LỜI GIỚI THIỆU
Năm 1992, nhà báo Seewald (1954) tìm tới Đức Hồng y Joseph Ratzinger, lúc đó đang là Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin tại Rôma và là nhân vật số hai trong giáo triều. Seewald mang theo một kế hoạch phỏng vấn lớn về Giáo Hội Công giáo. Anh vốn là một tín đồ nhiệt thành của phong trào phản kháng 68, bỏ đạo, hăng say theo cộng sản và dứt khoát chống lại Giáo Hội, mà theo anh, là một tổ chức phản động. Khi tìm tới Đức Hồng Y, lý tưởng cách mạng đập phá trong anh đã bắt đầu bốc hơi, dần nhường chỗ cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời đang chớm nở trong tâm trí. Câu hỏi đó bắt anh lại lên đường. Nhưng về đâu? Anh muốn làm lại cuộc đời. Và có lẽ phải trở về lại với niềm tin của thời niên thiếu. Nhưng ngôn ngữ của lần gặp gỡ đầu tiên này khét mùi tố cáo và gay gắt, nên Đức Hồng Y đã không thể tiếp tục câu chuyện.
Phải đợi tới 4 năm sau. Lần này, 2 người đã kiên nhẫn trao đổi với nhau suốt nhiều buổi cuối tuần. Và kết quả là cuốn Muối Cho Đời(1996) ra đời. Cuốn sách như một “quả bom nguyên tử” hay một “big bang” (Seewald) nổ trên đầu dân Âu châu vốn lãnh đạm với tôn giáo và nghi kỵ đối với Giáo Hội Công giáo. Hàng triệu người đã đọc nó, và nhiều người đã tìm lại được lối vào văn hoá Kitô giáo, vốn là nền tảng cuộc sống của họ. Muối Cho Đời là cánh cửa mở ra cho những kẻ tò mò từ ngoài – và cả người quan tâm trong cuộc – muốn ghé mắt nhìn vào Giáo Hội, muốn khám phá những “bí mật” cơ chế, nếp sống, thất bại, thành công và tương lai của một tổ chức trần thế. Cổng vào lâu đài huyền bí đã được mở ra. Seewald đã bước vào và đã quyết định ở lại luôn trong đó, sau một cuộc đời chỉ biết phản kháng và đập phá. Và Beckenbauer, “hoàng đế” bóng đá nước Đức nổi tiếng thế giới, cũng đã bước vào và xin ở lại với kho tàng ấy, sau một đời đi hoang.
Trong lâu đài có gì lạ, để cho bao người, khi đã bước vào, không còn muốn quay lại đường xưa lối cũ trần gian?
Thiên Chúa và Trần Thế (2000) sẽ cho ta thấy kho tàng ẩn giấu trong đó. Đây không còn là một cánh cổng đi vào (như Muối Cho Đời), mà là những cánh cửa phòng bên trong mở ra các ẩn số. Nói cách khác, không còn là chuyện tò mò của người chưa tin đứng ngoài nhìn vào nữa, mà là cuộc tra vấn giữa những kẻ tin về kho tàng niềm tin của mình.
Nói tới kho tàng niềm tin Kitô giáo là nói tới sự nối kết của hơn một tỉ người trên khắp thế giới, bất luận màu da, ngôn ngữ, quốc tịch. Cái gì đã làm họ liên đới với nhau? Hai tác giả cuốn sách bảo đó là những ẩn số Kitô giáo. Vì thế, trong lần xuất bản đầu tiên, sách mang tựa đề: Thiên Chúa và Trần Thế – Các Ẩn số Niềm tin Kitô giáo. Mà dù lý trí con người có mở khoá được các ẩn số đó, hay phải dùng đức tin để tiếp cận chúng, các ẩn số “không biết mà biết” (Beneđictô XVI, Spe Salvi) kia lại là những tấm bảng chỉ đường cụ thể cho một cuộc sống có ý nghĩa. Chúng là tiếng hát của các mỹ nhân ngư gọi mời Odysseus. Là những ẩn số biến đổi cuộc đời của những Phanxicô, Augustinô, Inhaxiô, Têrêxa Calcutta… Vì thế, trong các lần tái bản về sau, đề tựa sách đã được đổi thành Thiên Chúa và Trần Thế – Tin và Sống trong Thời đại Ngày nay.
Cánh cổng mở ra và cánh cửa dẫn vào những khám phá, tuy hai mà một, chúng bổ túc cho nhau. Cũng vì thế, trong lần tái bản thứ 9 loại sách bỏ túi, nhà xuất bản ở Đức đã gộp cả 2 cuốn in thành một tập chung. Sau khi bản dịch tiếng Việt Muối Cho Đời ra mắt vào đầu năm 2006 và đã được độc giả nhiệt liệt hưởng ứng, Thiên Chúa và Trần Thế đã được chuyển dịch ngay sau đó. Tuy nhiên, vì nhiều khó khăn, phải chờ tới nay mới phát hành được. Hai tác phẩm đã được dịch ra 24 thứ tiếng trên thế giới.
