Tác Giả Giao Tiếp Với Độc Giả Qua Câu Chuyện Trong Tin Mừng Mác-cô

0
368


Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.

 

Dẫn nhập

Bài viết sẽ trình bày vắn tắt cách thức tác giả giao tiếp với độc giả qua câu chuyện trong Tin Mừng Mác-cô. Tác giả có thể nói “trực tiếp” với độc giả ngay trong câu chuyện bằng những lời giải thích hay dịch nghĩa các từ khó. Tác giả có thể nói “gián tiếp” với độc giả qua cách xây dựng trình thuật, xây dựng nhân vật và cách trình bày yếu tố thời gian… Đặc biệt trong Tin Mừng Mác-cô xuất hiện kiểu hành văn: Chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Những kỹ thuật hành văn trên đây của tác giả nhằm mục đích giúp độc giả hiểu được ý nghĩa câu chuyện. Đó là điều mà tác giả muốn nói với độc giả qua trình thuật.
I. TÁC GIẢ GIAO TIẾP VỚI ĐỘC GIẢ
Khi kể chuyện, tác giả có thể giao tiếp với độc giả bằng nhiều cách. Chẳng hạn, tác giả kêu gọi độc giả phải chú ý để hiểu khi tác giả viết: “Các người hãy nghe…” (Mc 4,3); “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (Mc 4,9) xem 7,14; 13,14.
Là người viết câu chuyện, tác giả biết mọi sự. Tác giả có thể kể câu chuyện khi chỉ có một mình Đức Giê-su, như khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14,32-42). Tác giả có thể biết ý định của những kẻ chống đối Đức Giê-su khi họ không lên tiếng. Tác giả đọc được ý định của những người Pha-ri-sêu khi kể: “Họ chăm chú nhìn Người [Đức Giê-su], xem Người có chữa lành anh ta ngày sa-bát không để tố cáo Người” (Mc 3,2). Như thế, độc giả cần tin cậy vào tác giả khi đọc câu chuyện.
Có hai cách tác giả thường dùng để giao tiếp với độc giả là giải thích (minh nhiên hay mặc nhiên) và dịch nghĩa các từ khó.
1. Giải thích
Để giải thích cho độc giả, tác giả có thể dùng nhiều cách như:
(1) Trích dẫn Kinh Thánh (Mc 1,1-3).
(2) Giải thích bằng mở ngoặc đơn (Mc 5,25-26).
(3) Giải thích trong câu chuyện “vì, bởi vì…” (1,22; 3,21; 5,8.42; 6,14; 6,20).
(4) Giải thích các tập tục xa lạ (7,2; 15,42).
(5) Giải thích bằng chính bản văn (mise en abyme) như chuyện xức dầu thơm ở Bê-tha-ni-a (Mc 14,8-9).
(Xem D. Marguerat; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, p. 131-137).
2. Dịch nghĩa
Trong Tin Mừng Mác-cô, tác giả thường dịch nghĩa những từ A-ram (3,17; 5,41; 7,11; 7,34; 14,36; 15,34). Khi liệt kê danh sách 12 Tông đồ, tác giả viết về Gia-cô-bê và Gio-an ở 3,17 như sau: “Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và Gio-an em của Gia-cô-bê – Người đặt tên cho họ là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi –.” Với cụm từ: “nghĩa là con của thiên lôi”, tác giả đã dịch nghĩa từ “Bô-a-nê-ghê”, vì nghĩ rằng độc giả có thể không biết nghĩa của từ này. Khi Đức Giê-su chữa lành người vừa điếc vừa ngọng ở 7,32-37, tác giả kể: “Ngước [Đức Giê-su] mắt lên trời, Người thở dài và nói với anh ta: ‘Ép-pha-tha’, nghĩa là ‘Hãy mở ra.’” Tác giả dịch nghĩa từ “Ép-pha-tha” là “Hãy mở ra” để giúp độc giả hiểu lời Đức Giê-su nói. Điều này cho thấy độc giả Tin Mừng Mác-cô có nhu cầu dịch những từ xa lạ ra thứ ngôn ngữ quen thuộc với độc giả. Những phần giải thích và dịch nghĩa trên đây là dành cho độc giả chứ không liên quan đến các nhân vật trong câu chuyện.
II. CÁCH XÂY DỰNG TRÌNH THUẬT
Trong Kinh Thánh nói chung và Tin Mừng Mác-cô nói riêng, các trình thuật vừa được xây dựng theo những quy tắc chung, đồng thời có những nét độc đáo riêng. Có thể lưu ý đến 4 yếu tố trong trình thuật Tin Mừng Mác-cô: (1) Xây dựng câu chuyện qua ba hay năm giai đoạn. (2) Cách xây dựng nhân vật. (3) Yếu tố thời gian. (4) Chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác.
1. Xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai đoạn
Một trình thuật thường có ba giai đoạn chính: (I) Vấn đề giải quyết; (II) Thực hiện; (III) Kết quả.
Ví dụ Mc 1,32-34 xây dựng qua ba giai đoạn:
 
