nhiều hơn là trước kia. “Sự trưởng thành tình cảm tăng trưởng khi con tim gắn bó với Thiên Chúa. Đức Kitô cần đến những linh mục chín chắn, nam nhi, có khả năng thực thi một tình cha thiêng liêng chân chính. Để đạt được điều này, cần phải trung thực với chính mình, cởi mở với vị linh hướng và tín thác vào lòng lân tuất của Thiên Chúa”, ĐTC Bênêđictô XVI, “Diễn từ cho các linh mục và tu sĩ tại nhà thờ chánh toàn” (25/5/2006), in: “L’Osservatore Romano” (26-27/5/2006), p. 7. X. Pontificia Opera per le Vocazioni Ecclesiastiche, Nuove vocazioni per una nuova Europa, Văn kiện chung kết Hội nghị về ơn gọi linh mục và đời thánh hiến ở châu Âu (Roma, 5-10/5/1997), bien soạn bởi các Bộ Giáo dục Công giáo và Bộ Các Hội dòng Đời sống thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ (6/1/1998), số 37, tr. 111-120.
13) X. Pastores dabo vobis, số 45a.
14) X. Bộ Giáo dục Công giáo, Chỉ nam về việc chuẩn bị các nhà đào tạo ở các chủng viện (4/11/1993), số 36 và 57-59; x. nhất là Optatam totius, n. 5.
15) Pastores dabo vobis, số 16e.
16) Bộ Giáo dục Công giáo, Những hướng dẫn sư phạm về việc đào tạo sự độc thân linh mục (11/4/1974), số 38.
17) X. Pastores dabo vobis, số 66c.; Chỉ nam về việc chuẩn bị các nhà đào tạo ở các chủng viện, số 57-59.
18) X. Optatam totius, số 11.
19) X. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Hội thánh trong thế giới đương đại Gaudium et spes (7/12/1965), số 10.
20) Để hiểu rõ điều này hơn, nên trích dẫn những lời của ĐTC Gioan Phaolô II: “Con người mang trong mình mầm giống của đời sống vĩnh cửu và ơn gọi hấp thụ các giá trị siêu việt; tuy nhiên, con người vẫn ở trong tình trạng có thể thương tổn bên trong và có nguy cơ làm mất ơn gọi của mình bởi những sự kháng cự và khó khăn gặp phải trong cuộc sống hoặc ở cấp ý thức, nơi mà con người lãnh trách nhiệm luân lý, hoặc ở cấp tiềm thức, và điều này có thể là trong đời sống tâm lý thông thường, hoặc trong đời sống mang những tâm bệnh nhẹ hoặc trung bình, không chi phối cách quan trọng vào tự do của con người hướng đến các lý tưởng siêu việt, được chọn lựa có trách nhiệm” (Huấn từ dành cho Tòa Rota Romana (25/1/1988): Acta Apostolicae Sedis, 80 (1988), 1181).
21) X. Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, số 39; Bộ các giám mục, Kim chỉ nam về tác vụ mục tử của các giám mục Apostolorum Successores (22/2/2004), số 88.
22) X. Pastores dabo vobis, số 29d.
23) X. Bộ các tu sĩ và Tu hội đời, Huấn thị về việc canh tân sự đào tạo trong đời sống tu sĩ (6/1/1969), số 11 iii.
24) X. ĐTC Gioan Phaolô II: “Nên quan tâm đến việc chuẩn bị các chuyên gia tâm lý học, những người biết kết hợp khả năng chuyên môn về khoa học, với sự hiểu biết sâu xa về quan niệm công giáo liên quan đến đời sống và ơn gọi linh mục, nhờ vậy có thể công hiến những sự nâng đỡ hữu hiệu cho việc hòa nhập giữa chiều kích nhân bản và siêu nhiên” (Diễn từ dành cho những người tham dự Phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo dục Công giáo, ngày 4/2/2002, số n. 2: Acta Apostolicae Sedis, 94, 2002, 465).
25) X. Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn thị về những tiêu chuẩn phân định ơn gọi đối với những người có khuynh hướng đồng tính trong việc gia nhập chủng viện và lãnh chức thánh (4/5/ 2005): Acta Apostolicae Sedis, 97 (2005), 1007-1013.
26) X. Những hướng dẫn sư phạm về việc đào tạo sự độc thân linh mục, số 38.
27) X. Pastores dabo vobis, số 48d.
28) X. 2 Cr 12,7-10.
29) X. Bộ giáo luật, các điều 1025, 1051 và 1052; Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, Thông tư Entre las más delicadas gửi các giám mục giáo phận và các vị bản quyền có năng quyền tiến cứ lên chức thánh, về những cuộc kiểm tra liên quan đến khả năng của các ứng viên (10/11/1997): Notitiae 33 (1997), pp. 495-506.
30) X. Bộ giáo luật, các điều 1029, 1031,1 và 1041,1; Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, số 39.
31) X. Pastores dabo vobis, số 35.
32) Như trên, số 69b.
33) X. số 6 của văn kiện này.
34) X. chú thích số 20.
35) X. Pastores dabo vobis, số 40c.
36) X. Bộ giáo luật, điều 241,§3; Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn thị gửi các Hội đồng giám mục về việc thâu nhận những ứng viên xuất thân từ các chủng viện hoặc dòng tu khác (8/3/1996).
37) Pastores dabo vobis, số 42c.