Nội dung Thiên Chúa và Trần Thế là câu chuyện tiếp nối giữa Seewald – người con hoang giờ đây đã trở về – và Đức Hồng y Ratzinger trước khi trở thành Giáo hoàng Beneđictô. Seewald đại biểu cho lớp người (trẻ) mang tâm tư và suy nghĩ vừa thực tiễn vừa ngờ vực của con người khoa học và cuộc sống hiện đại. Còn “ông hoàng Giáo Hội” hay “đại hiền giả” (chữ của Seewald) Ratzinger không chỉ trả lời với tư cách là người thẩm quyền cao nhất của Giáo Hội trong vấn đề đức tin, mà còn như một nhà tâm lý lão luyện, biết rõ ưu khuyết điểm của phía mình cũng như khả năng và bất cập của đối phương.
Thiên Chúa và Trần Thế gồm 4 chương.
Chương dẫn nhập (trang 24-78): “Đức tin, Hy vọng, Tình yêu” bàn về Tin, Cậy, Mến, những chủ đề mà ta đã thấy trong 2 Thông điệp Deus Caritas Est (2006) và Spe Salvi (2007) mới đây của Đức Giáo hoàng Beneđictô.
Chương 1 (79-205): “Thiên Chúa”: Trình bày một số quan điểm trong cuốn Nhập môn Kitô giáo (1968), tác phẩm đã làm nhà thần học trẻ Ratzinger được thế giới biết đến, cuốn sách đã trở thành loại cổ điển trong kho tàng đức tin Kitô giáo.
Chương 2 (206-353): “Đức Giêsu Kitô”. Muốn hiểu những gì Đức Beneđictô trình bày trong tác phẩm bestseller Đức Giêsu thành Nazateth mới đây, chỉ cần đọc chương này cũng đủ.
Chương 3 (354-471): “Giáo Hội”: Phản ánh và tóm tắt những suy tư của nhà thần học Ratzinger về Giáo Hội, được quảng diễn trong rất nhiều bài viết, đặc biệt trong luận án tiến sĩ Dân và Nhà Chúa theo Học thuyết Augustinus về Giáo Hội (1953).
Muốn hiểu bộ óc lớn trong con người nhỏ Beneđictô, chẳng cần phải đọc hết mấy chục cuốn sách của ngài, cũng chẳng cần phải tìm về chuyên ban nghiên cứu tư tưởng Joseph Ratzinger tại Đại học Regensburg ở Đức, mà chỉ cần đọc mấy cuốn sách trên là đủ. Ở Việt Nam đã dịch cuốn Đức Giêsu thành Nazareth. Một vị đàn anh tại Đức cho hay sẽ chuyển ngữ Nhập môn Kitô giáo, tác phẩm đã được dịch ra mấy chục thứ tiếng. Cầu mong các bản dịch tiếng Việt sớm được góp mặt trong gia sản văn hoá chung của Giáo Hội.
Trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy tạm dùng mấy món khai vị của Thiên Chúa và Trần Thế. Chắc chắn món khai vị sẽ ngon miệng và dễ nuốt hơn các món chính. Vả lại, món chính thường để dành cho những thực khách chuyên môn. Còn hàng dân dã như đa số độc giả chúng ta hẳn cần của ăn để thoả mãn cơn đói thực tế của cuộc sống hằng ngày hơn. Chẳng hạn: Chúng ta muốn biết Đức Giêsu có phải là người Công giáo không? Muốn biết mặt mũi đức tin như thế nào, làm sao để có được nó? Thiên đàng, hoả ngục nơi đâu? Tại sao Thiên Chúa là Cha, mà không là Mẹ? Tại sao các Hội Bảo vệ Thú vật không đâm đơn kiện Chúa, khi Ngài cho phép ta ăn thịt thú? Chúa quyền năng vô cùng mà sao lại để cho sự dữ, bất hạnh, tội tổ tông vào trần gian làm khổ ta? Đã có phép tha tội rồi, cần gì thêm “ân xá” để có kẻ bày ra chuyện mua bán sinh thêm tội? Ta có thể vừa sống trái với giáo huấn về tính dục của Giáo Hội vừa là tín hữu tốt không? Thiên Chúa đã có khi nào phải tự sửa sai chưa? Vấn nạn và vấn nạn. Muốn những món khai vị đó quyến rũ và ngon miệng cho người thời nay, phải có lối dọn khác, cách chế biến mới. Nói khác đi, phải có ngôn ngữ mới, hợp thời. Thiên Chúa và Trần Thế đã thành công đáp ứng được thứ ngôn ngữ mới đó. Đọc nó, không thể có “khổ quá, biết rồi, nói mãi!”, phản ứng mà tín hữu vẫn hay thốt ra trước những bài giảng dài lời ngắn ý. Mà trái lại, nó kích thích trí hiểu, đưa ta vào những vấn nạn thiết thực phải giải quyết trên hành trình đức tin và cuộc sống. Chính Đức Hồng y Ratzinger cũng đã ưu tư tha thiết: “Ta phải làm sao dấy lên lại sự tò mò về Kitô giáo, phải làm sao cho người ta muốn tìm biết Kitô giáo thực sự là gì”. Muốn được vậy, Kitô giáo phải có hàng mới để chào thiên hạ, nó phải chứng tỏ có thể đọc được dấu chỉ thời đại, phải nói được ngôn ngữ thời đại.