(I) 32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, họ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám, 33 cả thành tụ họp lại trước cửa,
(II) 34 Người chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ,
(III) Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người.
Ở cấp độ chi tiết hơn, một trình thuật đầy đủ được xây dựng qua năm giai đoạn:
 
(I) Tình trạng ban đầu (situation initiale).
(II) Vấn đề cần giải quyết (nouement).
(III) Thực hiện (action transformatrice).
(IV) Kết quả (dénouement).
(V) Tình trạng sau cùng (situation finale).
Ví dụ Mc 1,29-31 xây dựng với năm giai đoạn:
 
(I) 29 Ra khỏi hội đường, lập tức Người đến nhà Si-môn và An-rê, cùng với Gia-cô-bê và Gio-an.
(II) 30 Mẹ vợ của Si-môn nằm liệt vì cảm sốt, tức khắc họ nói với Người về bà.
(III) 31 Đến gần, Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy;
(IV) cơn sốt đã rời khỏi bà
(V) và bà phục vụ họ.
Trên thực tế, các trình thuật có thể đủ cả năm giai đoạn hay được rút gọn thành bốn hay ba giai đoạn.
2. Xây dựng nhân vật
Có nhiều loại nhân vật trong câu chuyện: Nhân vật chính (protagoniste); nhân vật phụ (ficelle, figurant); nhân vật đơn giản (personnage plat), x. Mc 2,23-28; nhân vật phức tạp (personnage rond), x. Mc 3,1-6.

Giữa các nhân vật có tương tác với nhau. Chẳng hạn, yếu tố nhân vật trong câu chuyện anh mù Ba-ti-mê (Mc 10,46-52) liên hệ với nhau như sau:

3. Yếu tố thời gian

Tin Mừng Mác-cô thường dùng thời gian: “ngày” để xây dựng câu chuyện. Từ “ngày” (hêmera) xuất hiện 27 lần trong Tin Mừng Mác-cô: 1,9.13; 2,1.20a.20b; 4,27.35; 5,5; 6,21; 8,1.2.31; 9,2.31; 10,34; 13,17.19.20a.20b.24.32; 14,1.12.25.49.58; 15,29. Trong trình thuật khổ nạn, thời gian là “giờ” (hôra). Từ này xuất hiện 12 lần trong Tin Mừng Mác-cô (6,35a.35b; 11,11; 13,11.32; 14,35.37.41; 15,25.33a.33b.34) và tập trung vào trình thuật Thương Khó, ch. 14 – 15.