Trong cuộc trao đổi về Thông điệp Spe Salvi trên mạng giữa một số anh chị, khi đề cập tới chuyện thiên đàng – hoả ngục, một tham dự viên cho hay: tôi chẳng cần phải đặt vấn đề dài dòng chi cả, vì đã được mẹ dạy rằng:
“Thiên đàng địa ngục hai bên
Siêng năng kinh hạt (thì) mau lên thiên đàng”.
Cứ vậy mà làm! Bao lâu còn có “hai bên”, hẳn thế giới sẽ còn ôkê. Nhưng giả như mất đi một bên, chẳng hạn không có địa ngục nữa, không còn phải sợ mấy tay quỷ đực đen thui có sừng có đuôi (hình vẽ thời Trung cổ không thấy quỷ cái!) lôi xuống lò lửa của chúng nữa thì thì thế giới sẽ ra sao đây? Nguy to! Mà quả vậy, đọc ông Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin trước đây và Thông điệp của ngài Beneđictô mới đây không thấy địa ngục ở đâu cả. Luyện ngục được ngài quan tâm, nhưng hoả ngục tìm mãi chẳng thấy. Và nữa, thiên đàng là gì, ở đâu? Có phải như trong kinh Koran Hồi giáo mô tả: là nơi các trinh nữ chín mọng (hình như có tới 72 nàng lận, con số cụ thể tôi không nhớ rõ lắm) đang lủng lẳng chờ đợi? Thật ra, đây là một lầm lẫn chết người của mấy vị chép sách Hồi giáo xưa, khi họ chuyển các đoạn Koran từ tiếng Aramê sang tiếng Ảrập. Theo tác giả (chưa dám lộ diện) Christoph Luxenberg trong công trình nghiên cứu ngôn ngữ ngoạn mục Die syro-aramäische Leseart des Koran.Ein Beitrag zur Entschlüsselung der Koransprache, Berlin 2007 (Cách đọc Koran bằng tiếng Syri – Aramê. Một đóng góp vào việc mở khoá ngôn ngữ Koran) của ông, nhiều đoạn Koran nguyên là lời kinh phụng vụ của Kitô giáo viết bằng thứ ngôn ngữ hỗn hợp giữa Syri – Aramê, tiếng của Đức Giêsu thời đó, và chữ Ảrập. Chữ “Huris” trong kinh Koran được mấy vị chú giải Ảrập hiểu ra là “các trinh nữ mắt to“ (mắt nai tơ)”, nhưng chữ này đọc theo gốc Syri – Aramê nghĩa là “những chùm nho trắng”. Nghĩa này mới đúng, vì trước đó kinh Koran mô tả thiên đường là khu vườn đầy cây trái và hoa thơm cỏ lạ. Rất nhiều chỗ trong kinh Koran hiện vẫn không ai hiểu gì cả, bởi vì người ta không chịu chấp nhận nguồn gốc cấu tạo của chúng. Chỉ tội cho bao nhiêu thanh niên Hồi giáo bị Al-Qaida và Hamas dụ vào chỗ chết oan. Cùng lắm là được uống rượu bạch nho lạ sau một cuộc đời kiêng rượu trên dương gian, chứ có em nai tơ nào chờ đợi đâu.
Còn thiên đàng của Đức Giáo hoàng Beneđictô, cũng như nhiều “món lạ” khác của ngài, như thế nào? Bạn đọc sẽ thấy trong Thiên Chúa và Trần Thế. Cuốn sách có lẽ sẽ chẳng giúp ích gì cho những ai muốn có một thế giới ai sao ta vậy, không có đổi thay, chẳng cần đặt vấn đề. Nhưng nó sẽ cuốn hút những con người đang trên đường tìm kiếm, những tâm hồn thích được ngạc nhiên. Mà thôi, nói nhiều quá chẳng ai tin. Chi bằng mời bạn tự tìm hiểu lấy thì tốt hơn.
“Vào một ngày nọ, khi đang ngồi chơi ở nhà bạn, Âutinh (Augustinus) nghe văng vẳng một giọng trẻ con từ nhà bên cạnh: Cầm lấy, đọc đi! Tưởng con trẻ nói cho mình nghe, anh ngẩng lên, nhìn thấy một cuốn sách đạo (Kinh Thánh?) trên giá, thứ sách mà anh chưa bao giờ buồn cầm đọc. Lần này anh thử cầm lên. Đọc. Rồi mê mẩn. Rồi muốn ở lại luôn trong đó. Rồi là cả một cuộc đời sa đoạ đổi thay”. Cầm lấy, đọc đi! Cầu mong bạn đọc cũng có được kinh nghiệm như Âutinh với Thiên Chúa và Thế Giới.
Hồng Y Joseph Ratzinger (Giáo hoàng Benedict XVI) trao đổi với Peter Seewald.
Phạm Hồng-Lam chuyển ngữ
* Download Tác Phẩm —–> “Thiên Chúa Và Trần Thế”