Trạng từ “ngay lập tức” (euthus) xuất hiện 41 lần trong Mác-cô (1,10.12.18.20.21.23.28.29.30.42.43; 2,8.12; 3,6; 4,5.15.16.17.29; 5,2.29.30.42a.42b; 6,25.27.45.50.54; 7,25; 8,10; 9,15.20.24; 10,52; 11,2.3; 14,43.45.72; 15,1), muốn người đọc lưu ý đến sự khẩn cấp về thời gian.
Về tốc độ kể chuyện, trình thuật có thể bỏ qua vài chi tiết trong câu chuyện (ellipse), tác giả quyết định chi tiết nào kể trước, chi tiết nào kể sau. Chẳng hạn, trình thuật Mc 10,17-31 nói về đề tài của cải, nhưng phải đợi mãi đến câu 22 mới biết đó là người giàu có.
Về tần số xuất hiện (la fréquence), các tình tiết có thể rơi vào một trong các trường hợp sau:
(1) Xảy ra x lần, kể x lần (récit singulatif). Chẳng hạn, đề tài “báo trước Thương khó – Phục Sinh” được kể lại ba lần (Mc 8,31; 9,31; 10,33-34).
(2) Xảy ra 1 lần, kể x lần (récit répétitif). Ví dụ, chuyện Phao-lô ngã ngựa một lần được kể lại 3 lần trong sách Công Vụ các Tông Đồ với nhiều sự khác nhau đáng kể (Cv 9,1-25; 22,1-21; 26,1-23).
(3) Xảy ra x lần, kể 1 lần (récit itératif). Đây là những đoạn văn tóm kết (sommaire), nối kết giữa hai đoạn văn (transititon entre deux scènes) như Mc 4,33-34.
Về cách sắp xếp các chi tiết liên quan đến thời gian, có những kiểu hành văn như sau:
(1) Kể theo thứ tự thời gian (ordre chronologique).
(2) Kể lùi về quá khứ (anachronie analepse) qua công thức “ứng nghiệm lời đã viết”.
(3) Kể hướng về tương lai (anachronie prolepse), chẳng hạn Đức Giê-su báo trước Thương Khó – Phục Sinh là điều sẽ xảy ra trong tương lai.
Các chi tiết trong hai loại: “Kể lùi về quá khứ” (loại 2) và “kể hướng về tương lai” (loại 3), có thể ở trong bản văn (interne) hay ở ngoài bản văn (externe). Chẳng hạn, trình thuật loan báo Phục Sinh (Mc 16,1-7) là lối “kể hướng về tương lai” hỗn hợp: Ngôi mộ trống là “trong bản văn” (interne) vì đã nói đến trong Tin Mừng Mác-cô, còn ý “đến Ga-li-lê trước các ông” là “ngoài bản văn” (externe) vì cuộc gặp gỡ này không được kể lại trong Tin Mừng Mác-cô.
4. Chèn vào chuyện đang kể (enchâssement)
Tin Mừng Mác-cô hay dùng kiểu hành văn chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Cần nối kết ý nghĩa hai câu chuyện để hiểu, bởi vì ý nghĩa câu chuyện chèn vào soi sáng ý nghĩa câu chuyện đang kể và ngược lại, câu chuyện đang kể giúp hiểu câu chuyện được chèn vào.
Sau đây là một số trình thuật lồng vào nhau trong Tin Mừng Mác-cô:
(1) Mc 3,20-35. Câu chuyện thân nhân của Đức Giê-su tìm bắt Người vì nghĩ rằng Người mất trí ở 3,20-21, được tiếp với 3,31-35 là trình thuật nói về ai là mẹ và anh em của Đức Giê-su. Phần chèn vào hai đoạn văn trên là đoạn văn 3,22-30 trình bày “Dụ ngôn về Xa-tan trừ xa tan” (3,22-27) và “Nói phạm thượng đến Thánh Thần” (3,28-30).
(2) Mc 4,1-34. Phần Đức Giê-su giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn trong Mc 4,1-34 mở đầu bằng “dụ ngôn người gieo giống” (4,1-9) và kết thúc bằng “dụ ngôn đất tự sinh hoa trái” (4,26-29) và “dụ ngôn hạt cải” (4,30-34). Phần chèn vào là đoạn văn 4,10-25, thuật lại những gì Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ.
(3) Mc 5,21-43. Trình thuật chữa lành con gái ông Gia-ia được kể trong hai đoạn văn: 5,21-24; 5,35-43. Phần chèn vào là trình thuật người đàn bà bị băng huyết (5,25-34).
(4) Mc 6,7-30. Trình thuật Đức Giê-su sai các Tông Đồ đi rao giảng (6,7-13) nối kết với trình thuật các Tông Đồ trở về tụ họp quanh Đức Giê-su và kể lại cho Người tất cả mọi việc họ đã làm và đã dạy (6,30). Phần chèn vào là câu chuyện về Hê-rô-đê (6,14-16) và Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu (6,17-29).
(5) Mc 11,12-25. Trình thuật cây vả và Đền Thờ được kể lồng vào nhau theo thứ tự như sau:
 
11,1-11:          Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem
11,12-14:       Cây vả không sinh trái
11,15-19:       Đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ
11,20-26:       Cây vả khô héo. Lòng tin và cầu nguyện.
 
Như thế, chuyện cây vả soi sáng cho chuyện đuổi kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ. Nói cách khác, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được ví như cây vả không sinh trái.
(6) Mc 14,1-11. Việc những kẻ chống đối âm mưu hại Đức Giê-su (14,1-2) nối tiếp việc Giu-đa nộp Đức Giê-su (14,10-11). Phần chèn vào là trình thuật xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (14,3-9).
Ý nghĩa lối hành văn chèn vào được minh hoạ qua đoạn văn Mc 5,21-43. Hai câu chuyện được kể lồng vào nhau như sau:
 
A. 5,21-24: Đức Giê-su đi cứu con gái ông Gia-ia
            B. 5,25-34: Chữa người đàn bà bị băng huyết
A’. 5,35-43: Tiếp tục câu chuyện cứu con gái ông Gia-ia
Hai trình thuật lồng vào nhau này có những điểm giống nhau thú vị. Người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm, thì con gái ông Gia-ia 12 tuổi. Cả hai đều là phái nữ; cả hai đều ở trong tình trạng hiểm nghèo và được bản văn nhấn mạnh (Mc 5,23 cho biết con gái ông Gia-ia gần chết; Mc 5,26 cho biết bệnh tình tệ hại của người đàn bà bị băng huyết).
Cả hai câu chuyện đều có ý tố “công khai” (public) và “riêng tư” (privé) nhưng ngược nhau. Người đàn bà băng huyết đi từ chuyện “riêng tư” đến thú nhận “công khai” việc mình đã làm (5,30-33). Ngược lại, tại nhà ông Gia-ia, Đức Giê-su chuyển từ “công khai” giữa mọi người sang “riêng tư”, vì Người không cho phép ai đi theo Người, ngoại trừ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an (5,37).
Qua những điểm giống nhau như trên, hai câu chuyện soi sáng cho nhau ra sao? Trong mạch văn, khi Đức Giê-su đang trên đường đến nhà ông Gia-ia thì người nhà đến nói với ông: “Con gái của ông chết rồi, làm phiền Thầy nữa làm gì?” (5,35). Đức Giê-su thoáng nghe lời đó thì nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần ông tin” (5,36).
Điều gì làm cho lời nói Đức Giê-su là đáng tin cậy? Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết vừa được chữa lành cho thấy lời Đức Giê-su nói là lời đáng tin cậy. Đức Giê-su mời gọi ông Gai-ia “tin” (5,36) vì ngay trước Đức Giê-su đã nói với người đàn bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (5,34). Lòng tin của người phụ nữ đã cứu chữa bà ấy. Cũng một nguyên tắc ấy, Đức Giê-su nói với ông Gia-ia là “chỉ cần tin” (5,36) thì con gái ông sẽ được cứu.
Kiểu hành văn chèn như trên vào nhằm chuyển tải ý nghĩa liên kết với nhau trong hai câu chuyện. Độc giả cần tìm ra những điểm bổ túc và soi sáng lẫn nhau trong hai trình thuật để hiểu vai trò, sứ vụ và căn tính của Đức Giê-su.
Kết luận
Hiểu tác giả đang giao tiếp với độc giả qua một số kỹ thuật như: giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên, dịch nghĩa các từ khó hiểu, cách thức xây dựng câu chuyện và cách thức kể chuyện, giúp độc giả ngày nay hiểu được ý nghĩa bản văn. Những ý tưởng rút ra được từ bản văn có thể áp dụng vào hoàn cảnh của từng độc giả. Nhờ đó Lời Chúa trở thành lương thực bổ ích, với cách đọc này, độc giả ngày càng khám phá ra trong bản văn Tin Mừng Mác-cô có nhiều điều thú vị và ý nghĩa cho cuộc sống./.